Đoàn Văn Cừ: Đường về
quê mẹ
Một trong những bài
thơ hay nhất thế kỷ 20
Tháng 5 năm 2007, Nhà xuất bản Gíao dục và Trung tâm văn hóa Doanh
Nhân cho ra đời tuyển tập 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20. Một tháng sau (6.07),
Nxb Hội nhà văn cũng cho ấn hành Tuyển tập thơ chọn lọc thế kỷ 20. Cả hai tuyển
tập đều chọn bài thơ Đường về Quê Mẹ - một trong ba thi phẩm xuất sắc của nhà
thơ Đoàn Văn Cừ (2 bài kia là Đêm hè, Chợ tết).
Người phụ nữ
thời xưa thường dùng (cái) thúng - đan bằng tre, vành cạp mây - đựng đồ vật để
buôn bán hay di chuyển, mang đi. Thi sĩ Nguyễn Vĩ đã viết trong Gửi Trưong Tửu:
’’Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ ra chợ bán văn ngày tháng qua’’
(3). Lần về này, mẹ mang thúng đựng qùa tặng Thầy, U và người thân.
Vì trọng lượng thúng nhẹ - dăm ba cân, đi gần - mẹ cắp bên hông chứ không đội.
Người mẹ mà
nhà thơ miêu tả - dắt theo mấy đứa con (...dẫn chúng tôi...), chắc thời con gái
mẹ đẹp lắm. Bây giờ dù đã có đàn con, nhưng nhìn trang phục: Yếm thắm, khuyên
vàng, áo the nâu và ’’má (vẫn) đỏ ău’’, cậu bé có cảm nhận mẹ mình vẫn như thời
con gái! Dưới cái nhìn của câu, người mẹ thân yêu thật đẹp. Đó cũng là hình ảnh
của những người mẹ trẻ đương thời, vì khi nhà thơ viết ĐVQM đã ở tuổi 29 (1913
- 1942). Kí ức về mẹ của tác gỉa chỉ còn rất ít, vì khi theo mẹ về quê ngoại,
nhà thơ mới 5 tuổi...
Tà áo nâu in
giữa cánh đồng
Gío chiều
cuốn bốc bụi sau lưng
Bóng U như
bóng người thôn nữ
Cúi nón mang
đi cặp má hồng
Về làng, mẹ
con phải vượt qua cánh đồng. Tấm áo the nâu của mẹ mỏng tang. Gío chiều thổi
mạnh, cuốn bốc bụi sau lưng. Mẹ khép mình, như tránh những làn bụi hắt vào thân
thể. Cúi đầu, kéo nón che cả khuôn mặt để tránh bụi bay vào mắt. ’’Cúi nón’’ -
khiến che cả má hồng của mẹ. Trông mẹ như e ấp… cậu bé cảm
thấy mẹ mình như bao cô gái quê ở tuồi cập kê - khép nép, dịu dàng…
Chiều mát,
đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người
về ấp gánh khoai lang
Trời xanh ,
cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều
phơi xác lá bàng.
Làng Đô
Quan, phía nam là vùng đất trũng chỉ trồng được lúa. Phía bắc giáp với các làng
Thôn Nội, Liên Tỉnh… là vùng đất cao, pha cát, thích hợp trồng hoa mầu nên dân
cư không trồng lúa...
Khoai lang
của vùng đất pha cát - rât đặc biệt: Củ to bằng bắp chân người lớn, nặng từ 300
đến 1 kilô. Có nhiều củ nặng đến vài ba kí lô. Khi luộc, bột khoai bở, nuốt
phát nghẹn. Có loại khoai nghệ, luộc chín, bóc vỏ, ruột khoai vàng như nghệ,
đường tứa ra ngọt như tẩm mật nên dân Nam Định gọi là khoai nghê – khoai mật.
Thời gian mẹ
về quê vào buổi chiều nên gặp nhiều nông dân bới khoai gánh về thôn ấp. Chiều
quê hương thật đẹp: Bầu trời xanh cao thăm thẳm, từng đàn cò trắng bay về tổ,
in trên nền xanh làm nổi hẳn những cánh cò trắng phau. Qua chiếc chợ ở đầu làng
(người mua kẻ bán đã về hết), nhựng chiếc lêu qúan xiêu vẹo ngập xác lá (cây)
Bàng, thứ cây thường được trồng ở những nơi dân cư tụ tập (chợ, trường học,
đình làng…) để lấy bóng râm, che cho người đứng dưới mát mẻ, giảm oi nồng trong
mùa hè nóng nực.
Qua khỏi
chợ, mẹ con tiến vào làng:
Tới đầu làng
gặp những người quen
Ai cũng khen
U nết thảo hiền
Dẫu phải
theo chồng thân phận gái
Đường về quê
mẹ vẫn không quên.
Người mẹ trẻ
gặp bà con chòm xóm. Ai cũng vui mừng hồ hởi vì biết nàng dù đã đi lấy chồng
nơi xa nhưng vấn về thăm quê hương, tổ tiên, ông bà, cha mẹ . Thơi xa xưa, dân
ta đã tổng kết: ’’Con gái là con ngưòi ta’’. Con gái gả chồng coi như ’’bát
nước đổ đi’’. Trên thực tế: Người con gái lấy chồng phải đổi họ, phải gánh vác
’’giang sơn’’ nhà chồng. Gánh nặng cuộc đời đè nặng trên vai gầy của người đàn
bà tần tảo, nghèo khiến họ không còn khả năng giúp đỡ bố mẹ đẻ…
Bố mẹ đẻ
cũng cưới con dâu cho em (anh) trai cô gái đã đi ở riêng. Người con dâu kia
cũng lặp lại theo chu kì mà con gái ông bà đã đi. Đây chính là quy luật cuộc
đời, là cái ’’nợ đồng lần’’ mà tất cả mọi gia đình trong cộng đồng tộc Việt đều
chia sẻ.
Theo nhiều
tư liệu: Đoàn văn Cừ sinh năm 1913, mồ côi mẹ từ lúc 5 tuổi. Cũng giống Nguyễn
Bính, dù mất mẹ lúc còn nằm trong nôi, cũng viết về mẹ rất hay (bài Lòng Mẹ).
Người Mẹ trong thi ca của cả hai nhà thơ đất Nam Định đều được người đọc Việt
Nam tán thưởng đến xúc động.
’’… Nói
nhiều đến từ "thật" là vì gần đây một nhà thơ khi bình thơ Đoàn Văn
Cừ có nói: Đường về quê mẹ là bài thơ nhiều màu sắc, đủ 12 màu như bài Chợ tết,
và Đoàn Văn Cừ lấy hình ảnh của những thiếu nữ nông thôn đương thời để viết về
mẹ mình ngày xưa, tạo nên hình ảnh người phụ nữ nông thôn tiêu biểu thời xưa.
Nói như thế
thật không thấu lý đạt tình’’
(Mẹ trong
thơ Nguyễn Bính và Mẹ trong thơ Đoàn Văn Cừ - Trần Ngọc Thụ (*)
Có rất nhiều thí dụ về sự sáng tạo của nhà Thơ.
Nhân vật - Thật - Gỉa gắn quyền - tạo ra nhân vật sống động, trường hợp này là
’’GỈA’’, nhưng trường hợp khác lại hoàn tòan ’’THẬT’’… Dù Gỉa đấy,
nhưng là hình ảnh của nhiều người được tác gỉa chắt lọc xây dựng lên. Người nữ
du kích trong Núi Đôi của Vũ Cao, được sáng tạo từ những
anh hùng liệt sĩ khác… Ngược lại, nhân vật ’’nàng’’
trong Mầu Tím Hoa Sim của Hữu Loan - lại là bản sao thật của người
vợ trẻ của nhà thơ…
Cũng như vậy
- Bài Chợ Tết nổi tiếng cũng của Đoàn Văn Cừ - không phải cảnh chợ tết ở quê
hương nhà tho. Vì huyện Nam Trực không có núi đồi đề miêu tả ’’Trên con đường
viền trắng mép đồi xanh’’. Điều này cũng đã đưọc cụ Đoàn nói rõ trong một bài
phỏng vấn của phóng viên Văn Nghệ - ND.(khi đó cụ Đoàn đã yếu lắm, phải trò
truyện bằng bút đàm):’’…
Tôi hoàn
toàn đồng ý với ý kiến nhận xét của nhà thơ mà tác gỉa TNT không tán thành. Cụ
Đoàn Văn Cừ viết ĐVQM trên nền sự thật, cảnh thật mà tác gỉa nhìn thấy trên
đường về quê ngoại (làng Cổ Gỉa). Tuy cảnh phải nói là rất ’’THẬT’’, nhưng đã
được điển hình hóa của nhiều cảnh thật xung quanh, chứ không
phải cái thật cụ thể trên đường từ Đô Quan (quê nội) đến Cổ Gỉa (quê
ngoại). Đoạn đường này nằm ở phía tây , không có ’’Những giòng sông trắng lượn
ven đê’’, càng không có ’’cồn xanh bãi tía kề liên tiếp’’ - để nhà thơ dựng lên khung cảnh bài thơ
ĐVQM.
Bởi vì, khi
tác gỉa mới 5 tuổi, cụ bà - mẹ nhà thơ - đã mất. Một đứa trẻ 5 tuổi không có
nhận xét về mẹ… như các câu thơ của bài thơ. Sự thực, bài thơ được tái tạo vào
năm 1942 - lúc Đoàn Văn Cừ 29 tuổi. Tác gỉa kết hợp từ quan sát ’’thì’’ hiện
tại, với hồi ức của qúa khứ mới viết ra ĐVQM.
Bài thơ là
sự khái quát được kết tinh hoàn toàn do trí sáng tạo. Nói cụ thể hơn: Cái
’’thật’’ trong thơ chỉ là ’’Bột’’ đề ngòi bút tài năng gột nên ’’Hồ’’ –Đường về quê Mẹ!
Cũng giống
như Nguyễn Bính viết bài Lòng Mẹ. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hoàn toàn do
tác gỉa tưởng tượng ra trên nền của các hình ảnh diễn ra xung quanh, do người
thân, do dân cư trong vùng kể lại hoặc do chính Nguyễn Bính chứng kiến sau này.
Bà mẹ trong bài thơ Lòng Mẹ có cô con gái đi lấy chồng… trong khi NB mất mẹ từ
khi hãy còn ẵm ngửa.
Một chi tiết
khác: Tôi là người làng Xối Tây (Xã Nam Long), làng tôi và làng Đô Quan của cụ
Đoàn (Xã Nam Lợi) - chỉ cách nhau 1 cánh đồng (4). Quê ngoại của cụ là làng Cổ
Gỉa (…) – nằm ở phía tậy, phía trong 2 xã kia, gần đưòng tỉnh lộ số 55. Cổ Gỉa
nằm cách xa đê sông Hồng nên không có ’’những giòng sông… lượn ven đê’’, không
có ’’cồn xanh, bãi tía’’. Nhưng từ làng Đô Quan đi ra phía đê sông Hồng, nghĩa
là ngược hướng với Cổ Gỉa (quê ngoại) , thì cảnh trí này toàn là… thật – như
câu thơ đã viết.
Hỏi: Ông
đã lấy những hình ảnh phiên chợ tết quê mình để viết bài thơ Chợ Tết phải không?
Trả lời:
Phải vậy cũng không phải vậy… Từ năm tám tuổi tôi đã thích theo mẹ đi chợ. Có
những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở giữa trời đất. Những
cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì... chứ đâu chỉ có ở quê mình.
Cái chợ này là hồn vía của người Việt Minh ở miền bắc. Mấy năm trước bên làng
Lao có một đoàn người sang gặp tôi bảo rằng đó chính là phiên chợ của làng họ.
Họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ…’’ (*)
Nói tóm lại:
Các bài thơ hay nhất của Đoàn Văn Cừ đều là thơ miêu tả khung cảnh đồng quê
Việt Nam. Trước hết được tác gỉa sáng tạo trên nền của cái ’’Thật’’.
Có điều vốn sống của nhà thơ qúa dồi dào, tài năng, công với sự quan sát kỹ
càng, tỷ mỉ, sâu sắc, nắm bắt được cái thần - bản chất của người và vật, xử
dụng ngôn từ tinh tế, dân dã… đã tạo ra tác phẩm thành công mĩ mãn.
Hầu như toàn
bộ sáng tác thơ của Cụ Đoàn trong 2 tập thơ Thôn Ca (I, II) - đều được thể hiện
theo phong cách tả cảnh. Dù là tả cảnh ’’sao chép… chụp ảnh’’, nhưng… người đọc
nhìn cảnh – sinh tình, cảm thụ đưọc hết vẻ đẹp của thôn quê Việt Nam. Vả lại,
dưới ngoài bút tài hoa, hiểu biết đồng quê, ’’Người thư kí thời đại’’ Đoàn Văn
Cừ đã mang đến cho người đọc cảm xúc rạt rào, nhận thức sâu sắc, đẩy khoái cảm
thẩm mĩ lên cao…
Điều quan
trọng hơn: Từ chủ đề rõ ràng, cấu trúc chặt chẽ, câu, ý thơ trong sáng khiến
hiệu qủa truyền cảm của tác phẩm thêm mãnh liệt. Hai câu kết của Đường Về Quê
Mẹ có thể đã vượt ra ngoài dụng ý của tác gỉa. Người đọc phải suy tư, đi đến
đồng cảm… Tận trong cõi sâu tâm hồn nhận ra - bài thơ đã chuyển ý, vượt ra khỏi
khuôn mẫu, bay bổng, kích thích trí tưởng: Đó là lời nhắn nhủ, là thông điệp
của tác gỉa chuyển đến mọi người đọc:
Dù đã đi
theo người…
Dù đã về làm
dâu nhà người…
Đừng bao giờ
quên Đường Về Quê Mẹ!
(1) - Nhà
thơ Nguyễn Bính cũng có bài thơ Chân Quê, cùng chủ đề về quê hương như Đường Về
Quê Mẹ:…
Hôm
qua em đi tỉnh về
Hương đồng
gió nội bay đi ít nhiều...
Cứ ăn mặc
thế cho vừa lòng anh…
Em ơi! giữ
lấy Chân quê!
Theo nhiều
người đương thòi với tác gỉa: Nguyễn Bính viết bài này nhằm phê phán một số nhà
thơ ’’mất gốc’’,’’cóp nhặt’’
phong cách
thơ nước ngoài (Pháp, Nhật…) - làm mất vẻ đẹp truyền thống của thơ
Việt…
(2) - Cùng 5
huyện phía nam (bên kia cầu đò Quan – sông Đào) với tỉnh Thái Bình - tạo nên
vựa lúa của đồng bằng châu thổ sông Hồng. 6 huyện phía nam: Nam Trực, Trực
Ninh, Hải Hậu, Xuân Trường, Giao Thủy, Nghĩa Hưng - đều chuyên canh trồng lúa
nước. Chỉ có vài xã giáp ranh với làng Đô quan (thuộc huyện Nam Trực) là trồng
mầu – cây công nghiệp.
(3) – Cái
thúng là một vật đan bằng tre, rất thông dụng ở nông thôn VN. Các bà, các chị
bỏ đồ vật, (thóc, gạo…) vào trong. Nếu di chuyển gần thì bưng, bê. Xa hơn –
vài cây số - cắp nách- Xa dăm cây số - đội. Xa mươi cây số thì bỏ
vào quang, gánh… .
(4) - Thời
kháng chiến chống Pháp, các thôn: Ngọc Tỉnh, Duyên hưng, Nam hưng, Bằng hưng,
Xối tây, Xối trì, Hạ lao, Đô quan - đều thuộc xã Nam Long. Sau năm 1954 xã chia
đôi thành Nam Long và Nam Lợi…
(*) – Hai
trích đoạn này lấy trong trang tác giả Đoàn Văn Cừ - của Google.
Lê Xuân Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét