Lãng Nhân Phùng Tất Đắc là
một cây bút tản văn tiêu biểu trước 1945. Ông được biết đến như một nhà phiếm
luận hài hước, thâm thúy và sâu sắc. Tính chất phiếm trong tản văn của ông được
thể hiện ở các thao tác kết cấu tác phẩm (phiếm luận đa chiều), ở thái độ của
chủ thể lời (phiếm luận hoài nghi), ở màu sắc thẩm mĩ của tác phẩm (phiếm luận
trào phúng). Phùng Tất Đắc là một trong số ít người viết tản văn tạo lập được
phong cách riêng. Tác phẩm của ông có đóng góp lớn cho sự định hỡnh thể loại
và khai mở những hướng đi cho tản văn hiện đại Việt Nam.
1. Mở đầu:
Lãng Nhân Phùng Tất Đắc được
nhắc đến như một nhà phiếm luận cho dù sự nghiệp văn chương của ông tương đối
đa dạng từ văn sáng tác, khảo cứu, thuật chuyện danh nhân, cho đến văn dịch
thuật.... Trước 1945, ông cho ra đời hai tập Trước đèn (1939) và Chuyện vô lý
(1942), Trước đèn tập hợp những sáng tác đã in ở mục ''Trước đèn'' trên báo
Đông Tây, và Chuyện vô lý phần lớn cũng là những bài đã in ở mục ''Chuyện vô
lý'' của Đông Dương tạp chí . Sau 1945 Phùng Tất Đắc viết một số tác phẩm
như Chơi chữ , Giai thoại làng Nho , Chuyện cà kê; ngoài ra ông còn có
những công trình dịch thuật như Hán văn tinh tuý, Thơ Pháp ngữ chuyển dịch và
những tiểu chuyện danh nhân (kí bút danh Cô Nhi Tân). Chúng tôi không đặt mục
đích nghiên cứu toàn bộ những trước tác của Phùng Tất Đắc mà chỉ khảo sát chủ
yếu hai tập tản văn của ông là Trước đèn và Chuyện vô lý. Chính những tập tản
văn này đã đưa ông lên hàng những nhà cầm bút có tiếng trên văn đàn nửa đầu
thế kỷ XX. Một số tác phẩm sáng tác sau 1945 có thể vẫn tiếp tục một lối phiếm
luận riêng của Phùng Tất Đắc, nhưng tính chất khảo ( trong Chơi chữ), hay kiểu
đàm thoại thiếu tự nhiên, hơi gò ép (trong Chuyện cà kê)...đã làm mất đi cái
duyên phiếm luận mà ông đã có từ thời viết cho báo Đông Tây, Đông Dương tạp
chí, báo Ích Hữu; đồng thời những sáng tác ở giai đoạn này, chúng tôi nhận thấy
tính chất tản văn đã bị mờ nhạt, đi ra ngoài biên giới thể loại, pha trộn những
kiểu loại khác tạo nên những kết hợp mới.
Tác phẩm của Phùng Tất Đắc
nói chung và tản văn nói riêng mặc dù chiếm được sự hâm mộ trong lòng độc giả
nhưng lại ít được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình. Trước 1945,
trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan giới thiệu Phùng Tất Đắc cùng với Nguyễn
Tuân là hai nhà văn viết bút ký cứng cáp hơn cả. Sau 1945, Phùng Tất Đắc chủ
yếu được biết đến ở miền Nam; những tác phẩm của ông được tái bản, xuất bản,
được giới thiệu và trở thành đối tượng nghiên cứu phê bình của các văn sỹ và
học giả hoạt động ở miền Nam những năm sáu mươi, bảy mươi như Vũ Bằng, Tạ Tỵ,
Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân... Phần lớn các bài viết về Phùng Tất Đắc đều là những
suy nghĩ tản mạn về các sáng tác cụ thể hay là những kỷ niệm nhỏ gắn với cuộc
đời làm báo, cuộc sống bạn bè của ông. Cũng có thể nhận thấy qua các bài viết
này một số vấn đề liên quan đến đề tài, nội dung tư tưởng, phong cách ngôn ngữ,
tư chất sáng tạo, vấn đề bạn đọc... Riêng những sáng tác trước 1945 nhất là
Trước đèn được chú ý đặc biệt bởi nó định hình phong cách Phùng Tất Đắc trong
số những người cầm bút đương thời - phong cách phiếm luận. Đến nay, khi
nghiên cứu tản văn Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX chúng tôi chú ý đến
Phùng Tất Đắc như một đại diện cho khuynh hướng tản văn nghị luận mà về sau
ít có người kế tục được.
2. Nội dung:
Tác phẩm của Phùng Tất Đắc
là một loại tản văn chủ yếu dùng các thao tác của nghị luận để luận lẽ đời,
bàn thế sự, khác hẳn với kiểu tự sự của tản văn Nguyễn Tuân hay thiên về trữ
tình như tản văn Xuân Diệu. Nó có nhiều nét chung với tản văn Tản Đà cách đấy
hai mươi năm và cùng một lối suy tư với tản văn Chế Lan Viên trong Vàng sao
xuất bản cùng thời. Tản văn nghị luận thường là sự trình bày vấn đề thông qua
hệ thống luận điểm, luận cứ. Đối với văn nghị luận thông thường, yêu cầu hàng
đầu của hệ thống này là chặt chẽ, logic, mạch lạc, khuynh hướng tư tưởng rõ
ràng, giầu thuyết phục...Song ở tản văn, mượn hình thức kết cấu của nghị luận,
người viết có thể biểu hiện ý tưởng một cách phóng túng hơn, nhà văn có thể kể,
tả, bộc bạch tâm tình, do đó khuynh hướng tư tưởng có thể toát ra từ các hình
ảnh, các mẩu tự sự, các tình huống chứ không chỉ ở những phát biểu trực tiếp.
Mục đích của người viết có khi không nhằm đến sự thuyết phục mà là sự khơi gợi,
lay động người đọc bằng những cách biểu hiện giầu sức gợi, người đọc có thể
không bị chinh phục nhưng không ít thì nhiều có được những hối thúc trí tuệ,
những rung động tâm hồn. Trước đèn là tập tản văn nghị luận tương đối điển
hình. Ở Chuyện vô lý tính chất nghị luận nhạt, chú ý hơn đến sự vụ cụ thể nên
có người cho nó là tạp văn báo chí. Tuy nhiên ở cả hai tập trên, ta vẫn thấy
một lối lập luận, dẫn giải vấn đề khá độc đáo, sự bàn bạc phóng túng, tự do,
ngẫu hứng, nhiều khi không khoác áo một tư tưởng chính thống nào.Theo Vũ Ngọc
Phan, Phùng Tất Đắc hay bàn chơi về các vấn đề ''một cách nhạo đời và bỡn cợt''.
Có lẽ vì vậy tập tản văn quan trọng nhất của ông - Trước đèn được gọi là một
tập phiếm luận. Tính chất ''phiếm'' nổi trội tạo thành một đặc điểm phong
cách tản văn Phùng Tất Đắc.
Bàn phiếm về các vấn đề
không có nghĩa là nói một cách không đầu cuối, tản mác, lộn xộn, không đâu
vào đâu, trôi nổi, tạt ngang tạt dọc, không có chủ định, không nhất quán một
chủ đề (xét theo nghĩa của từ ''phiếm''). Nghĩa này có thể phù hợp trong những
cuộc giao tiếp thực tế. Biến một cung cách sinh hoạt trong cuộc sống thành một
thủ pháp nghệ thuật biểu hiện thái độ, quan niệm, cách nhìn, lối tư duy của
người sáng tạo, Phùng Tất Đắc đã làm nên một lối phiếm luận mà chỉ có những
người có kiến văn phong phú, có sự uyên bác về học thuật, có chủ kiến vững
vàng, có thái độ sống tích cực... mới có thể ''phiếm'' nổi. Có thể thấy sự lộn
xộn trong một trật tự, sự ''cà kê dê ngỗng'' trong một chỉnh thể toàn vẹn,
sự lang thang của thần trí trong một cảm hứng tư tưởng chủ đạo... tản văn
Phùng Tất Đắc đâu phải cách phiếm của những kẻ tán dóc mua vui lời nói gió
bay. Chính cách phiếm của ông đã làm cho Trước đèn ''không phải quyển sách
dành cho những người giải trí nhẹ nhàng'', nó có được ''một địa vị trong số
những sách đứng đắn'' [1]. Như trên đã nói, tản văn Phùng Tất Đắc chủ yếu
dùng các thao tác của nghị luận, ở đây có sự kết hợp lý lẽ và dẫn chứng,
nhưng không phải để thuyết minh một vấn đề mà để cuộc sống và con người hiện
hình lên một cách hồn nhiên, tự nhiên như nó vốn có, kéo người đọc xa rời những
định kiến và nhìn thẳng vào bản chất nguyên thuỷ của sự vật hiện tượng. Phùng
Tất Đắc là một học giả uyên thâm.Vốn tiếng Pháp và tiếng Hán cho phép ông tiếp
cận những tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, từ đó có một nhãn quan
khoáng đạt, thấu suốt đối với thế giới và con người. Tư tưởng triết học sâu sắc
và đạo sống dung hoà khiến ông vừa muốn tiếp cận bản thể đối tượng lại vừa
tách ra xa nó, nhìn nó một cách khách quan trong một tương quan rộng lớn với
lịch sử, thấy giá trị của nó đổi thay, biến hoá. Có lẽ chính năng lực nhận thức
thế giới ấy đã làm tất cả những màu sắc cao siêu, phù hoa bao quanh, che mờ
hoặc làm biến dạng đối tượng bị hài hước hoá. Nhìn chung, cách phiếm luận của
Phùng Tất Đắc có thể được quy vào ba dạng: phiếm luận đa chiều/phiếm luận
hoài nghi/ phiếm luận trào phúng.
a. Phiếm luận đa chiều
Thể loại tản văn cho phép
người sáng tác bộc lộ trực tiếp và nổi bật khuynh hướng tư tưởng, tính định
hướng trong tác phẩm rõ rệt hơn so với các thể loại khác. Tuy vậy, trong tản
văn Phùng Tất Đắc, người đọc nhận thấy khuynh hướng tư tưởng lại ẩn chứa
trong sự hiện diện đa chiều các ý kiến bàn luận mà nhà văn chủ động chọn lựa
nhằm lẩy nên chính kiến. Mỗi vấn đề được đặt ra, nhà văn bao giờ cũng nhìn nhận
ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ. Vấn đề được soi rọi từ nhiều phía khiến nó
hiện lên như một bức tranh lập thể, các khía cạnh của nó được tiếp cận từ nhiều
hướng ứng với nhiều quan niệm, nhiều cách đánh giá khác nhau. Có thể thấy với
cách thức này, Phùng Tất Đắc đã chiếm lĩnh vấn đề ở tầm bao quát, tạo điều kiện
tối đa trong khả năng hiểu biết có thể để trình bày vấn đề một cách toàn diện
và tương đối khách quan. Bàn về chữ ''trinh'', nhà văn đặt nó trong các quan
niệm từ Đông sang Tây, từ xưa tới nay. Nhà văn nêu quan điểm đạo đức phong kiến
''Chữ trinh đáng giá ngàn vàng'', quan điểm này được xuất phát từ quyền lợi
cũng như thói ích kỷ từ phía người đàn ông và được phục tòng tuyệt đối từ
phía người đàn bà. Nhà văn lại đặt chữ ''trinh'' trong quan niệm của thiếu nữ
xưa, đồng thời lại xem xét sự ứng xử của những cô gái mới đối với sự trinh tiết
trong quan hệ với tự do. Người ta còn thấy cách hiểu về chữ “trinh” trong
hành động bạo liệt của ông vua nhà Tần, trong sự mù quáng của cô gái đập sợi
trên bờ Lại Thuỷ, ở quan điểm của César. Trong tác phẩm, các tình huống đối lập
liên tiếp được đặt ra để giúp người đọc nhìn sâu vào bản chất vấn đề. Lối
trình bày vấn đề như vậy khuyến khích sự suy nghĩ của độc giả, nói như Dương
Tấn Tươi trong lời tựa Trước đèn là làm cho độc giả ''nhân đấy mà lập lấy một
lối suy nghĩ riêng của mình, thoát ra ngoài cái lối suy nghĩ nô lệ khuôn mẫu
của nghìn xưa''.
Để có thể trình bày được
nhiều hướng tiếp cận vấn đề, Phùng Tất Đắc thường kết cấu tác phẩm dựa trên
những ý kiến khác nhau, có khi đối lập nhau. Nhiều tác phẩm được tổ chức theo
kiểu toạ đàm các tiếng nói cá nhân hướng về một chủ đề chung. Thường thấy các
quan niệm khác nhau được nêu ra dưới hình thức các ý kiến, nhận định của nhiều
người. Nhà văn như một đạo diễn thiết kế những cuộc chuyện trò; trong cuộc
chuyện trò ấy, vấn đề được lật đi lật lại, được cày xới, được xem xét ở những
cảnh huống cụ thể. Trong bài luận về tính thẹn, Phùng Tất Đắc nói đến sự phát
sinh cũng như những cái ''lợi'' khi con người biết thẹn. Ông nêu ra một loạt
các ý kiến: cái ''rậm lục thưa hồng'' cần giấu đi vì đó là cái xấu, hàm chứa
sự tục tằn, là cái tự nhiên có sức mạnh vô cùng không nên khêu gợi...(Anatole
France); thẹn là do tục mặc quần áo mà ra (Spencer); thẹn do thấy người khác
loã lồ thì liên tưởng tới bản thân (một triết nhân); thẹn làm cử động tao
nhã, văn hoa (Balzac); đồng thời ông cũng đặt tính thẹn của con người ở nhiều
trạng huống: khi lâm vào cảnh nghèo đói và bệnh tật, thẹn là một huyễn
tưởng sẽ dễ mất đi, thẹn giữ gìn cho thân thể một điều bí mật, tô điểm khơi gợi
ái tình, thẹn làm người khác phát sinh tưởng tượng, là bí quyết giữ gìn hạnh
phúc... Mở đầu tác phẩm ông so sự phô phang hương nhuỵ của hoa với hành động
ngược lại của con người đối với bộ phận dùng cho sinh sản của cơ thể để từ đó
thấy được cái sự thẹn hàm chứa bao nhiêu bản tính loài người được sinh ra
cùng với phương cách ăn ở, sinh hoạt khác hẳn các loài khác. Có cảm giác
Phùng Tất Đắc né tránh mọi sự bình luận, giành quyền phán xét tối đa cho bạn
đọc. Tạ Tỵ nhận xét về cách nêu vấn đề của tác giả: “Lãng Nhân chỉ trình bày
như bức bích hoạ để mà ngắm, ai muốn hiểu sao cũng được” [2].
Bàn về ái tình và hôn
nhân, ông mở đầu bằng sự do dự của người Panurge về việc có nên lấy vợ hay
không. Tác giả đã trù liệu trước biết bao tình huống thông qua những quan điểm,
những lý lẽ của biết bao con người. Ông cho Ninon de Lenclos ''tranh luận'' với
Erophile; Bernard Shaw ''phản đối'' tác giả ca dao Việt Nam; rồi lần lượt các
ý kiến của De La Fouchardière, Napoléon, Alain, Schopenhauer, Taine được nêu
ra nhằm chứng minh hoặc biện bác cho những quan điểm như ái tình không đi
cùng hôn nhân, hôn nhân là điều bó buộc trái hẳn với tính người, sự vô lý của
hôn nhân... Chung quy lại, người thì ca ngợi sự bền lâu của ái tình, người
thì cho ái tình chỉ là một cảm giác dễ bị tiêu tán, thậm chí có người còn cho
ái tình liên quan đến phép vệ sinh của thân thể; còn hôn nhân, người thì cho
rằng cần lấy vợ, người thì coi hôn nhân còn thậm tệ hơn cả sự mua bán
vì '' mua bán chỉ có một bên bị lừa; lấy nhau, hai bên cùng bị lừa cả''
(Trước đèn/77)... Ở giữa một cuộc đàm thoại không hồi kết như vậy, thật khó
mà tìm được một đáp số chung. Vượt ra ngoài khuôn khổ của sự tranh luận đi
tìm bản chất ái tình và hôn nhân, nhà văn coi tất cả những hiện trạng phong
phú ấy là những mâu thuẫn và động lực duy trì cuộc sống xã hội, ''cho xã hội
dai dẳng mãi'' (Trước đèn/85). Dễ nhận thấy con mắt triết học chi phối quan
điểm của nhà văn, giúp ông vừa có thể có cơ hội trình bày toàn bộ sự đa tạp của
vấn đề lại vừa thống nhất được chúng trong một ý tưởng chung. Đương nhiên,
vai trò của đạo diễn bao giờ cũng là thông qua sự sắp xếp, thông qua bố cục
nêu bật được chủ kiến. Chủ kiến này như một trọng lực, một trục vô hình giữ
cho toàn cục dồn chứa nhiều tiếng nói mà vẫn không bị lan man, nhiều tiếng
nói nhưng không phải sự hỗn tạp.
Ở nhiều bài, cách nêu các
ý kiến này thường là cho một nhân vật nào đó cụ thể hoặc không cụ thể phát biểu.
Ngoài việc nêu ý kiến của các danh nhân, của những người nổi tiếng (ví dụ, ở
bài nói về sự ''thẹn lục e hồng'' nói trên, ông dẫn ý của Anatole France, của
triết nhân Spencer, của Balzac), kiểu dẫn lời một người nào đó không cụ thể rất
hay được dùng để nêu hoặc dự đoán những khả năng khác nhau của vấn đề: ''Có
người lại quy những sự trái ngược ấy vào từng loại...'', ''Có nhà thông thái
còn nghiệm ra một điều...'' (Đông Tây hai ngả); ''Nếu theo một vài nhà thông
thái...'', ''Nếu lại theo một vài kẻ lập dị...'' (Giá một cái đầu); ''Lại có
nhà triết nhân khác cho thẹn là vì...'' (Trước đèn/41). Những ý kiến này có
khi đồng thuận có khi trái ngược làm vấn đề trở nên phong phú, nhiều dạng vẻ,
được mở rộng, phát triển khiến người đọc có cảm giác được tự do tâm trí, suy
xét theo ý riêng, không bị gò theo một lối nghĩ nhất định như trên đã nói. Đọc
Phùng Tất Đắc người ta như cũng muốn tham dự, góp một tiếng nói vào những cuộc
toạ đàm đặc biệt này. Có thể thấy chính lối phiếm luận của ông đã khích thích
cao độ sự đối thoại từ phía bạn đọc.
Lối phiếm luận đa chiều có
lẽ đã khiến nhà văn rất dụng công trong việc thiết kế một mô hình kết cấu
sao cho lần lượt đưa ra những khía cạnh khác nhau của vấn đề mà vẫn không làm
cho bài tản văn trở thành một bài nghị luận khô khan, vẫn giữ được vẻ tự
nhiên, ngẫu hứng, uyển chuyển và bất ngờ thường thấy của những cuộc mạn đàm.
Chúng tôi nhận thấy có một số mô hình kết cấu điển hình như: kết cấu theo mô
hình vòng sóng, kế cấu phân nhánh, kết cấu đối lập. Những dạng kết cấu này thực
chất là những cơ chế liên tưởng được dùng để kết nối các hình ảnh, chi tiết
trong chỉnh thể tác phẩm.
Nhìn chung, lối phiếm luận
đa chiều, thái độ chấp nhận nhiều tiếng nói, dung nạp các ý kiến cho thấy một
cơ chế tinh thần tự do, biểu hiện một tinh thần thời đại của con người sống
trong một thế giới chung giàu sắc thái, cũng cho thấy một tầm nhìn rộng mở,
thoát khỏi những định kiến, những lối mòn trói buộc nhận thức con người. Khi
lý giải vấn đề, Phùng Tất Đắc đã đi từ việc thâu lượm những kinh nghiệm nhân
sinh của nhân loại từ Đông sang Tây, từ xưa cho tới nay kết hợp với những trải
nghiệm và suy luận của cá nhân để hình thành một cảm thức khoáng đạt và hiện
đại về con người ở cả đặc tính tự nhiên và xã hội của nó.
b. Phiếm luận hoài nghi
Vũ Ngọc Phan khi đọc Trước
đèn của Phùng Tất Đắc cho tác giả là người hoài nghi tuyệt đối [3]. Chúng tôi
cho rằng chính cách lật đi lật lại vấn đề, nhìn vấn đề ở nhiều phương diện,
nhiều chỗ dùng cách phản đề của Phùng Tất Đắc đã cho người đọc cảm giác về sự
hoài nghi. Song cũng cần phải thấy, lối phiếm luận của Phùng Tất Đắc phản ánh
một thái độ hoài nghi để kiếm tìm chân lý của một con người có óc suy nghĩ
độc lập, muốn kiến tạo một con đường riêng để tiếp cận bản chất của hiện tượng.
Đứng trước một vấn đề, nhà văn thường không chấp nhận những suy đoán, những
nhận định có sẵn, luôn tìm cách lập luận, tư biện, chứng minh theo những cách
nhìn mới; ông thường tranh luận với những chân lý phổ quát để đưa ra những kết
luận bất ngờ. Thậm chí ông còn lộn trái nhiều vấn đề để đi tới những khẳng định
khác thường, ví dụ như '' Đối với người thường, sống là phải quên ơn'' (Trước
đèn/111), ''Phải nên nhận rằng có hại nhau mới sống được'' (Trước đèn/121),
''Ở xã hội loài người, phải dù tẻ dù vui, dù thức dù ngủ, ai cũng dối trá,
lúc nào cũng dối trá. Cánh đồng lương tâm chỉ là một bãi tha ma, ngổn ngang nấm
mồ của những câu dối trá'' (Trước đèn/100)... Phùng Tất Đắc không phải là con
người chịu nô dịch tư tưởng, chịu đóng khung, lệ thuộc vào những phát biểu của
người khác - ông tiêu biểu cho một lối suy nghĩ hết sức hiện đại của con người
phương Đông trước nay vốn quen tôn sùng tiền nhân, phục tùng thánh ngôn vô điều
kiện, coi những gì người đi trước đã khám phá là những chân lý bất di bất dịch.
Khả năng sáng tạo ở Phùng
Tất Đắc chính là biết căn cứ vào những kinh nghiệm đã có của nhân loại, tự thấu
nhận bản chất sự vật hiện tượng bằng những thước đo mới. Trong quá trình ấy,
ông dẫn nhiều ý kiến của người khác để biện luận hay biện bác vấn đề,
đưa vấn đề vào những tình huống khác nhau, có những ví dụ cụ thể, chân
thật từ chính những trải nghiệm cuộc đời. Có lẽ chính điều này đã làm nên sức
cuốn hút của tản văn Phùng Tất Đắc, cuốn hút ở sự diễn giải chứ không hẳn là ở
những chân lý tự ngộ, bởi những điều ông kết luận chưa chắc đã gặp sự đồng
thuận của nhiều người. Ví dụ như những gì ông viết về sự dối trá, sự hại nhau
hay sự quên ơn nói trên. Xét trong một phạm vi nhất định, những điều nhà văn
nói tới có khi rất trái tai nhưng không phải hoàn toàn là vô lý bởi sự thật đời
sống, chớ trêu thay, lại đúng là như vậy.
Nguyễn Văn Xuân đứng từ
quan điểm văn hoá lịch sử đã truy tìm nguồn gốc nội dung tư tưởng trong hầu hết
những sáng tác trước, sau 1945 của Phùng Tất Đắc và chỉ ra cơ sở tinh thần có
ảnh hưởng lớn nhất chính là Nho giáo. ''Ông đã chọn Nho giáo và từ học thuyết
này vốn đã có cơ sở vững vàng trong văn hoá, tư tưởng, tập quán Việt Nam, ông
cố nghiên cứu và phát huy những điểm mà ông cho là có ý nghĩa, có giá trị, có
khả năng giúp cho nhân dân Việt Nam khỏi mất gốc, còn đứng vững được giữa cơn
gió điên loạn trên địa cầu...'' [4/ 27]. Trong Trước đèn và Chuyện vô lý, khó
mà nói được nhà văn chịu ảnh hưởng của một ý thức tư tưởng nào. Ông tôn trọng
và thâu nạp các quan điểm của cả Nho học và Tây học, song luôn nhìn nhận vấn
đề ở những hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là đặt nó trong thời điểm lịch sử hiện
tại có nhiều đổi thay, cho nên các quan điểm ấy có khi bị xem xét lại, bị phản
bác. Thái độ hoài nghi ở Phùng Tất Đắc là sự đặt lại vấn đề trong dòng chảy của
những biến thiên lịch sử.
Điều nổi bật hơn cả ở
Phùng Tất Đắc là sự thể hiện những kinh nghiệm làm người, nhìn thẳng vào kiếp
người để thể hiện cái ''hãnh diện làm người'' [5/30]. Từ tư tưởng này ông có
thể phủ nhận tất cả những luân lý cao ngạo, những ràng buộc xã hội che đậy bản
chất con người; nhiều điều trái tai hay nói ra thường bị cho là khiếm nhã
nhưng lại rất đúng với sự sinh hoạt tự nhiên của con người được ông nói thẳng,
nói trắng; những nét tâm lý thường tình nhiều khi đi ngược luân lý được ông
phân tích một cách thấu đáo...Ví dụ khi nói về sự phù hợp thể chất của con
người trong hôn nhân, nhà văn nhận thấy: ''Nay đem hai cơ thể ràng buộc vào
nhau trong suốt một đời, điều cần nhất, há chẳng phải là xét xem luật cung cầu
của hai cơ thể ấy có ngang nhau không hay sao! Điều cần nhất này lại là điều
mà hôn nhân tuyệt nhiên không lưu ý tới'' (Trước đèn/74). Điều này có lẽ
không thể có trong phát ngôn của nhà luân lý.
Chúng tôi cho rằng cách
nhìn của Phùng Tất Đắc dựa trên một thứ triết học về con người - con người với
tất cả sự cao đẹp hay tục tằn, với tất cả sự vinh quang, sung sướng hay nhọc
nhằn, cay cực của kiếp người, với tất cả khí chất, bản chất của con người bản
năng và con người xã hội. Chính điều này tạo cho ông một chỗ đứng để ''tranh
luận'' với các ý kiến khác, để biện luận, giải quyết vấn đề. Từ Trước đèn đến
Chuyện vô lý, có thể thấy tác giả đã đi từ quan niệm về con người nói chung,
con người có ý nghĩa về loại đến những con người cụ thể ở những cảnh trạng cụ
thể, tác giả ngày càng có xu hướng tiếp cận số phận con người ở khía cạnh xã
hội, đặc biệt là thảm cảnh của nó trong xã hội Việt Nam đương thời.
Sống trong một thế kỷ hoài
nghi như thế kỷ XX, nhiều giá trị truyền thống bị thay đổi, bị phá vỡ, khoa học
kỹ thuật phát triển kéo theo sự nhận thức lại các vấn đề về con người, các
trường phái triết học mới ra đời nhất là những quan niệm hiện sinh về tính ngẫu
nhiên, tính phi lý của thế giới, hay những luận điểm của chủ nghĩa thực chứng
về nguyên lý phân ly (không chấp nhận những quan niệm đã được chấp nhận, cho
dù chúng đã được thông qua và chấp nhận), những vấn đề về vô thức, về tính dục
của chủ nghĩa Freud... thì đối với chúng ta, thái độ hoài nghi của Phùng Tất
Đắc không có gì là lạ. Phùng Tất Đắc hoài nghi là để nhận thức lại vấn đề,
song hoài nghi nhiều khi còn là một cách để vạch trần sự thật. Nhưng nhiều
khi cũng thấy sự hoài nghi quá mức ở Phùng Tất Đắc dẫn đến những kết luận cực
đoan.
Song có lẽ hoài nghi không
phải là phương châm xử thế của Phùng Tất Đắc. Ông không phải là con người sống
hoài nghi để rồi phủ nhận tất cả mọi giá trị cuộc sống, làm ngơ với toàn bộ sự
tồn tại xung quanh. Ở nhiều bài, người đọc cảm nhận được tấm lòng tha thiết của
ông đối với thân phận con người, với những hoài bão trong sạch và thanh cao của
tuổi trẻ cũng như mong muốn có được sự cảm hiểu của nhân thế với những suy tư
của người nghệ sỹ. Như vậy, sự hoài nghi ở Phùng Tất Đắc là một cách để nhận
thức, một cách lĩnh hội cuộc sống, có khi là một thủ pháp để phiếm luận chứ
không phải là thái độ sống của người cầm bút bởi nhà văn vẫn mang căn cốt
tinh thần của một người gắn bó với sự sống, đại lượng với chúng nhân và một
tâm hồn vẫn luôn kiếm tìm tri kỷ, hạnh phúc, hy vọng.
Trong lịch sử tản văn Việt
Nam, chất trào phúng hầu như thiếu vắng, nói đúng hơn là chỉ có ở sáng tác của
rất ít tác giả, mật độ cũng không nhiều. Những cây bút có thể dùng lối nói bỡn
cợt để nói về bất kỳ một vấn đề gì kiểu như Phùng Tất Đắc thì quả rất
hiếm hoi.Lối bàn chơi đến mọi vấn đề của Phùng Tất Đắc tạo cho tản văn của
ông có thể biểu hiện nhiều sắc thái mà đặc biệt là sự châm biếm, nhạo, giễu.
Nếu trong Trước đèn, sắc thái châm biếm nghiêng về sự bỡn cợt bởi nhà văn hay
khơi sâu vào mặt trái của những vấn đề đã được đông đảo mọi người mặc nhiên
thừa nhận thì ở Chuyện vô lý, sắc thái châm biếm lại nghiêng về sự giễu nhạo,
đả kích bởi cảm hứng chủ đạo ở đây là sự phẫn nộ, phản đối và kèm theo đó là
thái độ phủ định. Dường như những chuyện vốn nghiêm túc thì nhà văn lại thấy
được những chỗ nghịch lý, những cái vốn cần đạo mạo, cần mũ cao áo dài thì
nhà văn lại gạt bỏ những che đậy để nhìn sâu vào bản tính thực, hạ bệ đối tượng.
Ngòi bút Phùng Tất Đắc, nhất là ở Chuyện vô lý, thường hướng vào những chuyện
hàng ngày xảy ra quanh mình, có khi là những việc thực có liên quan tới một
nghị định, một vụ kiện, một nhân vật tiếng tăm, một vụ án...Thể tài mang đậm
tính thế sự, song chất trào phúng không toát ra từ sự trình bày đời sống mà nằm
trong cách lý giải đời sống. Văn chương Phùng Tất Đắc cho người đọc cái thú vị
ở giọng nhạo đời của một con người biết thoát khỏi những ảo tưởng về cuộc đời.
Đối với Phùng Tất Đắc, đọc nhiều, nghĩ rộng, nhìn rõ “chân tướng” mọi sự có lẽ
là lý do khiến ông có đầy đủ bản lĩnh để có thể cười cợt, để có thể châm biếm
một cách bình tĩnh và thâm thuý. Mặt khác, có lẽ sẵn ý tưởng coi cuộc đời như
một tấn tuồng, “nhìn cuộc sống như một trò vui” [6/62] nên nhiều cái đối với
ông mất hết vẻ “linh thiêng”, trang trọng, cho dù đó là chuyện hôn
nhân, chuyện tôn giáo hay là chuyện chính trị... Khi đã quy mọi sự phát triển
kinh tế và tiến bộ xã hội đều là do ái tình bởi “bao nhiêu kỹ nghệ
trong xã hội hồ hết là để tô điểm cho ái tình” (Trước đèn/63), thì còn điều
gì mà nhà văn không bông lơn được nữa.
Nhiều bài trong tập Chuyện
vô lý lại cho thấy thái độ châm biếm của một con người có mối bất bình với những
bất công vô lý trong xã hội đương thời, mà thường nạn nhân, kẻ chịu thiệt là
những con người nghèo khổ, là dân đen. Như vậy đối tượng châm trích là những
kẻ đại diện cho tầng lớp trên của xã hội như các ông đốc, ông quan phụ mẫu,
ông phán ông hàn, bọn nhà giàu trọc phú, bọn học đòi , uốn mình theo Tây, những
kẻ tu hành sống sung sướng nhờ tiền của của dân...
Chúng tôi có thể phân tích
một số phương thức trào phúng mà Phùng Tất Đắc đã sử dụng trong tản văn để thấy
rõ hơn phong cách phiếm luận độc đáo của nhà văn này.
Tình huống nghịch lý.Xây dựng
tình huống nghịch lý là một thủ pháp thường gặp nhất là đối với những cây bút
trào phúng. Cái cười toát ra từ những nghịch cảnh, những cái chớ trêu, những
phản ứng tức cười của con người trong các tình huống đó. Trong Một vạn bạc bồi
thường, chuyện thầy tu đi kiện vì không được làm “nghề” thầy tu ở Hà Nội và
đòi bồi thường sự thiệt thòi một vạn đồng bạc, bản thân nó đã là một sự nực
cười. Những chi tiết kiểu như thầy tu đi kiện, nghề thầy tu, đòi bồi thường...quả
là đi ngược với chân tu không còn vương vấn cõi đời, tìm lẽ sống trong câu
kinh kệ. Hay là cảnh ông Hàn mất kim tiền, kim khánh trong Mất hết, tác giả dựng
nên tình huống ông Hàn bị kẻ cắp lấy mất hai thứ ghi nhận “công lao” đối với
triều đình, mà như thế nghĩa là mất hết “mất kim tiền, kim khánh, ông Hàn có
còn gì nữa đâu”, “khi đã mất cả kim tiền lẫn kim khánh, ông sẽ tất nhiên chỉ
là một người tầm thường”, “còn lấy đâu ra tín nhiệm”. Kim tiền, kim khánh như
một thứ đồ nguỵ trang của những quân lường đảo, đâu phải phản ánh thực chất
con người “Cho nên những quân lường đảo muốn lợi dụng lòng tin cẩn kia, chỉ
có việc đem ông cha, họ hàng, làng xóm ra phô, hoặc đem đồ chơi ra đeo, là đủ
làm nên công chuyện”. Người đọc hiểu ngầm ý của tác giả: các thứ phong tặng của
triều đình chỉ như một thứ đồ chơi được những kẻ gian trá dùng để hù doạ mọi
người. Đến đây đối tượng đả kích có lẽ không chỉ là ông Hàn bị mất cắp nữa rồi.
Cách lý giải ngược. Hàm ý
trào phúng toát ra từ sự lý giải các vấn đề không theo lôgic sự việc mà theo
một lôgic nằm ngoài chính sự, do nhà văn cố tình tạo ra và bản thân nhà văn
có thể cũng không tin vào tính đúng đắn của nó nhưng nó lại biểu hiện được một
cách chân thật thái độ đánh giá của người viết. Ví dụ, viết về việc hôn nhân,
nhà văn cho rằng những khoán ước, thủ tục trong việc một người đàn ông và một
người đàn bà lấy nhau được sinh ra bởi “ nhà luân lý cũng biết sẵn sự hôn
nhân khó theo, nên tìm hết mọi phương ràng buộc”, “ngay lúc lấy nhau, hai bên
đã không tin nhau rồi, nên mới phải cẩn thận đến thế”(Trước đèn/77). Những
cách hiểu thường được mọi người thừa nhận về phép tắc của hôn nhân có thể đi
ngược với những điều nhà văn đã viết. Không bàn về những cái đẹp cái hay cũng
như tính văn hoá của hôn nhân, nhà văn đi theo một hướng khác mà hôn nhân chỉ
là một cái cớ để biện luận: bản tính dễ thay đổi của con người. Như vậy, điều
mà nhà văn quan tâm lại chính là những biến động tâm hồn cũng như thể xác của
con người trong quá trình hôn nhân. Thảm cảnh vỡ đê, lụt lội của dân đen cũng
là cơ hội làm giàu cho các bậc phụ mẫu chăn dân, nhìn vào nghịch cảnh ấy, nhà
văn “giải thích” cho dân rằng: “Dân đen có đói rách, mựa chớ phàn nàn. Nỗi
đói rách của mình đã tạo nên phú quý cho biết bao nhiêu người rồi, thì cũng
nên vui lòng mà tự nhủ rằng cái bổn phận dân đen là phải hiểu: hy sinh là
nghĩa lớn!” (Trời ra tai là trời sinh phúc). Dân lầm than do quan tắc trách,
quan kiếm lợi trên nỗi đau con người, còn nạn nhân lại phải có nghĩa vụ hy
sinh cho những kẻ chăn dân bất lương. Rõ ràng, dụng ý người viết đi ngược
với lý lẽ được nêu ra, logic của cách hành văn đi ngược với thâm ý của tác giả.
Có thể thấy, cách lý giải ngược thường được dùng nhiều trong những trường hợp
nhà văn muốn châm biếm một cách kín đáo, nó giống như một sự khơi gợi, một
cái đòn bẩy tác động vào tư duy người đọc, người đọc tự nhận thức vấn đề.
Cách so sánh hạ bệ. Cách
so sánh này thường thấy khi muốn giễu, muốn châm chọc thẳng thừng một đối tượng
nào đó. Các đối tượng đứng cạnh nhau tạo một sự liên tưởng nhất định, mà thường
vế bị đem ra so sánh là những loại được cho là tốt đẹp, thanh cao còn vế dùng
để so sánh là những thứ thấp hèn, tục tĩu, tầm thường.
Nhân một sự việc có thật
là sự phản ứng của một số thày tu đối với nghị định ngày 1/7/1936 của thành
phố Hà Nội cấm nhà tu làm “nghề tu” trong các đền đài Hà Nội, nhà văn viết
bài Một vạn bạc bồi thường để đả kích những loại thầy tu đi tu không phải vì
mộ đạo mà chỉ mưu lợi. Tác giả dùng phép so sánh liên tưởng: “Hà Nội thật có
nhiều nghề. Có nghề nữ kỵ binh, có nghề thày dạy nhảy, nghề thày bói tân thời,
có nghề làm “bình dân”(Hồi ấy ở bên Pháp , mặt trận bình dân lên cầm quyền-
chú thích của tác giả). Nay lại có nghề làm thày tu”. Gọi đi tu là một nghề
đã hàm chứa ý nói đi tu là để kiếm sống. Lại đặt nghề thày tu cạnh những “nghề”
mới nảy sinh trong xã hội, mà lại toàn những nghề đáp ứng nhu cầu của các trọc
phú, thậm chí có những nghề mượn danh nghĩa của những cái cao quý để hô hào hốt
bạc, nhà văn đã ngầm chỉ cho người đọc thấy bộ mặt thật của những kẻ núp bóng
phật đài kia. Tương tự như vậy, nhà văn gom các hạng người vừa cặn bã vừa thiếu
nhân cách vừa kiếm trác bất lương vào cùng một dạng với thày tu: “Đấng thánh
hiền là đấng cao xa, cái lượng dung người rất lớn. Thôi thì bợm già, đĩ lũa,
thôi thì quan sang nhà giàu, ai ai cũng nấp được vào bóng thánh hiền. Nữa là
nhà tu đã tu có cấp bực rồi mà lại bị cấm không được vào nấp bóng, há chẳng
phải bất công lắm sao!”.
Kiểu so sánh hạ bệ này thường
được đem ra để giễu nghề viết văn, đúng hơn là những thói xấu trong nghề. Vế
đem ra so sánh với nghề văn thường là...hàng tôm hàng cá. Trong bài Tình hữu
ái tác giả vạch ra một quy luật: “Chưa từng thấy có ai cạnh tranh với kẻ khác
nghề!”, đồng thời đưa ra một ví dụ: “Chưa từng thấy nhà báo (chẳng hạn) lại cạnh
tranh với hàng cá... trong nghề buôn bán (còn trong ngôn ngữ lại là khía cạnh
khác)”. Ở một bài khác, tác giả viết: “Cùng làm một việc chửi nhau mà hàng cá
với nhà văn, khinh trọng khác nhau như trời bể” (Lấy danh nghĩa)
Cách dùng từ đối nghịch sắc
thái. Đây là cách đặt những từ hoặc cụm từ có sắc thái nghĩa đối nghịch với
tình huống đang được nói tới. Những kiểu kết hợp từ như “cái nọc khoa cử” (Hỏng
thi), “loài đạo đức”(cả câu: “Những nhà tu hành đạo đức cũng có thể gây ra giống
mà không phạm giới, bấy giờ ta sẽ có một loài mới: loài đạo đức”), “nạn hôn
nhân” (Con khoa học)...được nhà văn sử dụng để nêu bật hàm ý giễu. Ở nhiều
câu khác chúng ta có thể thấy rõ khả năng gợi cảm của các từ có sắc thái
nghĩa đối lập là rất lớn: “Bụng nhân từ phải rử bằng vui thú” (Trước
đèn/150), “Ai hay rằng bệnh thiếu tiền còn giúp ta trở nên cao thượng nữa.
Bác thuyền chài kia ở vùng Nam Định, bắt được quả tang vợ có ngoại tình, mà
tha thứ cho cả gian phu lẫn dâm phụ: bác không có tiền đi kiện!” (Bệnh thiếu
tiền), “Đạo làm mẹ, làm bà ngày nay là gì? Là giữ mình còn son như con như
cháu” (Trước đèn/65), “Nay bỏ Hà Nội mà đi ư? Nghề thầy tu còn gì là thú nữa!”
(Một vạn bạc bồi thường), “Chẳng những không ai thương, người ta còn muốn đem
giam lại nữa. Phải, giam lại, vì người ấy (kẻ ăn mày đầu đường xó chợ- LTM)
phạm một tội lớn: dám công nhiên phản đối chữ bình đẳng và bác ái của loài
người”. Chính những từ này (được tôi gạch dưới - LTM) là trọng tâm diễn tả tư
tưởng, thái độ, cảm xúc của tác giả, chúng như một thứ kí hiệu đặc biệt mang
một mã tinh thần nằm ngoài nghĩa bề mặt thông thường. Từ “rử” với nghĩa cần
phải có một thứ “mồi” mới kích thích được hành động trái ngược hẳn với “nhân
từ”- lòng thương người tự nguyện, không cần một điều kiện hoán đổi nào. Sắc
thái nghĩa đối nghịch này tạo nên một sự phản cảm đối với kiểu từ thiện- mua
vui thường thấy. “cao thượng”, “tha thứ” đều là những từ chỉ sự độ lượng của
con người, trong Bệnh thiếu tiền lại được dùng để gợi ra nỗi bất lực, sự
nghèo hèn của ông thuyền chài mọc sừng. Có thể xem đây cũng là một cách chơi
chữ, một cách dồn nén nghĩa trong một số từ trọng yếu có hàm lượng thông tin
cao: vừa tái hiện được sự việc vừa thể hiện được quan điểm đánh giá cũng như
xúc cảm của người viết
Có thể thấy lối phiếm luận
trào phúng trong tản văn Phùng Tất Đắc có sự gần gũi với chất umua của essay
trong văn phong phương Tây. Những cuộc luận đàm của nhà văn hấp dẫn người đọc
một phần là do sự thu hút của cái cười thâm thuý từ lối phiếm rất có duyên của
ông. Trên một mức độ nào đó có thể thấy tản văn Phùng Tất Đắc, nhất là Chuyện
vô lý, có sự liên hệ với khuynh hướng trào phúng của văn học Việt Nam trước
1945 trong việc nhìn nhận thực trạng đời sống đương thời và thái độ phản ứng
với thực tại của người cầm bút.
3. Kết luận
Rõ ràng là nghệ thuật
phiếm luận của Phùng Tất Đắc không chỉ được quy về mặt thủ pháp, nó còn phản
ánh cách nhìn, cách tiếp cận đời sống, tư tưởng nhân văn của tác giả. Với cái
nhìn rộng mở, tự do, không chịu gò trong những thiên kiến, không tuân phục những
tín điều có sẵn, nhà văn luôn tự tìm cho mình một con đường riêng để đi tới sự
thấu nhận bản chất của những hiện tượng nhân sinh. Chính ý thức độc lập ấy đã
giúp nhà văn đi từ bản thể của cái tôi để cảm hiểu bản thể con người nói
chung, giúp nhà văn đi từ tính thiện, sự chân phương, lòng ái tha của chính
mình để phân biệt và đánh giá các giá trị đời sống. Chúng ta nhận thấy ở
Phùng Tất Đắc có sự kết hợp của tâm hồn phương Đông với óc quan sát, suy xét
có được khi tiếp xúc với Tây học. Vì vậy, đọc tản văn của ông người đọc vừa
có được sự lay động từ bề sâu trí tụê vừa có những sự đồng cảm và rung động
trong tâm hồn.
Sau Phùng Tất Đắc, tính chất
hoài nghi hay lối nêu vấn đề có tính đa diện, đa thanh trong tản văn hầu như
không được tiếp nối. Đến nay, sau một quãng cách khá xa của thời gian, tính
châm biếm đã lại thấy trong tản văn của một số cây bút có xu hướng khơi
sâu vào những phức tạp của thế sự hay những mặt trái của cuộc đời như Thảo Hảo,
Trần Đăng... Nhìn lại lịch sử tản văn ngót một thế kỷ qua, những gương mặt
như Phùng Tất Đắc quả là hi hữu, Phùng Tất Đắc là một trong số ít tác giả tạo
lập được một phong cách riêng, dẫu tác phẩm của ông chưa phải là thành tựu lớn
nhưng nó lại có đóng góp không nhỏ cho sự định hình ngày càng rõ rệt của thể
loại trong đời sống văn học hiện đại.
[1],
[3]. Vũ Ngọc Phan: Nhà văn hiện đại. Nxb Văn học, H, 1998.
[2]. Tạ
Tỵ: Mười khuôn mặt văn nghệ. Nxb Hội nhà văn, H, 1996.
[4].
Nguyễn Văn Xuân: Lãng Nhân, nhà văn phiếm luận, trong sáchLãng Nhân- thân thế
và tác phẩm. Nam Hà nhã tập xb, S, 1973.
[5].
Trích qua Nguyễn Văn Xuân: Lãng Nhân, nhà văn phiếm luận, trong sách Lãng
Nhân- thân thế và tác phẩm. Nam Hà nhã tập xb, S 1973.
[6]. Vũ
Hạnh: Một vài cảm nghĩ khi đọc Trước đèn, trong sách Lãng Nhân- thân thế và
tác phẩm. Nam Hà nhã tập xb, S, 1973.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét