Bài thơ Trăng hè của cụ Đoàn
Văn Cừ:
Nền văn học Việt Nam giai đoạn
trước 1945 có nhiều tác giả viết rất thành công về nông thôn mà điển hình là
các nhà thơ: Đoàn Văn Cừ- tập thơ Thôn Ca, Bàng Bá Lân - tập Tiếng
Sáo Diều và Nữ sĩ Anh Thơ với tập Bức Tranh Quê. Người ta đã ví họ là
những người ''Thư ký thời đại đã lưu giữ Hồn quê Việt Nam'' trong các áng
thơ tuyệt diệu của mình.
Tập Thôn Ca của cụ Đoàn Văn
Cừ xuất bản trước năm 1940 gồm nhiều bài viết về Đồng quê trươc cách mạng tháng
8 (tái bản nhiều lần). Một trong số thơ hay có bài Trăng Hè - được nhà biên khảo
Hoài Thanh tuyển chọn đưa vào Thi Nhân Việt Nam, xuất bản năm 1941.
Bài thơ tả cảnh một đêm mùa
Hè, khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch - Giữa tuần trăng, nắng ráo, ở làng quê
nghèo, từ chập tối đến mờ sáng.
Toàn bài gồm 5 khổ, chia làm
5 đọan, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Mở đầu:
Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt
đưa
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu
Đêm vắng người im cảnh lặng
tờ. (1)
Người đọc mường tượng như
đang đứng bên ngoài hàng rào của một ngôi nhà ở làng Đô Quan xã Nam Lợi thuộc
huyện Nam Trực, Tỉnh Nam Định - Quê hương của cụ Đoàn. Cách đây hơn 60 năm,
thôn quê vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng có rất ít nhà xây, nhà gỗ. Hầu hết
là nhà lợp rạ, gianh, cột kèo tre, tường đắp đất hoặc vách đất. Đêm hè nóng nực,
các bà, các mẹ chống nực cho con cháu để chúng ngủ ngon - bằng cách truyền thống,
phổ biến : Ôm trẻ nằm trên võng.
Võng khi xưa (ngày nay ở miền
quê vẫn dùng) - bện bằng vỏ cây Gai. Ngồi, nằm trên đưa đi đưa lại, tạo ra gió
như phe phẩy quạt. Hai đầu của chiếc vọng được buộc vào cột hoặc kèo nhà. Khi
võng đưa, sợi chão nối võng với cột kèo, cọ sát nhau, phát ra tiếng kẽo kẹt...
kẽo kẹt. (2).
Nhìn ra đầu hè con chó cứ nằm
sủa ông ổng.
Nó cứ sùa... sủa đều đều...
cách quãng... sau mỗi lần ngẩng đầu sủa - lại cúi xuống, để mõm kê lên hai chân
trước, nhắm mắt y như đang ngủ... mơ. Ta nhìn về phia trước - nơi con chó hướng
mõm sủa - Chẳng có đối tượng nào quấy rầy hay xuất hiện cả. Hiện tượng
này được dân gian ví là ''Chó cắn Ma''- nghĩa là cắn vật tàng hình - (Ma),
sau trở thành câu ngạn ngữ ''Ông ổng như chó cắn ma'' -
chỉ những người vô duyên, say rượu... nói lung tung, nói lấy được mà không thèm
biết có ai nghe, hưởng ứng!
Bên cạnh hàng dậu ngăn nhà với
đường làng, có bụi tre.
Những ngọn tre do làn gío nhẹ
- chỉ có ở trên cao - thổi, làm đung đưa. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, ngọn
tre kia in bóng xuống mặt đường, cứ như bóng người lơi lả... tha thướt...
Ta tiếp tục nhìn vào trong
sân:
Ông lão nằm chơi ở giữa sân
Tàu cău lấp lánh ánh trăng
ngân
Ngắm bóng con mèo quyện dưới
chân.
Từ trên ngọn cau, tầu lá non
được ánh trăng rọi vào, khi gió thổi, lá lay động, hắt ra lóng lánh ánh bạc -
như ta cầm chiếc gương hướng về phia nguồn sáng rồi rọi vào mắt người...
Nhà tranh, dân quê
thường dùng đồ vật đơn sơ được chế tạo bằng tre, nứa. Chõng tre
nhỏ hơn giường, thông dụng hơn ghế vì có thể vừa ngồi, vừa nằm, nhẹ, dễ di chuyển.
Múa hè nóng nực, cụ gìa sai con mang chõng ra sân nằm vắt chân chữ ngũ cùng thằng
chắu lẫm chẫm biết đi - hóng mát, ngắm trăng. Trong khi cụ gìa thưởng thưc
trăng... cậu bé đang nằm trong lòng ông, thấy con mèo, vội tụt xuống men thành
chõng... con mèo khẽ kêu meo... meo... đi tới cọ người vào chân bé rồi lượn đi,
quay lại... tạo ra cảnh ''quyện dứơi chân''.
Chợt phía xa xa, nơi chiếc
giếng thơi - chứa nươc ăn cho cả xóm - có tiếng ồn ào, ta lia mắt nhìn ra:
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đoàn vui vẻ rủ nhau về
Trên vai nặng chĩu đôi thùng
nươc
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.
Thôn quê vùng các xã Nam Lợi,
Nam Long, Nam Thanh - nhất là cac làng Đô Quan, Xối Tây, Ngọc Tỉnh - thường rất
nhiều ao hồ. Nước ao chỉ dùng để giặt giũ, rửa chân tay... Cac làng, các xóm phải
đào những chiếc giếng lấy nước sạch để ăn, đảm bảo vệ sinh. Ban ngày bà con đi
làm đồng. Tối về, cơm nước xong các cô gái mới rảnh tay mang thùng ra giếng múc
nước về đổ vào bể chưa. Từng đoàn vui vẻ rủ nhau về - nên những tiếng
kĩu kịt phát ra từ chiếc đòn gánh - làm bằng tre bánh tẻ (chưa già lắm) - gánh
đôi thùng nước, hòa cùng tiếng võng đưa kẽo kẹt làm đêm trường chợt xao động...
Thế nào là cổng tre ?
Dân nghèo làm gì có tiền để
làm cổng xây, cổng gỗ. Cổng nhà họ là những cậy tre đang sống ở trong bụi - trồng
ở hai bên lối đi - được chủ nhà vít xuống, buộc, tạo thành hai trụ. Rồi cũng
dùng ngay những cây tre khác đã chặt, ngâm, đan, ghép làm thành cánh cổng. Loại
cổng tre này cánh thường không mở sang hai bên mà chống, nâng lên, hình dáng giống
cánh của chiếc bẫy chuột. Ngày chống lên lấy lối ra vào. Đêm hạ xuống chốt giữ
bên trong nhằm ngăn Trộm... vặt. Tuy đứng ngoài vẫn nhìn thấy mọi thứ
bên trong, nhưng muốn đột nhập vào cũng không dễ. Loại cổng này được nông thôn
xử dụng từ xa xưa. Sau Toàn quốc Kháng chiến cổng Tre lại được dân quê xứ dụng
hữu hiệu trong phong trào rào làng kháng chiến chống Pháp, do Ủy ban Kháng chiến
các đîa phương phát động...
Tiếng kẽo kẹt đưa võng cũng
đã ngừng. Có lẽ cháu bé đã ngủ say, bà hoặc mẹ đã vực vào giường, và cái chính
trời càng về khuya, nhiệt độ càng giảm. Không khí tĩnh mịch của đêm trường dần
trở lại:
Trong xóm giờ lâu qúa nửa
đêm
Tiếng chầy giã gạo đã ngừng
im
Trăng tà hạ xuống ngang đầu
núi
Đom đóm bay qua
giải nước đen.
Cả ngày đi làm đồng, tối về
cơm nước xong nhiều nhà mới đổ thóc vào cối say, dần, sàng rồi đưa vào gĩa
thành gạo, lấy cám - lớp vỏ gạo bị gĩa bong ra - cho lơn ăn. (3).
Thế mà đến quá nửa đêm, nhát
bổ cuối cùng của chiêc chầy giã gạo mới ngừng, trả lại sự tĩnh mịch hoàn toàn
cho đêm trường. Lũ đom đóm lúc chập tối thường bay ra như kích thích
con người. Các cô các cậu bé thi nhau đi bắt bỏ vào lọ ngắm nhìn. Khi trăng lên,
đom đóm ít bay, ra y như chúng cũng né tránh, không dám đem chút sáng của mình
thi với ánh trăng. Lúc Trăng tà hạ xuông... chúng mới lại thi nhau bay là là
trên mặt ao. Khi trăng lặn, mặt ao hồ chỉ còn là một khoảng không tối om, đen kịt...
ánh lân tinh từ bụng nhựng con Đom đóm được mặt ao làm nền... dường như rực
sáng , to hơn.
Bỗng:
Tiếng ốc trên chói rúc thiết
tha,
Gió lay cót két rặng tre
già,
Sao trời từng chiếc rơi
thành lệ,
Sương khói bên đồng ủ bóng
mơ.
(Báo Ngày Nay)
Thời xa xưa, phương tiện báo
động, đánh thức dân làng là chiêc Tù và làm bằng sừng trâu hoặc vỏ những con ốc
biển lớn, do những Tuần đinh, trai tráng (Thanh niên) được chức sắc của làng cắt
cử canh gác đảm bảo an ninh cho làng xóm. Khi có động (trộm cướp, cháy nhà...)
người gác ngoài việc đánh chiêng, trống,hò reo... họ còn thổi Tù và, vỏ ốc... chúng
sẽ phát ra tiếng động vang xa, dân làng vùng dậy chống trả, cứu chữa...
Nếu cả đêm bình yên, khỏang
gần 5 giờ sáng người gác chỉ đưa chiếc vỏ ốc lên miệng thổi... tiếng ốc rúc -
âm thanh như tiếng chuột rúc nhưng to, dài hơn nhiều. Tiếng rúc nghe
chói tai... nhưng cả làng vẫn cảm thây quen thuộc, thiết tha, thanh bình. Mọi
người bật dậy, chuẩn bị cho một ngày lao động mới.
Làng xóm râm ran...
Đã sắp sáng.
Khí hậu lạnh, gío thổi mạnh
khiến những cây tre gìa lung lay, đu đưa cọ gốc vào nhau phát ra những tiếng
cót két... Trên trời thỉnh thoảng lại vụt xuất hiện một ngôi sao sa, trông như
những giọt lệ khổng lồ từ con mắt của người khổng lồ rơi xuông...
Cả đêm sương rơi, bao phủ
làm cánh đồng chìm ngập trong khói sương...
Trời sáng.
Sương dần tan: Bức tranh thủy
mạc được thiên nhiên vẽ đang hiện ra…
Phương đông ửng hồng:
Mặt trời mọc!
Với 5 khổ thơ mà miêu tả được
cảnh đêm hè thât sống động. Từ đầu đến cuối chỉ có mầu sắc và âm thanh:
Tiếng võng kẽo kẹt...
Tiếng chó sủa ông ổng...
Tiếng kĩu kịt của chiếc đòn
gánh...
Tiếng thình thịch của chầy
giã gạo...
Tiếng ốc rúc... rúc thiết
tha...
Cuối cùng là tiếng cót két của
những gốc cây tre gìa cọ vào nhau.
Nhà thơ dùng từ thât diệu
nghệ:
Kẽo kẹt của võng đưa.
Kĩu kịt của đòn gánh và
Cót két của rặng tre già -
ba hợp âm Kẽo kẹt - Kĩu kịt - Cót két - tuy rất gần nhau, thậm chí có thể dùng
liền làm từ đệm, nhưng ở đây trong từng đoạn thơ, 3 cụm âm thanh lại diễn tả 3
trạng thái hành động ở 3 nơi, 3 thời điểm khác xa nhau...
Màu sắc thì có:
Ánh trăng ngân...
Bóng đen của con mèo.
Ánh sáng cuả đàn đom đóm.
Mầu đen kịt của giải nước mặt
ao hồ khi trăng đã lặn... ánh sao sa - giọt lệ khổng lồ... không
gian mờ sương khoi...
Tất cả âm thanh, mầu sắc đó
cùng với lời thơ, nhịp thơ, âm hưởng của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quyện chặt,
nhuần nhuyễn... đã gieo vào lòng người đọc cảm xúc mạnh.
Bài thơ đã tồn tại 2/3 thê kỷ
mà người đọc vẫn cảm thấy như tác giả vẽ, viết từ khung cảnh thực, sông động
trong những đêm mùa hè ở nông thôn ngày nay. Những con dân đất Việt dù xa cách
nghìn trùng, khi đọc lại bài thơ như chợt được sồng lại cùng quê hương trong
khoảnh khắc…
‘’Người thư ký’’ cần mẫn, xuất
sắc: Đoàn Văn Cừ - đã lưu giữ được hồn quê Việt trong thi phẩm tuyệt vời của
mình, cho hậu thế - Hôm nay và Mai sau!
(1). Bài Trăng Hè lấy trong
Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh, NXB Văn Học tái bản năm 1996.
(2). Tiếng kẽo kẹt chỉ vang
lên khi võng buộc bằng thừng chão - bện bằng vỏ cây Gai - buộc vào cột kèo tre.
Buộc vào móc sắt, cột bê tông... không phát tiếng kẽo kẹt...
(3). Hiện nay do có
máy say, xát... loại cối giã gạo này ở nông thôn hầu như không còn nữa, hoặc
lác đác chỉ còn rất ít.
Lê Xuân Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét