Trên đường đến với ngôn ngữ
M. Heidegger (1889 - 1976)
Đi từ Hữu
thể và thời gian (1923) qua Siêu hình học là gì? (1929) đến Về bản chất của chân lí (1943), sau đó trở lại Những ngõ cụt (1950) và Những giải thích về thơ Hölderlin (1951), rồi lại tìm Tương đồng và khác biệt (1957) trước khi Trên đường đến với ngôn ngữ (1959) gặp Nietzsche (1961) và Hiện
tượng học và thần học (1970), M. Heidegger
không chỉ là một đại diện lớn của lịch sử tư tưởng Đức với tư cách là người
sáng lập ra chủ nghĩa hiện sinh Đức, mà ông thực sự là một triết gia có ảnh
hưởng quan trọng trong lịch sử tư duy triết học thế giới. Phạm trù chính của
triết học Heidegger là tính thời gian. Theo ông, cái tồn tại chủ quan của con
người được hình thành từ các hình thức tiên thiên của cá nhân con người. Để
thoát khỏi lo âu và tìm được ý nghĩa của tồn tại, con người cần phải thường
xuyên ý thức về cái hữu hạn, về cái chết. Chỉ đối diện với thực chất của kiếp
phù sinh của mình, con người mới biết quý trọng các giá trị, tránh được những
tham vọng xô đẩy nó vào các hoạt động vô nghĩa. . . Những quan điểm triết học
của M. Heidegger gắn liền với tư tưởng triết học của S. Kierkegaard và Hiện
tượng học của E. Husserl. Trung tâm của tư tưởng triết học Heidegger là vấn đề
của tồn tại, và như các nhà mĩ học khác, ông cũng xuất phát từ các quan điểm
triết học của mình để bàn về những vấn đề mĩ học. Theo ông, đặc trưng cơ bản
của tác phẩm nghệ thuật là ở chân lí tồn tại có trong nó. Chân lí này không có
nghĩa là sự phản ánh thoả đáng hiện thực khách quan, mà là sự đối lập giữa Thế
giới và Trái đất, giữa sự mở ra và sự che giấu. Ông cho rằng ngôn ngữ là sự
kiện có đẳng cấp cao nhất của sự tồn tại của con người, vì vậy nghệ thuật có
đẳng cấp cao nhất đối với ông là Thơ. Tác phẩm thơ không phải là cái gì khác
ngoài sự tạo ra một ngôn ngữ mới. Chính vì quan niệm như thế nên M. Heidegger
cảnh báo rằng trong cái thế giới hiện đại nhiễu nhương, nhiều bạo lực và bất trắc
này, thơ chỉ có thể tự bảo vệ được mình nếu nói về Thơ.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của M. Heidegger đối với giới nghiên cứu văn
học trước hết không phải là bằng mĩ học mà bằng những suy nghĩ của ông về triết
học và tường giải học. Khi ông cho rằng lời nói không chỉ hoàn toàn là các kí
hiệu, mọi lời nói đều hai mặt: hướng đến người nào đó và đặt điều kiện cho
người đó phải có nỗ lực hướng về sự hiểu, chính là khi ông gợi những ý tưởng
quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề văn bản và sự tạo nghĩa thông qua người đọc
của lí luận văn học. Không phải ngẫu nhiên mà trong nửa đầu thế kỉ này đã có
nhiều nhà nghiên cứu lí luận văn học và ngôn ngữ học tìm đến với Hiện tượng
học, giống như M. Heidegger. (Những học trò khác của E. Husserl như R.
Ingarden, Trần Đức Thảo. . . tuy mỗi người một lĩnh vực, nhưng đều có những
thành công theo hướng này. )
Trên đường đến với ngôn ngữ là một tác phẩm mà sự độc đáo, hấp dẫn của nó có ngay trong
thể loại: là công trình triết học mà như là tiểu luận, đối thoại. Một cuộc đối
thoại thoải mái mà đầy kịch tính giữa những công dân đại diện cho hai thế giới.
Một bên là người châu Âu (Đức) và một bên là người Á - Đông (Nhật Bản). Cả hai
đều có những kinh nghiệm đau xót về quá khứ của dân tộc mình sau Đại chiến thế
giới lần thứ hai. Họ đối thoại không phải vì mục đích dành chiến thắng cho cái
thế giới mà mình đại diện. Và cũng không phải lần đầu tiên đại diện của hai thế
giới này gặp nhau, nếu chúng ta nhìn lại lịch sử: từ thế kỉ XIII đã có đối
thoại giữa Cơ đốc giáo và Phật giáo; từ thế kỉ XVIII thì tư duy Á - Đông ngày
càng gần gũi ở châu Âu nhờ ngành Đông phương học phát triển. M. Heidegger đề
cao sức mạnh của nền văn hoá Nhật Bản. Ông nhận ra rằng những cuộc đối thoại
trước đây không thành công là do những người Nhật Bản đã không có khả năng mở
ra trước ông những nét đặc trưng của thế giới Á - Đông, hơn nữa họ đã quá dễ
dãi trong việc sử dụng mô hình khái niệm của tư duy phương Tây. M. Heidegger cố
ý tránh các khái niệm triết học truyền thống (các phạm trù siêu hình), thay vào
đó là cách nói thông thường, với sự đổi mới ngôn ngữ triết học, nhiều từ mới và
ẩn dụ. Có thể nói đây là một cuộc đối thoại bằng hình ảnh về vấn đề: làm thế
nào để có thể nói về ngôn ngữ bằng những hình thức của ngôn ngữ ? M. Heidegger
không muốn bàn về ngôn ngữ ở một bình diện trừu tượng hơn, mà chỉ muốn nói một
cách ẩn dụ về sự hiện hữu của tồn tại và ngôn ngữ trong nhau, vì theo ông ngôn
ngữ là ngôi nhà của tồn tại. M. Heidegger đã không đối thoại theo kiểu Platon
là chỉ thấy có ý chí vươn tới chân lí và tư tưởng bao quát toàn bộ của một
người. Ông đã sáng tạo một hình thức thể loại đối thoại mới, trong đó các bên
đối thoại khi thì nhẹ nhàng, lịch lãm, có khoảng cách; khi thì sôi nổi, nhiệt
tình, nhất là khi nói đến bản chất của ngôn ngữ.
Là một triết gia với tư duy kinh viện, nhưng M. Heidegger đã sáng
tạo nên một tác phẩm giàu chất thơ và có nhiều ý tưởng. Cuộc đối thoại của ông
với giáo sư Tezuka trong thực tế là cơ sở cho cuộc đối thoại trong tác phẩm.
Nhiều năm đã trôi qua, nhưng tinh thần đối thoại đó chẳng những vẫn giữ nguyên
giá trị mà còn có những gợi mở quan trọng cho chúng ta trong việc nhìn nhận các
giá trị Đông - Tây ở một bình diện mới.
Trương Đăng Dung giới thiệu
TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN VỚI NGÔN NGỮ
Người Nhật: Ông
quen biết bá tước Suzo Guki. Ông ấy học ở chỗ ông nhiều năm.
Người hỏi: Tôi
vẫn giữ kỷ niệm về bá tước Guki.
N. N: Ông ấy mất sớm. Nisida,
người thầy của ông ấy đã viết văn bia. Ông ta đã lao động một năm trời vì bài
văn bia trang trọng ấy cho học trò của mình.
N. H: Tôi rất mừng là mình có
được những bức ảnh chụp về ngôi mộ và khu rừng nhỏ kề cận.
N. N: Tôi biết khu vườn nhà thờ
ở Kyoto. Tôi vẫn thường cùng với bạn bè đến đó tìm các bia mộ. Khu vườn mộ được
cha cố Honen tạo dựng vào cuối thế kỷ XII, trên quả đồi ở phía đông Kyoto một
thời từng là thành phố của Hoàng đế, để làm nơi suy tưởng và thiền định.
N. H: Vậy nên khu rừng nhỏ có
nhà thờ ấy xứng đáng làm nơi yên nghỉ cuối cùng của con người trẻ tuổi đó.
N. N: Những suy ngẫm của ông ấy
đều hướng về cái mà người Nhật gọi là iki.
N. H: Tôi chỉ cảm nhận được từ
xa điều mà từ này muốn nói lên, qua các cuộc nói chuyện với Guki.
N. N: Sau khi từ châu Âu trở
về, bá tước Guki đã có những bài giảng mỹ học về nền nghệ thuật Nhật Bản và thi
ca. Những bài giảng này đã được tập hợp lại, in thành tập. Trong công trình
này, xuất phát từ mỹ học châu Âu, ông ấy thử nhìn nhận bản chất của nền nghệ
thuật Nhật Bản.
N. H: Chúng ta có thể đến với
mỹ học với ý định như thế được không?
N. N: Sao lại không?
N. H: Tên gọi và cái mà ông gọi
đó đều bắt nguồn từ tư duy châu Âu, từ triết học. Vì thế, quan điểm mỹ học,
thực chất là xa lạ với tư duy Á-Đông.
N. N: Ông nói đúng. Nhưng chúng
tôi, những người Nhật, cần đến sự giúp đỡ của mỹ học.
N. H: Để làm gì?
N. N: Để nó tạo ra cho chúng
tôi những khái niệm cần thiết trong việc nắm bắt những vấn đề của nghệ thuật và
thi ca liên quan đến chúng tôi.
N. H: Các ông cần có các khái
niệm?
N. N: Có lẽ đúng như vậy, bởi
vì nhờ được gặp gỡ với tư duy châu Âu mà chúng tôi thấy rõ hơn chỗ yếu của ngôn
ngữ chúng tôi.
N. H: Ở mức độ nào?
N. N: Ngôn ngữ của chúng tôi
thiếu cái sức mạnh có khả năng chỉ ra các sự vật trong mối liên hệ và phụ thuộc
lẫn nhau của chúng.
N. N: Qua sự gặp gỡ không thể
nào tránh khỏi của thế giới Á-Đông với châu Âu thì câu hỏi của ông rõ ràng đòi
hỏi sự cân nhắc kỹ càng.
N. H: Ông vừa chạm đến một vấn đề
đang tranh luận mà tôi đã từng trao đổi với bá tước Guki. Vấn đề đó là người
Á-Đông có cần thiết phải chạy theo những hệ thống khái niệm của châu Âu.
N. N: Có lẽ xét từ phương diện
hiện đại hoá và công nghiệp hoá đang lan rộng khắp nơi hiện nay thì không còn
giải pháp nào khác.
N. H: Ông diễn đạt rất thận
trọng khi ông nói “có lẽ”. . .
N. N: Đúng vậy. Bởi vì thường
xuyên có khả năng là - nhìn từ sự tồn tại của người Á-Đông chúng tôi - cái thế
giới kỹ thuật cuốn hút chúng tôi này lại chỉ thể hiện ở bề mặt của thế giới
chúng tôi, và. . .
N. H:. . . và, do đó mà - bất chấp
sự đồng hoá và hoà trộn - sự gặp gỡ đích thực với châu Âu vẫn chưa xảy ra.
N. N: Có khả năng không thể xảy
ra được.
N. H: Có thể khẳng định việc
này vô điều kiện đến nước đó sao?
N. N: Tôi là người cuối cùng
dám khẳng định điều đó, nếu không tôi đã chẳng đến nước Đức làm gì. Nhưng tôi
thường xuyên cảm thấy mối nguy hiểm mà chắc chắn bá tước Guki cũng đã không thể
vượt qua được.
N. H: Ông nghĩ đến mối nguy
hiểm như thế nào?
N. N: Sự phong phú của các khái
niệm mà tinh thần của các ngôn ngữ châu Âu mang lại có thể làm cho chúng tôi
lạc lối, và nó làm cho phân tán, không thể xác định được cái bản chất tinh thần
của sự tồn tại của chúng tôi.
N. H: Có điều vẫn còn một mối
nguy hiểm lớn hơn liên quan đến cả hai chúng ta cũng đang đe doạ, và nó càng
không thể nhận thấy thì càng đáng sợ hơn.
N. N: Nghĩa là thế nào, thưa
ông?
N. H: Mối nguy hiểm đe doạ từ
phía mà chúng ta không nghĩ tới, nhưng lại chính là nơi ta cần phải chiêm
nghiệm nó.
N. N: Như vậy là ông đã chiêm
nghiệm mối nguy hiểm này, nếu không ông đã chẳng nói đến.
N. H: Tôi cũng không chiêm
nghiệm đến cùng, nhưng tôi nghĩ là mình dự cảm được, qua những lần trò chuyện
với bá tước Guki.
N. H: Ông có nói với bá tước về
điều này?
N. H: Không. Chính mối nguy
hiểm xuất phát từ những cuộc nói chuyện, bởi vì đó là những cuộc nói chuyện.
N. N: Tôi không hiểu ông nghĩ
gì.
N. H: Những cuộc nói chuyện của
chúng tôi không phải là những cuộc tranh luận có tính khoa học, được sắp đặt
trước. Ở nơi mà câu chuyện diễn ra theo hướng này thì bá tước Guki - như ở các
buổi thực hành semina - đều im lặng. Những cuộc nói chuyện vừa nhắc tới cứ như
là trò chơi không bị gò bó diễn ra trong ngôi nhà của chúng tôi, nơi bá tước
Guki thường đến cùng với vợ, người vẫn bận trang phục nghi lễ Nhật Bản nhân dịp
đó. Sự hiện diện của bà đã làm cho cái thế giới Á-Đông rực rỡ hơn, và mối nguy
hiểm của các cuộc nói chuyện của chúng tôi cũng trở nên dễ cảm nhận hơn.
N. N: Tôi vẫn chưa hiểu ông
nghĩ gì.
N. H: Mối nguy hiểm của các
cuộc nói chuyện của chúng tôi ẩn chứa trong bản thân ngôn ngữ, chứ không phải
trongcái mà chúng tôi nói tới, cũng không phải có trong việc chúng tôi
thể nghiệm việc đó như
thế nào.
N. N: Bởi vì bá tước Guki biết
nói tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Anh một cách xuất sắc.
N. H: Đúng thế! Ông ấy có khả
năng kể lại bằng các thứ tiếng châu Âu điều vừa được nói đến. Nhưng chúng tôi
lại nói về iki, trong khi đó trước mặt tôi tinh
thần của tiếng Nhật khép lại, như nó vẫn không mở ra từ dạo ấy.
N. N: Các ngôn ngữ của cuộc nói
chuyện đã đưa tất cả vào
châu Âu.
N. H: Thế mà cuộc nói chuyện
lại muốn nói lên bản chất của nền nghệ thuật và thi ca Á-Đông.
N. N: Bây giờ thì tôi đã hiểu
hơn là ông cảm thấy mối nguy hiểm ở đâu. Ngôn ngữ của cuộc nói chuyện đã liên
tục làm phân tán cái khả năng để điều nói đến được lên tiếng.
N. H: Cách đây không lâu, tôi
đã gọi ngôn ngữ là ngôi nhà của
hữu thể. Nếu con người, thông qua
ngôn ngữ của mình, ở trong ngôi nhà cuộc đời, thì chúng tôi những người châu
Âu, ở trong ngôi nhà hoàn toàn khác so với người Á-Đông.
N. N: Nếu như các ngôn ngữ ở
đây và ở đó không chỉ khác nhau mà nền tảng thực chất của chúng cũng khác.
N. H: Và như vậy thì cuộc nói
chuyện diễn ra từ ngôi nhà này đến ngôi nhà kia gần như là không thể được.
N. N: Ông nói “gần như” thật là xác đáng. Bởi vì dù sao đó cũng là cuộc nói chuyện, mà
như tôi giả thiết thì đó là cuộc nói chuyện lý thú. Bá tước Guki ở các
buổi semina của trường Đại học Kyoto vẫn nhắc đi nhắc lại những cuộc nói
chuyện với ông. Việc này phần lớn xảy ra khi chúng tôi cố gắng nhìn nhận rõ hơn
nguyên nhân khiến ông ấy đến nước Đức và học ở chỗ ông. Tác phẩm Hữu thể và thời gian của ông lúc ấy chưa xuất bản. Nhưng một vài giáo sư người
Nhật, trong số đó có giáo sư đáng kính của chúng tôi là Tanabe, đã đến Freiberg
sau thế chiến I, để nghiên cứu Hiện tượng học của Husserl. Những đồng bào của
tôi đã trực tiếp quen biết ông như vậy.
N. H: Đúng như ông nói: Trong
những năm đó, làm trợ lý của Husserl, hàng tuần tôi thường đọc cùng với các
ngài đến từ Nhật Bản tác phẩm lớn đầu tay của Husserl, cuốn Nghiên cứu logic. Bản thân Husserl trong thời gian đó đã không đánh giá cao công
trình này của mình. Nhưng tôi có nguyên nhân để đưa tác phẩm Nghiên cứu logic vào phần dẫn luận Hiện tượng học. Và Husserl đã chấp nhận sự
lựa chọn của tôi một cách rộng lượng.
N. N: Các thầy của chúng tôi
lúc đó - đâu như vào khoảng 1921 - đã nghe một trong những bài giảng của ông,
và họ mang về Nhật Bản những điều ghi chép được. Nếu tôi nhớ không sai thì bài
giảng đó của ông có đầu đề là Sự thể hiện và hiện tượng.
N. H: Đó là đề tài của buổi
thuyết trình, đúng vậy. Nhưng giáo sư Guki có những lý do đặc biệt để đến
Marburg với tôi.
N. N: Chắc chắn là như vậy, và
tôi nghĩ rằng những điều này có thể liên quan đến bài giảng mà người ta tranh
luận nhiều ở Nhật Bản.
N. H: Những điều ghi chép tất
nhiên không phải là hoàn toàn chính xác, nhưng buổi thuyết trình đó có thể vẫn
còn có thiếu sót. Quả là tôi đã thử đi trên con đường mà tôi cũng không biết sẽ
dẫn về đâu. Tôi chỉ biết nhìn ra chỗ gần nhất, tầm nhìn thường xuyên bị chệch
và tối dần.
N. N: Các đồng hương của tôi
cũng đã cảm nhận được điều đó. Thường xuyên có thể nghe thấy những câu hỏi của
ông xoay quanh vấn đề của ngôn ngữ và sự tồn tại.
N. H: Nhận ra điều này cũng
không mấy khó khăn, bởi vì luận án tiến sĩ của tôi viết năm 1915 - Phạm trù Duns Scotus và ngữ nghĩa học - đã đưa ra hai triển vọng: “phạm trù học”
là tên gọi dùng cho việc giải mã cái hữu thể của những người đang tồn tại; “ngữ nghĩa học” có nghĩa là sự suy luận ngữ pháp, là sự suy tưởng siêu hình về
mối liên hệ của ngôn ngữ với tồn tại. Nhưng những mối quan hệ này lúc đó đối
với tôi vẫn còn mơ hồ.
N. N: Vì thế mà ông đã im lặng
suốt mười hai năm trời.
N. H: Tôi đã tặng tác
phẩm Hữu thể và thời gian của tôi xuất bản năm 1927 cho Husserl, bởi vì Hiện tượng học
đã mang lại nhiều khả năng cho một con đường.
N. N: Tôi thấy hình như đề tài
“ngôn ngữ và sự tồn tại” đã không được nói đến.
N. H: Điều đó cũng đã xảy ra
trong buổi thuyết trình của tôi năm 1921 mà ông có nhắc tới. Về câu hỏi liên
quan đến thơ ca và nghệ thuật cũng có thể nói như vậy. Trong thời kỳ của chủ
nghĩa biểu hiện, những lĩnh vực này luôn gần gũi đối với tôi. Thậm chí điều đó
có trước đại chiến thế giới lần thứ nhất, thông qua thơ Hölderlin và Trakl. Sớm
hơn nữa, từ năm cuối ở trường trung học - mùa hè năm 1907 - qua luận án của
người dạy Husserl là Franz Brentano, vấn đề hướng tới bản thể đã được đụng tới.
Công trình này được in năm 1862 với đầu đề Về sự đa nghĩa của sự tồn tại ở Aristote. Tôi được Dr. Conrad Grüber tặng cho cuốn sách này. Lúc ấy ông ta
làm giáo sĩ.
N. N: Ông vẫn còn có cuốn sách
này chứ?
N. H: Ở đây ông có thể thấy và
đọc điều tôi đã ghi vào như sau: Đây là người thầy đầu tiên của những năm trung
học dẫn tôi đến với triết học Hy Lạp. Tôi nói những điều này cho ông không phải
để làm ra vẻ mình đã biết những điều này từ lúc đó, đến hôm nay vẫn còn hỏi.
Nhưng có lẽ ông sẽ cho là đúng khi đọc một câu của Hölderlin, người mà ông, như
một giáo sư văn học Đức, rất mến mộ và hiểu biết. Câu đó bắt đầu từ khổ thơ thứ
tư của thánh ca Rajna: “Bởi vì anh bắt đầu như thế nào thì còn lại như thế ấy”.
N. N: Có lẽ món quà ánh sáng
chiếu lên ông chính là câu hỏi hướng về ngôn ngữ và tồn tại.
N. H: Ai dám xem món quà như
thế là của mình? Tôi chỉ biết rằng con đường tư duy của tôi từ khởi đầu đều do
câu hỏi hướng về sự tồn tại quyết định, bởi thế sự giải đáp đành để lại sau. Có
lẽ sự khiếm khuyết cơ bản của cuốn Hữu thể và thời gian là tôi đã dám đi quá xa quá sớm.
N. N: Điều này không hề nói lên
những suy nghĩ của ông liên quan đến ngôn ngữ.
N. H: Tất nhiên là ít nói đến,
bởi vì chỉ sau luận án hai mươi năm, trong một bài thuyết trình tôi mới làm cái
việc giải đáp câu hỏi hướng tới ngôn ngữ. Việc này xảy ra cùng thời gian với
những buổi thuyết trình công bố những phân tích đầu tiên về các Thánh ca của
Hölderlin. Năm 1934, trong học kỳ mùa hè, tôi đã có một buổi thuyết trình nhan
đề Logic, nói về bản chất của ngôn ngữ. Để tôi đủ khả năng nói lên điều
mình suy nghĩ, mất gần mười năm trôi qua, và cho đến bây giờ tôi vẫn chưa có
lời nào phù hợp. Đối với lối tư duy cố gắng phù hợp với bản chất của ngôn ngữ
thì việc nhìn ra ngoài hoàn toàn vẫn còn là điều bí ẩn. Vì thế nên tôi chưa
thấy rằng đối với bản chất của ngôn ngữ Á-Đông thì đã đủ điều mà tôi nghĩ là
bản chất của ngôn ngữ, và cuối cùng, có phải bản chất của ngôn ngữ là cái kinh
nghiệm tích luỹ được trong tư duy mà nhờ đó lối nói Tây - Âu và Á-Đông có thể
hoà trộn trong đối thoại, trong đó cái vang lên đều có từ một nguồn duy nhất.
N. N: Điều mà trước cả hai thế
giới ngôn ngữ vẫn còn bí ẩn.
N. H: Tôi đã nghĩ điều đó.
Chính vì vậy mà tôi đặc biệt vui mừng được ông đến thăm. Ông đã dịch sang tiếng
Nhật các vở kịch của Kleist và một vài bài giảng của tôi về Hölderlin, nhất là
ông quan tâm tới thơ ca, vì thế ông rất am hiểu những vấn đề mà gần ba mươi lăm
năm về trước tôi đã đặt ra cho các đồng hương của tôi.
N. N: Không nên quá đề cao
những khả năng của tôi, bởi vì xuất phát từ thơ Nhật Bản, đối với tôi, hiểu
được bản chất của thơ châu Âu luôn luôn là việc khó khăn, mệt mỏi.
N. H: Nếu có mối nguy ẩn chứa
trong cuộc nói chuyện bằng tiếng Đức, thì tôi vẫn tin rằng với thời gian mình
cũng học được một đôi điều để có thể hỏi một cách tốt hơn so với vài chục năm
trước đây.
N. N: Những cuộc nói chuyện của
ông với các đồng hương của tôi lúc đó - gắn liền với các bài giảng - đã đi theo
hướng khác.
N. H: Vì vậy bây giờ tôi xin
được hỏi: cái gì đã khiến các giáo sư Nhật Bản và nhất là sau đó cả bá tước
Guki dành sự chú ý đặc biệt cho những điều ghi chép được về bài giảng của tôi?
N. N: Tôi chỉ có thể nói về
những lý giải của bá tước Guki. Hiện nay tôi không hoàn toàn hiểu chúng một
cách rõ ràng, bởi vì đặc điểm tư duy của ông liên quan đến những từ “tường giải học” và “tính chất tường giải” mà ông thường nhắc tới.
N. H: Nếu tôi nhớ không sai thì
những từ đó tôi dùng lần đầu tiên trong buổi thuyết trình hè 1923. Lúc đó tôi
bắt đầu viết Hữu thể và thời gian.
N. N: Theo ý kiến chúng tôi thì
bá tước Guki không giải thích thoả đáng những từ đó, xét cả về nghĩa của chúng
lẫn ý nghĩa liên quan đến Hiện tượng học tường giải của ông. Bá tước Guki chỉ
nhấn mạnh rằng theo bá tước Hiện tượng học đánh dấu một trào lưu mới.
N. H: Đúng là có vẻ như vậy.
Nhưng trong thực tế, chẳng những tôi không tạo ra được một trào lưu bên trong
Hiện tượng học, mà tôi cũng không nói được gì mới. Ngược lại, tôi đã thử suy
nghĩ về bản chất của Hiện tượng học trong bản nguyên của nó, và bằng con đường
đó đưa nó trở lại điểm thuộc về triết học phương Tây.
N. N: Vậy tại sao ông lại chọn
đầu đề là Tường giải học?
N. H: Câu trả lời cho câu hỏi
của ông có thể tìm thấy trong phần dẫn luận cuốn Hữu thể và thời gian. Nhưng tôi sẵn sàng bổ sung cho ông để loại bỏ việc sử dụng tên
gọi đó khỏi vẻ bề ngoài của nó.
N. H: Tôi nhớ là chính việc này
đã gây nên sự bất bình.
N. H: Tôi biết được thuật
ngữ tường giải học từ những bài học về thần học. Thời đó tôi đặc biệt quan tâm
đến vấn đề mối quan hệ giữa lời của Kinh thánh và tư duy thần học. Điều này có
thể xem như mối quan hệ giữa ngôn ngữ và sự tồn tại, có điều nó bí ẩn và đối
với tôi không thể nào tiếp cận được; vậy nên tôi nghiên cứu cũng vô ích, sau
nhiều con đường vòng vo, nhầm lẫn.
N. N: Tôi biết quá ít về Cơ đốc
giáo để có thể hiểu thấu đáo những điều ông vừa nói. Nhưng qua nguồn gốc xuất
thân và các trường lớp, chắc chắn ông am hiểu thần học hoàn toàn khác so với
những người ngoại đạo, đọc và nhặt nhạnh đôi điều về lĩnh vực này.
N. H: Không có khởi nguyên về
thần học thì tôi không bao giờ tìm được con đường tư duy. Tuy nhiên khởi nguyên
từ quá khứ đồng thời là sự vươn tới tương lai.
N. N: Nếu cả hai gặp nhau, và
sự suy tưởng trở nên gần gũi. . .
N. H:. . . và hiện diện thực sự.
Tôi lại gặp thuật ngữ tường giải học trong lý thuyết lịch sử tinh thần của
Wilhelm Dilthey. Dilthey cũng làm quen với tường giải học từ nguồn đó, từ thần
học, nhất là từ những công trình của Schleiermacher.
N. N: Tường giải học, - trong
chừng mực tôi am hiểu ngành ngữ văn - theo tôi biết là khoa học nói về các mục
đích, phương hướng, và nguyên tắc phân tích tác phẩm văn học.
N. H: Trước tiên nó ra đời cùng
với việc nghiên cứu Kinh thánh. Từ các di cảo của Scheiermacher, người ta xuất
bản cuốn sách nhan đề Tường
giải học và phê bình - lưu ý đặc biệt đến Tân ước. Cuốn sách này có sẵn đây, để tôi đọc cho ông hai câu đầu
tiên của phần Dẫn luận chung: “Tường giải học và phê bình gắn bó với nhau, cả hai đều thuộc
ngành ngữ văn; cả hai là lý luận nghệ thuật, bởi vì sự thực hành bất kì phía
nào cũng đều đặt điều kiện cho phía kia. Tường giải học thường là nghệ thuật
giúp ta hiểu một cách đúng đắn lời của người khác - trước hết là lời đã được
viết ra - còn phê bình nhằm phục vụ sự đánh giá một cách đúng đắn, trên cơ sở
dữ liệu và bằng chứng đầy đủ về bản nguyên của các văn bản, tác phẩm”.
N. N: Theo đó thì tường giải
học có thể đánh dấu lý thuyết và phương pháp luận của bất kì loại giải thích
văn bản nào, ví dụ sự giải thích các tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
N. H: Hoàn toàn như vậy.
N. N: Ông sử dụng tên gọi tường
giải học trong ý nghĩa rộng hơn này sao?
N. H: Nếu tôi muốn trả lời ông
theo cách nói của ông thì tôi cần phải nói rằng thuật ngữ tường giải học còn được tôi sử dụng trong Hữu thể và thời gian với một ý nghĩa rộng hơn. Chữ “rộng hơn” ở đây không có
nghĩa là sự mở rộng hoàn toàn ra vùng có hiệu lực lớn hơn. Chữ “rộng hơn” nói
về sự rộng mở bắt nguồn từ bản chất khởi đầu. Trong Hữu thể và thời gian, tường giải học không có nghĩa là nghệ thuật của sự phân
tích; cũng không có nghĩa là bản thân sự phân tích, lý giải, mà chủ yếu là sự
thể nghiệm việc chúng ta phải xác định bản chất của sự lý giải trước hết từ
tường giải học.
N. N: Nhưng thế thì tường giải
học là gì? Tôi có thể nghĩ rằng bây giờ ông sử dụng từ “tường giải” một cách
tuỳ hứng. Cứ cho là như thế đi, thì tôi vẫn muốn nghe từ ông lời giải thích
đích thực về việc sử dụng ngôn ngữ, cho phép tôi được nói như vậy. Bởi vì vẫn
chưa rõ điều gì đã khiến bá tước Guki thận trọng.
N. H: Tôi vui mừng đáp lại yêu
cầu của ông. Có điều ông đừng quá hi vọng, bởi vì sự việc đầy bí ẩn, và có thể
không phải là sự việc.
N. N: Mà là về một câu chuyện.
N. H: Hay là về một sự thật.
Nhưng bằng những cách gọi như thế rồi chẳng mấy chốc chúng ta sẽ thấy không đầy
đủ.
N. N: Nhưng chỉ khi bằng cách
nào đó trước mắt chúng ta có nơi để chúng ta muốn đến bằng lời nói.
N. H: Chắc chắn ông không quên
rằng trong các tác phẩm sau này tôi không sử dụng cách gọi “tường giải” và “tính chất tường giải”.
N. N: Người ta đồn rằng ông đã
thay đổi quan điểm của mình.
N. H: Tôi đã từ bỏ một quan
điểm trước đây, nhưng không phải để thay bằng một quan điểm khác, mà bởi vì
quan điểm trước đây chỉ là quán trọ ven đường. Cái còn lại trong tư duy là con
đường. Và những con đường của tư duy đều ẩn chứa sự bí ẩn rằng có thể tiến lên
phía trước và lùi lại phía sau; thậm chí người ta chỉ thật sự tiến về phía
trước bằng con đường lùi lại.
N. N: “Tiến lên” - Ông không nghĩ đây là sự tiến bộ nào đó, mà là. . . mà là. . .
tôi khó tìm được lời phù hợp.
N. H: “Tiến” đến cái gần gũi trực tiếp nhất mà chúng ta cứ quá vội vàng bỏ
qua, cái mà bao nhiêu lần chúng ta chợt nhận thấy thì bấy nhiêu lần nó lại xa
lạ.
N. N: Cái mà chúng ta lại nhanh
chóng nhầm lẫn trong sự gắn bó với thói quen và cái lợi thế.
N. H: Cho đến khi sự gần gũi
quá vội vàng muốn được hoàn lại.
N. N: Hoàn lại, nhưng về đâu.
N. H: Đến người mới bắt đầu.
N. N: Tôi thấy khó hiểu nếu cần
phải nghĩ tới điều ông nói trong các tác phẩm của ông.
N. H: Nhưng ông vẫn nhắc đến nó
khi ông nhắc đến sự hiện diện có được từ cuộc gặp gỡ của tương lai và sự khởi
thuỷ.
N. N: Dự cảm của ông được thành
hình rõ ràng hơn ngay lập tức trước mặt tôi, nếu tôi nghĩ đến nó từ những kinh
nghiệm của người Nhật chúng tôi. Chỉ có điều tôi không dám chắc rằng ông cũng
để ý đến điều đó.
N. H: Việc đó cần phải được
chứng thực trong cuộc nói chuyện của chúng ta.
N. N: Người Nhật chúng tôi
không hoảng hốt nếu trong cuộc nói chuyện, điều nghĩ ra sự thật sự bị bỏ quên
một cách không thể xác định được, hoặc điều đó lẩn vào cái không thể định
nghĩa.
N. H: Tôi nghĩ giữa những nhà
tư tưởng, thì đây là điều đi cùng với mọi cuộc trò chuyện, và gần như cái điều
không thể định nghĩa chẳng những không được né tránh, mà còn cần phải làm cho
nó triển khai ngày càng mạnh mẽ hơn cái sức mạnh hội tụ của nó trong quá trình
nói chuyện.
N. N: Chắc chắn điều may mắn
này không có được trong những cuộc trò chuyện của chúng tôi với bá tước Guki.
Chúng tôi, những người trẻ tuổi đã bao vây ông ấy một cách thô bạo cốt để ông
ấy làm thoả mãn khát vọng hiểu biết của chúng tôi.
N. H: Khát vọng hiểu biết và
được giải thích không bao giờ dẫn đến câu hỏi của nhà tư tưởng. Sự muốn hiểu
biết luôn luôn là sự mù quáng ẩn chứa của ý thức, nó tìm ra lý trí và dựa vào
sự hợp lý của lí trí. Sự ham hiểu biết không muốnrằng nó phải được dẫn bằng hi vọng đến với điều đang suy nghĩ.
N. N: Trong thực tế chúng tôi
muốn biết mỹ học châu Âu đủ tư cách đến đâu trong việc nhìn nhận rõ hơn cái làm
nên bản chất của nền nghệ thuật và thơ ca chúng tôi.
N. H: Vậy đó là cái gì?
N. N: Nó đã từng được nhắc
đến: iki
N. H: Tôi đã nghe từ này từ
miệng Guki nhiều lần mà không cảm nhận được điều muốn nói trong đó.
N. N: Trong khi đó, qua tường
giải học mà ông nghĩ ra, đối với bá tước Guki từ iki trở nên rõ ràng, trong sáng hơn.
N. H: Tôi cũng cảm thấy điều
tương tự, nhưng tôi không thấy được sự thừa nhận của bá tước.
N. N: Ông đã gọi tên trở ngại
này đó thôi: Vì ngôn ngữ giao tiếp là tiếng châu Âu, nhưng lại phải cảm nhận và
suy nghĩ về bản chất Á-Đông của nền nghệ thuật Nhật Bản.
N. H: Chính cái mà chúng tôi
nói tới lại là cái bị chúng tôi ép buộc vào phạm vi tư duy châu Âu.
N. N: Ông cảm nhận điều này ở
đâu?
N. H: Trong phương pháp mà bá
tước Guki phân tích từ iki. Ông ấy nói về sự xuất hiện cảm giác mà thông qua việc nắm bắt
nó, siêu cảm giác xuất hiện.
N. N: Tôi nghĩ rằng với sự lý
giải này bá tước Guki đã tìm được điều mà nền nghệ thuật Nhật Bản cảm nhận.
N. H: Theo đó thì kinh nghiệm
của các ông vận động trong sự khác biệt của một thế giới có thể cảm xúc được và
siêu cảm xúc. Sự khác biệt này làm cơ sở cho cái mà từ lâu người phương Tây gọi
là siêu hình.
N. N: Dựa vào sự phân biệt tính
chất siêu hình đó ông chạm tới mối nguy mà chúng ta đã nói đến. Cho dù tư duy
của chúng tôi - nếu tôi có thể gọi như vậy - có biết đến điều tương tự với sự
phân biệt siêu hình thì cũng không nắm bắt được sự phân biệt và thông qua nó là
cái được phân biệt bằng những khái niệm siêu hình của phương Tây. Chúng tôi
nói iro nghĩa là mầu sắc, và ku là vũ trụ, sự rộng mở, là
bầu trời. Nhưng chúng tôi không nói ku thiếu iro.
N. H: Điều này có vẻ phù hợp
một cách chính xác với cái mà người châu Âu, một cách siêu hình, nói về nghệ
thuật.
N. N: Bây giờ thì ông đã hiểu
thử thách lớn như thế nào đối với Guki khi phải định nghĩa iki một cách siêu hình - nói theo cách của ông - trên nền mỹ học
châu Âu.
N. H: Tôi đã rất lo lắng và bây
giờ cũng thế, rằng trên con đường này bản chất thực sự của nền nghệ thuật
Á-Đông sẽ bị che lấp, và rơi vào một vùng xa lạ đối với nó.
N. N: Tôi hoàn toàn chia sẻ nỗi
lo với ông, bởi vì iro chỉ màu sắc nhưng bất kì một loài nào cảm nhận được bằng
giác quan thì nó vẫn nghĩ đến nhiều thứ. Ku chỉ sự trống rỗng và rộng
mở nhưng nó lại liên quan đến cái khác so với cái thuộc về tiên nghiệm.
N. H: Những điều chỉ dẫn của
ông mà tôi chỉ biết đến từ xa, đã làm tăng sự bất ổn của tôi. Nhưng lớn hơn sự
lo lắng ở trong tôi là kỳ vọng về sự thành công của cuộc trò chuyện xuất phát
từ sự tưởng nhớ bá tước Guki của chúng ta.
N. N: Ông nghĩ rằng cuộc trò
chuyện này có khả năng đưa chúng ta tiếp cận với cái - không nói - ra hay sao?
N. H: Qua đấy chúng ta tham dự
vào sự phong phú của cái sẽ nghĩ ra.
N. N: Tại sao ông nói rằng
chúng ta tham dự?
N. H: Bởi vì giờ đây tôi càng cảm thấy mối nguy đối với tôi là ngôn ngữ giao tiếp của
chúng ta phá vỡ cái khả năng để chúng ta nói cái mà chúng ta trao đổi.
N. N: Bởi vì ngôn ngữ cũng dựa
trên sự phân biệt cái có thể cảm nhận và cái siêu hình tiên nghiệm, nếu như các
yếu tố cơ bản của nó - một phần là tiếng và chữ viết, phần khác là nghĩa và ý
nghĩa - đều mang cấu trúc ngôn ngữ.
N. H: Chí ít là trong tầm nhìn
của tư tưởng châu Âu. Phải chăng ở chỗ các ông cũng thế?
N. N: Chắc là không. Nhưng, như
tôi đã nói thật là thử thách lớn, khi chúng tôi phải cần đến các phương pháp tư
tưởng châu Âu và những khái niệm của chúng.
N. H: Điều này càng được khẳng
định qua việc mà tôi có thể gọi là sự châu Âu hoá trọn vẹn của trái đất và con
người.
N. N: Trong quá trình này,
nhiều người nhìn thấy sự chiến thắng của lí trí. Cuối thế kỷ XVIII, thời kỳ
Cách mạng Pháp người ta kính trọng nó như nữ thần.
N. H: Vâng. Sự thần tượng hoá
tính chất thần thánh này đi xa đến mức tất cả những suy nghĩ xem nhu cầu ngự
trị của lí trí là sự tiếm quyền bất hợp pháp, đều bị người ta nhục mạ là ngu
ngốc.
N. N: Sự ngự trị không thể chạm
tới của lí trí châu Âu được người ta xác nhận qua những thành công của tinh
thần duy lý mà sự phát triển của kỹ thuật ngày lại ngày mở ra trước mắt chúng
ta.
N. H: Sự loá mắt lớn đến mức
không thể trông thấy rằng quá trình châu Âu hoá của con người và trái đất đã
làm thoái hoá bản chất của tất cả ngay ở cội nguồn.
N. N: Bộ phim cả thế giới biết
đến nhan đề: Trong cổng của cơn bão là ví dụ tốt cho điều đó. Có lẽ ông cũng đã xem rồi chứ?
N. H: May mà tôi đã xem, nhưng
rất tiếc chỉ mới một lần duy nhất. Tôi cứ nghĩ trong khi xem rằng mình đã chiêm
nghiệm cái ma thuật đầy bí ẩn của thế giới Nhật Bản. Chính vì vậy tôi không
hiểu rằng tại sao ông nhắc đến chính bộ phim này làm ví dụ cho sự châu Âu hoá
đang ngốn đi tất cả.
N. N: Chúng tôi, những người
Nhật, lại xem sự mô tả quá ư là hiện thực, ví dụ trong các tình tiết đấu gươm.
N. H: Nhưng cũng có những cử
động tránh các chuyển động.
N. N: Điều tương tự như thế có
nhiều, và nó tác động tới bộ phim này một cách kín đáo đối với cách nhìn châu
Âu. Tôi nghĩ tới bàn tay bất động, ở đó tụ hội sự tiếp xúc mà không phải là sự
đụng chạm, thậm chí chưa có thể gọi là cử động trong ý nghĩa mà việc sử dụng
ngôn ngữ của các ông mang lại.
N. H: Nhưng nghĩ đến những cử
động khác với những cử động của chúng tôi, tôi thật sự không hiểu tại sao ông
lại gọi bộ phim này là ví dụ của sự châu Âu hoá.
N. N: Điều này vẫn chưa thể
hiểu được bởi vì tôi diễn đạt chưa đủ, và để có thể làm cho nó trở nên dễ hiểu
thì tôi lại cần đến cái ngôn ngữ mà ông sử dụng.
N. H: Ông không sợ nguy hiểm
sao?
N. N: Có thể hãm nó lại chốc
lát chăng.
N. H: Khi nói về tính hiện
thực, ông sử dụng ngôn ngữ siêu hình, và ông vận động trong sự phân biệt giữa
tính hiện thực như là cái thuộc về giác quan và tính lý tưởng như là cái không
thuộc về giác quan.
N. N: Ông nói đúng. Nói đến
tính hiện thực tôi không nghĩ đến khó khăn xuất hiện đây đó của sự mô tả, điều
mà đối với những khán giả không phải người Nhật là không thể bỏ qua. Tôi hiểu điều liên quan đến tính hiện
thực của phim hoàn toàn khác. Tôi muốn nói rằng người ta đã nắm bắt cái thế
giới Nhật Bản theo kiểu nhiếp ảnh và qua đó giới thiệu nó một cách chủ quan.
N. H: Nếu tôi hiểu đúng thì ông
muốn nói thế giới Á-Đông và sản phẩm kỹ thuật - thẩm mỹ của công nghiệp điện
ảnh không thể nào hoà nhập.
N. N: Tôi nghĩ vậy. Cho dù chất
lượng thẩm mỹ của một bộ phim Nhật Bản như thế nào đi nữa thì sự thật là người
ta giới thiệu thế giới của chúng tôi trong phim, cái thế giới mà ông gọi là
khách thể. Sự thô thiển hoá điện ảnh chính là một trong những hậu quả ngày càng
phổ biến của quá trình châu Âu hoá.
N. H: Một người châu Âu quả là
khó mà hiểu điều ông nói.
N. N: Chắc chắn như vậy, trước
hết là vì mặt ngoài của thế giới Nhật Bản hoàn toàn giống châu Âu, hoặc nói
cách khác hơn giống Mỹ. Còn thế giới Nhật Bản đích thực thì đứng ở phía sau,
nói rõ hơn thì cái thế giới chính nó có thể thấy trong kịch No.
N. H: Tôi chỉ biết một bài viết
duy nhất nói về kịch No.
N. N: Bài nào, tôi có thể hỏi
được không?
N. H: Cuộc hội nghị của Viện
hàn lâm Benl.
N. N: Theo nhận xét của người
Nhật thì đây là công trình tốt nhất được chuẩn bị công phu mà ông có thể đọc
được về kịch No.
N. H: Nhưng với việc đọc chúng
ta vẫn chưa đạt đến sự chiêm nghiệm.
N. N: Ông cần phải xem một buổi
biểu diễn như thế! Nhưng việc này còn khó khăn chừng nào ông chưa có khả năng
sống cái cuộc sống của người Nhật. Tôi muốn bằng một nhận xét giúp ông nhận
thấy một điều gì đó - tuy là từ xa - từ cái quyết định kịch No. Chắc là ông cũng biết rằng sân khấu Nhật Bản vắng lặng.
N. H: Sự vắng lặng này muốn một
sự liên kết khác thường.
N. N: Việc đó nhờ người nghệ sĩ
chỉ bằng một động tác nhỏ cũng đủ để thể hiện một điều gì to tát từ sự yên
tĩnh.
N. H: Ông hiểu điều đó như thế
nào?
N. N: Ví dụ nếu muốn thể hiện một dãy
núi, người nghệ sĩ nâng bàn tay đang mở của mình lên ngang tầm lông mày, và giữ
yên ở đó. Ông cho phép tôi làm thử chứ?
N. H: Xin mời ông.
(Người Nhật nâng bàn tay
và làm như vừa mô tả).
N. H: Động tác này chắc chắn
không thể có được ở những người châu Âu.
N. N: Động tác này ít dựa trên
sự chuyển động có thể trông thấy của bàn tay, lại càng ít dựa vào tư thế của cơ
thể. Thật khó mà nói lên được đặc trưng của cái mà trong ngôn ngữ các ông có
nghĩa là “động tác”.
N. H: Có lẽ cái từ này cũng góp
phần để đến với sự cảm nhận chính nó.
N. N: Điều này cũng đồng nhất
với điều tôi suy nghĩ.
N. H: Cử chỉ là sự tập hợp của
thái độ.
N. N: Chắc ông cố ý không nói:
là tư cách của chúng ta.
N. H: Cái gì thực chất bền
vững, cái đó bền vững trước hết với chúng ta.
N. N: Trong khi bằng sự tham dự
của mình hướng về nó, chúng ta góp phần làm nên nó.
N. H: Trong khi đó cái hướng về
phía chúng ta đã duy trì sự đóng góp của chúng ta trong chính nó.
N. N: Theo ông, vậy thì động
tác - cử chỉ là sự tập hợp thống nhất giữa cái duy trì chúng ta và cái góp phần làm nên nó.
N. H: Cái thể thức này đi cùng
với mối nguy là người ta tưởng sự tập hợp này là sự hoà trộn lẫn lộn. . .
N. N:. . . thay vì người ta nhận
ra là mọi cử chỉ, hướng về chúng ta và góp phần làm nên nó, chỉ xuất phát từ sự
tập hợp.
N. H: Nếu chúng ta hình dung về
cử chỉ thành công như vậy, thì chúng ta có thể tìm ở đâu cái đặc trưng nhất của
cử chỉ mà vừa nãy ông đã nói.
N. N: Trong cái nhìn không thể
nhận thấy, đối diện với sự trống vắng, nó duy trì bản thân bằng nỗ lực để trong
nó và qua nó mà dãy núi xuất hiện.
N. H: Sự trống vắng, theo đó
thì không phải là cái gì khác cái hư vô; tức là cái mà chúng ta thử hình dung
nó khác so với cái hiện tại và cái ở xa.
N. N: Đúng vậy. Chính vì thế ở
Nhật Bản chúng tôi ngay lập tức hiểu bài giảng Siêu hình học là gì? được một sinh viên Nhật học ở chỗ ông dịch ra và chuyển đến
cho chúng tôi năm 1930. Cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn còn ngạc nhiên là làm
thế nào mà người châu Âu đã đi đến chỗ lý giải cái hư vô trong bài giảng nói
trên của ông là hư vô chủ nghĩa. Đối với chúng tôi sự trống rỗng là tên gọi
chính nhất của cái mà ông muốn nói bằng từ “sự tồn tại”.
N. H: Trong một thể nghiệm tư
duy mà những bước đi đầu tiên của nó đến hôm nay cũng không thể tránh được. Tất
nhiên việc này đã trở thành xuất phát điểm của sự lộn xộn có liên hệ với việc
sử dụng tên gọi “sự tồn tại”. Do từ này là của ngôn ngữ siêu hình, mà tôi thì lại làm cho nó
thành tên của một nỗ lực đưa bản chất siêu hình lên bề mặt rồi
qua đó chuyển về gắn với các giới hạn của nó.
N. N: Theo đó thì nếu ông nói
về sự vượt lên cái siêu hình, tức là ông nghĩ đến điều vừa nói.
N. H: Chỉ có thế. Tôi không
định phá phách cái siêu hình, cũng không phủ nhận nó. Việc đó là sự coi thường
lịch sử và là một đòi hỏi trẻ con.
N. N: Từ xa mà nhìn nhận thì
luôn bị bất ngờ rằng đối với ông việc phủ nhận lịch sử tư duy vẫn chưa đủ, vì
ông chỉ cố gắng có được một sự lĩnh hội nó nguyên sơ hơn mà thôi.
N. H: Một cố gắng mà sự thành
công của nó có thể và cần phải tranh luận.
N. N: Bên cạnh nhiều lý do thì
tính chất vô bờ bến của cuộc tranh luận này xuất phát từ sự lúng túng mà ông tạo
ra với việc sử dụng từ “tồn tại” có hai ý nghĩa.
N. H: Ông nói đúng. Nhưng có
mối nguy là người ta cho rằng sự lộn xộn xuất hiện đấy chính là sự thể nghiệm
của tôi trong suy nghĩ, vậy mà theo cách của nó, việc đó cho thấy một cách rõ
ràng sự khác biệt giữa “hữu
thể” như là “sự tồn tại của những người đang tồn tại”, và sự tồn tại như là “sự tồn tại” trong ý nghĩa riêng, là chân
lý của đời sống.
N. N: Tại sao ông không kiên
quyết trả ngay từ “hiện sinh” cho ngôn ngữ siêu hình? Tại sao ông không đặt tên riêng ngay lập
tức cho cái mà ông tìm kiếm như là “ý nghĩa của sự tồn tại” trên con đường đi qua bản chất của thời gian?
N. H: Ai có thể gọi được tên
cái mà mình còn đang tìm kiếm? Tìm được rồi sẽ có tên gọi.
N. N: Vậy thì phải chấp nhận sự
bối rối.
N. H: Một cách vô điều kiện, có
lẽ còn lâu dài, còn phải mệt mỏi vì sự trong sáng, ông ạ.
N. N: Bởi vì chỉ có con đường
này dẫn đến tự do.
N. H: Nhưng không thể đánh dấu
con đường dẫn đến đó theo mô hình một con đường quốc lộ. Tư duy - nếu tôi có
thể nói điều nay - cần đến việc xây dựng một con đường kỳ lạ.
N. N: Mà trong quá trình thi
công, các nhà xây dựng thỉnh thoảng cần phải quay trở lại những vùng đất bỏ
qua, thậm chí đến những khu nhà ở sau đó.
N. H: Những điều ông thừa nhận
về bản chất của những con đường tư duy khiến tôi thấy tuyệt vời.
N. N: Chúng tôi có kinh nghiệm
phong phú trong việc này, nhưng lại không đưa nó vào hình thức phương pháp khái
niệm làm tê liệt sự uyển chuyển của các bước tư duy. Ông đã làm cho tôi thấy
được sâu sắc hơn con đường tư duy của ông.
N. H: Qua đâu?
N. N: Trong thời gian gần đây,
tuy ông sử dụng từ “hiện sinh” ít hơn, nhưng vẫn trong một mối liên quan mà như là bản chất tư
duy của ông nó càng gần gũi với tôi hơn. Trong công trình Lá thư viết về chủ nghĩa nhân đạo, ông đã gọi ngôn ngữ là “ngôi nhà của hữu thể”, mà khởi đầu cuộc trò chuyện hôm nay ông cũng có nhắc tới. Và
như tôi nhớ thì cuộc trò chuyện của chúng ta đã rời xa con đường của nó.
N. H: Có vẻ như vậy. Nhưng
trong thực tế thì chúng ta đang ở nơi để trở lại con đường này.
N. N: Tôi không có khả năng
nhận ra điều đó ngay trong lúc này. Chúng ta đã nói về sự phân tích iki mỹ học của Guki.
N. H: Chúng ta đã thử làm việc
đó, và giữa chừng cũng không tránh được sự cân nhắc mối nguy của những cuộc nói
chuyện như thế này.
N. N: Chúng ta đã thừa nhận
rằng mối nguy có trong bản chất bí ẩn của ngôn ngữ.
N. H: Và vừa rồi ông có nhắc
đến câu “ngôi nhà của hữu thể”, câu đó muốn chỉ ra bản chất của ngôn ngữ.
N. N: Vậy thì chúng ta vẫn đang
nói về vấn đề đặt ra.
N. H: Rõ ràng chỉ vì - lẽ ra
trong thực tế chúng ta đã biết - chúng ta im lặng trước cái mà theo lời ông,
tạo khả năng để câu chuyện diễn biến tốt.
N. N: Đây là sự xác định không
xác định. . .
N. H:. . . mà chúng ta đã để
nguyên cho nó vang lên lời khích lệ.
N. N: Chấp nhận mối nguy rằng
trong trường hợp của chúng ta sự lên tiếng này chính là sự yên lặng.
N. H: Bâygiờ ông nghĩ gì?
N. N: Nghĩ về điều ông nghĩ; về
bản chất của ngôn ngữ.
N. H: Điều đó xác định cuộc nói
chuyện của chúng ta. Đồng thời chúng ta không được phép nhắc lại.
N. N: Nếu bằng con đường này mà
nắm bắt được sự hình thành khái niệm châu Âu của các ông, thì chắc chắn là
không được phép.
N. H: Thực ra tôi không nghĩ
đến điều này. Và câu “ngôi nhà của hữu thể” cũng không mang lại khái niệm bản chất của ngôn ngữ, và nó làm
đau lòng một số nhà triết học, những người muốn tìm thấy sự suy thoái của tư
duy trong những lời như vậy.
N. N: Câu “ngôi nhà của hữu thể” của ông cũng làm tôi suy nghĩ, nhưng do nguyên nhân khác. Tôi
cảm thấy ông đụng đến bản chất của ngôn ngữ mà không làm phương hại đến nó. Bởi
vì nếu cần thiết, người quyết định phải nghe tiếng nói của mình thì việc đó
không có nghĩa là chúng ta có thể bỏ qua tư duy về bản chất của ngôn ngữ.
Phương pháp mà chúng ta thể nghiệm là cái quyết định.
N. H: Chính vì thế mà bây giờ
tôi xin được hỏi ông một câu mà từ lâu đã làm tôi bất ổn, và sự viếng thăm tình
cờ của ông giờ đây hầu như khiến tôi phải đặt ra.
N. N: Xin đừng quá coi trọng
khả năng đáp ứng của tôi trước các câu hỏi của ông. Cuộc nói chuyện của chúng
ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ
mới ít được nghĩ đến làm sao.
N. H: Nhất là đối với nhân dân
châu Âu và Á Đông thì bản
chất ngôn ngữ hoàn toàn khác
nhau.
N. N: Cũng giống như cái mà ông
gọi là “bản chất”. Những điều chúng ta cân nhắc phải dẫn chúng ta ra ngoài như
thế nào?
N. H: Chí ít thì ngay từ đầu
chúng ta không đòi hỏi nhiều. Vì thế mà tôi cho phép mình được hỏi một câu hoàn
toàn có tính chất mở đầu.
N. N: Tôi sợ rằng không thể trả
lời ngay cả câu hỏi đó, nếu chúng ta không quên đi mối nguy đe doạ cuộc nói
chuyện này.
N. H: Đây là điều không thể
được, bởi vì chúng ta đang tiến về phía mối nguy đó.
N. N: Vậy xin ông hỏi đi!
N. H: Những người Nhật Bản hiểu
gì ở từ “ngôn ngữ”? Hỏi một cách thận trọng hơn:Trong tiếng Nhật có từ mà chúng tôi
gọi là ngôn ngữ không? Nếu không có thì làm thế nào để ông biết được cái mà ở
châu Âu người ta gọi là ngôn ngữ?
N. N: Cho đến hôm nay, chưa có
ai đặt câu hỏi này cho tôi. Và hình như trong thế giới Nhật Bản của chúng tôi
người ta không quan tâm đến điều ông vừa hỏi. Vì thế xin phép ông cho tôi được
suy nghĩ một lúc (Người Nhật nhắm mắt lại,
đầu cúi xuống, chìm sâu vào suy tưởng. Người hỏi chờ khách tiếp tục cuộc nói
chuyện).
N. N: Có một từ tiếng Nhật,
nhưng nó nói lên bản chất của ngôn ngữ hơn là dùng để chỉ lời nói hay ngôn ngữ.
N. H: Chính sự việc muốn điều
đó, bởi vì bản chất của ngôn ngữ không thể thuộc về ngôn ngữ. Cách gọi “ngôi nhà của hữu thể” cũng như vậy.
N. N: Tôi cảm thấy rõ dần từ xa
sự gần gũi của từ tiếng Nhật với cách gọi của ông.
N. H: Đó chỉ là một sự thông
báo về phía bản chất của ngôn ngữ.
N. N: Hình như ông vừa nói ra
cái từ tạo nên sự dung hoà.
N. H: Thế thì đặc điểm cơ bản
của từ là sự thông báo.
N. N: Chỉ bây giờ, khi ông nói
về sự thông báo - mà tôi không tìm được từ cho nó - thì tôi mới nhận thấy thật
sự điều mà khi đọc lá thư của ông viết về chủ nghĩa nhân đạo và khi dịch bài
giảng của ông về khúc bi ai Trở về nhà của
Hölderlin tôi đã dự cảm được. Cũng thời gian đó tôi đã dịch Penthesilea và
Amphitryont của Kleist.
N. H: Thế thì chắc chắn bản
chất của ngôn ngữ Đức tràn ngập lên ông như suối đổ.
N. N: Đã xảy ra như vậy. Trong
quá trình dịch tôi thường xuyên cảm thấy mình như đang đi từ nơi này đến nơi
khác giữa những bản chất ngôn ngữ khác biệt; giữa chừng một tia sáng loé lên,
làm tôi cảm thấy rằng nguồn gốc bản chất của các ngôn ngữ khác nhau về cơ bản,
vẫn là một và là nó.
N. H: Theo đó thì ông đã không
tìm kiếm cái khái niệm phổ quát mà trong đó các thứ tiếng châu Âu và Á Đông đã
có thể cùng chung vị trí.
N. N: Hoàn toàn không. Việc
nhắc đến từ thông báo có sức giải toả của ông đã làm cho tôi can đảm lên để nói
cho ông cái từ mà đối với chúng tôi là bản chất của ngôn ngữ, tôi phải nói thế
nào nhỉ. . .
N. H:. . . có lẽ: trình bày.
N. N: Đúng rồi. Tôi vẫn sợ rằng
việc gọi câu “ngôi nhà của hữu thể” là sự thông báo có thể làm ông và tôi lạc đường dẫn đến chỗ
chúng ta biến cái ý tưởng thông báo thành khái niệm chính mà mọi thứ đều chất
vào đó.
N. H: Việc này không được phép
xảy ra.
N. N: Ông muốn khắc phục nó như
thế nào?
N. H: Việc loại bỏ một cách dứt
điểm không bao giờ có thể khắc phục được.
N. N: Tại sao không?
N. H: Bởi vì cách hình dung
khái niệm rất dễ bám vào mọi kinh nghiệm của con người.
N. N: Kể cả nơi mà trong ý
nghĩa nhất định chỉ có tư duy không khái niệm?
N. H: Ở đó cũng thế. Ông thử
nghĩ mà xem, ông đã đánh giá mới nhanh chóng làm sao sự phân tích iki của mỹ học Guki là có cơ sở, vậy mà việc đó xây dựng trên sự
tưởng tượng siêu hình thuộc về châu Âu.
N. N: Nếu tôi hiểu đúng thì ông
muốn nói rằng về một phương diện nhất định, cách hình dung siêu hình là không
thể tránh khỏi?
N. H: Điều này, theo cách của
mình, Kant đã thấy rất rõ.
N. N: Thế mà chúng ta mới ít để
ý làm sao tầm quan trọng của nó.
N. H: Bởi vì Kant, vượt quá sự
siêu hình đã không có khả năng triển khai sự công nhận của mình. Uy quyền
nguyên vẹn của sự siêu hình xuất hiện cả ở nơi mà chúng ta không ngờ tới: trong
sự chuyển hoá của logic thành logic học.
N. N: Ông thấy một quá trình
siêu hình trong đó?
N. H: Một cách nhất quán. Và sự
tấn công chống lại bản chất của ngôn ngữ ẩn chứa trong đó không được chú ý.
N. N: Thế thì chúng ta càng
phải bảo vệ cẩn thận hơn những con đường dẫn đến bản chất của ngôn ngữ.
N. H: Chỉ cần xây dựng được con
đường phụ dẫn đến một con đường như thế là cũng đã đủ rồi.
N. N: Khi ông nói về sự thông
báo, ông đã chỉ cho tôi dấu vết dẫn đến một con đường phụ như thế.
N. H: Nhưng một lời nói về sự
thông báo cũng đã đi quá xa.
N. N: Cũng rất dễ hiểu, nếu một
nhà tư tưởng muốn giữ lại lời sẽ làm cho mình nói. Không phải anh ta muốn giữ
lại lời vì mình mà là bởi anh ta muốn duy trì nó cho điều sẽ nghĩ.
N. H: Điều này khớp với các
thông báo. Chúng bí ẩn. Chúng thông báo về phía chúng ta. Chúng thông báo cho chúng ta ở chỗ mà từ đó chúng đi về phía chúng ta.
N. N: Ông nghĩ đến sự thông báo
trong mối liên quan với những gì đã được làm sáng tỏ qua từ “cử chỉ”.
N. H: Đúng vậy.
N. N: Theo những điều ông nói
thì những thông báo và cử chỉ đều khác với các ký hiệu quen thuộc và bí ẩn
trong siêu hình học.
N. H: Những thông báo và cử chỉ
- ông cho phép tôi được dùng cách gọi tế nhị này - hoàn toàn thuộc về không
gian của cái bản chất khác.
N. N: Điều ông nói đến càng
củng cố một dự cảm từ lâu của tôi. Chúng tôi không được phép hiểu cách gọi “ngôi nhà của hữu thể” của ông như là hình ảnh thoáng qua, có thể trở thành sợi dây
chính của trí tưởng tượng, ví dụ ngôi nhà là cái người ta dựng lên để trú trong
đó sự sinh tồn như là vật có thể mang đi được, chiếm chỗ.
N. H: Sự hình dung này ngay lập
tức trở nên vô hiệu lực, khi chúng ta nghĩ tới ý nghĩa hai mặt đã nói đến của
sự sinh tồn. Trong cách nói vừa nhắc đến, tôi không nghĩ tới cái hữu thể tưởng
tượng siêu hình của những người đang tồn tại, mà tôi nghĩ đến bản chất của hữu
thể, nói chính xác hơn là tính hai mặt của hữu thể và những người đang tồn tại.
Và tính hai mặt này được tôi hiểu trong thế tiếp tục được suy nghĩ.
N. N: Nếu chúng ta lưu ý đến
điều này thì cách gọi đó không bao giờ có thể trở thành khẩu hiệu.
N. H: Nó đã trở thành khẩu hiệu
rồi.
N. N: Bởi vì ông quá tin tưởng
ở phương thức tư duy ngày nay.
N. H: Chắc chắn như vậy. Tôi
rất tin vào cái còn chưa chín muồi.
N. N: Ông hiểu là nó chín muồi
giống như quả chín rụng hay sao? Có lẽ đối với tôi những từ như thế không tồn
tại. Và một sự tuyên bố chờ đợi điều này cũng không phù hợp với
bản chất của ngôn ngữ. Ông là người cuối cùng có nhu cầu tuyên bố như thế.
N. H: Trong việc này ông quá đề
cao tôi. Tôi xin được đáp lại bằng một dự cảm: Ông gần hơn với bản chất của
ngôn ngữ so với bất kì khái niệm nào của chúng tôi.
N. N: Không phải tôi gần hơn,
mà là cái từ ông hỏi ấy, cái từ mà tôi không thể kìm lại trước mặt ông.
N. H: Do đâu mà ông do dự, nếu
một khi ông đã có can đảm?
N. N: Cái làm cho tôi can đảm
lại là cái khiến tôi do dự.
N. H: Từ nhận xét này tôi thấy
rằng chúng ta bị bất ngờ nhờ cái từ ông kìm lại đó, cái từ nói về bản chất của
cái mà chúng ta gọi là ngôn ngữ.
N. N: Có thể. Sự bất ngờ này -
nó cũng liên quan đến ông giống như từ khi ông hỏi, nó cũng giữ tôi lại - cần
có được khả năng mở rộng ra.
N. H: Vì thế mà ông do dự.
N. N: Từ điều ông nói một cách
khích lệ rằng, từ là sự thông báo, và không phải hoàn toàn là ký hiệu trong ý
nghĩa của cái biểu đạt.
N. H: Những thông báo muốn có
niềm hứng khởi rộng lớn.
N. N:. . . trong đó những kiếp
người hữu hạn chỉ lặng lẽ đến và đi.
N. H: Ngôn ngữ chúng tôi gọi đó
là “sự do dự”. Điều này chỉ xảy ra nếu sự nhút nhát mang theo sự chậm chạp. Vì
thế tôi không muốn quấy phá một cách vội vã sự do dự của ông.
N. N: Sự gần gũi của ông như
vậy đã trở thành sự giúp đỡ lớn hơn là ông nghĩ trong việc tôi nói lên lời.
N. H: Tôi không dấu ông rằng
câu hỏi này làm tôi bất an đặc biệt vì cho đến hôm nay tôi đã tìm kiếm một cách
vô ích câu trả lời về nó ở các nhà nghiên cứu, hiểu biết về ngôn ngữ. Nhưng để
cho suy nghĩ của ông được năng động mà không cần sự tham gia của ông, chúng ta
hãy đổi vai trò, cho phép tôi có thể trả lời những câu hỏi của ông liên quan
đến tường giải học.
N. N: Như vậy là chúng ta quay
trở lại con đường mà khởi đầu cuộc nói chuyện chúng ta đã đi.
N. H: Ở nơi mà trong sự soi
sáng của tường giải học chúng ta vẫn không đi được xa, tôi chỉ kể lại các câu
chuyện cho ông, những câu chuyện đó cho thấy con đường của tôi dẫn đến việc sử
dụng tên gọi này.
N. N: Tôi thì đã nhận định rằng
ông không còn sử dụng tên gọi này nữa.
N. H: Cuối cùng tôi đã nhấn
mạnh rằng tính chất tường giải như là thuật ngữ của “Hiện tượng học” không có
nghĩa là phương pháp lý giải thông thường, mà nghĩa là chính bản thân sự lý
giải.
N. N: Sau đó cuộc nói chuyện
của chúng ta đã rơi vào tình trạng không thể xác định được.
N. H: May mà như thế.
N. N: Nhân đây tôi xin cảm ơn
ông đã quay trở lại tường giải học một lần nữa.
N. H: Ở chỗ này tôi xin được
tiếp lời theo tinh thần của từ nguyên học. Ông có thể thấy rằng việc sử dụng từ
của ông không tuỳ tiện, nhưng nó thích hợp để ông chủ ý làm cho dễ hiểu sự thể
nghiệm của tôi với Hiện tượng học.
N. H: Việc đó không phải xảy ra
là để như nhiều người vẫn nghĩ - tôi phủ nhận ý nghĩa của Hiện tượng học, mà vì
tôi muốn từ bỏ con đường tư duy của tôi trong sự vô danh.
N. N: Đối với ông việc đó khó
mà thành công.
N. H:. . . nếu như sự công khai
cần đến tên gọi.
N. N: Nhưng điều này không làm
bất lợi trong việc ông soi sáng một cách chính xác những tên gọi đã cho là
“tường giải học” và “tính chất tường giải”.
N. H: Tôi sẵn sàng thể nghiệm
sau khi sự soi sáng có thể trở thành sự lý giải.
N. N: Trong ý nghĩa mà ở bài
giảng về thơ Trakl ông đã hiểu.
N. H: Chính xác như vậy.
Từ tường giải xuất xứ từ động từ herméneuein. Động
từ này lại liên quan với danh từherméneusz,
gắn với tên của thần Hermes, Hermes là sứ thần, mang thông điệp của số
phận. Herméneuein là sự mở ra, mang tin đến, nếu nó có khả năng nghe được
thông điệp. Sự mở ra này là để lý giải điều mà các nhà thơ đã nói ra, “họ là
những sứ thần”, nói theo lời Socrate. (Platon: Ión 534e).
N. N: Tôi cũng thích cuộc đối
thoại này của Platon. Ở chỗ vừa nhắc đến Socrate còn nói ý đó sâu hơn.
N. H: Từ những điều vừa nói
trên đây có thể hiểu rằng tính chất tường giải không phải trước hết nghĩa là sự
giải thích, mà là trước nó, nghĩa là sự đưa tin và thông điệp.
N. N: Tại sao ông lại quay về
với ý nghĩa nguyên thuỷ của từ herméneuein?
N. H: Bởi vì việc này giúp tôi
đánh dấu tư duy Hiện tượng học đã mở ra trước mắt tôi con đường dẫn đến Hữu thể và thời gian. Cái nhiệm vụ làm rõ hữu thể của cái đang tồn tại - tất nhiên
không còn theo cách siêu hình, mà là bản thân hữu thể phải xuất hiện - đã có
hiệu lực và vẫn còn hiệu lực. Bản thân hữu thể nói lên rằng nó là sự hiện diện
của cái đang có, đó chính là tính chất hai mặt bắt nguồn từ sự thống nhất của
chúng. Sự thống nhất này là cái đưa con người vào nhu cầu thực hiện nó.
N. N: Theo đó thì con người là
con người ở mức độ mà nó phù hợp với sự khích lệ của tính chất hai mặt và chứng
tỏ được thông điệp của điều đó.
N. H: Cái chi phối và chuyển
tải trong mối liên hệ đến tính hai mặt này cho con người là ngôn ngữ. Trong sự
liên hệ thuộc về tường giải học thì đây là điều quyết định.
N. N: Vậy nếu tôi hỏi ông về
tường giải học, và ông muốn biết về cái từ thể hiện điều đó trong tiếng Nhật,
cái từ mà ở châu Âu các ông gọi là ngôn ngữ, thì tức là chúng ta hỏi lẫn nhau
về cùng một việc.
N. H: Rõ ràng là như vậy, bởi
thế chúng ta có thể tin tưởng ở bản thân, yên tâm nói về những gì còn bí ẩn. .
.
N. N:. . . Chừng nào chúng ta là
những người hỏi.
N. H: Ông không nghĩ rằng chúng
ta chất vấn nhau do tò mò mà là. . .
N. N:. . . điều muốn nói ngày càng
được chúng ta nói cởi mở hơn.
N. H: Việc đó tất nhiên dễ gây
cảm giác như là tất cả đang diễn ra không gò bó vào khuôn khổ.
N. N: Cái cảm giác này xuất
hiện nếu chúng ta chú ý đến những điều mà các nhà tư tưởng một thời đã nói và
để cho chúng liên tục nói chen vào cuộc nói chuyện của chúng
ta. Cái mà tôi vừa nêu lên là tôi đã học ở các ông.
N. H: Cái mà ông học như vậy là
đã được rút ra từ sự lắng nghe những suy nghĩ của các nhà tư tưởng. Hết thảy
chúng ta đều thường xuyên trò chuyện cùng với những người đi trước, và có lẽ
với hậu thế thì cuộc nói chuyện lại càng bí ẩn hơn.
N. N: Cái tính chất lịch sử
này, trong ý nghĩa sâu sắc nhất của mọi cuộc nói chuyện của nhà tư tưởng, không
phải là sự chuẩn bị để lịch sử nói về các nhà tư tưởng và về những suy nghĩ của
họ như là nói về quá khứ.
N. H: Chắc chắn là không. Nhưng
đối với chúng ta, những người hiện tại, có thể cần thiết phải có sự chuẩn bị
cho những cuộc nói chuyện mà trong đó mục đích chính là sự lý giải những điều
đã nói của các nhà tư tưởng trước đây.
N. N: Điều dễ trở thành việc
làm thuần tuý.
N. H: Chúng ta chấp nhận nguy
cơ đó nếu chúng ta cố gắng tư duy theo tinh thần đối thoại.
N. N: Và trong khi đó - như các
ông vẫn nói bằng ngôn ngữ của mình - chúng ta cân nhắc từng từ.
N. H: Nhưng trước hết chúng ta
hãy kiểm tra xem từ - mà phần lớn là bí ẩn - được đưa lên cân với toàn bộ trọng
lượng của nó chưa?
N. N: Tôi thấy hình như chúng
ta làm đúng quy định chưa được viết thành lời, tuy nhiên tôi cần phải thú thật
rằng mình là một người hỏi rất vụng về.
N. H: Tất cả chúng ta đều như
thế. Kể cả khi thận trọng thì chúng ta vẫn trượt trên nhiều điều cơ bản. Ngay
cả trong cuộc nói chuyện này cũng thế, một cuộc nói chuyện dẫn chúng ta đến chỗ
phân tích bản chất của tường giải học và lời nói.
N. N: Ngay lúc này tôi vẫn chưa
thấy được chúng ta đã bỏ qua điều gì trong việc quan tâm đến sự dùng từ.
N. H: Thông thường chúng ta
nhận ra quá muộn điều đó, bởi vì sự hạn chế không hoàn toàn có trong chúng ta,
mà có trong tính chất lớn lao hơn và vì thế cũng nghiêm trọng hơn của ngôn ngữ
so với chúng ta.
N. N: Ông hiểu điều đó như thế
nào?
N. H: Để tôi làm rõ hơn bằng
những điều vừa nói. . .
N. N: Ông đã nói rằng ngôn ngữ
là đặc trưng cơ bản của sự lý giải liên quan đến tính chất hai mặt của cái hiện
hữu và cái đang có của thực chất con người. Liên quan đến điều này tôi cũng đã
nói cái gì đó, nhưng rồi chúng ta sẽ trở lại sau khi ông chỉ cho tôi biết chúng
ta đã bỏ qua điều gì một cách sơ suất.
N. H: Tôi nghĩ đến từ “liên
quan”. Chúng ta nghĩ tới mối quan hệ trong cái ý nghĩa tương quan của nó. Với
cách làm như thế, chúng ta đánh dấu cái quen biết trong ý nghĩa trống rỗng và
hình thức, và sử dụng nó như sử dụng con số vậy. Ông hãy nghĩ đến phương pháp
logic. Chúng ta có thể nghe từ “liên quan”, với tính chất hai mặt nằm trong mối
liên quan chú giải của con người, một cách hoàn toàn khác. Thậm chí cần phải
dẹp nó đi nếu chúng ta muốn nghĩ đến cái vừa vang lên đó. Có lẽ không cần và
cũng không thể làm ngay được việc đó, nhưng với thời gian, sau khi cân nhắc
thận trọng thì có thể.
N. N: Nghĩa là không đi lạc
đường, nếu con người hiểu “sự liên quan” trước hết bằng phương pháp quen thuộc,
như là sự tương quan.
N. H: Chắc chắn là không lạc
đường. Nhưng ngay từ đầu đã không đủ, giả thiết từ “sự liên quan” cần phải trở
thành từ mang theo thông báo đã nhắc đến, ví dụ khi có mặt hàng cần thiết,
chúng ta muốn gọi sự liên quan đến người mua là sự nhập hàng, đấy là khi chúng
ta nói “sự liên quan”. Nếu con người liên quan đến khoa tường giải thì lúc đó
cái nàykhông có nghĩa là hàng hoá. Đối diện với nó, từ “liên quan” nói
rằng con người, do bản chất của nó, là vận dụng, từ cái bản chất là nó, con
người thuộc về một cơ hội cần đến nó.
N. N: Trong ý nghĩa như thế
nào?
N. H: Nói theo tinh thần tường
giải học, thì đó là sự mang lại một tin tức, sự gìn giữ một thông điệp.
N. N: Vị trí của con người
“trong sự liên quan” cũng có nghĩa như là con người được là chính nó “trong sự
ứng dụng”.
N. H:. . . gọi con người giữ gìn
tính chất hai mặt. . .
N. N:. . . mà vẫn không giải thích
được - như tôi thấy - tính hai mặt từ sự hiện diện và hiện thời, kể cả từ mối
quan hệ của hai cái đó.
N. H: Bởi vì bản thân tính hai
mặt làm mở ra vùng ánh sáng mà bên trong nó là sự hiện diện như là nó, và sự
hiện diện đối với con người sẽ có thể phân biệt được. . .
N. N:. . . đối với con người mà
trong mối liên quan theo bản chất của nó, có cơ hội hai mặt.
N. H: Vì thế nên chúng ta không
thể nói sự liên quan đến tính chất hai mặt, bởi tính hai mặt không phải là đối
tượng của trí tưởng tượng mà là sự vận dụng cơ hội.
N. N: Điều mà chúng ta không
bao giờ chiêm nghiệm được chừng nào chúng ta chỉ hình dung tính hai mặt như là
cái khác biệt trở nên có thể thấy trong sự so sánh, cái làm cho cái hiện thời
và sự hiện diện của nó chống lại nhau.
N. H: Cái nhìn thấu suốt của
ông làm tôi bất ngờ.
N. N: Việc này chỉ thành công
nếu tôi theo được ông trong cuộc nói chuyện này. Bỏ rơi một mình, tôi không biết làm gì cả, bởi vì cách thức mà ông sử dụng những
từ “sự liên quan” và “sự vận dụng”. . .
N. H:. . . nói rõ hơn: phải vận
dụng. . .
N. N:. . . là tương đối xa lạ.
N. H: Điều đó tôi không muốn
phủ nhận nhưng tôi thấy hình như ở khu vực có thể đến, chúng ta chỉ có được sự
tin cậy khởi đầu nếu chúng ta không hoảng hốt trước sự xa lạ.
N. N: Ông hiểu thế nào là sự
tin cậy khởi đầu? Việc này rõ ràng không phải được biết đến lần đầu tiên!
N. H: Không. Nó là cái đầu tiên
được tin cậy đối với thực chất của chúng ta, và chỉ cuối cùng mới trở thành cái
có thể chiêm nghiệm được.
N. N: Và ông tìm cái đó.
N. H: Chỉ có nó, nhưng mà trong
nó cái xứng đáng được nghĩ đến hoàn toàn phải hiện diện một cách bí ẩn.
N. N: Giữa chừng ông không đến
với các phương pháp tưởng tượng mòn chán của đồng loại.
N. H: Điều đó chỉ có vẻ như thế
thôi, trong thực tế mục đích của từng bước ý nghĩ là để giúp con người suy nghĩ
tìm ra con đường mòn dẫn đến bản chất của nó.
N. N: Từ đây là suy ngẫm của
ông về ngôn ngữ. . .
N. H:. . . Về ngôn ngữ, trong mối
quan hệ với bản chất của hữu thể, với tính hai mặt.
N. N: Nếu ngôn ngữ là đặc trưng
cơ bản của sự vận dụng được xác định theo tinh thần tường giải học, thì ông có
kinh nghiệm khác về bản chất của ngôn ngữ, so với cái xảy ra trong phương pháp
tư duy siêu hình. Đó chính là điều mà vừa rồi thật ra tôi đã muốn nói tới.
N. H: Nhưng vì mục đích gì?
N. N: Không phải để tôi khẳng
định điều gì mới mẻ so với những gì đã có mà là để tôi làm chúng ta nhớ lại
rằng cuộc nói chuyện là cuộc thể nghiệm sự suy ngẫm về bản chất của ngôn ngữ
qua lịch sử.
N. H: Từ sự thừa nhận tư tưởng
đã có.
N. N: Tức là điều đó được thể
hiện qua bài giảng mà những điều ghi chép được người ta thường xuyên tranh luận
ở Nhật Bản trong những năm hai mươi.
N. H: Tôi cần phải nói cho ông
rằng ông đã nhầm lẫn. Bài giảng có tên là Sự thể hiện và hiện tượng (hay là Sự thể hiện và nghĩa?) còn đáng để tranh luận, nó đã xác định cái mà giờ đây chúng ta
gọi là cuộc nói chuyện lịch sử của nhà tư tưởng.
N. N: Theo đó thì nhan đề cần
phải nói lên một điều ngược lại.
N. H: Tất nhiên tôi đã tin hoàn
toàn khác rằng mình phải làm cho rõ điều dự cảm còn mơ hồ. Ở những cú nhảy thời
trai trẻ như thế con người ta dễ phạm sai lầm.
N. N: Trong nhan đề của bài
giảng có từ “sự thể hiện” gọi tên cái mà ông chống lại. Bởi vì sự để ý của ông
đến bản chất của ngôn ngữ không dừng lại ở đặc trưng tiếng và chữ viết của các
từ, những đặc trưng đó thường được người ta hình dung như là các tính chất thể
hiện của ngôn ngữ.
N. H: Trong khi đó, tên gọi “sự
thể hiện” được đón nhận trong ý nghĩa hẹp hơn của hiện tượng có thể cảm nhận.
Thậm chí người ta hình dung ngôn ngữ trong tính chất thể hiện của nó kể cả khi
người ta quan tâm đến nội dung nghĩa của tiếng và chữ viết.
N. N: Ở mức độ nào? Bởi vì lời
nói được xem là có nghĩa hoàn chỉnh, vẫn luôn luôn vượt quá sự cảm nhận về mặt
ngữ âm. Ngay trong sự cảm nhận nhờ được vang lên và viết ra của ngôn ngữ cũng
có yếu tố siêu nghiệm, nó liên tục được nâng lên quá mức có thể cảm nhận. Nghĩ
như vậy thì ngôn ngữ, bản thân nó là siêu hình.
N. H: Tôi đồng ý với điều đó.
Nhưng cái thực chất siêu hình của ngôn ngữ chỉ xuất hiện nếu người ta nhìn nhận
nó vốn là sự thể hiện. Sự thể hiện ở đây không chỉ được hiểu là những tiếng
phát ra và các ký hiệu chữ viết. Sự thể hiện đồng thời là sự bày tỏ.
N. N: Liên quan đến bên trong,
đến đời sống tâm hồn.
N. H: Trong thời gian có bài
giảng đó, khắp mọi nơi người ta nói về ấn tượng, kể cả trong Hiện tượng học.
N. N: Một trong những tác phẩm
được biết đến của Dilthey có nhan đề là Ấn tượng và thơ ca.
N. H: Sống là một sự nhắc lại
liên tục. Nghĩa là sự nhắc lại một cái tôi của đời sống và những người đã sống.
Ấn tượng nghĩa là sự nhắc lại chủ thể của khách thể. Cái ấn tượng - tôi - anh
nhiều tranh cãi cũng thuộc về vùng siêu hình của chủ thể.
N. N: Hướng sự chú ý của mình
đến mối liên quan tường giải học của tính chất hai mặt, ông đã bỏ sót vùng chủ
thể và sự thể hiện thuộc về vùng đó.
N. H: Chí ít thì tôi cũng đã
thể nghiệm điều đó. Những ý tưởng trung tâm quyết định tư duy hiện đại qua tên
gọi “sự thể hiện”, “ấn tượng” và “ý thức” cần phải trở thành vấn đề trong vai
trò chuẩn mực của chúng.
N. N: Thế thì tôi không hiểu
làm thế nào mà ông lại có thể lựa chọn đầu đề là Sự thể hiện và hiện tượng?. Bởi vì ông đã phải thể hiện một sự đối đầu. “Sự thể hiện” liên
quan tới sự biểu lộ bên trong và tính chủ quan. Đối diện với điều này “hiện
tượng” là khách quan, nếu cho phép tôi nhớ lại việc sử dụng ngôn ngữ của Kant:
các hiện tượng là những đối tượng, những đối tượng của kinh nghiệm. Bằng nhan
đề của bài giảng, ông đã gắn bó mình với mối quan hệ chủ thể - khách thể.
N. H: Những suy nghĩ của ông,
trong một phương diện nhất định, là xác đáng. Bởi vì trong bài giảng nhắc đến
đó có nhiều điều cần thiết phải được làm sáng tỏ. Không một ai có khả năng
thoát ra khỏi phạm vi các ý tưởng đang ngự trị bằng một cú hất mình duy nhất;
đặc biệt là khi những con đường đã đi cho đến nay của tư duy đang kéo dài ra mà
không ai biết. Ngoài ra, một sự khoanh vùng những gì đã có như thế này cũng bị
hạn chế bởi ý chí cách mạng bề ngoài, chỉ cố gắng lấy lại cái đã có tận gốc
hơn. Tr. đầu của cuốn Hữu
thể và thời gian nói kỹ về sự “lấy lại”,
cái không có nghĩa là sự trở lại của hình thức tương ứng, mà có nghĩa là sự
mang lại, đưa vào, tập hợp cái ẩn chứa trong cái cũ.
N. N: Những người thầy và bạn
bè Nhật Bản của tôi luôn luôn quan tâm tới các nỗ lực của ông trong ý nghĩa đó.
Giáo sư Tanabê thường nhắc lại một câu hỏi mà ông đã đặt ra cho ông ấy: Tại sao
người Nhật chúng tôi không suy ngẫm trên những gì khởi đầu đáng nể trọng của tư
duy chúng tôi, mà lại ngày càng vội vã chạy theo những cái mới của triết học
châu Âu? Trong thực tế thì điều đó hôm nay cũng đang xảy ra.
N. H: Việc đó khó lòng phủ nhận
được. Nhưng những quá trình như thế thường bị thất bại bởi chính sự không năng
động, vô hiệu quả của chúng. Ngược lại, có cái gì khác cần đến sự hợp tác của
chúng tôi.
N. N: Đó là gì vậy?
N. H: Hướng sự chú ý của chúng
tôi đến các dấu vết dẫn tới ngoại ô của cội nguồn tư duy.
N. N: Ông đã tìm được những dấu
vết như thế trong thể nghiệm của mình?
N. H: Sở dĩ tôi đã tìm được vì chúng không xuất xứ từ tôi, tiếng
chúng yếu ớt như những tiếng vọng bị tản ra của một tiếng gọi xa xôi.
N. N: Điều đó cho phép rút ra
kết luận rằng ông không đặt nền móng phân biệt sự thể hiện và hiện tượng trên
mối quan hệ chủ thể - khách thể.
N. H: Chắc chắn như vậy, nếu
qua đó cuộc nói chuyện của chúng ta không gặp sự mắc mớ mới hơn, bởi vì thời
gian của chúng ta có hạn, ngày mai ông muốn tiếp tục đi Firenze rồi.
N. H: Không có niềm vui nào lớn
hơn thế. Nhưng kể cả nghĩ đến niềm vui sẽ có này thì tôi cũng cần phải trả lời
ngắn gọn.
N. N: Ông có quan hệ như thế
nào với tư duy của những người Hy Lạp?
N. H: Nhiệm vụ của chúng ta hôm
nay là phải tư duy bằng tiếng Hy Lạp cái điều đã nghĩ.
N. N: Để chúng ta có thể hiểu
người Hy Lạp tốt hơn là họ hiểu chính bản thân mình.
N. H: Cũng chưa phải vậy, bởi
vì mọi tư tưởng lớn đều hiểu mình, giữa những giới hạn dành cho nó, tư duy lớn
bao giờ cũng hiểu chính
mình hơn.
N. N: Vậy chúng ta phải suy
nghĩ bằng tiếng Hy Lạp cái điều đã nghĩ nghĩa là gì?
N. H: Xét tới bản chất của sự
hiện diện thì việc đó, có thể dễ dàng được soi sáng. Nếu người ta hình dung sự
hiện hữu bằng sự hiện diện thì lúc đó trong sự hiện hữu việc toả sáng có ý
nghĩa là sự mở ra. Nhưng bản thân sự toả sáng này như là việc xảy ra, xét trong
mọi phương diện, lại chưa có nội dung. Chúng ta gọi sự suy ngẫm điều chưa suy
nghĩ bằng tiếng Hy Lạp là sự mở ra ở tầm nguyên thuỷ nhất cái chưa nghĩ, là cái
nhìn thoáng qua vào nguồn gốc của bản chất. Cái nhìn chớp nhoáng này, theo cách
của nó là Hy Lạp, việc để ý đến những gì được nhìn thoáng qua thì không phải là
Hy Lạp, những cái khác thì không thể là Hy Lạp.
N. N: Thế thì là gì?
N. H: Hình như chúng ta không
được trả lời câu hỏi này. Nhưng cũng không thể giúp chúng ta nếu nói rằng chúng
ta phải nhìn chớp nhoáng cái hiện diện trong nguồn gốc cơ bản của cái hiện hữu.
N. N: Nếu việc đó thành công
thì ông nghĩ cái hiện diện bằng tiếng Hy Lạp và đồng thời không nghĩ bằng tiếng
Hy Lạp. Ông nói rằng - chí ít xét về mặt nội dung - mối quan hệ chủ thể khách
thể sẽ nằm sau chúng ta, nếu tư duy đến được với cái mà giờ đây gọi là kinh
nghiệm, trong đó, chúng ta có thể nói, cái hiện diện xuất hiện?
N. H: Hầu như không thể. Nhưng
ông đã chạm tới điều cơ bản. Bởi vì trong nguồn gốc của cái hiện diện có cái đè
nặng lên con người, trong đó tính chất hai mặt của cái đang có và sự hiện hữu
ẩn chứa.
N. N: Tính chất hai mặt bản
tính là bí ẩn nhưng luôn luôn mang thông điệp đến cho con người.
N. H: Con người, nếu là con
người, vẫn lắng nghe thông điệp đó.
N. N: Việc này diễn ra kể cả
khi con người không chú ý đến thông điệp đó.
N. H: Nó được thích ứng để nghe
thông điệp.
N. N: Vừa rồi ông đã gọi điều
đó là: con người trong mối liên quan.
N. H: Và tên gọi sự liên quan
là tường giải, bởi vì nó mang lại tin tức của thông điệp.
N. N: Thông điệp muốn con người
phải trả lời nó. . .
N. H:. . . và phải thuộc về nó,
nghe nó như là con người.
N. N: Ông gọi cái đó là “hữu thể” nếu ông cho phép dùng từ “hữu thể”.
N. H: Con người là sứ giả của
cái thông điệp mà sự mở ra của tính chất hai mặt tin cậy nó.
N. N: Ở mức độ hiểu được những
điều ông nói, tôi nghĩ mình cảm thấy có sự gần gũi sâu sắc giữa những điều đó
và tư duy của chúng tôi. Bởi vì con đường tư duy của ông và ngôn ngữ của nó
khác với của chúng tôi.
N. H: Điều ông nói làm tôi bối
rối đến mức chỉ tiếp tục nói chuyện thì tôi mới làm chủ được sự xúc động của
mình. Nhưng có một câu hỏi duy nhất tôi không thể bỏ qua.
N. N: Câu hỏi nào vậy?
N. H: Hỏi ở chỗ mà ông cảm thấy
có sự gần gũi xuất hiện.
N. N: Thế thì câu hỏi của ông
dẫn đi rất xa.
N. H: Xa đến mức nào?
N. N: Xa là cái không giới hạn,
nó ở trong Ku mà đối với chúng tôi nghĩa là sự trống rỗng của bầu trời.
N. H: Như vậy, như là sứ giả
của cái thông điệp đòi hỏi mở ra tính hai mặt, con người, thông qua đó là kẻ
tuần tra cái biên giới không giới hạn.
N. N: Trên con đường đó con
người tìm cái bí ẩn của sự giới hạn. . .
N. H:. . . là cái không ẩn giấuở
đâu khác, mà ngay trong tiếng gọi đưa đến sức nặng thực chất của nó.
N. N: Cái mà giờ đây chúng ta
nói, - ông thứ lỗi vì tôi nói số nhiều - nó không còn có thể bàn đến theo hình
ảnh của ngôn ngữ siêu hình. Chính vì thế mà ông đã thể nghiệm trong nhan
đề Sự thể hiện và hiện
tượng của bài giảng dấu hiệu
bãi bỏ hình ảnh của ngôn ngữ siêu hình.
N. H: Toàn bộ bài giảng chỉ là
tín hiệu. Tôi đã đi đến cùng theo dấu vết đã phai mờ, nhưng tôi đã đi theo. Cái
dấu vết đó là sự hứa hẹn không rõ ràng, nó đã đưa đến tin tức về sự giải phóng,
nơi thì mơ hồ và nhầm lẫn, nơi thì đột ngột, như một cái nhìn ra chớp nhoáng,
và sau đó một thời gian dài là sự chống lại mọi thử nghiệm muốn nói ra.
N. N: Sau đó cũng thế,
trong Hữu thể và thời gian ông cũng rất do dự khi bàn đến ngôn ngữ.
N. H: Có lẽ sau cuộc nói chuyện
của chúng ta ông nên đọc kĩ hơn phần 34 của cuốn Hữu thể và thời gian.
N. N: Tôi đã đọc nhiều lần, và
lần nào cũng rất tiếc rằng nó ngắn quá. Nhưng bây giờ thì tôi cảm nhận tốt hơn
tầm quan trọng của sự liên kết giữa ngôn ngữ và tường giải học.
N. H: Tầm quan trọng chuyển vào
đâu?
N. N: Vào một sự biến dạng của
tư duy mà không diễn ra như là sự đổi hướng, và không bắt nguồn từ những kết
quả nghiên cứu triết học.
N. H: Sự thay đổi diễn ra như
là một sự lang thang.
N. N:. . . mà trong quá trình đó
một vị trí này vì một vị trí khác sẽ bị bỏ rơi. . .
N. H:. . . đến với nơi mà sự lý
giải là điểm xuất phát.
N. N: Một trong những nơi đó là
sự siêu hình.
N. H: Còn nơi khác? Cái nơi
khác đó chúng ta không gọi tên.
N. N: Trong khi đó ngày càng có
vẻ bí ẩn hơn đối với tôi việc tại sao bá tước Guki lại hi vọng với sự lựa chọn
con đường tư duy của ông thì nó giúp được cho những thử nghiệm mỹ học của mình.
Bởi vì con đường của ông cùng với siêu hình học đã bỏ lại phía sau nó cả mỹ
học.
N. H: Nhưng mà chỉ bây giờ bản
chất của mỹ học mới trở nên có thể hình dung và khoanh vùng.
N. N: Có lẽ triển vọng đó đã
quyến rũ bá tước Guki. Bởi vì ông ấy là người quá thận trọng và giàu có ý
tưởng, không thể để cho học thuyết bị loại bỏ.
N. H: Ông ấy đã sử dụng tên
gọi Mỹ học của châu Âu, có điều ông ấy nghĩ và tìm kiếm cái khác. . .
N. N:. . . iki là một từ mà cho đến bây giờ tôi vẫn chưa dám dịch.
N. H: Nhưng có lẽ giờ đây ông
đã có thể viết cái mà từ này thông báo về phía chúng ta một cách bí ẩn là cái
gì.
N. N: Để sau khi ông đã làm
sáng tỏ bản chất của mỹ học.
N. H: Việc đó đã xảy ra trong
quá trình chúng ta trò chuyện; nhất là ở nơi mà chúng ta không nói riêng về nó.
N. N: Ông nghĩ đến việc phân
tích mối quan hệ chủ thể - khách thể?
N. H: Tôi có thể nghĩ cái gì
khác được? Mỹ học - hay chúng ta nói thế này: thông qua ấn tượng và trong phạm
vi chuẩn mực của nó, tác phẩm nghệ thuật sẽ là đối tượng của cảm xúc và trí
tưởng tượng. Chỉ ở nơi mà tác phẩm đã trở thành đối tượng, ở đó nó có thể dùng
để triển lãm và dành cho viện bảo tàng.
N. N:. . . đồng thời có thể đánh
giá và đề cao.
N. H: Chất lượng nghệ thuật,
đối với kinh nghiệm nghệ thuật hiện đại thời kỳ mới, trở thành yếu tố hàng đầu.
N. N: Chúng ta nói điều đó đối
với cả ngành kinh doanh nghệ thuật.
N. H: Nhưng cái quyết định nghệ
thuật lại xảy ra tuỳ thuộc vào tính chất sáng tạo và yếu tố nghề nghiệp.
N. N: Nghệ thuật có được là nhờ
nghệ sĩ, hay là ngược lại? Bởi vì những bài phát biểu liên quan đến nghệ sĩ
luôn luôn nói về ưu thế của người nghệ sĩ. . .
N. H:. . . về ưu thế của chủ thể,
cái luôn luôn tồn tại liên quan đến tác phẩm như là khách thể của nó.
N. N: Tất cả những gì là mỹ
học, đều thuộc về những giới hạn này.
N. H: Cái giới hạn này bao quát
đến mức mọi kinh nghiệm hoàn toàn khác liên quan đến nghệ thuật và bản chất của
nghệ thuật đều được nó thâu tóm.
N. N: Nó có khả năng bao quát,
nhưng không bao giờ có khả năng biến tất cả thành của mình, chính vì thế bây
giờ tôi càng lo ngại hơn bao giờ hết rằng tất cả sự giải thích về iki sẽ rơi vào cạm bẫy của những hình dung mỹ học.
N. H: Nó sẽ là câu chuyện về
một sự thể nghiệm.
N. N: Iki là sự thích thú dễ chịu.
N. H: Theo như cách ông nói
điều đó thì chúng ta đã đến với mỹ học. Ông hãy nghĩ tới bài viết Sự dễ chịu và phẩm giácủa Schiller. Bài này cũng như sau nó là bài Những lá thư viết về giáo dục thẩm mỹ của con
người đều là những sự khởi đầu
trong cuộc đối thoại với mỹ học Kant.
N. N: Nếu tôi nhớ không sai thì
cả hai bài viết đó đều trở thành một trong những kích thích tố cơ bản của mỹ
học Hegel.
N. H: Vì thế sẽ là mù quáng,
nếu với vài ba nhận xét, chúng ta đã tự huyễn hoặc rằng mình đã làm chủ bản
chất của mỹ học.
N. N: Nhưng tôi gần như có thể
thử nghiệm việc nâng chữ iki được dịch như là sự dễ
chịu từ phạm vi mỹ học, nghĩa là từ mối quan hệ chủ thể - khách thể. Tôi không
hiểu sự dễ chịu như là sức hấp dẫn. . .
N. H:. . . tức là nó không thuộc
phạm vi của sự hấp dẫn, các ấn tượng,. . . mà là. . .
N. N:. . . thuộc về hướng ngược
lại. Mặc dù tôi biết rằng với điều đó tôi vẫn còn gặp rắc rối trong phạm vi mỹ
học.
N. H: Duy trì sự thận trọng,
ông có thể giải thích được rồi.
N. N: Iki là sự cuốn hút vào miền yên tĩnh. . .
N. H: Ông hiểu sự cuốn hút theo
đúng từ, tức là cuốn hút từ đâu đấy, cuốn hút theo cái gì, ấy là vào sự yên
tĩnh. . .
N. H: Sự cuốn hút theo cách
thông báo nhẹ nhàng, đây đó.
N. N: Nhưng sự thông báo là
thông điệp của sự ẩn giấu phát sáng.
N. H: Như vậy thì nguồn gốc của
mọi cái hiện hữu là sự dễ chịu được hiểu trong ý nghĩa của sự cuốn hút bình yên
trong sáng.
N. N: Vì ông nghe tôi, nói đúng
hơn là ông nghe những điều tôi cảm thấy mà tôi đã nói ra, trong tôi sống lại
niềm tin rằng mình cần phải bỏ thói do dự và phải trả lời câu hỏi của ông.
N. H: Ông nghĩ đến câu hỏi rằng
trong ngôn ngữ các ông từ nào nói lên cái mà những người châu Âu chúng tôi gọi
làngôn ngữ.
N. N: Cho đến lúc này tôi vẫn
ngại nói ra từ này, do tôi đã đầu hàng việc dịch nó, và trong phạm vi ý tưởng
của các khái niệm thì từ trong ngôn ngữ chúng tôi chỉ có vẻ như chữ tượng hình.
Bởi vì khoa học và triết học châu Âu chỉ cố gắng thông qua các khái niệm để
tiếp cận với bản chất của ngôn ngữ.
N. H: Từ ngôn ngữ trong tiếng Nhật đọc nghe như thế nào?
N. N: (Sau khi do dự hồi lâu) tên nó là Koto ba.
N. H: Cái tên đó nói gì?
N. N: Ba nghĩa là những cái lá, đặc biệt nghĩa là những cánh hoa. Ông
hãy nghĩ đến hoa anh đào và hoa mận.
N. H: Thế còn Koto nói gì?
N. N: Trả lời câu hỏi đó là khó
nhất. Nhưng việc giải thích từ iki đã làm cho thử nghiệm này
dễ dàng hơn: Koto là sự cuốn hút trong sáng lên tiếng vào miền yên tĩnh. Koto đồng thời là sự cuốn hút của mọi thời mà trong giây lát
không thể lặp lại nó rực rỡ một mình trong cái toàn vẹn của sự dễ chịu.
N. H: Theo đó thì Koto là sự kiện của thông điệp sự dễ chịu.
N. N: Ông gọi rất đúng, có điều
từ dễ chịu đối với những ý tưởng hiện nay có thể dễ dàng bị làm cho
nhầm lẫn. . .
N. H:. . . nó có thể làm cho nhầm
đường vào vùng các ấn tượng. . .
N. N:. . . mà sự biểu hiện lại là
con đường tự do cần cho chúng. Đối với tôi, thích hợp nhất có lẽ là từ Kharisz trong tiếng Hy Lạp mà tôi đã gặp ở thành ngữ đẹp ông đã
trích dẫn Sophocle trong bài giảng nhan đề. . . Con người sống một cách thi sĩ. . . , và ông đã dịch từ đó là “duyên dáng”.
N. H: Nhân đó còn có cái khác
nữa đã được nói đến nhưng trong khuôn khổ của bài giảng tôi đã không thể nói
rộng ra. Chữ Kharisz ở đó người ta gọi là tiktousza,
tức là người sáng tạo. Từ thơ trong tiếng Đức là dichten, chữ tihton cũng có nghĩa đó. Trong cái mà Sophocle nói thì đối với
chúng ta, sự duyên dáng là thi ca, là cội nguồn thông điệp của tính chất hai
mặt mở ra.
N. N: Tôi cần phải có nhiều
thời gian như là cuộc nói chuyện này cần đến, để tôi suy nghĩ bằng những gì ông
chỉ bảo. Nhưng tôi đã nhận thấy một điều gì đó: Ông đã góp phần giúp tôi nói một cách rõ ràng hơn cho ông
rằng Koto là gì.
N. H: Việc đó có vẻ như không
thể tránh khỏi để tôi, cho dù chỉ trong một chừng mực nhất định, cũng có khả
năng suy nghĩ với ông về từ ngôn ngữ trong tiếng Nhật của các ông
là koto ba.
N. N: Chắc chắn ông nhớ trong
cuộc nói chuyện của chúng ta, khi mà tôi gọi những từ tiếng Nhật iro và ku phù hợp với sự khác biệt của aiszthéton và noéton. Iro nhiều hơn cả nghĩa chỉ màu sắc và mọi loại có thể nhận biết
được bằng cảm giác. Ku là sự mở, là sự trống rỗng của trời, nó nhiều hơn cả sự siêu
nghiệm.
N. H: Cái nhiều hơn này ông chưa nói được là gồm có gì.
N. N: Bây giờ thì tôi đã biết
được sự thông báo ẩn chứa trong cả hai từ.
N. H: Chúng thông báo đi đâu?
N. N: Đến nơi mà từ nơi đó phát
sinh và xảy ra mâu thuẫn của hai từ.
N. H: Đó là gì?
N. N: Koto: sự xảy ra thông điệp tạo nên cái duyên dáng.
N. H: Koto là cái xảy ra được duy trì.
N. N:. . . của cái có nhu cầu sự che chở của người làm cho tăng lên
và nẩy nở.
N. H: Vậy Koto ba nói lên cái gì như là cái tên của ngôn ngữ?
N. N: Nghe từ này thì đó là sự
đông đúc của những cánh hoa của ngôn ngữ, được nảy sinh từ koto.
N. H: Đó là một từ kỳ lạ và bởi
thế không thể nào nghĩ ra. Nó gọi tên cái khác so với cái mà những tên gọi đã
quen thuộc đưa đến cho ta một cách siêu hình: ngôn ngữ, sprache, glossza,
lingua, langue, và language. Đã từ lâu tôi chỉ sử dụng từ ngôn ngữ khi cần thiết, nếu tôi suy ngẫm trên bản chất của nó.
N. N: Nhưng ông đã tìm được từ
phù hợp hơn chưa?
N. H: Tôi nghĩ là mình đã tìm
được, nhưng tôi muốn bảo vệ nó khỏi bị người ta sử dụng làm cái nhãn thông
thường, và làm giả chúng để nói lên một khái niệm.
N. N: Ông sử dụng từ nào?
N. H: Từ nói. Từ này có nghĩa là sự nói ra, bản thân cái được nói và người
muốn nói ra.
N. N: Nói, nghĩa là gì?
N. H: Nó có nghĩa như là sự
giới thiệu trong ý nghĩa của sự xuất hiện và làm cho xuất hiện, có điều là theo
cách thông báo.
N. N: Theo đây thì sự nói không
phải là tên gọi của lời nói con người. . .
N. H:. . . mà là của cái hiện thực
mà từ đó từ koto ba của các ông thông báo: những huyền thoại. . .
N. N:. . . mà sự thông báo của nó
chỉ bây giờ, qua cuộc nói chuyện của chúng ta nó mới trở nên gần gũi đối với
tôi. Vậy là tôi đã thấy rõ hơn rằng bá tước Guki đã tìm được người dẫn đường tốt
như thế nào, khi bằng sự hướng dẫn của ông, ông ấy đã cố gắng tư duy theo tường
giải học.
N. H: Nhưng ông cũng thấy rằng
sự dẫn đường còn khiếm khuyết biết chừng nào, khi chỉ bằng cái nhìn chớp nhoáng
vào bản chất của lời nói, nó đã bắt đầu con đường tư duy mà thực chất là đưa
trở lại những thông báo của thông điệp từ những hình dung siêu hình.
N. N: Con đường dẫn đến đó dài
lắm.
N. H: Không phải dài vì đến nơi
xa, mà vì đi qua nơi gần.
N. N: Cái gần thì từ lâu cũng
đã gần như đối với những người Nhật chúng tôi cái từ chưa từng nghĩ qua của bản
chất ngôn ngữ: koto ba.
N. H: Những cánh hoa có
từ koto. Cái sức mạnh của ý tưởng từ kinh nghiệm rẽ qua vùng xa lạ như
khi bắt đầu nói từ này.
N. N: Chỉ có thể đi chệch
hướng, nếu nó chỉ hoàn toàn tưởng tượng. Tuy nhiên ở nơi mà tư duy hiện ra như
đầu nguồn, ở đó đối với tôi, nó hội tụ hơn là tách rời. Kant cũng đã cảm thấy
điều tương tự mà ông đã chỉ ra.
N. H: Nhưng tư duy của chúng ta
có đi bên cạnh nguồn này không?
N. N: Nếu vẫn chưa thì lúc đó
ít ra nó cũng đang trên đường tới đó, và tìm con đường mòn, nơi mà - như bây
giờ tôi đã nhìn thấy rõ hơn - cái từ ngôn ngữ tiếng Nhật đang vẫy tới.
N. H: Để chúng ta biết đón nhận
sự thông báo, chúng ta cần phải có kinh nghiệm hơn trước bản chất của ngôn ngữ.
N. N: Tôi thấy hình như sự phấn
đấu theo hướng này đã theo ông hàng chục năm qua trên con đường của tư duy,
trong rất nhiều trăn trở đủ để ông chuẩn bị nói được điều gì đó về bản chất của
ngôn ngữ.
N. H: Nhưng ông cũng biết rằng
nỗ lực của ông một mình là không đủ.
N. N: Điều đó đúng vậy. Nhưng
chúng ta có khả năng đạt được nó - nếu chúng ta quyết tâm hiến dâng cái chúng
ta thường xuyên dằn vặt trong mình mà không cần chiếm giữ.
N. H: Tôi đã thử nghiệm trước điều
đó trong bài giảng có nhan đề ngôn ngữ mà tôi thực hiện một vài
lần trong những năm gần đây.
N. N: Tôi đã đọc một bài viết
về bài giảng đó, cả những ghi chép nữa.
N. H: Những ghi chép kiểu đó -
như tôi đã nhắc tới - là những nguồn đáng ngờ, kể cả việc người ta chuẩn bị chu
đáo nhất cũng vậy. Những ghi chép về bài giảng vừa nhắc tới cũng không thể khác
sự xuyên tạc điều đã nói.
N. N: Ông hiểu thế nào sự phán
xét nghiêm khắc này?
N. H: Việc đó không liên quan
đến những ghi chép, nó là sự phán xét liên quan đến việc phổ biến không rõ ràng
bài giảng.
N. N: Đến mức nào?
N. H: Bài giảng không nói về ngôn ngữ. . .
N. N: Mà là về cái gì, thưa
ông?
N. H: Nếu tôi trả lời được cho
ông thì đám mây mù bọc lấy con đường cũng sáng lên. Nhưng tôi không trả lời
được. Nguyên nhân việc này cũng chính là cái cho đến lúc này đã ngăn cản tôi
không đưa in bài giảng.
N. N: Sẽ là sự bất nhã nếu tôi
cứ dò hỏi nguyên nhân. Việc ông hiểu từ ngôn ngữ của tiếng Nhật, và nói về
thông điệp sự mở ra của tính chất hai mặt cũng như về thực chất sứ giả của con
người đã giúp hình thành nên giả thiết của tôi rằng: việc cải biến vấn đề liên
quan đến ngôn ngữ thành sự suy ngẫm liên quan đến bản chất của sự nói nghĩa là
gì?
N. H: Ông thứ lỗi, tôi sống
kiệm lời với những điều có thể dẫn tới việc lý giải bản chất của sự nói.
N. N: Để làm được việc đó, cần
phải lang thang ra ngoại vi của bản chất sự nói.
N. H: Trước hết là như vậy.
Nhưng bây giờ tôi đã nghĩ trước một cái gì khác. Cái khiến chúng ta dè dặt đó
là việc quan tâm ngày càng nhiều tới cái không thể đụng đến đang che giấu điều
bí ẩn của sự nói. Chỉ với việc soi sáng cái khác biệt giữa nói và sự nói về một cái gì đó thì chúng ta không đạt được gì nhiều.
N. N: Những người Nhật Bản
chúng tôi có khả năng trời cho - tôi có thể nói như vậy - để hiểu sự dè dặt của
ông. Một điều bí mật chỉ là điều bí mật khi chưa ai biết nó là điều bí mật.
N. H: Đối với những kẻ nông nổi
cũng như người thận trọng đều cần nó tỏ ra như là không hề bí mật.
N. N: Nhưng chúng tôi đang ở
trong tình trạng nguy hiểm là người ta không chỉ nói quá to về điều bí mật, mà
còn phạm sai lầm là chống lại sự tồn tại của nó.
N. H: Bảo vệ được nguồn gốc
trong sáng của nó là việc làm khó nhất.
N. N: Nhưng có được phép vì
thế, lựa chọn những con đường đơn giản nhất của sự nỗ lực và lòng can đảm - mà
chúng ta không cần nói về ngôn ngữ?
N. H: Dứt khoát không được.
Chúng ta cần cố gắng liên tục nói nhiều về ngôn ngữ, cho dù những cuộc nói như
vậy tất nhiên không bao giờ đạt đến hình thức của một cuộc hội thảo khoa học.
N. N:. . . bởi vì qua đó mà việc
đòi hỏi dễ trở nên quá cứng nhắc.
N. H: Đó sẽ là sự mất mát nhỏ
nhất. Có một điều khác trầm trọng hơn: có chăng lời nói về ngôn ngữ?
N. N: Hành động của chúng ta
chứng tỏ rằng có.
N. H: Tôi sợ rằng có quá nhiều.
N. N: Vậy thì tôi không hiểu
nỗi lo lắng của ông.
N. H: Việc nói về ngôn ngữ gần như làm cho ngôn ngữ trở thành đối tượng của nó
một cách không tránh khỏi.
N. N: Vậy là bản chất ngôn ngữ
mất đi.
N. H: Chúng ta đến với ngôn ngữ
thay vì chúng ta lắng nghe nó.
N. N: Thế thì có lời nói từ ngôn ngữ. . .
N. H:. . . bằng cách lời nói
gọi từ bản chất của ngôn ngữ và dẫn đến đó.
N. N: Làm sao mà chúng ta có
khả năng đó?
N. H: Lời nói có từ ngôn ngữ chỉ có thể là cuộc nói chuyện.
N. N: Rõ ràng chúng ta đang vận
động trong đó.
N. H: Nhưng có phải đây là cuộc
nói chuyện từ bản chất của ngôn ngữ?
N. N: Tôi thấy hình như bây giờ
chúng ta đang đi vòng. Bản chất của ngôn ngữ cần phải gọi là cuộc nói chuyện có
từ ngôn ngữ. Làm sao có thể nắm bắt được nó mà chúng ta lại không phải tham dự
trước vào việc lắng nghe ở đó cái lan ra tận bản chất của nó.
N. H: Tôi đã có lần gọi mối
quan hệ đặc trưng này là vòng chú giải.
N. N: Cái vòng này trong tường
giải học - tức là ở nơi mà theo sự lý giải của ông thì mối quan hệ giữa thông
điệp và sứ giả được duy trì - có ở khắp nơi.
N. H: Sứ giả phải đến từ nơi có
thông điệp, nhưng trước hết anh ta phải đi đến chỗ nó.
N. N: Dường như trước đây ông
đã nói rằng cái vòng này là không thể tránh khỏi. Thay cho việc tránh cái mâu
thuẫn thuộc về logic được nói đến, sứ giả phải đi đến tận cùng hay sao?
N. H: Rõ ràng là như vậy. Nhưng
sự thừa nhận tất yếu cái vòng tường giải vẫn không có nghĩa là sự chiêm nghiệm
có được bằng việc đó cũng xảy ra.
N. N: Tức là ông từ bỏ quan
niệm cũ của mình?
N. H: Đúng vậy. Ở mức mà lời
nói về cái vòng vẫn luôn luôn ở bề mặt.
N. N: Ông mô tả như thế nào bây
giờ sự liên quan tường giải học?
N. H: Tôi kiên quyết tránh xa
sự mô tả giống như tránh nói về ngôn ngữ.
N. N: Thế thì tất cả đều phụ
thuộc vào sự thành công của việc đến với sự nói phù hợp có từ ngôn ngữ.
N. H: Sự phù hợp có được trong
việc nói như thế chỉ có thể là cuộc nói chuyện.
N. N: Nhưng rõ ràng chỉ là cuộc
nói chuyện hoàn toàn đặc trưng.
N. H: Một cuộc nói chuyện mà
cái riêng của nó làm bản chất của việc nói.
N. N: Thế thì chúng ta không
còn có thể gọi mọi lời nói với nhau là cuộc nói chuyện được nữa. . .
N. H:. . . nếu từ nay chúng ta
nghe cái tên gọi này như là để gọi sự tập hợp dành cho bản chất của ngôn ngữ.
N. N: Trong ý nghĩa này thì
những cuộc đối thoại của Platon không phải là những cuộc nói chuyện hay sao?
N. H: Tôi xin để ngỏ câu hỏi
này và chỉ nói rằng thực chất của một cuộc nói chuyện được xác định từ nơi mà những người nói bị bắt chuyện.
N. N: Ở nơi mà bản chất của
ngôn ngữ là sự nói bắt chuyện con người. Ở đấy điều đó mang lại cuộc nói chuyện thực sự. . .
N. H:. . . cuộc nói chuyện không
nói về ngôn ngữ, mà là nói từ trong nó,
thích ứng từ bản chất của ngôn ngữ.
N. N: Trong khi trở thành ý
nghĩa lệ thuộc thì cuộc nói chuyện được mô tả, có trước mặt chúng ta hay như là
cái được nói đến, đã vang lên từ lâu.
N. H: Chắc chắn như vậy, bởi vì
tất cả đều tuỳ thuộc vào việc cuộc nói chuyện thực sự này - cho dù là viết ra
hay nói, hoặc không - có liên tục còn lại trong tương lai không?
N. N: Diễn biến của một cuộc
nói chuyện như thế này cần phải có tính chất riêng, theo đó nó cần phải lắng
nghe hơn là kể lại.
N. H: Trước hết nghe về sự lắng
nghe. . .
N. H: Ai có khả năng chỉ lắng nghe
về sự lắng nghe một cách đơn giản?
N. N: Việc này cần phải trở
thành sự nói thực sự. . .
N. H:. . . và làm sự mở đầu không
ngừng của cuộc nói chuyện thực sự từ ngôn ngữ.
N. N: Phải chăng chúng ta đang
thử làm cái không thể được?
N. H: Tất nhiên thôi; chừng nào
đối với con người cái phương thức đưa tin không rõ ràng mà thông điệp lại cần
đến nó, cái thông điệp tin cậy giao cho con người mở ra tính hai mặt của nó.
N. N: Việc đó đối với tôi xem
ra có vẻ khó hơn, đến mức không thể so sánh được với sự phân tích bản chất
của iki.
N. H: Đúng vậy. Bởi vì cái gì
đó cần phải xảy ra để thông qua nó sự rộng rãi xuất hiện và soi sáng cho việc
đưa tin, trong đó bản chất của sự nói nổi lên.
N. N: Cái gì đó cần phải làm
trấn tĩnh được cái tưng bừng của sự rộng mở đưa nó vào mối liên kết của sự nói.
N. H: Mối quan hệ bí ẩn giữa
thông điệp và sự đưa tin tác động đến tất cả bằng trò chơi của nó.
N. N: Có một nhà thơ vô danh
Nhật Bản xa xưa đã hát về sự toả hương vào nhau trên cùng một cành giữa hoa anh
đào và hoa mận.
N. H: Tôi cũng nghĩ như thế về
bản chất giữa sự rộng mở và sự yên tĩnh trong cùng một sự kiện đưa tin về việc
mở ra của tính chất hai mặt.
N. N: Thế nhưng ai là người có
khả năng trong số những người hôm nay nghe được sự vang lên của bản chất ngôn
ngữ trong cái mà từ koto
ba của chúng tôi gọi tên: đó
là những cánh hoa có được từ thông điệp của sự duyên dáng sáng tạo.
N. H: Ai là người có khả năng
tìm được sự minh bạch có thể dùng của bản chất ngôn ngữ.
N. N: Ông sẽ không tìm được
chừng nào ông muốn có được sự chỉ đường trong dung mạo của các luận cứ và lời
đầu đề.
N. H: Nhưng một số cái có thể
đưa vào sự mở đầu của sự đưa tin, nếu chúng cho thấy sẵn sàng cho cuộc nói
chuyện có từ ngôn ngữ.
N. N: Tôi cảm thấy hình như
thay cho lời nói về ngôn ngữ giờ đây chúng ta cũng đã thể nghiệm một vài bước
đi trên con đường tin vào bản chất của sự nói.
N. H: Và bản chất của việc đó
nói vâng. Chúng ta hãy mừng nếu không chỉ có vẻ như vậy, mà còn đúng
như vậy.
N. N: Cái gì xảy ra, nếu đúng
như vậy?
N. H: Lúc đó phải từ biệt với
tất cả cái đang có.
N. N: Nhưng ông không nghĩ sự
từ biệt như là sự thất bại và phủ nhận chứ?
N. H: Dứt khoát không phải.
N. N: Vậy thì là cái gì?
N. H: Là cái sẽ đến đã có?
N. N: Nhưng quá khứ là cái đã
trôi qua, đã trôi qua thì làm thế nào để đến?
N. H: Cái đã trôi qua khác với
cái đã có.
N. N: Chúng ta nghĩ như thế nào
việc đó?
N. H: Sự tập hợp cái còn lại.
N. N:. . . cái còn lại - như cách
đây không lâu ông đã nói - như là sự ấn định thời gian. . .
N. H:. . . và cái đó giống như là
thông điệp. . .
N. N:. . . nó gọi chúng ta là người đưa tin.
M. Heidegger
Trương Đăng Dung dịch
từ bản tiếng Hungary: J. A. Tilliman, Útban a nyelvhez,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét