Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

Những ý kiến trái chiều về tác gia Hồ Xuân Hương

Những ý kiến trái chiều về tác gia Hồ Xuân Hương
Trang “Văn học nhà trường” tuần này, chúng tôi xin giới thiệu cụm ý kiến mang tính tranh luận đầu tiên của chuyên mục; đúng với tinh thần “Lời thưa” mà vanhaiphong,com đã nêu là “sẵn sàng đăng tải ý kiến nhiều chiều trong những vấn đề thuộc lý luận và phê bình văn học, trên cơ sở học thuật, trong ý tưởng góp một tiếng nói để xây dựng, phát triển nền văn học nước nhà” . Đó là ý kiến của 2 tác giả văn học đều ở Quảng Ninh bàn về thân thế và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương. Bài thứ nhất rút từ Wb “Văn học nhà trường” với tiêu đề “Vấn đề Hồ Xuân Hương, đã rõ ” của Tác giả Trần Nhuận Minh. Nội dung cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Quảng Ninh ngày 26.8.2013; và bài thứ 2 của tác giả Tạ Hữu Đỉnh mang tên “Thư ngỏ gửi nhà thơ Trần Nhuận Minh” trên trang Wb của nhà thơ Trần Nhương.
Được biết,trước đây vấn đề này đã có nhiều công trình đề cập của các tác giả lớn như công trình của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đưa ra tại Paris, hay nhà thơ Xuân Diệu với cuốn "Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm", nhưng xem ra chưa có hồi kết. Mong muốn của chúng tôi là đọc nội dung quan niệm mới này, các thày cô giáo, các em học sinh yêu văn học sẽ củng cố thêm những tư liệu rất quan trọng, đặc biệt cách xác định văn bản, các thông tin về tiểu dẫn… liên quan đến tác gia Hồ Xuân Hương trong chương trình văn học trung đại ở cấp THCS và THPT.
Vanhaiphong.com
Vấn đề Hồ Xuân Hương, đã rõ
Trần Nhuận Minh
Những bài thơ Nôm đầu tiên được coi là của Hồ Xuân Hương, xuất bản ở Hải Phòng, năm 1913, như một tài liệu không chính thức. Bốn năm sau, năm 1917, Đông Khê Nguyễn Hữu Tiến xuất bản Giai nhân di mặc, toàn những chuyện hư cấu… trong đó có chuyện Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương… dĩ nhiên, cũng là những thứ “hư cấu”. Ấy thế mà có nhà phê bình lại dựa vào đó mà soạn ra Thân thế và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương và đánh giá thơ văn của bà, như một tác giả chính thức và tác giả đó có mặt thực sự trong đời sống xã hội. Thấy bán được, các nhà xuất bản tiếp theo in thơ Hồ Xuân Hương như một tác giả thực thụ và số bài mỗi lần in một tăng lên, cuối cùng đến hơn 200 bài thì thôi, bởi không thể tăng được nữa, trong đó có khoảng 30 bài độc đáo và đặc sắc, thường có mặt trong các lần in khác nhau.
Xung quanh tiểu sử của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, có một số điều đã được thời gian bạch hóa. Đến nay thì việc bà là vợ kế (chứ không phải vợ lẽ) quan tham hiệp trấn Yên Quảng (tỉnh Quảng Ninh ngày nay) đã rõ. Bà đã hai lần từ Nghi Tàm (Hồ Tây, Thăng Long) về Yên Quảng bằng thuyền, thăm người yêu, là ông Trần Phúc Hiển, để lại 2 bài thơ tình chữ Nôm viết bên bờ sông Bạch Đằng và 5 bài thơ chữ Hán về vịnh Hạ Long, đã in trong tập Lưu Hương kí, từ năm 1814, thì cũng đã rõ. Như vậy, bà ở hẳn tại Yên Quảng từ năm 1815 (khi ông Hiển cưới bà, thường cho bà dự vào việc quan) đến khi chồng bà bị bắt (tháng 5 năm 1818) chịu án tử hình (1819), vì đã nhận hối lộ 700 quan tiền, (dù bố chồng bà là tướng Trần Phúc Nhân, đã từng giúp vua Gia Long đánh thắng Tây Sơn rồi tử trận). Việc chồng bà chết ở Yên Quảng năm 1819, cũng đã rõ, vì điều đó còn ghi trong Thực lục của nhà Nguyễn. Khi vua Minh Mạng rà soát lại các bản án liên quan đến các quan, ông rất chú ý đến vụ án quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, ông phê vào bên cạnh: “Tham nhũng như thế mà không giết, thì lấy gì mà khuyến liêm”.
Căn cứ vào các tư liệu mới phát hiện và không còn gì phải tranh cãi này, mà người ta đã xác định được năm sinh của Hồ Xuân Hương là 1772, đặc biệt năm mất là 1822. Điều đó đã được dòng họ Hồ Quỳnh Đôi Nghệ An, quê hương bà, cho khắc vào tấm bia đá lớn, thờ ở ngay đầu làng.
Nếu năm mất được xác nhận là 1822, thì nơi mất có thể có cơ sở, là chùa Giải Oan ở Yên Tử, vì cùng một nguồn tư liệu. Theo tư liệu trên, sau khi chồng chết, để thể hiện lòng thủy chung đúng đạo nhà Nho của bà, bà đi tu ở Yên Tử và khi mãn tang chồng thì chết theo chồng ở đây. Bà mất năm 1822, năm 1823, phủ Tam Đới, nơi ông Hiển từng làm tri phủ khoảng hơn 10 năm trước, mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường. Vậy bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường mà hàng chục năm nay gán bừa cho bà là không phải của bà vậy. Ấy là chưa kể, khi chồng chết vì án tử hình, liệu có bà vợ nào nỡ khóc chồng:
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn khép lại rồi
Ta hiểu cán cân kia và miệng túi ấy là cái gì rồi. Khóc thế không những vô văn hóa mà còn vô cả đạo lí nữa. Ấy là chưa kể, khi phủ Vĩnh Tường có tên, thì Hồ Xuân Hương cũng đã chết rồi.
Tập thơ duy nhất của Hồ Xuân Hương là Lưu Hương kí. Chính Hồ Xuân Hương đã tự xác nhận thế, như Tốn Phong đã ghi lại trong lời Tựa mở đầu tập thơ này. Theo giáo sư Trần Thanh Mại, thì chữ Lưu có bộ ngọc ở bên, chỉ quê hương QuỳnhLưu, không phải là lưu biệt hay lưu truyền, còn Hương là tên bà. Vậy đây là thơ của người Quỳnh Lưu tên là Xuân Hương, được ghi lại. Giáo sư Trần Thanh Mại khẳng định: “Lưu Hương kí là một tài liệu chân chính, đáng tin cậy, và trong trường hợp này, không thể có vấn đề, có kẻ nào đó muốn chơi khăm, làm ra tài liệu giả mạo để đánh lạc hướng nghiên cứu của chúng ta”. (Lưu Hương kí và lai lịch phát hiện nó - Trần Thanh Mại, toàn tập, tập III. Nxb Văn học, 2004).
Theo bài Tựa của ông Tốn Phong viết, hiện vẫn còn in ở đầu sách, thì Hồ Xuân Hương nói rằng: “đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước đến nay”, trong đó không có bất cứ một bài nào trong số tất cả các bài thơ Nôm truyền tụng thường được gán cho bà. Như vậy, theo ý của chính bà, các bài thơ ở ngoài Lưu Hương kí đều không phải thơ của bà. Bàn về thơ bà mà lại cứ đơn phương gạt ý kiến của bà ra thì rõ ràng là rất phi lí (TNM nhấn mạnh). Và ngày nay, chúng ta coi thơ truyền tụng kia, không phải là thơ của bà, chính là tôn trọng bà vậy. Trong bài Tựa nói trên, viết tháng 3 năm Giáp Tuất (1814), Tốn Phong nhận xét, thơ Hồ Xuân Hương "xuất phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa. Vui mà không đến nỗi buông tuồng... thơ đúng phép mà văn hoa...". Đọc Lưu Hương kí mới thấy Tốn Phong nhận xét thơ bà như thế là rất chuẩn xác. Như vậy, thơ thực của bà hoàn toàn xa lạ với thơ được coi là của bà.
Căn cứ vào lời Tựa của Tốn Phong: “Khi hỏi đến tên họ, mới biết cô ta là em gái ông lớn họ Hồ, đậu Hoàng Giáp, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu”, từ đó, các nhà nghiên cứu mới bạch hóa được tiểu sử của Hồ Xuân Hương. Làng Hoàn Hậu nay là làng Quỳnh Đôi. Bà là con Hồ Sĩ Danh, chứ không phải con Hồ Phi Diễn, như các sách giáo khoa đã ghi từ mấy chục năm nay, vì Hồ Phi Diễn không có con đỗ Hoàng Giáp và làm ông lớn. Hồ Phi Diễn và Hồ Sĩ Danh là anh em con chú con bác, lại rất xa nhau, kể ngược lên đến đời thứ 10 mới cùng một ông tổ. Bà là em ruột Hồ Sĩ Đống (1738 - 1785), đậu Đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, (tức Hoàng Giáp), làm quan đến Hành tham tụng, (quyền Tể tướng) tước Quận công, cùng với Bồi tụng Bùi Huy Bích, đứng đầu chính phủ thời Trịnh Sâm và Trịnh Khải. Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783), chỉ đậu Hương cống (tức Cử nhân), không ra làm quan, nhưng có con làm tể tướng, được phong tặng chức Hàn lâm thừa chỉ, hàm Thái Bảo. một trong 3 tước cao nhất của triều đình. Như vậy là đã rõ.
Trong Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm, (Thực ra thì trước Xuân Diệu đến 30 năm - tính đến 1980 - năm kết thúc công trình nghiên cứu của Xuân Diệu), từ năm 1950, Lê Tâm đã gọi Hồ Xuân Hương là Bà chúa thơ Nômtrong tập sách do Nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội ấn hành (nhưng người ta cứ nghĩ danh hiệu này là do Xuân Diệu đầu tiên nêu ra). Xuân Diệu còn khẳng định: đặc trưng để bà có lối thơ ám chỉ cái ấy của phụ nữ và chuyện ấy trong buồng kín, tạo thành đặc sắc, “có một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kĩ nữ”, mà các quyển Từ điển tiếng Việt đều ghi kĩ nữ là gái mại dâm (là làm đĩ).
Đến đây thì ai cũng biết: nhà thơ Xuân Hương họ Hồ Quỳnh Đôi, Nghệ An, vợ kế quan Tham hiệp trấn Yên Quảng, từng yêu Cần Chánh điện học sĩ - Hầu tước Nguyễn Du, chú ruột vợ vua Gia Long, em ruột tể tướng Nguyễn Khản (Nguyễn Khản là anh con bà cả), con ruột tể tướng triều trước Nguyễn Nghiễm… bản thân bà cũng có anh con bà cả làm tể tướng, bố chồng hàm Thái Bảo, một trong ba tước cao nhất của triều đình, như đã nói trên, không phải là gái làm nghề…mại dâm. Trong nghiên cứu khoa học, cứ liệu nền tảng không vững vàng, ổn định, thì các luận điểm đưa ra, chắc chắn không vững bền, dù tác giả của những luận điểm ấy là một người có uy tín rất lớn. Theo tôi, công trình rất nổi tiếng Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm này của Xuân Diệu là không có cơ sở khoa học, dứt khoát sẽ tự sụp đổ, chỉ có sớm hơn hay muộn hơn mà thôi.
Tôi đồng tình với nhận định của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đưa ra tại Paris (Pháp) từ năm 1952 và giáo sư Trần Thanh Mại, đưa ra tại Hà Nội năm 1964, cho rằng, TOÀN BỘ thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, tất thảy đều không phải của Hồ Xuân Hương mà là thơ dân gian của các ông đồ, sáng tác và nhuận sắc cùng thời với truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn.
Xin dẫn nguyên văn hai bài thơ của Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương kí có liên quan đến các ý đã trình bày ở trên. Các bạn đọc sẽ nhận ra ngay một Hồ Xuân Hương thật.
Bài thứ nhất về mối tình của bà với quan Tham hiệp trấn Yên Quảng, Trần Phúc Hiển, lúc bà về thăm ông, ở trấn lị Yên Quảng, nay là thị xã Quảng Yên, bên bờ sông Bạch Đằng, khi ông chưa cưới bà làm vợ. Đọc bài thơ này, các bạn sẽ thấy bà Hồ Xuân Hương yêu ông Trần Phúc Hiển đến mức nào, chỉ lo ông không giữ lời hứa với mình:
BẠCH ĐẰNG GIANG TẠM BIỆT
Khấp khểnh đường mây bước lại dừng
Là duyên là nợ phải hay chăng
Vun hoa khéo kẻo lay cành gấm
Vục nước mà xem động bóng giăng
Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt
Lời kia nay đã núi giăng giăng
Với nhau tình nghĩa sao là trọn
Chớ có lưng vơi cỡ nước Đằng…
Các sách đều chú thích nước Đằng là một quốc gia nhỏ bé bên Trung Quốc. Theo tôi, chú thích thế là sai. Nước Đằng chỉ là nước sông Bạch Đằng khi lưng, khi vơi theo mức lên xuống của thuỷ triều. Bà Hương nhắc ông Hiển lòng dạ yêu bà chớ có như thế.
Bài thứ hai là nỗi nhớ người cũ, gửi “Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân”:
CẢM CỰU KIÊM TRÌNH
CẦN CHÁNH HỌC SĨ NGUYỄN HẦU
(Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
Dặm khách muôn ngàn nỗi nhớ mong
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương siu mấy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong
Nguyên tác ghi rõ Hầu người làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân. Như vậy, Nguyễn Hầu ở đây đúng là Nguyễn Du, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, được phong tước Hầu (Du Đức hầu). Tháng 2 năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long bổ nhiệm ông làm Cần chánh điện học sĩ, rồi cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc.
Xuân Diệu có biết điều này không? Tôi xin thưa ngay là có và hẳn là có lí do khi ông không viết bài “cãi lại”. Tôi rất nhớ một lần, tôi đến thăm Xuân Diệu, sau khi có một hội nghị bàn về thơ Hồ Xuân Hương như trên ở Viện Văn học. Xuân Diệu nói với tôi, giọng rất bực dọc, tôi nhớ vô cùng chính xác và tôi chịu trách nhiệm về sự chính xác này, khi lần đầu tiên công bố ra đây: “Có một Hồ Xuân Hương giả mà cả thế giới nó sợ thật, lại không sướng hay sao. Lại còn tìm ra với tìm vào”.
Như vậy, chính Xuân Diệu, người sau Lê Tâm (1950) đã bỏ ra đến 22 năm (1958-1980) để vinh danh Hồ Xuân Hương là Bà chúa thơ Nôm, cũng đã biết đâu là thực hư trong vấn về này.
Trần Nhuận Minh
Thư ngỏ gửi nhà thơ Trần Nhuận Minh
Tạ Hữu Đỉnh
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Chúng bảo nhau rằng:  ấy ái uông”

Từ những năm mới chín mười tuổi, tôi đã thuộc lòng những câu thơ vui nhộn đó của Hồ Xuân Hương. Thuộc là do người lớn kể cho biết, hay đọc được ở đâu thì tôi không nhớ được nữa. Rồi đến khi có tập “Hồ Xuân Hương-Bà chúa thơ nôm” của thi sĩ Xuân Diệu biên soạn, thì tôi càng đinh ninh, tất cả những bài thơ đó là của Hồ Xuân Hương. Nhưng vừa rồi đọc bài “Vấn đề Hồ Xuân Hương đã rõ” của tác giả, nhả thơ Trần Nhuận Minh, in trên báo Hạ Long, số 434, ngày 20/4/2013, thì sự việc hầu như lại không phải là như vậy nữa. Đọc bài báo đó, tôi có mấy điều thắc mắc, xin nêu ra đây, rất mong được anh Minh, cùng các bạn đọc trao đổi giải đáp giúp tôi.
Về tiểu sử của Hồ Xuân Hương, tôi có hai điều thắc mắc là: Độc giả cả nước ai cũng biết Hồ Xuân Hương đã từng lấy Tổng Cóc, nhưng trong bài báo, tác giả đã bỏ qua, không đề cập đến vấn đề này. Vậy trong thực tế, Hồ Xuân Hương có lấy Tổng Cóc không? Nếu không, thì xin giải thích, chứng minh. Nếu có, mà tất cả những bài thơ nôm của Hồ Xuân Hương, tác giả bài báo đều cho là không phải của bà (tất nhiên cả bài “Khóc Tổng Cóc”). Vậy ai là tác giả bài “Khóc Tổng Cóc", và vì lí do gì mà người ấy lại giả danh Hồ Xuân Hương để làm bài thơ đó?
Điều thứ hai: Không biết anh Minh căn cứ vào văn bản nào mà viết rằng: “…sau khi chồng chết, để thể hiện lòng thuỷ chung đúng đạo nhà Nho của bà, bà đi tu ở Yên Tử và khi mãn tang chồng thì chết theo chồng ở đây…”. Như vậy, theo nhà thơ Trần Nhuận Minh, thì đạo Nho cũng có tục lệ và đặc quyền như đạo Quân-Thần. Quân xử thần tử. Thần bất tử bất trung. Và khi đấng quân vương băng hà, thì tất cả Thần phi, cung tần mỹ nữ đều bị hoả thiêu chết theo vua. Nhưng đạo nho, như anh Minh viết thì hơi khác đạo Quân-Thần một chút là, khi “nho phu” về “cõi hạc”, thì “nho phụ” phải đi tu, chờ ba năm mãn tang chồng, rồi mới được chết theo chổng.
Nếu vậy thì từ thời thượng cổ đến khi nước ta có chữ Quốc ngữ như bây giờ, các bậc đại nho, các nhà khoa bảng như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến…rồi xuống đến các ông thầy đồ, khi họ chết, các bà vợ của họ, ai không biết chữ thì thôi, còn những người biết chữ (tức là có theo đạo Nho), thì đều phải đi tu, chờ ba năm mãn tang chồng, rồi mới được chết theo chồng, y như bà Hồ Xuân Hương vậy!
Có lẽ do đa cảm và giầu trí tưởng tượng mà tác giả bài báo đã “hư cấu” ra như vậy, chứ đạo nho làm gì có cái tục lệ khủng khiếp như thế. Ở nước ta thời xưa, chỉ có các vua chúa mới dàm làm cái việc vô cùng ích kỷ và dã man đó. Nhưng đã được bãi bỏ từ thế kỷ 10, thời Nhà Lý rồi.
Mở đầu bài báo, nhà thơ Trần Nhận Minh viết: “Những bài thơ nôm đầu tiên được coi là của Hồ Xuân Hương, xuất bản ở Hải Phòng, năm 1913, như một tài liệu không chính thức…”. Nếu những bài thơ nôm đó là tác phẩm văn nghệ dân gian, do sưu tầm được, không có tên tác giả, thì ghi khuyết danh, còn đã ghi tên Hổ Xuân Hương, thì đích thực là của Hồ Xuân Hương, chứ sao lại “được coi là của Hồ Xuân Hương”? Và ấn phẩm đã ghi tên tác giả, thì hiển nhiên là chính thức, chứ sao lại bảo là “tài liệu không chính thức”? Viết theo kiểu mập mở, lấp lửng như vậy, phải chăng tác giả đã cố ý gây ra sự hoài nghi trong lòng người đọc, để đạt được mục đích của mình? Đó là biểu hiện cái tâm của người viết không trung thực, không khách quan trước vấn đề mình đang tham gia bàn bạc.
Bài báo viết tiếp: “Năm 1917, Đông Khê Nguyễn Hữu Tiến xuất bản “Giai nhân di mặc”, toàn những chuyện hư cấu…trong đó có chuyện Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương…dĩ nhiên cũng toàn là những thứ hư cấu…”. Chúng ta ai cũng biết, cùng một tác giả, ra một tập sách, vừa truyện vừa ký, thì phần truyện là tác phẩm hư cấu, còn phần ký là sự thật. Cho nên không thể căn cứ vào phần hư cấu của tập “Giai nhân di mặc,” đẻ bảo rằng cả chuyện Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương cũng đều là hư cấu cả. Vả lại Hồ Xuân Hương là một con người có thật, bằng xương bằng thịt. Cả thơ của bà cũng là có thật. Và chính tác giả bài báo đã cho bạn đọc biết, thơ của bà đã xuất bản năm 1913, trước cả “Giai nhân di mặc” bốn năm. Vậy sao lại bảo Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương “dĩ nhiên cũng toàn là hư cấu…”?
Bài tựa tập thơ “Lưu hương ký” của Hồ Xuân Hương, người viết có trích câu nói của bà: “Đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước đến nay”. Căn cứ vào câu nói đó, nhà thơ Trần Nhuận Minh viết: “…trong đó (tức trong tập “Lưu hương ký”-THĐ) không có bất cứ bài thơ nào trong số các bài thơ nôm truyền tụng thường được gán cho bà. Như vậy theo ý của chính bà, các bài thơ ngoài “Lưu hương ký” đều không phải là thơ của bà…”.
Theo tôi hiểu, thì câu nói đó của Hồ Xuân Hương không có cái ý phủ định như anh Minh viết. Mà chỉ khẳng định rằng toàn bộ thơ của bà từ trước đến thời gian xuất bản “Lưu hương ký”, chứ không phải là đến khi kết thúc cuộc sống. Chúng ta đã biết bài tựa nói trên, được viết năm 1914, và Hồ Xuân Hương mất năm 1822. Như vậy là sau ngày xuất bản “Lưu hương ký”, Hồ Xuân Hương còn sống tám năm nữa, rồi mới tuẫn tiết thao chồng (như anh Minh đã viết). Vậy tám năm ấy thi sỹ Hồ Xuân Hương có làm thơ nữa không? Chắc hẳn là có…
Anh Minh còn dẫn ra hai bài thơ tình trong tập “Lưu hương ký”, một bài tác giả gửi cho quan Tham hiệp, trấn Yên Quảng, Trần Phúc Hiển. Bài kia gửi “Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân”. Để chứng minh rằng, thơ đích thực của Hồ Xuân Hương hoàn toàn khác với những bài thơ nôm vẫn được coi là của bà.
Giới âm nhạc thường nói “Cây đàn muôn điệu”. Những bậc tài danh thường đa phong cách. Như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, vừa viết châm biếm, vừa viết trữ tình: “Dưới sân ông cử ngẩng đầu rông/ Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt” Và: “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò” (Tú Xương).

Anh Minh trích dẫn như vậy, cũng chẳng nói lên được điều gì. Vì thơ thế sự và thơ tình yêu đôi lứa bao giờ cũng rất khác nhau. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, nếu ông làm thơ tình cho người yêu, chắc chắn cũng không có cái giọng trào lộng như những bài thơ ông viết để đăng báo.
Về tập sách “Hồ Xuân Hương-Bà chúa thơ nôm” của Xuân Diệu, nhà thơ Trần  Nhuận Minh viết: “Thực ra trước Xuân Diệu 30 năm, từ năm 1950, Lê Tâm đã gọi Hồ Xuân Hương là Bà chúa thơ nôm trong tập sách do Nhà xuất bản Cây Thông ấn hành. (Như vậy là Xuân Diệu đã “đạo” chữ của Lê Tâm để đặt tên cho sách của mình – THĐ). Theo tôi công trình rất nổi tiếng Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ nôm này của Xuân Diệu là không có cơ sở khoa học, dứt khoát sẽ tự sụp đổ, chỉ có sớm hay muộn hơn mà thôi”. Rồi đến những dòng cuối cùng của bài báo, tác giả còn khẳng định và chịu trách nhiệm về sự thật Xuân Diệu đã nói với tác giả, sau một hội nghị bàn về thơ Hồ Xuân Hương, của Viện Văn học rằng: “Có một Hồ Xuân Hương giả mà cả thế giới nó sợ thật, lại không sướng hay sao. Lại còn tìm ra với tìm vào”.
Khẩu thuyết vô bằng. Câu trích này chẳng biết có thật không? Vì nhà thơ Xuân Diệu qua đời rồi, có ai cãi lại đâu. Song rõ ràng người trích muốn người đọc hiểu rằng: cả Xuân Diệu cũng biết những bài thơ đó không phải là của Hồ Xuân Hương, nhưng Xuân Diệu vẫn tôn vinh bà, chứng tỏ công trình của ông không có cơ sở khoa học, đồng thời cũng chứng tỏ ông không trung thực.
Nhà thơ Trần Nhận Minh viết tiếp: “Tôi đồng tình với nhận định của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đưa ra tại Paris (Pháp) từ năm 1952 và giáo sư Trần Thanh Mại đưa ra tại Hà Nội năm 1964, cho rằng, toàn bộ thơ nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, tất thẩy đều không phải của Hồ Xuân Hương mà là thơ dân gian của các ông đồ, sáng tác và nhuận sắc cùng thời với truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn”.
Đã lả thơ dân gian, tức là thơ vô danh, lưu truyền trong dân gian như ca dao, tục ngữ, hò vè, hát đúm, hát đố… thì căn cứ vào đâu mà biết đó là thơ của các ông đồ? Mà nếu đã có căn cứ để biết là thơ của các ông đồ, thì tên của các ông đồ ấy là gì, sao không ghi? Bảo phải, hoặc không phải là thơ của Hồ Xuân Hương, thì cũng phải có chứng cớ chứ? Chẳng biết hai vị giáo sư khả kính ấy căn cứ vào đâu mà đưa ra nhận định võ đoán như vậy? Mà cũng chưa biết chừng, đó chỉ là những lời “hư cấu” của tác giả bài báo, chứ lấy gì để bảo đảm rằng, đó đúng là lời của hai vị giáo sư?...
Anh Minh không tin công trình của Xuân Diệu, vì cho rằng công trình này không có cơ sở khoa học, nhưng lại “đồng tình” với nhận định của hai vị giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Trần Thanh Mại, mà nhận định của họ cũng chẳng có cơ sở khoa học gì. Vì sao vậy? Hay vì đó là lời của các vị giáo sư có uy tín lớn đã đưa ra, mà nhất là, và đặc biệt là lại đưa ra ở Paris mở ngoặc đơn Pháp đóng ngoặc đơn! Có lẽ mở và đóng như vậy cũng chưa thật chỉnh về mặt ngữ pháp, mà nên thêm tữ “nước” vào trước từ “Pháp” thì mới thật chuẩn, anh Minh ạ !
Từ thế kỷ 14, Hồ Quý Ly đã bỏ chữ Hán, dùng chữ nôm, trong các văn bản giấy tờ của nhà nước. Thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã thành lập Hội Tao đàn (tức Hội Nhà văn). Chứng tỏ nền văn hoá và văn học, nghệ thuật nước ta đã phát triển từ lâu. Sang thế kỷ 19, thời Hồ Xuân Hương, chắc chắn các văn nghệ sỹ đã quá hiểu cái quyền của người sáng tạo. Họ phải lao tâm, khổ trí bao nhiêu ngày đêm mới làm được một bài thơ. Vậy làm gì có chuyện, các ông đồ làm được những bài thơ hay đến mức “…cả thế giới nó sợ” (chữ Trần Nhuận Minh viết) mà họ lại đem cho không Hồ Xuân Hương, bằng cách ghi tên bà vào tác phẩm của họ. (Xin được hỏi anh Minh, anh có làm như vậy không?). Hoặc khồng ghi tên ai cả, cứ buông thả cho thơ của họ trôi nổi trong dân gian, rồi dân gian gán ghép cho Hồ Xuân Hương?
Nhà thơ Trần Nhuận Minh còn trích lời Xuân Diệu khen Hồ Xuân Hương: “Đặc trưng để bà có lối thơ ám chỉ cái ấy của phụ nữ và chuyện ấy trong buồng kín, tạo thành đặc sắc, có một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kĩ nữ”, mà các quyển từ điển tiếng Việt đều ghi kĩ nữ là gái mại dâm (là làm đĩ)”.

Trích như vậy, phải chăng tác giả bài báo muốn ám chỉ rằng, Xuân Diệu không hiểu nghĩa của từ kĩ nữ, cho nên đem dùng để ca ngợi người mình yêu quý? Nếu đúng như vậy thì tôi xin “cãi lại” giúp Xuân Diệu, mặc dù đang ở cõi “Niết Bàn”, ông không bảo tôi giúp. Rằng: Căn cứ vào các công trình khảo cứu, nghị luận, phê bình văn học, nghệ thuật của Xuân Diệu, thì ông là người có trình độ hiểu biết sâu rộng, uyên bác, cổ kim, Đông, Tây, chứ không phải ông không hiểu nghĩa của từ đó. Từ kĩ nữ ông dùng ở đây nghĩa là người có kỹ năng, kỹ xảo, kỹ thuật, là tài hoa, là điêu luyện, để khen Hồ Xuân Hương là đúng và rất chính xác.
Thời xưa không ai gọi gái mại dâm là kỹ nữ. Cả các nhà văn đã viết về gái mại dâm như Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Công Hoan cũng vậy. Hay xa hơn như Truyện Kiều cũng thế. Thuý Kiều hai lần phải vào “lầu xanh”, nhưng Nguyễn Du cũng không gọi Kiều la “kĩ nữ”. Người ta gọi họ là gái “lầu xanh”, “gái điếm”, gái ‘giang hồ’, là “nhà thổ”, là “gái đĩ”. Cho nên có thành ngữ “Gái đĩ già mồm”. Thời bây giờ, khi Tù điển tiếng Việt định nghĩa kĩ nữ là gái mại dâm, thì Xuân Diệu đã qua đời rồi. Ông mất năm 1985, 19 năm sau, năm 2004, Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học mới xuất bản. Trích như vậy có phải là có ác ý. muốn dìm người ta xuống để mình nổi lên không, thưa nhà thơ Trtần Nhuận Minh?

Nhân đây, tôi cũng xin “liều thân” làm cái việc “đánh trống qua cửa nhà sấm”, rằng: Các nhà ngôn ngữ học định nghiã từ kỹ nữ là gái mại dâm là khiên cưỡng, là áp đặt, không thoả đáng. Người đọc không tâm phục, khẩu phục. Từ điển tiếng Việt trang 519, cột hai ghi Kỹ: kỹ càng, kỹ lưỡng, kỹ năng, kỹ nghệ, kỹ nữ, kỹ sư, kỹ thuật, kỹ tính, kỹ xảo. Nếu chiết tự, thì từ “nữ” là giới tính. Còn từ kỹ, rõ ràng bao hàm ý nghĩa của các yếu tố kỹ lưỡng, kỹ thuật, kỹ xảo… chứ có hàm ý gỉ về dâm dục đâu, mà khi kêt hợp với từ nữ, thì lại thành ra gái mại dâm?
Thưa nhà thơ Trần Nhuận Minh và các bạn đọc quý mến. Về vấn đề Hồ Xuân Hương, tôi tán thành quan điểm của nhà thơ Xuân Diệu. Vì giá trị tác phẩm là ở nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm, chứ không phải là ở tên tác giả là ai. Những bài thơ nôm tuyệt vời đó, mấy trăm năm nay đã chinh phục hàng triệu triệu trái tim người đọc Việt Nam, và cả bạn đọc thế giới cũng khâm phục. Tổng thớng Hoa Kỳ Bill Clinton, trước khi sang thăm Việt Nam, đã đọc Truyện Kiều và Hồ Xuân Hương-Bà chúa thơ nôm. Thế là sung sướng, là vẻ vang cho nền văn học nước nhà rồi. Bất luận tác giả của những bài thơ ấy là ai, thì giá trị của tác phẩm cũng không hề thay đổi.
Tất nhiên, biết tên tác giả để tri ân, để khen che cũng là điều cần thiết. Song hơn nửa thế lỷ đã trôi qua, các nhà nghiên cứu đã bỏ ra bao nhiêu công sức và phí hoài bao nhiêu giấy mực, mà chỉ thu được mỗi cái kết cục là, những bài thơ nôm đó không phải là của Hồ Xuân Hương, mà hình như là của mấy ông thầy đồ (Tôi dùng chữ hình như, vì các nhà nghiên cứu chẳng đưa ra được bằng chứng gì). Vậy thì cái kết cục ấy, phỏng có ích lợi gì cho anh, cho tôi và cho chúng ta?.
TP. Uông Bí 10/7/2013
Tạ Hữu Đỉnh
Theo http://vanhaiphong.com/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...