Tìm lại Sê Pôn, tìm lại dấu
tích Nguyễn Văn Vĩnh
Nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn
Vĩnh
Hồi tưởng
Tôi, bản tính từ thuở đầu
xanh, tuổi trẻ thich theo cái “chủ nghĩa xê dịch” của cụ Nguyễn Tuân. Cái thời
trôi nổi, tôi cùng 100 bạn Thiếu sinh quân (TSQ) du học Liên Xô (1954 – 1961).
Nhiều kỳ nghỉ Hè và nghỉ Đông, tuy được nước bạn cấp phiếu đi các nhà nghỉ dưỡng,
nhưng riêng tôi lại thích khoác ba lô nhập bọn với một nhóm bạn học, lang thang
các tỉnh thành và làng quê nước Nga.
Có lần chúng tôi đi “giầy”
(ván) trượt tuyết vượt hơn ba trăm cây số đến tận Novgorod, thành phố cổ hơn cả
Moskva ở cực bắc, phần châu Âu của nước Nga, và may mắn được chiêm ngưỡng hiện
tượng thiên nhiên kỳ thú, đẹp đến sửng sốt – Bắc cực quang, mà các bạn Nga đồng
hành cho biết, rằng ngay dân ở thành phố Petetburg cũng chỉ được quan sát đêm
trắng, chứ Bắc cực quang thì chưa từng được thấy!
Từ khi về hưu, vào năm 1998
đến 2004, con cái trưởng thành, cháu nhỏ chưa có, hai vợ chồng tôi “đã hết son
nhưng còn rỗi”, đã dắt nhau du ngoạn tứ xứ trong/ngoài nước. Nhiều chuyến đi chỉ
là du lịch nghỉ dưỡng thuần túy. Nhưng cũng đã có vài ba chuyến đi sâu nặng
nghĩa tình.
Chẳng hạn, chuyến đi cùng cả
chục chàng “vệ út” năm xưa (nay hầu hết đã lên ông nội/ngoại), hành quân về
“cái nôi TSQ Việt Bắc” 1949-50 – về Soi Mít bên sông Công, núi Cốc (viết đến
đây chợt nhớ câu hát của nhạc sĩ Phó Đức Phương về nàng Công chàng Cốc:
“Một người đi nước mắt thành
sông, một người chờ: chờ hóa núi”!).
Xóm Soi Mít, giờ đã chìm sâu
dưới lòng hồ Khu du lịch Hồ Núi Cốc, đó từng là nơi chúng tôi, lũ nhóc 10-12 tuổi,
thi nhau khoác ba lô cuốc bộ vượt núi băng rừng. Đứa ở gần thì cũng chục-hai chục
km, đứa từ xa thì có đến bảy-tám chục cây số, đến tựu trường, trở thành một “đại
gia đình “Vệ Thiếu” thân thiết như ruột thịt.
Nhớ lại lần chúng tôi tự tổ
chức đưa người cha đã 91 tuổi đời, hành hương “về nguồn” (lời ông
nói). Số là từ năm 1960 bị “đuổi về vườn”(lời ông trong Hồi ký) vì “ngoan
cố” bảo vệ nền tư pháp độc lập (ông, chỉ là một nhân sĩ đảng Dân chủ), đã
bị bỏ quên luôn suốt ba mươi sáu năm dài, chẳng ai đoái hoài, cho dù ông tham
gia Cách mạng từ thời Tiền Khởi nghĩa.
Ông (Vũ Đình Hòe 1912 –
2011) từng lên chiến khu dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, giữ hai chức Bộ trưởng
Giáo dục và Tư Pháp trong Chính phủ Hồ Chi Minh, tham gia trọn vẹn hai cuộc
kháng chiến Chống Pháp và Chống Mỹ, vậy mà:.. “cái ngực tôi nó trắng tinh – mầu
trắng là thứ huân chương cao quý nhất, anh nhỉ?” (lời ông chỉ ngực mình trả lời
anh thư ký của ông Đỗ Mười năm 1996, khi người ta sực nhớ ra việc phải gắn lên
ngực ông cái Huân chương Độc Lập hạng nhất!).
Đôi lần, ông chỉ trăn trở
nói với tôi (người con trưởng):
“Tôi muốn về Tân Trào một
chuyến dối già, xem cây đa, mái đình, lán Nà Lừa cụ Hồ ở và làm việc, bây giờ
ra sao rồi…”
Chúng tôi quyết định, không
thể trông chờ ở cái “chế độ đãi ngộ người có công” nữa, hãy tự tự tổ chức mời
ông đi – và cũng là cho chính mình! Một cuộc hành hương về nguồn, chỉ trong
vòng một ngày, đã đi lại con đường dài gian khổ 8 năm Trường kỳ Kháng chiến: đi
– đường lên Thái Nguyên – Tuyên Quang, về – đường xuôi Việt Trì – Phú Thọ.
Cụ Vũ Đình Hòe về nguồn 2001
– cây đa và đình Tân Trào.
Mười lăm năm đã qua từ cái
cuộc hành hương ấy, cũng đã 5 năm cha chúng tôi về với tổ tiên, nhưng đến nay
tôi vẫn nhớ như in hình dáng một ông già râu tóc bạc phơ, chống gậy đứng trên bờ
cao bến Bình Ca năm xưa, như vẫn ầm vang tiếng đại pháo diệt tầu giặc… Ông trầm
mặc hồi lâu, nhìn dòng Lô lững lờ xuôi. Phải chăng ông ngẫm ngợi, chiêm nghiệm
về cái bể nhân tình thế thái…?!
Hiện tại
Hè năm nay, vừa mới đây
thôi, vợ chồng tôi lại có thêm một chuyến đi sâu nặng nghĩa tình. Có lẽ, phải
nói là một chuyến đi để đời; Chúng tôi may mắn được anh Lân Bình, cháu nội Danh
Nhân Văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh, mời tham gia hành trình, “80 năm tìm lại Sê Pôn”.
Chuyến đi rong ruổi bằng ô
tô, loại xe 45 chỗ ngồi vượt 2300 cây số. Lần này chúng tôi không chỉ đến Sê
Pôn, một thị trấn nhỏ trên đường số 9 phía Trường Sơn Tây, một địa danh, một điểm
mốc địa lý quan trọng cả từ thời chiến tranh Đông Dương, và cả thời người Mỹ đến
Việt Nam. Anh Lân Bình còn đưa mọi người chúng tôi đi tới tận Viên Chăn, thủ đô
Vương quốc Lào, rồi vượt sông Mê Kông sang cả thành phố Udon thuộc tỉnh
Udonthani của Vương quốc Thái Lan. Với riêng tôi, phần đọng lại mãi mãi trong
tâm khảm của mình là chặng hành trình suốt dọc đường 9 lịch sử, chạy từ Đông Hà
– Quảng Trị, Việt Nam sang gần đến Savanakhet – nước Lào. Xe qua những địa danh
đã cả trăm lần nghe nói trong thời chiến và hậu chiến, nhưng chưa một lần tôi
được tận mắt, như Cồn Tiên, Dốc Miếu, sông Ba Lòng – Dakrong, Tà Cơn, Khe Sanh,
Lao Bảo, Bản Đông, Sê Pôn…
Những địa danh chẳng những
đã đi vào lịch sử, mà còn vang mãi trong các bài ca đi cùng năm tháng: “Đồn Tà
Cơn hôm nào bốc cháy/ Đồi Đồng Tri xác mỹ chất đầy…”; “Dakrong ơi! Tây Nguyên
ơi!..”.
Trong chuyến đi lần này, tôi
lại còn được biết thêm nhiều chi tiết có thật, với sự diễn đạt sống động – có
vui, có buồn, có cả những kỷ niệm uất ức đến mức phải chửi thề từ miệng một anh
lính Trường Sơn, từng lăn lộn trên cái chiến trường máu lửa này. Tôi chỉ tiếc
là thời gian chuyến đi hạn hẹp, nên đã không có cơ hội ghé vào thăm những
cứ điểm như Khe Sanh, Làng Vây, Tà Cơn… một thời đã từng là nỗi kinh hoàng đối
với lính thủy đánh bộ Mỹ.
Con đường số 9 – Nam Lào hôm
nay, đã được trải nhựa phẳng lì, tựa như một dải lụa xám uốn lượn trên nền xanh
mênh mông của núi rừng, điểm xuyết đôi ba cây phượng vĩ đỏ ối. Con đường đưa
chúng tôi tới điểm đến tâm linh – chân cầu Sê Băng Hiêng, cây cầu bắc
qua dòng sông Sê Băng Hiêng, chi lưu của sông Sê Pôn. Anh Lân Bình đã tính toán
lịch trình chính xác, để chúng tôi tới được điểm đến tâm linhđúng vào ngày
15 tháng 6, ngày sinh của Người Manzi hiện đại – Nguyễn Văn Vĩnh, để
dâng nén nhang thành kính dưới chân cây cầu cũ, nơi mà “Ông Tổ nghề báo nước Nam” Tân
Nam Tử đã cô đơn giã từ bể khổ, trên một con thuyền độc mộc, sau cái đêm
ngày 1.5.1936 mưa gió.
Xin thưa, đây đã từng là
nguyện vọng tha thiết của riêng tôi từ ngót hai chục năm trước, mà chính xác là
từ năm 1998, khi cha tôi, ông Vũ Đình Hòe, đưa tôi chế bản trên máy vi tính,
bài viết nhân kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ. Trong bài báo
quan trọng này, ông đã khẳng định sự nghiệp truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ bắt
đầu không phải do chủ trương năm 1938 của đảng Cộng Sản Đông Dương, mà từ trước
rất nhiều năm, cụ thể là từ 1907, với sự ra đời của phong trào Đông Kinh Nghĩa
Thục (ĐKNT).
Cha tôi đã lần ngược thời
gian đến tận ngọn nguồn của phong trào, đó là Hội Trí Tri (1892) ở 47 phố Hàng
Quạt. Ông từng nói đến vai trò của Phạm Quỳnh, của Nguyễn Văn Tố, nhưng lạ là
lúc đó không thấy cụ nhắc đến cái tên Nguyễn Văn Vĩnh… Điều này đã khiến tôi phải
rụt rè lựa lời thưa lại:
-“Hình như cụ Nguyễn Văn
Vĩnh có tham gia Hội Trí Tri, lại đứng tên xin phép mở trường ĐKNT và tham gia
dạy chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp ở đó? Tờ “Đăng cổ tùng báo” mà cụ Vĩnh làm Chủ
bút, liệu có phải là diễn đàn trá hình của ĐKNT không? Con rất thích những bài
cổ vũ việc học nghề để làm giầu “làm giầu lúc này là ái quốc đấy!”, rồi khuyến
khích nữ quyền, phê phán bọn “văn minh phường chèo” (hiện nay hơi nhiều đấy ba ạ!),
Ba có quen biết cụ Vĩnh không?”
Ông đáp:
-“Đâu được hân hạnh. Các cụ ấy
là lớp cha chú cả về tuổi tác lẫn tinh thần. Cụ Vĩnh đương thời, khi chúng tôi
bước vào đời, đã là một nhân vật lớn trong báo giới và trên chính trường. Khổ một
nỗi, cụ bị chính quyền Thực dân thù ghét. Thù ghét cả cái chủ trương “Trực trị”
của cụ mới lạ! Bây giờ ngồi ngẫm ra, có vẻ như họ đã ngửi thấy việc cụ tung hô
“Trực trị” để con dân Việt có đầy đủ quyền công dân, như dân mẫu quốc, rồi nhắm
tới việc đòi độc lập, tự do chăng?
Nên hành tung cụ bí ẩn, cụ
có chân trong cái Hội Tam Điểm nghe như hội kín. Cái chết trên đất Lào càng khó
hiểu hơn. Đám tang cụ, tôi được chứng kiến, nó lớn lắm và do Hội Tam Điểm chủ
trì đấy. Tôi chỉ biết có vậy … Bọn sinh viên chúng tôi rất tôn kính các cụ,
nhưng chỉ khép nép đứng từ xa nhìn ngó… Cụ Phạm Quỳnh là đồng hương Lương Ngọc,
và còn có họ nữa đấy; thân mẫu Vũ Thị Đoan của cụ Quỳnh là cháu nội của cụ Nghè
Tự Tháp nhà ta. Chuyện được cộng tác với cụ Tố là một hạnh ngộ cho tôi; một buổi
tối hổi năm 1942, khi tôi đã là Chủ nhiệm báo Thanh Nghị, chính cụ đã cho người
đến tận nhà “mời” theo phong cách rất Nho nhã của cụ …”.
Ba ơi, thế thế hệ “Tứ kiệt”
Vĩnh – Quỳnh – Tố – Tốn là bậc cha chú về tuổi tác thì rõ rồi, nhưng là bậc
“cha chú” cả về tinh thần của lớp trí thức được coi là “Thế hệ vàng”
của Việt Nam thời hiện đại thì con rất thắc mắc, vì sao thời đó ba lại có suy
nghĩ như vậy?
Cha tôi giải thích:
-“Thì đúng là như vậy, thế hệ
“Tây học” chúng tôi mà không mất gốc,“học trường Tây mà không theo Tây”, như
anh vừa hỏi, chính là nhờ ơn tinh thần dân tộc và cốt cách trung chính, đàng
hoàng, không quỵ lụy Tây của cái thế hệ cha chú ấy. Một thời gian dài, quá dài,
“người ta” độc quyền cả lòng yêu nước, tự im lặng và bắt mọi người phải im lặng
về cái công vĩ đại giải phóng tư tưởng của các cụ. Làm rõ vai trò lớn lao này của
các cụ, bây giờ là trách nhiệm của thế hệ các anh.
Riêng về cụ Vĩnh, anh đã biết
nhiều hơn tôi rồi đấy thôi. Chúng tôi phải ngồi chơi sơi nước mấy chục năm,
nghiên cứu, viết lách gì cũng không được ra ngoài cái khuôn đường lối, chủ trương,
chính sách, chỉ thị, nghị quyết!…”.
Tôi nói tiếp, thì bây giờ ba
viết đi, viết về những điều vừa mới nói ấy, để chúng con và cháu chắt của ông
khỏi đi lạc đường.
“Viết về những điều đó phải
nói có sách, mách có chứng, nhất là viết về các vĩ nhân. Tôi băn khoăn mãi mới
dám đặt bút viết về Cụ Hồ. Tôi phải viết về Cụ vì hân hạnh được làm việc với Cụ,
trực tiếp lĩnh ý Cụ suốt 15 năm, chủ yếu về giai đoạn 1945 – 1960, nay thấy nhiều
điều người ta làm không đúng theo tư tưởng của Cụ. Cũng chỉ viết về những điều
mình mắt thấy, tai nghe, tay thảo. Bây giờ già rồi, bất cập rồi, không đủ sức
chạy đây đó sưu tầm, lục lọi, lật lại bao nhiêu tư liệu lưu trữ đã phủ dày hàng
lớp bụi. Tôi chỉ còn làm được mỗi một việc, là ngồi viết hồi ký, may ra để lại
được vài ba trang giấy hữu ích cho đời!
Trong hồi ký của tôi, và cả
ông bạn cố tri Nguyễn Hiến Lê trong hồi ký của mình nữa, có nhắc đến Trường tiểu
học Pháp – Việt tại đình Yên Phụ, nơi chúng tôi đã được học bằng tiếng mẹ đẻ –
nhờ công lao của các cụ tiền bối. Tiền thân của Tiểu học Pháp-Việt Yên Phụ
là Trường Thông ngôn Yên Phụ, cụ Vĩnh theo học đấy. Chả biết có phải theo gương
cụ “Tổ nghề báo” từng học tại đây hay không, mà Nguyễn Hiến Lê đã đầu têu chuyện
làm báo, thủ công thôi, nhưng có tên hẳn hoi: “Phấn Đấu”.
Tôi được các bạn khen là đứa
“có hoa tay”, nên được phụ trách phần trình bày, viết chữ. Tôi nhớ Lê cho
“đăng” bài thơ, mà sau này mới biết, là cậu ta lấy trong tài liệu của ông bác từng
tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục:
Học là học có nghề có nghiệp,
Trước giữ mình sau giúp người
ta.
Trâu cày ruộng, chó giữ nhà;
Người không nghề nghiệp ắt
là hư sinh.
Báo ra được mỗi một số rồi bị
đình bản luôn; do các bạn truyền tay nhau đọc, thày hiệu trưởng Phạm Huy Du bắt
được, gọi chúng tôi lên. Thày mỉm cười vẻ độ lượng, khen báo hay, nhưng lại ôn
tồn bảo:“Thầy khuyên các con hãy để hết tâm trí vào việc học cái đã. Làm báo ở
trong trường lúc này không hợp đâu!”
Năm 2007 người Pháp có lời mời
và tài trợ cho tôi sang trình bày tham luận tại Hội thảo Quốc tế, nhân 100 năm
Đông Kinh Nghĩa Thục, và làm việc ở CAOM – Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia
(Les Archives d’Outre Mer). Họ tặng tôi cái đĩa CD với hơn 6 nghìn bức ảnh về
Đông Dương, trong đó có cái ảnh dưới đây:
Trường Thông ngôn tại đình
Yên Phụ. Năm 1890.
Cậu bé Vĩnh “nhà quê” ngồi
kéo quạt để được
“học lỏm”, sau trở thành thủ khoa năm 1896.
Kỷ niệm
Thực ra, ở phần Tiền
Thanh Nghị (“tiền” ở đây nghĩa là “trước”), trước thời làm báo Thanh
Nghị) trong Hồi ký Thanh Nghị (nxb Văn học – 1997), sau này tách ra
thành sách riêng, đặt tên Thuở lập thân (nxb Trẻ – 2011), cha tôi có
nhắc đến hai người thân liên quan khi nói đến cụ Nguyễn Văn Vĩnh, nhân viết về
nhà thơ và kịch gia Đoàn Phú Tứ…Chuyện thế này:
Những năm 1932 – 1935, Vũ
Đình Hòe theo học Luật khoa ở Đại học Đông Dương. Cùng cảnh con nhà nghèo, phải
tự kiếm sống bằng các nghề khác nhau để có tiền ăn học, Thế Lữ, Nguyễn Lương Ngọc,
Vũ Văn Hiền và Vũ Đình Hòe… họp nhau lại thành một “Bần hữu hội” (Hội bạn
nghèo), ở trọ trên gác hai nhà Hòe. Mỗi người một manh chiếu trải ngay xuống
sàn gỗ. Sau này Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lương Ngọc kể trong hồi
ký: “…Chúng tôi cùng ở, cùng ăn với nhau trên gác, do ông bà (tức bố mẹ) của
anh Hòe nấu nướng. Chả sang trọng gì nhưng ấm cúng tình thanh niên…”.
Sinh viên luật khoa ngày ấy
sẵn tài hoa: người viết văn, người làm thơ, người diễn kịch, người vẽ. Những buổi
sinh hoạt chung, thường đọc và bình các bài thơ mới sáng tác. Ngoài ra còn thảo
luận về tranh vẽ do sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương Trần Bình Lộc mang đến
trưng bày, tập diễn kịch Ghen của Đoàn Phú Tứ.
Vì có mời thêm bạn học, bạn
thơ văn nên ngày ấy gọi là “Khách thỉnh” (khách mời). “Khách thỉnh” tại gác hai
nhà riêng của gia đình Vũ Đình Hòe ở phố 142 Rue Duvilier (nay là 15 phố Thanh
Bảo, gần đường Nguyễn Thái Học), thu hút nhiều thanh niên, sinh viên tài hoa
đương thời, trong số đó có Nguyễn Nhược Pháp, thứ nam của cụ Nguyễn Văn Vĩnh với
người vợ hai.
Bức ảnh dưới đây chụp một buổi
sinh hoạt chung vào năm 1935 với “Khách thỉnh” của nữ sĩ Vân Đài. Nguyễn Nhược
Pháp đứng bên phải người đeo băng tang. Đoàn Phú Quán, em Đoàn Phú Tứ, ngồi giữa,
ở hàng đầu.
Liệu có phải, thông qua Nguyễn
Nhược Pháp chăng, mà Đoàn Phú Tứ đã quen biết cô chị của giai nhân, người giỏi
đàn dương cầm của nhà thơ trẻ?!
Không thấy cha tôi viết…
Riêng mối tình si của tác giả bài thơ Màu Thời Gian, ông chỉ viết trong hồi
ký nguyên văn như sau:
“… Cứ chiều chiều, Tứ đến rủ
Ngọc hoặc tôi đạp xe đến cổng trường “đầm non” ở Félix Faure (tòa nhà Bộ Tư
pháp, phố Trần Phú bây giờ) đón hai bóng từ trường ra… Cả hai bước lên chiếc
“xe tay” nhà, vén gọn những tà áo lụa tím phất phơ; một dong dỏng cao, dáng quý
phái – cô Mộng Chi, quê ở Huế; một mảnh mai, hiền dịu đôi mắt bồ câu đen nhánh
– cô Vân, con cụ N.V.V., chị thi sĩ trẻ N.N.P…
Chúng tôi theo hút, hướng về
phía Hồ Tây – trường Bưởi. Rồi đạp ngoắt lên đê Parreau (đường Hoàng Hoa thám –
Bưởi ngày nay), dựng xe, ngồi phệt xuống bờ. Dưới chân đê là một biệt thự,
vườn rộng, hàng rào tầm xuân bao quanh. Có tiếng dạo đàn. Từ cửa sổ gác biệt thự,
bay ra những notes dương cầm thánh thót. Anh Tứ hồn như bị hút vào không trung…
Tôi không hiểu gì về nhạc
Tây phương, lại sợ các bạn trọ ở nhà chờ cơm nên len lén rút lui. Tứ cứ ngồi lặng
đi, đê mê… có lẽ đến khuya mới về, cả những đêm sương giá, mưa phùn. Khổ – hay
sướng? – anh chàng “si”! Si giai điệu và si giai nhân.
Hương thời gian không nồng,
Hương thời gian thanh thanh;
Màu thời gian không xanh,
Màu thời gian tím ngát…[1]
Đúng là Đoàn Phú Tứ mê “tiếng
chim thanh” “trong gió xanh” nên “tình một thuở còn hương”…”.
Kết
Tôi nhận được thông báo của
anh Lân Bình cho biết, nhân dịp Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh vinh danh nhà báo
Nguyễn Văn Vĩnh là Danh nhân Văn hóa Việt Nam, nhân 80 năm ngày giỗ cụ Vĩnh và
nhân 10 năm khởi sự thực hiện bộ phim tài liệu lịch sử “Mạn đàm về Người Man di
hiện đại”, anh Lân Bình sẽ tổ chức hành trình “80 năm tìm lại Sê Pôn”, với
thời gian 6 ngày 5 đêm.
Tôi đến nhà riêng anh Lân
Bình chơi, tôi thảng thốt khi ngắm các bức ảnh thờ, thấy có bức ảnh Nguyễn Thị
Vân (1913 – 1936)… Tôi rên rỉ với anh Lân Bình:
“Ôi, ôi… đây là bà Vân à? Bà
là chị Nguyễn Nhược Pháp đúng không? Bà giỏi đàn piano lắm đúng không?… Giời
ơi, tôi và mấy người nữa không nghĩ ra rằng đây là bác của Lân Bình! Nếu biết sớm,
tôi sẽ xin để đưa vào cái mục cụ Hòe viết trong hồi ký về Đoàn Phú Tứ… Tiếc
quá… Nhưng chưa muộn”.
Tôi đã quyết định phóng to bức
ảnh “Khách thỉnh” quý hiếm, photocopy đoạn hồi ký trên đây dán ra mặt sau, ép
plastic cẩn thận, với ý định đến nhà riêng anh Bình, đặt lên bàn thờ, dưới chân
dung cụ Nguyễn Văn Vĩnh cùng những người thân đã khuất của gia tộc cụ, thắp nén
hương kính cáo cụ về mối đồng thanh tương ứng giữa người con trai tài hoa bạc mệnh
của cụ (Nguyễn Nhược Pháp) và cha tôi (Vũ Đình Hòe). Rồi sau đó, trao lại làm kỷ
niệm cho anh Lân Bình, người cháu nội của “Ông Tổ nghề báo nước Nam”, một trong
những người cha tinh thần của thế hệ trí thức vàng Việt Nam thời hiện đại.
Cảm ơn Lân Bình đã cho tôi
thực hiện được tâm nguyện, lại trao cho tôi vinh dự tuyên đọc tại điểm đến
tâm linh ở chân cầu Sê Băng Hiêng, Quyết định của Quỹ Văn hóa Phan Chu
Trinh vinh danh Tân Nam tử – Nguyễn Văn Vĩnh là Danh nhân Văn hóa Việt Nam thời
hiện đại.
[1] Cụ Hòe trích bài
thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ, nhưng nhớ lộn trật tự các câu thơ. - VTK.
Vũ Thế Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét