Đọc lại "La Sơn Phu Tử"
của Hoàng Xuân Hãn
Bác Hãn - xin được gọi như vậy
như đã gọi lúc Bác sinh thời - viết lời Tựa cho tác phẩm "La Sơn Phu tử"
vào tháng 5 năm 1945, ba tháng trước Cách Mạng Tháng Tám, lúc mà Bác là nhân vật
chủ chốt được vua Bảo Đại mời vào Huế để cùng với một số trí thức danh tiếng
khác bàn việc thành lập Chính phủ Trần Trọng Kim, chấm dứt chế độ thuộc địa
Pháp. Trong thời gian ấy, quân đội Nhật vẫn nắm giữ thực quyền nhưng tuyên bố ủng
hộ Việt Nam độc lập, thống nhất. Pháp chưa đi hẳn, Nhật còn ở lại, chiến tranh
giữa phe Đồng Minh và Nhật đã sắp đến hồi ngã ngũ, tương lai Việt Nam chưa biết
trôi về đâu, nền độc lập vừa tuyên bố chỉ mới có giá trị trên lý thuyết. Tuy vậy,
ai mà không thấy hừng lên một chân trời sáng sau 80 năm mịt mù nô lệ?
Vua Bảo Đại nói gì với bác
Hãn và với ông Trần Trọng Kim khi hội kiến? Câu nói mà bác Hãn ghi nhớ nhất là:
"Từ trước đến giờ, các anh muốn nước Việt Nam độc lập, bây giờ có cơ hội
thì lại chối, mình không chịu độc lập, thế rồi sau này nói thế nào?" (1).
Theo bác Hãn, câu nói ấy đã thuyết phục được ông Trần Trọng Kim. Bác Hãn thì khỏi
cần phải thuyết phục, chính Bác đã tích cực nhận lãnh trách nhiệm đề cử người
vào chính phủ đầu tiên trước tháng Tám.
Tóm tắt tình thế là như vậy
để hiểu tâm trạng của Bác khi Bác hạ một câu kín đáo xót xa trong bài Tựa:
"Vả bây giờ, nước ta đương qua một thời kỳ biến, nền độc lập mới xây. Từ hồi
Pháp thuộc, đến lúc thoát ly, có nên xuất, xử thế nào, cũng có lắm người nghị
luận. Họa chăng gương Phu tử sẽ đủ cho người soi".
Soi ai? Soi Bác. Soi cái gì?
Soi lẽ xuất xử. Tại sao? Vì dư luận phân tán. Dư luận thời trước đã phân tán
trên thái độ xuất xử của Phu tử. Dư luận thời nay còn có thể phân tán hơn trên
thái độ xuất xử của Bác. Và duyên cớ sâu xa gì khiến cho dư luận phân tán? Tính
chính đáng của quyền lực đương thời. "Nền độc lập" mà Bác nói ở trên
là độc lập khi Nhật chưa đi. Đây là sợi chỉ đỏ nối kết hai trường hợp: của nhân
vật trong sách và nhân vật viết sách. Nói một cách khác, bác Hãn mượn sử để bày
tỏ nỗi lòng. Một nỗi lòng u uẩn không khuây.
Về nỗi lòng của nhân vật
Nguyễn Thiếp, bác Hãn đã phân tích tường tận. Chúng tôi ngày nay chỉ xin trình
bày thêm chút ít ý kiến thô thiển, hạn chế vào cái sợi chỉ đỏ vừa nói ở trên.
Tôi nghĩ: La Sơn Phu tử là khổ nhân của ba áp lực. Áp lực thứ nhất là chứng bệnh
vĩ cuồng, nói nôm là điên. Dù bệnh có khi dài vài tháng, có khi ngắn vài ngày,
một chứng bệnh tái đi tái lại từ trẻ không thể không ảnh hưởng đến tâm lý hành
động, muốn xông ra với đời hay muốn rút lui về núi. Trong những cái cớ mà Phu tử
viện ra để từ chối lời mời tha thiết của Nguyễn Huệ, thân không an lạc không phải
là chuyện vẽ vời. Nhưng cớ ấy cũng chỉ là nhỏ thôi.
Áp lực thứ hai là thời thế.
Chưa bao giờ lịch sử Việt Nam rối bời đến thế. Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước
chia hai, rối bời lãnh thổ đã đành. Chiến tranh, bắt lính, sưu dịch, mất mùa,
đói khổ, loạn lạc nổi lên khắp nơi, xã hội bất an, triều đình bất lực, kẻ sĩ bó
tay, cả miền Bắc quyền lực rối tung, dân tình than oán. Nếu Phu tử ra làm quan,
chẳng lẽ tham gia đàn áp dân? Vậy thì học để làm gì, đi thi để làm gì? Kinh
bang tế thế, chắc là Phu tử không có cái chí ấy. Chắc cũng không có cái tài ấy.
Nếu Phu tử có cái chí, cái tài ấy, còn hào kiệt nào hơn Nguyễn Huệ để vẫy vùng
phỉ chí nam nhi? Lượng sức mình mà không xuất, cớ ấy cũng không phải là bịa đặt
ra. Nghĩ cho cùng, thời loạn mà gặp được anh hùng, như Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi,
kẻ sĩ nào có chí lớn mà không mơ ước? Rồng nào không mơ ước bay lên với mây?
Nhưng Nguyễn Huệ không phải là Lê Lợi mà Nguyễn Thiếp cũng không hẳn có
"con mắt tinh đời" để "anh hùng đoán giữa trần ai mới già"
như Kiều đoán Từ Hải khi vừa liếc mắt. Trong con mắt Nguyễn Thiếp khi nhận được
thư đầu, Nguyễn Huệ chỉ là anh phiên bang thuộc người nước ngoài. Tại đâu cái
nhìn của bậc danh sĩ ấy có phần hạn chế? Tại vì cái áp lực thứ ba, và đây mới
chính là mấu chốt của vấn đề.
Áp lực thứ ba ấy là ý thức hệ
Khổng giáo, mà đặc biệt ở đây là tính chính đáng - légitimité trong tiếng Pháp
- nguyên tắc mà sách vở chính trị ngày nay dùng để cắt nghĩa tại sao mọi người
đều chấp nhận, như một sự thực hiển nhiên, quyền hành nằm trong tay ai đó, một
người, một gia đình, một tập thể, một đảng... Với chính thể quân chủ, tính
chính đáng ở Việt Nam hồi đó nằm trong tay vua Lê. Nhưng tính chính đáng ấy với
quyền lực hồi đó không đi đôi với nhau vì thực quyền nằm trong tay chúa Trịnh.
Vua Lê có triều đình, chúa Trịnh cũng có triều đình, mà là triều đình thật. Vua
Lê lập thái tử, chúa Trịnh cũng lập thế tử, cha truyền con nối, đúng nguyên tắc.
Ý thức hệ Khổng giáo cắt nghĩa nguồn gốc của quyền hành là thiên mệnh. Ai biết
ý Trời lúc đó là muốn cái gì, chẳng lẽ là muốn một ông vua cứ việc lung lay nằm
trong tay của một ông chúa cứ việc kềm kẹp? Lại như một nguyên tắc cứng nhắc, đạo
đức Khổng giáo in vào đầu sĩ tử phương châm "trung thần bất sự nhị
quân". Nghĩa là, trên thực tế, sĩ tử Bắc Hà cứ việc khóc lóc với một ông
vua bất lực, và ông ấy càng bất lực lại càng được thương. Một mặt các vị cứ
khóc với vua, một mặt cứ cong lưng với chúa. Nguyễn Thiếp khóc vua, nhưng Nguyễn
Thiếp không phục chúa, thế thì Nguyễn Thiếp chỉ có một con đường thôi là làm
người hiền ở ẩn. Đạo đức Khổng giáo về xuất xử cho phép và hoan nghênh.
Đọc ba bức thư gửi đi của
Nguyễn Huệ và thư phúc đáp của Nguyễn Thiếp, người đọc ngày nay có thể chảy nước
mắt cho lịch sử bi đát của nước ta hồi đó: Nguyễn Huệ đề niên hiệu là Thái Đức,
Nguyễn Thiếp đề niên hiệu là Cảnh Hưng. Nguyễn Thiếp gọi miền Nam của sông
Gianh là "quý quốc", là nước khác, không phải nước tôi. Ý Trời trong
đầu Nguyễn Huệ đã đổi khác. Ý Trời trong đầu Nguyễn Thiếp vẫn chặt cứng bê tông
dù lịch sử sắp sang trang. Và lịch sử hoành tráng sang trang! Trang mới mở ra với
Bắc Bình Vương tung quân ra Bắc, diệt Trịnh, chấm dứt hai trăm năm khống chế
vua của con cháu Trịnh Kiểm, hai trăm năm cái mặt trời chính đáng của nhà Lê cứ
lặn dần, hai trăm năm sĩ tử Bắc Hà bất lực trong hoàng hôn của một chế độ chính
trị không biết thay đổi, hai trăm năm cùng chung nhau bám chặt vào một cái đầu
"Tử viết", không đặt dù một dấu hỏi về cái lẽ thiên mệnh đã hết bùa
chú trong tay nhà Lê. Hai trăm năm! Nghĩ lại mà rùng mình. Hai trăm năm đằng đẵng
ngâm mãi một bài học. Dù kính bái Phu tử đến đâu đi nữa, người đời nay vẫn phải
lạy Phu tử để nói một câu vô lễ: vậy mà Phu tử đem bài học ấy ra dạy lại cho Bắc
Bình Vương:
"Họ Trịnh tiếm quyền đã
hai trăm năm. Tướng quân đánh một trận mà dứt được, lấy đất đai mà trả lại cho
nhà Lê. Như thế, ai nói là không phải anh hùng. Nếu nhân người nguy, lợi dụng
tai họa người, nếu trước vì nghĩa mà sau vì lợi, thế là gian hùng".
Bác Hãn khen câu nói. Tôi hiểu,
vì Bác là nhà Nho, đại Nho. Nhưng chúng tôi, hậu sinh của Phu tử ở thế kỷ 21
này, chúng tôi không thể nhìn lịch sử như Phu tử nhìn. Chúng tôi không thể quan
niệm chữ "đức" một cách cứng nhắc trong bối cảnh đặc biệt ấy. Khổng Tử
dạy phải lấy đức để trị nước. Ngài dạy thế không sai. Nhưng, thưa Ngài, nước
chúng tôi hồi đó quá loạn, loạn triền miên, loạn đã hai trăm năm, loạn từ trong
dân, loạn trong triều đình, loạn cả trong thâm cung bí sử, Ngài nghĩ rằng Nguyễn
Huệ vẫy gươm để trả đất cho cái vua Lê bất lực ấy thì nước chúng tôi sẽ yên
chăng? Ngài nghĩ rằng một bậc anh hùng như Nguyễn Huệ có thể lui cui làm cái
công việc trả đất như một anh tướng quèn chí không cao hơn cái chân vịt? Ngài
nghĩ con rồng ấy có thể yên phận làm con dun? Nguyễn Huệ có bao giờ phất cờ
"phù Lê diệt Trịnh" giả dối đâu mà sợ mang tiếng gian hùng trong
lương tâm? Lịch sử của nước chúng tôi có lúc hưng lúc vong, lúc vong là vì
không biết cách chấm dứt một chế độ suy thoái, không biết cách thay đổi từ chế
độ này qua chế độ khác, khư khư bám riết vào cái tính chính đáng mà Ngài dạy,
dù nó đã hết sinh khí, phản tiến hóa. Với Nguyễn Huệ, nước chúng tôi có cái cơ
may thắp lên rạng đông sau hai trăm năm nhấp nhem một chế độ lụi tàn như đèn hết
bấc. Có cái đức nào lớn hơn, hợp hơn với dân tộc chúng tôi như cái vận may hai
trăm năm một thuở ấy?
Sau câu dạy ấy của Phu tử,
gia phả chép: "Huệ sợ". Chắc chắn gia phả chép đúng sự thật: Huệ sợ.
Nhưng sợ cái gì? Sợ một câu nói đúng đạo đức? Sợ lương tâm? Đâu phải thế! Sợ
cái mà Nguyễn Huệ đang sợ: chiếm đất không khó, chiếm lòng người mới khó. Nhất
là chiếm một cái lòng bo bo dán vào quá khứ, một cái văn hóa không biết mở ra với
tương lai, một thổ âm chưa quen với cái giọng Bình Định Tây Sơn khó nghe của một
miến Nam đã quá lâu năm biền biệt. Như là một chính trị gia lão luyện, Nguyễn
Huệ cần một đại túc nho để làm cái việc mà sách vở chính trị ngày nay gọi là
chính đáng hóa (légitimation) nghĩa là xây dựng và củng cố tính chính đáng chưa
có ở Bắc Hà. Thời cuộc đã giúp Nguyễn Thiếp giải quyết nhanh cái mối tơ vò
trong đầu ông khi Lê Chiêu Thống đã chạy dài và Tôn Sĩ Nghị quỳ gối dâng lên
Nguyễn Huệ cái mâm vàng "chính đáng" cùng với một đoàn tùy tùng hai
mươi vạn tướng hổ binh hùng. Đống Đa chấm dứt nhà Lê. Thư từ trao đổi không còn
vướng vít Cảnh Hưng niên hiệu.
Trở về lại với bác Hãn của
chúng tôi, bác Hãn mà chúng tôi đã có cái may mắn gần gũi. Bác soi gương Phu tử
và Bác thấy Bác trong đó. Bác thấy ba cái áp lực mà Phu tử đã là khổ nhân. Bác
thấy Bác cũng đã nếm mùi ba cái khổ đó.
Áp lực thứ nhất: tất nhiên
Bác không có chứng cuồng vĩ. Nhưng nếu đừng hiểu nghĩa đen mà chỉ nói đùa với
nghĩa bóng thôi, thì người nào khác thường chẳng có chút gì đó "điên
điên" dưới mắt thiên hạ? Cái chút "điên" ấy tạo ra cái duyên,
cái đẹp, cái hấp dẫn, cái đặc biệt của một cá tính. Chính bác Hãn, trong bài Tựa
lần thứ hai, viết rằng La Sơn Phu tử là một "cá nhân đặc biệt", một
"cá tính đặc biệt". Chắc Bác cũng vậy. Nói rộng ra thêm, và nới rộng
Hà Tĩnh của Bác ra thành Nghệ Tĩnh, hình như đó là cá tính đặc thù mà người đời
thường xưng tụng dưới danh hiệu "ông đồ Nghệ". Một khi "ông đồ
Nghệ" đã khí phách rút lui ở ẩn, đã xử, đừng hòng ai kéo được ông ra khỏi
núi. Tuế nguyệt cứ xoay, đá vẫn trơ gan với thời cuộc.
Thời cuộc là áp lực thứ hai.
Bác Hãn nhấn mạnh câu nói của vua Bảo Đại: các anh nói độc lập, vậy mà khi độc
lập đến, các anh không nắm lấy sao? Cho nên Bác nắm. Thế là Bác xuất. Nhưng thời
cuộc vượt qua Bác nhanh quá, miệng lưỡi người đương thời chế diễu cái "độc
lập bánh vẽ". Từ trên ban xuống, độc lập ấy bị cuốn phăng trong khí thế hừng
hực dâng lên từ một phong trào cách mạng có căn cứ địa, có quần chúng, có lãnh
đạo, có gươm dáo, có cả cờ với sao nữa: Bác có con đường nào khác đâu ngoài
theo hoặc là xử? Bác xử. Nhầm một bước vào chính trị, Bác không bước một bước
thứ hai. Suốt đời. Thậm chí, Bác không bao giờ về nước nữa từ khi rời Hà Nội
năm 1951. "Ông đồ Nghệ" tự giận mình chăng? Giận một người thông minh
xuất chúng mà để cho chính trị nó lừa quá dễ dàng? Nhưng, thưa Bác, chính trị là
nghề của lừa, Bác giận làm gì? Bác cứ sống với chúng cháu như một người trí thức,
Bác nghiên cứu, Bác viết sách, ấy là tiên trong đời. Nhưng đâu có phải bác cháu
chúng ta không biết nhìn thời cuộc, không biết ông Trời đang ngã cái bóng thiên
mệnh về đâu?
Tính chính đáng: ấy là áp lực
thứ ba. Ngày trước, Bác có thỉnh thoảng cộng tác với tờ Thanh Nghị mà khuynh hướng
chính trị là "Độc Lập và Dân chủ", có thêm chút đuôi "xã hội".
Thanh Nghị phải chăng giữ vai trò tạo "chất men văn hóa" cho Cách Mạng
tháng Tám? Chủ nhiệm tờ tạp chí có tiếng ấy ở Hà Nội, luật sư Vũ Đình Hòe, xác
minh rằng nhóm của ông không có ý thức như vậy. Nhưng, ông viết tiếp, theo lời
kể của một người khác, "đó chính là ý kiến của Hoàng Xuân Hãn". Nghĩa
là bác Hãn nghĩ rằng trong nhóm Thanh Nghị không phải ai cũng một dòng chính kiến
như mình. Mà quả thật vậy, đầu tháng 7 năm 1945, nhiều vị trong Thanh Nghị họp
nhau tại Hà Nội "để xác định dứt khoát: theo ai?" Bác Vũ Đình Hòe cho
biết như vậy và kể tiếp với một chữ nhưng: "nhưng không thuyết phục nổi
nhau. Thế là, tuy vẫn quyến luyến và tin cậy lòng yêu nước của nhau, họ chia
tay, người vô Huế, kẻ lên chiến khu". Bác Hòe lên chiến khu. Phan Anh vô
Huế. Nhưng ông Trời nghiêng về ai thì tất cả đều thấy như nhau. Cho nên bác Hãn
di chúc với bạn đồng hành: "Trước lúc từ giã Phan Anh, tôi dặn các sự đã
bàn: tôi sẽ đồng tình từ chức và khuyên những người cách mạng sẵn sàng lập
chính phủ mới".
Giống như Nguyễn Thiếp với
Quang Trung, bác Hãn chung thủy với cái tính chính đáng mới mà lịch sử đã trao cho
Tháng Tám. Nhưng cũng giống như Nguyễn Thiếp, Bác chọn cái đường lối xin tạm gọi
là... thứ ba. Thứ ba giữa xuất thứ thiệt và xử thứ thiệt. Ấy là đường lối mà
Nguyễn Thiếp đã đề nghị với Nguyễn Huệ trong thư phúc đáp thứ hai, sau khi
"xin được ở yên cho trọn vẹn". Để làm gì?: "Để ngày khác đứng
ngoài mà làm một người cố vấn dự bị, thế mới phải hơn". Đã cố vấn mà còn dự
bị! Bác Hãn cũng có lần làm cố vấn như thế, mà hơn cả dự bị: Bác tham gia phái
đoàn của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dự Hội nghị Đà Lạt tháng 4 năm
1946. Nhưng chỉ lần ấy thôi. Sau đó, thỉnh thoảng Bác cũng có đóng góp ý kiến,
nhưng cũng chẳng bao nhiêu, đóng góp cái lòng thiết tha yêu nước thì đúng hơn.
Chính cái đường lối "thứ
ba" ấy đã châm mồi cho bao nhiêu dư luận, tất nhiên là từ hai phía. Phe thủ
cựu thì chê Nguyễn Thiếp đã xuất. Phe hiện đại thì chê Nguyễn Thiếp đã xử. Phe
địch phe ta, hai phe đều xơi ta cả. Tất nhiên là thế thôi. Nếu Phu tử sống ở thời
đại này, chắc cụ đã nghe mòn tai cái cụm từ "đi giữa hai lằn đạn". Có
người vì dại dột mà đi. Có người ung dung. Bác Hãn khen Phu tử "ung
dung" mà đi, mà đứng, như cột cầu giữa hai dòng nước xoáy. Cũng khen cụ
không kém, bác Vũ Đình Hòe, nguyên bộ trưởng tư pháp, dịu một chút giọng, xuống
một bémol, nhận định cụ "xuất ít thành công" mà "xử, ở ẩn lâu,
quá lâu", "ra giúp đời quá nhanh, quá ít". Bác Hòe nhận định như
vậy là chung cho cả hai, cả Phu tử và bác Hãn.
Về Nguyễn Thiếp, đúng là ít
thành công khi xuất. Tựu trung, đóng góp được Nguyễn Huệ khen ngất trời là chỉ
một câu. Câu nói phải đánh nhanh để thắng gọn khi quân Thanh vừa chiếm Thăng
Long. Nhưng cái chiến lược thần tốc ấy, Nguyễn Huệ đã tính sẵn trong đầu khi cất
quân từ Phú Xuân. Dù sao, nói trúng ý nhau cũng là tri kỷ rồi. Ngoài câu nói ấy,
sự nghiệp xuất của Phu tử đúng là chẳng bao nhiêu. Nhưng, xét công của Phu tử,
đâu phải chỉ tính mấy cái việc hữu hình. Nguyễn Huệ đâu có chủ yếu chờ đợi ở bậc
danh nho ấy việc chấm thi hay dịch kinh. Chủ yếu là cái việc vô hình mà Nguyễn
Huệ lo canh cánh bên lòng: chính đáng hóa một giấc mộng đế vương, một triều đại
mới, một trang sử mới.
Dù Phu tử rút lên núi, có hề
chi! Tấm lòng của Nguyễn Huệ chiếu sáng đến Thăng Long. Ba lần gửi thư, tự tay
chấp bút thư nữa, rồi chiếu, rồi gặp, ba lần gặp trước khi vua tôi trùng phùng
tại kinh đô mới, chế độ mới, cái gương cầu hiền thiết tha có một không hai ấy
trong lịch sử, cái gương ấy, chẳng lẽ Nguyễn Huệ chỉ muốn cho Phu tử soi riêng
một mình? Chẳng lẽ Nguyễn Huệ không nhắm đến trí thức Bắc Hà? Chẳng lẽ thời đó
không biết vận tốc của tiếng đồn? Chẳng lẽ ngày nay chúng ta không nghĩ: chiến
dịch đánh vào lòng người càng mạnh khi lòng thành của Nguyễn Huệ càng lớn?
Nếu Phu tử sống ở thời nay,
chắc cụ học thêm được một chữ nữa: chữ "vận". Ấy là "trí thức vận".
Ấy là "trí vận". Nói như vậy không phải để hạ giá đạo đức hành động của
Nguyễn Huệ xuống hàng mánh lới chính trị. Bởi vì, dù là chiến thuật chính trị
đi nữa, Nguyễn Huệ, người thực hiện chiến thuật, đã làm sáng rực một nhân cách
anh hùng, cây gươm biết hạ mình trước cây bút, viết lên một trang sử đẹp như tiểu
thuyết, đẹp như huyền sử. Nguyễn Thiếp được bác Hãn xưng tụng bởi vì Nguyễn Huệ
quá đẹp. Nhưng chính vì Nguyễn Huệ quá đẹp mà nhân vật Nguyễn Thiếp không khỏi
bị người đời nay có chút phiền trách, dù là trách yêu. Rất khéo, bác Vũ Đình
Hòe trách Phu tử, dù gì đi nữa, cũng "phần nào cố chấp". Rồi rất
khéo, và rất thân tình, bác Hòe nhẹ nhàng đặt câu hỏi: "tôi nghĩ có lẽ học
giả Hoàng Xuân Hãn cũng thế chăng?"
Về Nguyễn Thiếp, cố chấp thì
chắc là có rồi, nhưng cố chấp mà vẫn đẹp, vẫn sáng rực một nhân cách để trí thức
ngày nay nhìn đó mà cư xử trong mối quan hệ với quyền lực. Một cung cách, một mẫu
mực trí thức vượt thời gian: ung dung, thẳng thắn, khiêm tốn, không hề khuất phục.
Còn bác Hãn cố chấp hay
không, chúng tôi, trí thức ngày nay, nghĩ rằng chừng nào ước mơ của nhóm Thanh
Nghị ngày xưa, "Độc Lập và Dân chủ" chưa thực hiện được trọn vẹn cả
hai vế, chừng đó chúng tôi không dám trách Bác là cố chấp.
Chú thích:
(1) Trả lời phỏng vấn đài
RFI (Thụy Khê thực hiện) I. Những cuộc tiếp xúc khó quên, trong: La Sơn Yên Hồ
Hoàng Xuân Hãn, Tập I. Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1998.
(2) Vũ Đình Hòe: Hoàng Xuân
Hãn, La Sơn Phu Tử và nhóm Thanh Nghị, trong: La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn. Tất
cả những trích dẫn sau đó đều cùng một xuất xứ.
Cao Huy Thuần
Nguồn:viet studies.ìnfo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét