Bộ truyện cổ Ảrập tuyệt vời:
Nghìn lẻ một đêm
|
I/ Nghìn lẻ một đêm,
tác phẩm vĩ đại bậc nhất của nền văn học Arập, là một trong nhữn g công trình
sáng tạo phong phú và hoàn mỹ của nền văn học thế giới.
Đề tựa bản dịch tiếng Nga
xuất bản năm 1929 ở Lêningrát, Macxim Gorki viết: "Trong số các di
tích tuyệt diệu của sáng tác truyền khẩu dân gian, các truyện cổ tích của
nàng Sêhêrazát là di tích đồ sộ nhất".
Những truyện cổ tích này
thể hiện với mức hoàn hảo kỳ diệu, xu hướng của nhân dân lao động muốn buông
mình theo phép nhiệm màu của những ảo giác êm đẹp, theo sự kết hợp phóng
khoáng của từ ngữ thể hiện sức mạnh vũ bão của trí tưởng tượng hoa mỹ của các
dân tộc phương Đông - người Arập, người Ba Tư, người Ấn Độ. Công trình dệt gấm
bằng từ ngữ này xuất hiện từ thời tối cổ, những sợi tơ muôn màu của nó lan khắp
bốn phương, phủ lên trái đất một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng.[1]
Truyện mở đầu tất cả các
truyện, giải thích lý do ra đời của tất cả các truyện, cái khâu đầu tiên của
sợi dây chuyền vàng xuyên qua mọi tình tiết, liên kết chúng lại thành một chuỗi
ngọc tuyệt tác muôn vẻ muôn màu rồi vòng trở lại để làm thành đoạn kết thúc,
là chuyện của một người con gái. Một người con gái tài sắc vẹn toàn, thông
minh rất mực, đã không quản hiểm nguy dám hi sinh tấm thân ngà ngọc của mình
để cứu các bạn gái khỏi cảnh ô nhục và cái chết bi thương.
Ngày xưa có hai anh em
cùng làm vua. Anh làm hoàng đế nước Đại Ba Tư choán một phần lớn trái đất. Em
là vua nước Đại Táctan, chư hầu của anh. Một hôm, được lệnh của anh triệu về,
em vội vã lên đường. Xa giá vừa ra khỏi kinh thành, đã nghỉ lại; nhà vua nhớ
hoàng hậu, một mình lén trở lại cấm cung định tự tình với người vợ quý yêu một
lần nữa. Nhưng hỡi ôi! Nhà vua không được gặp hoàng hậu như ở trong cảnh nhớ
nhung thao thức mà lại thấy hoàng hậu đang ngủ say trong vòng tay một người
đàn ông khác ngay trên giường ngự của mình. Nổi giận, nhà vua chém chết đôi
gian phu dâm phụ, ném xác xuống hào rồi lặng lẽ trở lại hành cung và ra lệnh
khởi hành. Vua tuyệt nhiên không hé răng cho bất cứ ai biết nỗi khổ riêng
đang giày xé lòng mình.
Song cũng từ buổi tối bất
hạnh ấy, một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm nhà vua và thường xuyên lộ ra nét mặt.
Cảnh hoàng đế thân hành ra đón từ ngoài kinh thành, cảnh hội hè yến tiệc,
nghi lễ linh đình cũng như sự săn sóc chân tình của vua anh đều không thể làm
tiêu tan nỗi u uẩn.
Nhà vua tự cho mình là người
đau khổ nhất trần gian. Nhưng một hôm tình cờ nhà vua bắt gặp hoàng hậu, chị dâu
của mình, ngoại tình với một tên da đen trong khi hoàng đế mải đi săn. Vua em
thấy nhẹ hẳn người: "À, ra không phải chỉ có ta là người đau khổ duy nhất.
Vinh hiển, phú quý, quyền uy chấn động thiên hạ đến như hoàng đế anh ta mà vẫn
bị vợ lừa dối. Vậy thì việc gì ta phải tự giày vò cho khổ thân!".
Đến lượt vua anh, khi được
tự mình chứng kiến hành động dâm ô của hoàng hậu, ông cũng vô cùng chán ngán.
Hai anh em cùng một lúc từ bỏ ngai vàng, từ bỏ mọi phú quý vinh hoa trên trần
thế. Hai anh em ra đi định tìm chốn ẩn thân đến trọn đời ở một nơi chân trời
góc bể nào đó cho khuây khỏa nỗi buồn, cho nguôi đi vết nhục. Nhưng tình cờ -
vẫn là sự tình cờ - hai vua bắt gặp một thần linh từ dưới đáy biển nổi lên,
ghé vào bờ. Trên đầu thần đội một chiếc hòm thủy tinh khóa bằng bốn chiếc
khóa. Để phòng ngừa vợ có thể không chung thủy, thần đã nhốt ả vào trong đó
và giấu tận đáy đại dương, chỉ mở cho ra những khi nào mình cần yêu đương
tình tự. Ấy thế mà người đàn bà đẹp này đã từng ngoại tình với những chín
mươi tám người đàn ông khác. Mỗi người sau phút ái ân, phải để lại cho ả một
chiếc nhẫn làm kỷ niệm. Và mỉa mai làm sao! Hai nhà vua, hai ông chồng đang
buồn rầu ngao ngán về thế sự này lại chính là những kẻ bị ả ép buộc làm những
tình nhân bất đắc dĩ thứ chín mươi chín và thứ một trăm.
Vậy ra đàn bà ở đâu cũng vậy
và ai cũng như ai thôi. Không thể có cách nào đủ hiệu lực ngăn ngừa, để cho họ
giữ vẹn lòng chung thủy với chồng. Chỉ còn một cách - hoàng đế nước Đại Ba Tư
rút ra kết luận - là giết ngay người con gái vừa chung chăn gối, không để cho
sống đến ngày hôm sau. Đó chính là cách trả thù đời, trả thù đám đàn bà, trả
thù vợ của những ông chồng bị cắm sừng mà trong tay có quyền lực tối cao.
Từ buổi đó, một luật lệ mới
được ban hành ở nước Đại Ba Tư. Một luật lệ vô cùng dã man, hết sức khắc nghiệt.
Vua truyền cho tể tướng cứ mỗi đêm bắt vào cung một cô gái trinh để hầu hạ
mình, rồi rạng sáng hôm sau, khi đêm vừa hết, thì ra lệnh giết chết cô gái ấy.
Thế là cứ mỗi đêm một cô
gái trinh đi lấy chồng và sáng ra một người đàn bà thiệt mạng.
Cảnh tang tóc bao phủ khắp
kinh thành. Cung đình tràn ngập máu. Nỗi đau đớn xé lòng mọi người mẹ, người
cha, người yêu, người chồng chưa cưới. Giữa lúc ấy xuất hiện cứu tinh, nàng
Sêhêrazát, con gái yêu của chính tể tướng, người chịu trách nhiệm thi hành lệnh
tàn bạo của vua.
Sêhêrazát khẩn khoản xin
cha dẫn mình vào cung hiến thân cho hoàng đế.
- Con điên hay sao? - Tể
tướng kinh hoàng.
- Không, thưa cha, con hiểu
rõ nỗi hiểm nghèo mà con sẽ phải trải qua. Nhưng nó không làm cho con kinh sợ.
Nếu con có bỏ mình, cái chết sẽ quang vinh, nếu con thành công, con sẽ giúp
cho đất nước một việc hệ trọng.
Sêhêrazát vào hầu hoàng đế,
chỉ xin mỗi một đặc ân: cho phép em gái nhỏ của nàng được ngủ với chị "một
đêm cuối cùng". Vua đồng ý. Tảng sáng hôm sau, một giờ trước khi mặt trời
mọc, cô em gái nhỏ được dặn trước, liền gọi chị và khẩn khoản xin kể cho nghe
"một trong những câu chuyện hay hay mà chị rất thành thạo".
Tên vua độc ác, lúc xác thịt
đã thỏa thuê, cũng muốn nghe một câu chuyện hay hay chờ trời sáng, để ra lệnh
thi hành luật lệ dã man của hắn.
Nàng Sêhêrazát bắt đầu kể...
Trời sáng rồi mà chuyện
hay còn dang dở. Nhà vua nửa cần đi thiết triều, nửa muốn nghe nốt, liền cho
hoãn lệnh xử tử người con gái đến ngày hôm sau.
Một đêm nữa, rồi lại một
đêm nữa... chuyện vẫn dở dang vào đoạn hay nhất, vừa lúc trời sáng và án tử
hình lại phải hoãn.
Cứ thế một nghìn lẻ một
đêm trôi qua.
Cứ thế, truyện này nối tiếp
truyện kia, truyện sau lồng vào truyện trước. Truyện này chưa hết truyện khác
đã bắt đầu dường như vô tận. Trước mắt chúng ta, hiện lên không biết bao
nhiêu là nhân vật: từ hoàng đế, tể tướng, hoàng tử, vương tôn, nhà hiền triết,
bậc tu hành, quan coi ngục, viên hoạn nô cho đến tên cướp biển, lão chủ nô, mụ
mối, đứa du thủ du thực, lão lái buôn, bác phó cạo, anh thợ may, người vác
thuê, nhà hàng thịt, cô hầu gái, chú tiều phu... Và phúc thần và phù thủy và
ma quỷ và tiên nương... Khi là cảnh cung đình rực rỡ đèn hoa, lộng lẫy ngọc
ngà châu báu, khi là cảnh dạt tàu cướp miếng ăn của ma mà sống. Lúc chuyện xảy
ra trong thế giới thần tiên, lúc ở nơi đầu đường xó chợ. Về tôn giáo, có những
người theo đạo Hồi, có những người theo đạo Thiên Chúa, đạo Do Thái, lại có
những người thờ thần lửa... Về không gian, các chuyện xảy ra ở những nơi ngày
nay được ghi trên bản đồ là Ấn Độ và Sơri Lanca, Liên Xô và Trung Quốc,
Gióocđani và Iran và trước hết là Tây Á và Bắc Phi với Ai Cập, Irắc, Xyri...
Tóm lại, khung cảnh rất rộng lớn, chủ đề thật đa dạng, tình tiết hết sức bất
ngờ, ngôn ngữ vô cùng phong phú, nhân vật rất thực và cũng rất hư. Quả khó có
cách nào diễn tả cho gãy gọn nếu ta không trở lại mượn hình tượng Gorki đã
dùng: "Những sợi tơ muôn màu lan khắp bốn phương một tấm thảm từ ngữ đẹp
lạ lùng phủ trên mặt đất".
Câu chuyện - hay đúng hơn
là bộ sưu tập, là kho tàng những câu chuyện - mở đầu bằng những tình tiết gây
ấn tượng không lấy gì làm tốt đẹp đối với người phụ nữ, đối với đức hạnh của
những người vợ. Những cái nút vừa thắt lại thì đã tháo ra ngay làm bật rõ phẩm
chất cao quý cửa một người con gái, trí tuệ sáng ngời của chính người đàn bà,
chứ không phải là người thuộc giới tính khác. Sêhêrazát nói với cha: "Nếu
con có phải bỏ mình, cái chết của con sẽ quang vinh, nhưng nếu con thành
công, con sẽ giúp cho đất nước một việc hệ trọng". Toàn bộ tác phẩm mở đầu
với hành động cực kỳ hung bạo, hơn cả súc vật của một tên vua - bởi ngay loài
cầm thú con đực cũng không bao giờ cắn chết con cái vì làm như vậy là trái với
tự nhiên, là tự mình diệt chủng - và kết thúc bằng một cử chỉ hoàn toàn hợp với
tình người. Sau đêm một nghìn lẻ một, bạo chúa tha không những chết cho nàng
Sêhêrazát mà còn hủy bỏ luật pháp dã man của mình, luật pháp đã không có dịp
thi hành suốt một nghìn lẻ một ngày nhờ công của một người con gái. Độc giả
lúc gấp sách lại, hay thính giả khi người kể ngừng lời - vì đây là những chuyện
kể - hoàn toàn thỏa mãn, vừa thú vị về nội dung đặc sắc của các câu chuyện, vừa
hài lòng về cách kết thúc hợp lý hợp tình, "có hậu". Không ai còn
nhớ đến các hoàng hậu kém đức hạnh nữa. Trong trí nhớ mỗi người hiện lên rõ đậm
hình dáng một nàng Sêhêrazát cao quý, dũng cảm, thông minh, xinh đẹp tuyệt trần
và chắc chắn là giọng kể cực kỳ quyến rũ.
Ngay từ đêm đầu, chúng ta
đã thấy được nghệ thuật đặc sắc của những chuyện sẽ kể tiếp trong một nghìn
đêm sau.
II/ Theo các nhà nghiên cứu, Nghìn
lẻ một đêm - ít ra là bản lưu truyền đến với chúng ta ngày nay - được định
hình hẳn vào khoảng cuối thế kỷ 15 ở Ai Cập. Thời kỳ này cả nước Ai Cập đã
hoàn toàn theo đạo Hồi. Thật ra, sự xuất hiện của nó còn ngược lên đến thời
xa xưa, bắt nguồn từ những chuyện Ba Tư rất cổ và đã trải qua một thời kỳ tồn
tại lâu dài trước khi được viết ra thành văn.
Ở đâu cũng vậy, các chuyện
kể dân gian không bao giờ là công trình sáng tạo của một người và có hình dạng
hoàn chỉnh ngay từ đầu hay trong một thời gian ngắn. Thông thường xoay quanh
một chủ đề cơ bản, được quần chúng tham gia, thời gian nhào nặn, tình tiết của
câu chuyện phong phú dần lên, có khi biến dạng đi, và tất nhiên sẽ thay đổi
ít nhiều tùy theo địa điểm và thời gian, bố cục ngày càng chặt chẽ. Cho đến một
lúc nào đấy, nó được những tài năng kiệt xuất chỉnh lý, định hình lần cuối rồi
được nhân dân chấp nhận coi như dạng bản cuối cùng. Các trang kể được tập hợp
trong công trình đồ sộ với cái tên phổ cập toàn thế giới Nghìn lẻ một
đêm có lẽ bắt nguồn từ truyền thống các truyện dân gian xuất xứ ở phương
Đông - đế quốc của các hoàng đế Arập. Xoay quanh những truyện này, một số
truyện khác cổ hơn, có nguồn gốc Ấn Độ, Ba Tư hoặc Ấn - Âu được bổ sung vào.
Một loại nữa là những câu chuyện lưu truyền, phản ánh sinh động xã hội Hồi
giáo buổi sơ khai của thời trung cổ, tức là thời đại các hoàng đế Abáxít[2],
trong đó một phần quan trọng dành nói về những chuyện phiêu lưu trên biển cả
của những thương nhân đầu tiên bắt đầu mở rộng buôn bán với nước ngoài bằng
đường biển. Tất nhiên có nhiều truyện nội dung vay mượn từ kho tàng cổ tích
các dân tộc khác. Đây là một hiện tượng thường thấy, nó cắt nghĩa vì sao nhiều
truyện cổ của người Ấn Độ, của Tây Âu chẳng hạn có những điểm chung giống những
truyện cổ ở Trung Quốc, ở Nam Á. "Vay mượn không phải bao giờ cũng là
xuyên tạc, đôi khi việc vay mượn bổ sung cho truyện và làm cho nó đã hay càng
hay hơn" [3].
Những người kể chuyện rong
mang những chuyện đó đi kể khắp nơi. Trong quá trình ấy họ gọt đẽo cách diễn
tả cho thích hợp và hấp dẫn người nghe. Người ta cho rằng chính những người
Ai Cập kể chuyện rong thế kỷ 12 và 13 đã làm cho các truyện trong Nghìn
lẻ một đêm thêm phong phú về nội dung, linh hoạt về hình thức và sáng sủa
về từ ngữ. Ngôn ngữ dùng trong tập truyện này gắn với tiếng nói của các tầng
lớp bình dân Arập hơn là ngôn ngữ kinh viện thời bấy giờ.
Cũng có thể Nghìn lẻ
một đêm thành hình - với tư cách là một tác phẩm hoàn chỉnh - còn sớm
hơn nữa. Theo R. Nicônxơn trong Lịch sử văn học Arập, năm 956 một học giả Arập
tên là Maxađi (Masadi) đã nhắc tới một cuốn sách cổ của người Ba Tư nhan đề
"Một nghìn lẻ truyện, thường được gọi là Nghìn lẻ một đêm, đó là chuyện
một quốc vương và tể tướng cùng với tiểu thư và người hầu gái là nàng
Sêhêrazát và Đináczát".
Năm 988, Môhamét Isác
(Mohammed Ishaq), tác giả một tập thư mục những tác phẩm văn học Arập và nước
ngoài, nói đến việc người Arập soạn lại tập truyện cổ Ba Tư đó. Ông viết:
"Tác giả tập Truyện các tể tướng là Apđun An Jasiyan (Abđui Al
Jahshiyan) bắt tay soạn một cuốn sách trong đó ông chọn một nghìn truyện của
người Arập, người Ba Tư, người Hy Lạp và nhiều dân tộc khác, các truyện đều
riêng biệt, không có quan hệ gì với nhau. Ông tập hợp một số người làm nghề kể
lại, mời họ kể cho nghe rồi chọn những truyện hay nhất, những ngụ ngôn, cổ
tích mà ông thích nhất. Là một người có tài, ông đúc những câu chuyện ấy lại
thành bốn trăm tám mươi đêm, mỗi đêm là một truyện trọn vẹn dài trên dưới năm
chục trang. Nhưng ông chết bất ngờ trước khi hoàn thành một nghìn truyện như
dự định".[4]
Nghìn lẻ một đêm[5] như
ta đã biết hiện nay, lần đầu tiên được giới thiệu với châu Âu rồi từ đó phổ cập
hầu như rộng khắp toàn thế giới là nhờ công lao của một học giả người Pháp,
Ăngtoan Galăng (Antoine Galland) mà bản dịch từ khi ra đời cách đây gần ba thế
kỷ đã mau chóng trở thành kinh điển.
Ăngtoan Galăng sinh năm
1646 tại một thị trấn nhỏ ở tỉnh Picácđi, miền Bắc nước Pháp. Ông mồ côi cha
từ sớm. Bà mẹ phải làm lụng vất vả cho con ăn học. Mười bốn tuổi ông đã phải
đi làm; một năm sau tìm đến Pari tiếp tục trau dồi kiến thức. Sau đó, giúp việc
cho sứ thần Pháp ở Côngxtăngtnôp (nay là Ixtămbun, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) nhờ vậy
ông có điều kiện đi lại nhiều nước Tây Á. Trở về Pari, một hôm tình cờ đọc được
một bản chép tay bảy truyện cổ Arập, ông có ý định dịch và cho xuất bản. Sách
sắp đưa in thì dịch giả được biết những truyện này thực ra rút từ "một
pho đồ sộ gồm nhiều truyện tương tự chia thành nhiều tập đề là Nghìn lẻ
một đêm"[6].
Ông nhờ người tìm kiếm hộ,
từ Xyri người ta chỉ gửi đến cho ông có bốn tập. Ông dịch ngay tập đầu tiên
và cho xuất bản năm 1704 [7].
"Món quà nhỏ mọn, như lời ông viết trong thư gửi tặng hầu tước phu nhân
O, lập tức được hoan nghênh nhiệt liệt. Thành công hết sức to lớn. Cùng với hầu
tước phu nhân O, cả triều đình, nghị viện từ giai cấp tư sản cho đến các tầng
lớp nghèo hèn, tóm lại là tất cả những ai biết đọc biết viết ở Pháp đều đổ xô
vào tranh nhau tập sách.
Trong bốn năm, từ 1704 đến
1708, mười hai tập lần lượt ra đời. Năm 1709 Ăngtoan Galăng được một người bạn
Arập đến Pari trao thêm cho một số truyện nữa, ông lại dịch và cho in tiếp. Từ
1704 đến 1782 trong vòng bảy mươi tám năm, bản dịch của Galăng được in lại
hơn bảy mươi lần. Trong những điều kiện của thời bấy giờ, với phương tiện và
kỹ thuật ấn loát thô sơ, công nghiệp giấy chưa phát triển, tỷ lệ người biết đọc
và biết viết cũng chưa cao, thành công ấy vượt quá mức tưởng tượng và sự mong
ước của mọi người. Từ bản của Ăngtoan Galăng, Nghìn lẻ một đêm được
dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước châu Âu: Anh, Hà Lan, Đức,
Italia, Tây Ban Nha và một số nước tại các châu lục khác.
Chừng hai thế kỷ sau
Ăngtoan Galăng, một bản dịch tiếng Pháp khác của Nghìn lẻ một đêm ra
đời. Dịch giả là tiến sĩ J. C. Mácđruýtx (J. C. Mardrus). Thật ra đây là một
bản dịch theo quan niệm và phong cách hoàn toàn khác: Mácđruýtx không bỏ sót
một chi tiết nào, kể cả những đoạn rườm rà đậm màu dâm tục và tất cả những
thơ rải rác trong các truyện. Người ta đã bàn cãi khá nhiều về hai bản dịch
đó. Các nhà nghiên cứu văn học đều nhất trí đánh giá cao bản dịch của Ăngtoan
Galăng. Người dịch đã cố tình tước bớt, để tránh cho những người đọc đỡ ngượng
ngùng, một số chi tiết tả tỉ mỉ những cảnh sinh hoạt mà cho dù có in ra
"cũng không cho biết thêm một điều gì mới mẻ về phong tục những người
theo đạo Hồi" bởi vì những cảnh ấy "diễn tả con người đang sống
theo những giây phút bản năng thấp hèn nhất mà bất cứ người sống ở vĩ tuyến
nào cũng đều có", như lời nhận xét của E. Blôsê (E.Blochet) trong Tạp
chí Bách khoa (Pháp) số tháng giêng năm 1900. Tạp chí này nhận xét: "Bản
dịch của Ăngtoan Galăng cho chúng ta một ý niệm rất trung thành về tính cách
và lời văn của bộ Nghìn lẻ một đêm cũng như về sinh hoạt của người
Arập".
Sáclơ Nôđiê (Charles
Nodier), một nhà văn Pháp cũng chuyên viết truyện cổ tích đầu thế kỷ 19, đã
đánh giá bản dịch của Ăngtoan Galăng như sau: "Bản dịch của Galăng là một
tác phẩm có thể coi là kinh điển trong thể loại Văn học này, và nếu nó có phải
chịu vài điều chê trách của những nhà Đông phương học nào đó mê tín sự trung
thành với các nguyên tác, ấy là vì những vị này coi trọng lợi ích ngành học
thuật chuộng màu sắc xa lạ của họ hơn là tinh thần của ngôn ngữ và những yêu
cầu của nền văn học dân tộc chúng ta... Chúng tôi quả quyết rằng lẽ ra người
ta phải thông cảm hơn với trí thông minh và sự tinh tế của Ăngtoan Galăng đã
gạt bỏ ra khỏi các truyện xinh xắn ấy những hình tượng chói chang, nhiều chi
tiết nhạt nhẽo, những sự trùng lặp vô bổ chỉ có thể làm giảm sút hứng thú
trong một ngôn ngữ bóng bẩy nhưng chính xác, bất kỳ ở đâu cũng muốn kết hợp
tính gợi cảm và tính chuẩn xác (là tiếng Pháp)".
Nhà văn Gaxtông Picar
(Gaston Picard) gần đây khi soát lại bản dịch của Galăng để cho in lại (bản
in năm 1962) sau khi trích dẫn ý kiến của Tạp chí Bách khoa đã hóm hỉnh nhận
xét thêm: Ăngtoan Galăng ý tứ hơn nhiều so với tiểu thư Sêhêrazát, người mới
hôm qua đây còn là một trinh nữ. Ông sợ làm chối tai bạn đọc tuy không còn là
thơ dại như Đináczát song cũng không có đôi tai ưa nghe những chuyện sỗ sàng
như đôi tai bạo chúa Saria. Khác với Mácđruýtx, Ăngtoan Galăng không quan tâm
dịch các vần thơ. Có lẽ ông không muốn để người đọc phải sốt ruột.
Với những truyện hấp dẫn
thế này, ai chẳng nóng lòng muốn biết kết cục rồi sẽ ra sao. Vả chăng, chẳng
phải là chất thơ đã thấm đượm mọi dòng, mọi trang của truyện Arập đó sao? Đây
là văn học dân gian. Tuy đề tặng một hầu tước phu nhân, song thật ra Ăngtoan
Galăng khi dịch đã nghĩ tới những độc giả bình thường, các tầng lớp đông đảo
- và chính điều đó quyết định một phần rất lớn thành công của ông. Nhờ vậy, tập
truyện mau chóng phổ cập rộng rãi tuy sau khi bị cắt xén, lược dịch và chọn lọc,
vẫn còn dài tới gần hai nghìn trang.
Còn J. C.Mácđruýtx thì xuất
phát từ một quan điểm khác. Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ bản dịch của ông
đề tặng Xtêphan Manlácmê (Stépphane Mallarmé) và tập I đề tặng Pôn Valêry
(Paul Valéry) hai nhà thơ bí hiểm. Vì những lẽ đó, một số nhà phê bình có xu
hướng coi bản dịch của Mácđruýtx nặng tính chất một công trình nghiên cứu
phong tục hơn là một tác phẩm văn học. Và cũng chính vì lẽ đó Nhà xuất bản
Văn học lần này giới thiệu Nghìn lẻ một đêm qua bản dịch của
Ăngtoan Galăng.
III/ Nghìn lẻ một đêm không
chỉ là một tập truyện cổ tích, đó là cả một thế giới. Thế giới người Arập
trong cuộc đời thực tại cũng như trong cảnh thần tiên ma quái thế giới của đạo
Hồi từ khi có sử thành văn và đạo Hồi qua các truyền thuyết dân gian. Người
Arập vẫn cho pho sách này là một tấm gương vĩ đại ai nấy có thể nhìn vào đấy
mà suy ngẫm, mà soi xét bản thân mình.
Lời nói đầu trong nguyên bản
viết:
"Chuyện người xưa là
bài học cho người đời nay", và ca ngợi "Vinh quang thay cho những
ai đã góp chuyện người đời xưa để làm bài học dạy người đời nay! Chính từ
trong những bài học ấy, nay xin kể chuyện Nghìn lẻ một đêm với tất
cả những điều màu nhiệm và những châm ngôn chứa đựng trong đó".
Khó mà thưởng thức đầy đủ
tác phẩm văn học dân gian của một dân tộc nếu không có những hiểu biết nhất định
về lịch sử, triết lý và sinh hoạt của dân tộc ấy. Rất nhiều truyện trong Nghìn
lẻ một đêm xoay quanh những chuyện xảy dưới triều đại của nhà vua có thực,
nổi tiếng ở Bátđa vào cuối thế kỷ thứ VIII và đầu thế kỷ thứ IX, vua Harun
An-Rasit (786-809). Mặt khác, mọi tiêu chuẩn về đạo đức, pháp lý... của người
Arập ngay cho đến bây giờ vẫn cơ bản dựa trên kinh Coran. Bởi vậy, chúng tôi
xin được giới thiệu sơ qua với bạn đọc Việt Nam chúng ta một vài nét về thế
giới Arập và tổ chức chính trị - xã hội của một đế quốc Arập xưa kia, về đạo
Hồi và người sáng lập ra nó là Môhamết cùng với kinh Côran, Kinh Thánh tối
thiêng liêng của tôn giáo này.
Đạo Hồi (Ixlam) ra đời vào
thế kỷ thứ 7 tại Arabi, người sáng lập là Môhamết (hoặc Mahômết) [8] thuộc
bộ lạc Caraxít. Môhamết sinh ra ở La Mếchcơ, thủ phủ nước Hếtgiadơ ở Arabi
vào năm 570 (hoặc 580) và mất ở Mêđin ngày tám tháng sáu năm 632.
Mồ côi cha từ bé, lúc đầu
Môhamết được ông nội nuôi, sau ở với chú. Lúc còn trẻ, chuyên giúp việc hướng
dẫn các đoàn du hành sa mạc. Về sau vào làm công cho một người đàn bà góa
giàu có, chủ một hiệu buôn ở La Mếchcơ tên là Khađigia. Người phụ nữ này kết
hôn với Môhamết tuy bà lớn hơn ông nhiều tuổi. Nhờ đi đó đi đây nhiều, ông dần
dần am tường giáo lý đạo Do Thái và đạo Cơ Đốc và ngày càng say mê việc tu hành.
Ông thường lánh ở một nơi để suy ngẫm, đặc biệt về sự phán xét cuối cùng cũng
như sự xuất hiện của các nhà tiên tri. Theo truyền thuyết, một hôm ông nghe
có tiếng nói thiêng liêng từ trên trời vọng xuống giao sứ mệnh cho mình. Từ
đó ông tự cho là đấng sứ giả như nhiều đấng khác xưa kia được Thượng đế [9] tuyển
chọn và giao cho sứ mệnh răn bảo dân lành lòng kính sợ đấng Ala và hằng ngày
phải chăm lo sửa mình để chuẩn bị cho ngày phán xét cuối cùng. Việc này xảy
ra vào khoảng năm 610. Môhamết tự cho là được các thiên thần truyền đạt cho
những lời phán bảo của Thượng đế để phổ cập trong nhân dân.
Lúc đầu số người tin theo
ông rất ít. Đã thế một phần các tín đồ của ông bị dân thành La Mếchcơ chống đối,
buộc phải di cư sang Abyxim, một nước thời bấy giờ theo đạo Thiên chúa.
Được nhân dân trấn
Yathôrít tiếp thụ giáo lý của ông khuyến khích, Môhamết rời La Mếchcơ đến đây
ngày 16 tháng bảy năm 622. Yathôrít từ đấy lấy tên là Mêđin (có nghĩa là
Thành phố của Đấng tiên tri) và ngày hôm ấy, ngày 16 tháng bảy năm 622 trở
thành ngày Nguyên đán của lịch Hồi giáo. Lịch này tính dựa theo sự chuyển động
của mặt trăng, như âm lịch của ta.
Ở Mêđin, Môhamết chẳng mấy
chốc trở thành không chỉ là "đấng tiên tri" mà còn là một nhà chính
trị nắm trong tay vận mệnh của thành phố này. Quyền lực của ông một mặt dựa
vào số tín đồ đã cùng ông rời bỏ La Mếchcơ đến và mặt khác vào số người địa
phương tin theo đạo của ông ngày càng đông. Một cuộc chiến tranh xảy ra dai dẳng
tám năm ròng, và kết thúc bằng thắng lợi của Môhamết. Ông khải hoàn về La Mếchcơ
năm 630.
Ngoài chiến thắng rực rỡ Bếtrơ,
Môhamết còn tiến hành nhiều cuộc chinh phục các nước khác, nhất là các nước ở
Arabi, và tiến đánh Xiry, tạo tiền đề cho những cuộc chinh phạt lớn của người
Arập về sau, khi ông đã qua đời, để mở rộng đế quốc của họ.
Môhamết không bao giờ tự
cho mình là người sáng tạo ra kinh Côran, nền tảng giáo lý đạo Hồi, cơ sở lập
pháp và các mối quan hệ của người Arập. Ông chỉ nhận mình là người phát hiện
ra Kinh Thánh. Ngoài chức năng kỳ diệu đó ra, ông chỉ là một người như mọi
người trần thế khác. Ông lấy bốn vợ chính thức - như kinh Côran cho phép - lại
thêm cả một đoàn tì thiếp song vẫn không có con trai kế nghiệp. Sau khi Môhamết
qua đời, những người kế vị ông tiếp tục các cuộc chiến tranh chinh phạt, lập
nên một đế quốc rộng lớn trải từ bờ sông Ấn ở Tây Bắc Ấn Độ đến tận Đại Tây
Dương men theo bờ Bắc Địa Trung Hải. Đạo Hồi cũng nhờ đó mà lan truyền rộng
rãi. Được một thời gian, đế quốc Arập bị chia năm xẻ bảy song đạo Hồi vẫn giữ
được tính thống nhất và tiếp tục phát triển. Ngoài các nước Arập nay đông hơn
một trăm triệu người, đạo Hồi còn thịnh hành ở nhiều vùng rộng lớn từ
Inđônêxia qua Pakistăng đến Tây Ban Nha, từ châu Phi da đen cho tới các nước
Trung Á: Kazắstăng, Kiếchghizi, Udơbêkistăng, Taxikixtăng, Tuốcmêni và vùng
Tân Cương của Trung Quốc.
Những lời giáo huấn của
Môhamết được các học trò và tín đồ gần gũi nhất của ông ghi lại và lưu truyền
qua các bản chép trên xương lạc đà, trên đá hoặc trên lá cọ. Để tránh tình trạng
có nhiều dị bản, vị calíp [10] đầu
tiên nối ngôi Môhamết là Abu Bêke (632-634) cho chỉnh lý và ban hành một bản
kinh duy nhất. Đến thời hoàng đế Otman (644-656) một tiểu ban lại được lập ra
có trách nhiệm chỉnh lý và xác định lần cuối cùng bản kinh chính thức. Như vậy,
chỉ hai mươi năm sau ngày giáo chủ qua đời, Kinh Thánh của đạo Hồi đã không
còn dị bản và cứ vậy được lưu truyền cho đến tận bây giờ.
Tuy vậy do đặc điểm lối viết
chữ Arập thường gây nhiều cách hiểu khác nhau về văn phạm, lại trải qua mười
ba thế kỷ lưu truyền kể cả ở nhiều nước không nói tiếng Arập, do đó khó tránh
khỏi tình trạng nảy sinh nhiều điểm dị biệt. Để khắc phục nhược điểm đó, năm
1923 chính phủ Ai Cập cho ấn hành một bản kinh chính thức có chú thích rất đầy
đủ nhằm tránh mọi cách hiểu không đúng và có những cách giải thích khác nhau[11].
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Kinh Côran là hiện tượng rất đặc biệt. Jêxu
Crít, người vẫn được coi là kẻ sáng lập đạo Thiên chúa, không để lại tác phẩm
hoặc di huấn nào. Những cộng đồng Thiên chúa giáo đầu tiên tách ra từ đạo Do
Thái, thừa nhận Cựu ước vốn của đạo Do Thái và biến nó thành Kinh Thánh của
mình. Còn Tân ước là một tập hợp nhiều văn phẩm khác nhau mãi đến cuối thế kỷ
thứ tư sau Công nguyên mới thực sự định hình. Ngược lại, kinh của đạo Hồi là
tác phẩm của một người, và chỉ hai mươi năm sau khi người đó qua đời, đã trở
thành hoàn chỉnh. Đó là một điều hiếm thấy trong lịch sử các tôn giáo, nói
lên thiên tài lỗi lạc của Môhamết.
Kinh Côran về thực chất là
phản ánh các hoạt động tôn giáo của Môhamết với tư cách là một đấng "sứ
giả". Bởi vậy nội dung của nó rất phong phú và phong cách diễn đạt cũng
không đồng nhất. Những đoạn ra đời sớm nhất và tương đối ngắn hơn cả mang nhiều
chất thơ (kinh Côran vốn được viết bằng văn xuôi có vần). Một phần quan trọng
gồm những truyện kể vay mượn từ những truyền thuyết Do Thái, Thiên chúa giáo,
nhất là truyền thuyết đã có trong Cựu ước. Và cuối cùng là những quy định nhằm
tổ chức cộng đồng tín đồ ở Mêđin, đấy cũng là cơ sở luật lệ Hồi giáo về pháp
lý và về lễ nghi.
Đạo Hồi khẳng định sự tồn
tại của một Thượng đế duy nhất (tiếng Arập gọi là Ala) mà sứ giả cuối cùng là
Môhamết. Có thiên đường và địa ngục, có phục sinh và phán xét cuối cùng, có
thiên thần và ma quỷ. Tính thiêng liêng của kinh Côran là nguyên lý cơ bản của
đạo Hồi. Về nghi tiết, tín đồ Hồi giáo phải cầu kinh năm lần mỗi ngày. Lúc cầu
kinh, mặt hướng về La Mếchcơ. Tín đồ phải ăn chay trong tháng ramađan (tháng
chín theo lịch Hồi) và hành hương về La Mếchcơ ít nhất một lần trong suốt đời
người. Đạo Hồi không có thầy tu chuyên nghiệp, chỉ có người rao giờ cầu kinh
và những người chuyên trách một số việc tôn giáo và xã hội.
Về mặt xã hội, sự xuất hiện
của đạo Hồi mang một số yếu tố tiến bộ vào thời đó. Đạo Hồi chủ trương đoàn kết
mọi người, trước hết là đoàn kết các dân tộc Arập bỏ tệ chôn người con gái đầu
lòng mới đẻ, khuyến khích cứu giúp người nghèo, giải phóng người nô lệ. Lúc
ra đời, nó phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp nghèo hèn, nhờ vậy nhanh
chóng lan truyền rộng rãi và trở thành chỗ dựa vững chắc cho chế độ chính trị
thời bấy giờ. Đạo Hồi góp phần quyết định sự thành lập và bành trướng của đế
quốc calíp từ thế kỷ VII trở về sau.
IV/ Một đặc điểm nổi bật và
quán xuyến của Nghìn lẻ một đêm là cách dừng câu chuyện lại giữa chừng,
báo trước sẽ hạ hồi phân giải. Câu chuyện này được lồng vào câu chuyện khác,
cũng có khi tác giả tập hợp nhiều nhân vật tính chất rất khác nhau lại một
nơi, rồi tạo nên tình huống buộc mỗi người phải kể một chuyện. Với cách này,
truyện muốn kết thúc ở đâu cũng được, hoặc muốn kéo dài bao nhiêu cũng vẫn là
hợp lý. Đặc điểm ấy xuất phát từ một sự cần thiết sống còn: Nàng Sêhêrazát phải
ngừng câu chuyện của mình vào lúc trời sáng, ở đoạn hay nhất, hoặc hứa hẹn một
chuyện khác sẽ còn hấp dẫn hơn nữa; nếu không, tên bạo chúa Saria sẽ thi hành
quyết định tàn bạo của hắn và người kể chuyện sẽ không thể sống tới ngày hôm
sau. Đó cũng là nghệ thuật độc đáo của người kể chuyện rong nhằm thu hút sự
chú ý của thính giả, sao cho những người nghe không chán, không mệt, không bỏ
ra về dở chừng, và tối hôm sau sẽ còn đến nghe đông hơn hôm trước. Những lúc
nàng Sêhêrazát ngừng lại và nói với bạo chúa Saria: "Tiếc thay trời đã
sáng rồi mà phần còn lại là đoạn hay nhất trong câu chuyện...", hoặc:
"Những chuyện vừa rồi hay thật đấy nhưng không thể nào so sánh được chuyện
bệ hạ sắp nghe đây..." chính là lúc người kể chuyện thưa với thính giả
đang chăm chú: "Đêm đã khuya lắm rồi, xin cho phép dừng lại đây, đêm mai
tôi xin kể nốt hầu quý vị". Lối ngắt chuyện này, có những bản thành văn
sẽ ghi tóm tắt: "Muốn biết sự thể thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ"
(như trong các tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc).
Ngoài một số ít truyện
riêng lẻ, Nghìn lẻ một đêm thường bao gồm những chuỗi gắn bó với
nhau lồng ghép vào nhau. Một nhân vật kể một chuyện, nhân vật trong truyện thứ
hai này kể chuyện khác, rồi đến lượt nhân vật thuộc thế hệ thứ ba kể tiếp một
chuyện khác nữa. Đó là trường hợp chuỗi truyện "Người đánh cá" gồm
năm truyện. Thường gặp hơn là cách tạo nên tình huống buộc tất cả những nhân
vật chính trong truyện phải lần lượt kể chuyện của mình hoặc một chuyện nào
đó mà mình biết. Chuỗi truyện "Ba khất sĩ con vua và năm thiếu phụ ở
thành cổ Bátđa" gồm bảy truyện, chuỗi truyện "Chú gù" gồm mười
hai truyện, chuỗi "Những chuyến vi hành" gồm bốn truyện, v.v... thuộc
vào trường hợp này. Cũng có khi một chuỗi nhiều truyện với nhân vật và kết cấu
riêng biệt được tập hợp theo cùng một chủ đề. Năm chuyện tình, dang dở hoặc
đoàn viên, bắt đầu với "Chuyện Abu Hatxan..." được A. Galăng xếp liền
nhau, chiếm tới hơn bốn trăm trang sách.
Đặc điểm thứ hai của Nghìn
lẻ một đêm là sự chung sống, sự hoạt động xen kẽ và tác động qua lại giữa
con người và thần linh. Bên cạnh những tình tiết sống quá, thực quá, thực tới
mức tự nhiên chủ nghĩa, là sự tưởng tượng hết mực huyễn hoặc, viển vông, tự
do buông mình theo phép nhiệm màu của ảo giác, như lời nhận xét chí lý của
Macxim Gorki. Đây không phải là sự ngẫu nhiên. Quan điểm này của những người
kể chuyện bắt nguồn từ thế giới quan của đạo Hồi. Nhân vật chính trong một
chuyện chẳng đã nói rõ: "Hẳn chàng đã biết, thưa hoàng tử, như đạo Hồi của
chàng vẫn dạy, thế giới này có người ở mà cũng có thần linh đó sao".
Như đã nói ở trên, các
truyện trong Nghìn lẻ một đêm, dưới dạng đang lưu truyền đến chúng ta
ngày nay, được định hình lần cuối vào khoảng thế kỷ XV ở Ai Cập, khi dân cả
nước này đã theo đạo Hồi. Khuynh hướng ca ngợi quá mức đạo Hồi và đả phá các
tôn giáo khác, nhất là chống tục thờ thần lửa, bàng bạc khắp tập sách. Khi
nào khuynh hướng này quá lộ liễu thì nó làm hại đến giá trị nghệ thuật, như
trường hợp "Thiên tình sử của hoàng tử Camaranzaman". Truyện mở đầu
rất hay, tình tiết cực kỳ hấp dẫn, nhưng kết thúc lại gượng gạo vì tác giả muốn
tất cả các nhân vật, tích cực cũng như phản diện, cuối cùng đều giác ngộ đạo
Hồi.
Đặc điểm nổi bật thứ ba là
vai trò của đồng tiền, thể hiện qua cách tính toán chi li của các nhân vật,
cho dù đó là hoàng tử hay thần linh, thương gia hoặc công chúa, dù đang lâm
vào cảnh ngộ đắm tàu hoặc lúc tình yêu tan vỡ, vẫn không quên được sức mạnh của
đồng tiền. Sự giàu sang là động lực thúc đẩy con người coi thường đói khát,
gian nguy, bất chấp cái chết vượt qua sa mạc và đại dương đi tìm của cải,
hàng hóa, thị trường. Vì vậy, mặc dù đầy rẫy những ma quái và thần linh, những
phép nhiệm màu xen những điều kỳ ảo, Nghìn lẻ một đêm rốt cuộc vẫn
là một bức tranh toàn cảnh muôn vẻ muôn màu của thế giới Hồi giáo vào thời kỳ
chế độ phong kiến tan rã và buổi sơ khai của chủ nghĩa tư bản. (Khẳng định điều
này, chúng ta không quên là các truyện trong bộ sưu tập được hình thành vào
những thời điểm khác nhau, truyện trước và truyện sau có khi ra đời cách nhau
tới sáu thế kỷ, cho nên sự phản ánh nói trên cũng mang nhiều sắc thái rất
khác biệt). Các truyện trong Nghìn lẻ một đêm miêu tả một cách sinh
động, tài tình, với rất nhiều chi tiết cụ thể, cuộc sống xa hoa của vua chúa
trong cung đình tráng lệ cũng như sinh hoạt của nhân dân, hội hè, đình đám, lễ
cưới, đám tang, làm nghề thủ công, buôn bán. Thậm chí những chuyện riêng kín
trong gia đình hoặc sự dan díu trên bộc trong dâu cũng được miêu tả tỉ mỉ.
Người đọc tìm thấy với một sự hứng thú mỹ cảm bất ngờ, những tư liệu chân thật
phản ánh tình hình kinh tế - xã hội một thời; cách săn voi, hái tiêu, trảy dừa,
đi biển... hết sức đa dạng. Có thể kể ra: hoàng đế, công chúa, hoàng tử, tể
tướng, anh hề, bà vú nuôi, chị nô lệ trẻ, mụ mai già, người đánh cá, trai
đàng điếm, gái ăn chơi, anh lính về vườn được giao chân canh cổng, thợ bện thừng
trở thành người trưởng giả... hầu như không thiếu một hạng người nào. Riêng
chuỗi truyện mở đầu bằng "Chuyện chú gù", ta đã gặp gần hai tá nhân
vật chính thuộc hạng dân thường, thợ may, thợ cạo, anh hàng thịt, người tiếp
phẩm, thầy lang, thầy pháp, con ở, chú hề, kẻ ăn xin, tên cướp đường, mụ lừa
bịp, lão lái buôn, chú rao hàng. Nổi bật nhất trong lớp dân dã ấy là nhà
buôn. Có thể nói nhân vật trung tâm của xã hội ở đây là thương nhân.
Có người thử xếp các truyện
trong Nghìn lẻ một đêm thành từng loại: truyện ma quái, truyện
giang hồ hiệp sĩ, truyện phiêu lưu, truyện cung đình, truyện tình, truyện bọn
ăn cắp và bịp bợm... Sự phân loại này khó tránh khỏi khiên cưỡng, vì các tình
tiết và bối cảnh bện vào nhau chặt đến mức xếp một truyện vào bất cứ loại nào
cũng đều có thể coi là thỏa đáng hoặc không thỏa đáng.
Những nhân tố gì đã làm
nên sự hấp dẫn và giá trị bất hủ của Nghìn lẻ một đêm? Trước hết, cốt
truyện ly kỳ, tình tiết bất ngờ, thể hiện một sức tưởng tượng phong phú đáng
kinh ngạc với cái vốn thực tại rộng lớn lạ thường. Thiếu nhi thích xem để biết
câu chuyện rồi sẽ ra sao. Người già tìm đọc không chỉ để sống lại tuổi thơ của
mình mà còn để suy ngẫm về cuộc đời, về triết lý bao hàm trong truyện... Người
đọc thuộc tầng lớp xã hội nào cũng thu thập được ít nhiều hiểu biết. Nói theo
cách ngày nay, lượng thông tin của tác phẩm lớn, đối tượng gây hứng thú của
nó rộng.
Song, nếu chỉ có thế thôi
vẫn chưa đủ. Từng có một thời, bạn đọc nước ta hâm mộ những truyện đại loại
như "Phong thần", "Chinh đông chinh tây"... Nay không mấy
ai nhắc đến những tên sách ấy nữa. Trước giải phóng ở miền Nam đầy rẫy một loại
truyện với những chi tiết quái đản, tình huống hoang đường, nhân vật siêu
nhiên. Nó cũng muốn bao hàm những tư tưởng nào đấy. Nó cũng từng được những
người nào đó ưa chuộng và ca ngợi. Nhưng nói chung người ta đọc để giết thời
giờ, loại sách ấy chắc chắn khó tồn tại với thời gian.
Thế mạnh của Nghìn lẻ
một đêm, cái gốc làm nên giá trị bất hủ của nó chính là cội nguồn dân gian. Bất
kỳ ở đâu, truyện dân gian khởi đầu là những truyện kể có nguồn gốc huyền thoại
hoặc xuất phát từ cuộc đời thực, và đều có ý nghĩa đền bù cho cuộc sống trước
mắt ở thế gian, nơi cơ cực bao giờ cũng nhiều hơn hạnh phúc. Con người muốn
qua những truyện kể ấy, tạm thời thoát ra khỏi thực tại mình đang sống, để
tìm tới một thế giới ước mơ, để trả thù cuộc đời đơn bạc. Nhưng tự ru mình
trong thế giới ảo giác và tưởng tượng, con người vẫn là con người với những
tình cảm thương ghét vui buồn, âu yếm và ghen tuông, hào hiệp và ti tiện, cao
cả và thấp hèn. Con người dù luôn luôn bị ràng buộc trong các quan hệ xã hội,
tóm lại là con người thực. Truyện dân gian thường đưa cuộc sống thực vào thế
giới thần tiên, hoặc nói đúng hơn kéo níu cuộc sống thần tiên về trộn lẫn với
thực tại đã được tái tạo bằng nghệ thuật.
Thần linh cần thiết cho cuộc
sống thế gian, nơi con người thường vỡ mộng nhiều hơn là đạt được ước mơ, cho
dù ước mơ ấy chẳng lấy gì cao xa cho lắm. Cần một tấm thảm bay để đưa ta đến
gặp người yêu trong nháy mắt. Cần một quả táo thần để chữa bệnh cho nàng công
chúa đang thập tử nhất sinh. Phải có một cây đèn thần thì chú bé lêu lổng con
bác phó may mới lấy được nàng công chúa rồi nối ngôi vua. Con chim không biết
nói thì lấy ai mách cho nhà vua biết tung tích những đứa con phiêu bạt do lỗi
lầm của mình. Lại cần có những hung thần để trả hộ mối hận mà ta đành bó tay
trong cuộc đời thực. Dễ hiểu là vì sao các truyện trong Nghìn lẻ một đêm có
lắm hoàng tử đến vậy, đặt chân đến đâu cũng gặp hoàng tử. Điều đó không chỉ
phản ánh một cách máy móc thực tế lịch sử là tình trạng phong kiến cát cứ, hoặc
ngược lên xa hơn nữa, chế độ bộ lạc và thị tộc với không biết bao nhiêu là tù
trưởng, tộc trưởng. Vị nào trong mắt người kể chuyện dân gian cũng đều là
hoàng tử cả. Suy đến cùng, các hoàng tử trong Nghìn lẻ một đêm chung
quy chỉ là những chàng trai giống như hoàng tử đã cùng cô Tấm của ta đi dự hội
làng. Các công chúa và hoàng hậu xét đến cùng chỉ là những hình mẫu của ước vọng
tuổi trẻ được nhân cách hóa mà thôi.Chính nhờ nguồn gốc dân gian mà Nghìn
lẻ một đêm chứa đựng tinh thần nhân văn đậm đà. Tước bỏ đi những hạn chế
lịch sử biểu hiện qua các quan điểm tôn giáo, những phong tục cổ lỗ và một số
chi tiết mô tả sự buông thả theo bản năng, ta sẽ nhìn thấy cái cốt tủy tinh
túy của con người. Ước vọng tự do, tình yêu nam nữ, nghĩa vợ chồng, quan hệ
huyết thống, cái ác phải trả nợ, cái thiện được đền bù, nhân tình thế thái...
Người đọc có thể thấy ở đây câu trả lời cho nhiều vấn đề muôn thuở. Tinh thần
nhân văn khi thì lẩn dưới những chuyện ly kỳ, quái đản tưởng như không dính dấp
đến con người, khi thì được các nhân vật nói thẳng ra lời, súc tích như những
câu châm ngôn. Nói chính xác hơn, đó là những châm ngôn truyền tụng trong dân
gian được thốt ra đúng chỗ từ miệng nhân vật. Các tầng lớp trên của xã hội;
hoàng đế, tể tướng, hoàng tử, vương tôn được đề cao hết mức nhưng cũng không
thiếu những kẻ lố bịch. Những người ở nấc cuối cùng của bậc thang tôn ti xã hội
lại có khi được trình bày với tài năng xuất chúng và đức tính cao thượng. Một
pháp quan được mọi người vì nể, một nhà buôn quen với sự tính toán tiền nong
lại kém thông minh nhiều so với một đứa trẻ con ("Chuyện Ali Côgia, nhà buôn
ở Bátđa") hoặc một người con gái ("Chuyện Ali Baba và bốn mươi tên
cướp"). Bọn cướp còn phải cầu viện đến thần linh để giúp chúng giấu của.
Ông chủ hiền lành, phúc hậu còn cần có vận may mới trở nên giàu có. Nhưng cô
hầu gái trong "Chuyện Ali Baba và bốn mươi tên cướp" thì không hề
có sự trợ giúp của Thượng đế hoặc thánh thần. Chỉ với trí thông minh, sự bình
tĩnh, lòng dũng cảm và nghĩa thầy tớ thủy chung, cô đã một mình tiêu diệt bốn
mươi tên cướp.
Cứ mỗi lần gặp điều bất hạnh,
ta lại nghe các nhân vật thốt lên: "Ấy là ý muốn tối cao của Thượng đế,
chúng ta phải cúi đầu tuân phục, không được hé răng phàn nàn". Nhưng
trong hành động thực tế thì luôn luôn là sự nổi loạn trước những bất công xã
hội. Theo luật pháp, nô lệ là vật sở hữu hoàn toàn và tuyệt đối của chủ nô. Đối
với nô lệ "chỉ có cái chết là quyền tự do duy nhất không bị ai tước đoạt".
Được làm ái phi cho một vua Ba Tư hùng cường là vinh dự và hạnh phúc to lớn.
Nhưng không vì vậy mà người ta thôi không ao ước tự do và nghĩ về đất nước:
"Bệ hạ lấy làm ngạc nhiên ư? Tình yêu đất nước cũng tự nhiên không kém
nghĩa cha con, và đối với những ai chưa mất trí khôn đến mức không hiểu nổi
giá trị của tự do, thì sự mất tự do là điều không thể nào chịu đựng nổi. Thể
xác rất có thể bị lệ thuộc vào quyền uy của một ông chủ nắm trong tay vũ lực
và quyền hành, nhưng ý chí không thể bị khuất phục, bao giờ nó cũng tự làm chủ
lấy nó" (Chuyện Bêđe hoàng tử nước Ba Tư và Gianba công chúa con vua thủy
tề).
Hoàng đế Harun An-Rasít
quyền uy chấn động thiên hạ, vừa có quyền sinh quyền sát đối với muôn dân, vừa
là người đại diện Thượng đế cai quản phần hồn của tất cả các tín đồ. Ấy thế
mà mặc dù quý trọng hết mực một cung phi, ban cho không biết bao nhiêu ân huệ
và đặc quyền, vẫn không sao chiếm được trái tim của cô gái ấy. Trái tim này,
oái oăm thay, lại trao cho một chàng trai trẻ thoạt gặp ở đường phố (hoàng tử,
cố nhiên). Bị cản trở bởi quyền uy, hai người yêu bị cách ly và đành phải chết
gần như cùng một lúc vì khổ đau và thương nhớ. Giáo lý đạo Hồi buộc người đàn
bà ra đường phải che mặt. Luật pháp trị tội rất nặng những người vợ không
chung thủy. Kinh Côran khẳng định "cái gì đã thuộc về chủ nô thì cấm nô
lệ động đến", nhưng dân chúng lại hết lòng ủng hộ luyến ái tự do. Khi
hai người yêu bất hạnh qua đời, dân chúng tự động rước xác chàng trai đưa vào
chôn chung một ngôi mộ với cô gái, mỉa mai sao ngôi mộ cực kỳ tráng lệ ấy lại
do hoàng đế dựng sẵn, dành cho người mà mình không chiếm được trái tim! Đám
tang ấy, "được cơ man là dân chúng, nam cũng như nữ, sang cũng như
hèn" đưa đến tận mộ. Và câu chuyện kết thúc với câu: "Kể từ buổi
đó, tất cả dân chúng thành Bátđa cũng như người theo đạo Hồi từ mọi nơi trên
trái đất có dịp đến thành phố này đều hết sức trọng vọng ngôi mộ ấy và không
ngừng đến đấy cầu kinh". (Chuyện Abu Hatxan...). Đó là ước mong muôn thủa
của những đôi trai gái bất hạnh, đành bằng lòng với kiếp sau làm cây liền
cành, chim liền cánh. Đó là sự nổi loạn của trái tim chống bạo quyền. Vì tình
yêu, một hoàng tử (xin hiểu là chàng trai) ở tận cùng nước Ba Tư lặn lộn sang
đến tận cùng nước Trung Hoa tìm cho được người mình ngày đêm thương nhớ
("Chuyện thiên tình sử của hoàng tử Camaranzaman..."). Trong một xã
hội đề cao hết mức đồng tiền, thật đáng lạ thấy một thương nhân đang làm ăn
phát tài dám vì tình yêu mà bỏ hết mọi công việc buôn bán, bỏ mẹ và em gái, để
chịu đựng mọi gian truân ("Chuyện chàng Ganem...”). Trong bối cảnh của
xã hội phong kiến hồi đó đang suy tàn, những câu chuyện ân tình này chẳng là
gì khác một lời kêu gọi giải phóng phụ nữ, giải phóng con người.
Ý chí xông xáo, vượt hiểm
nguy, làm việc cật lực để đạt giàu sang là một chủ đề thường được phát triển.
Trước khi Cơrixtốp Côlông tìm ra châu Mỹ, người Ba Tư, người Arập đã dám băng
qua hoang mạc, đầm lầy rừng rậm, núi cao, mở "con đường tơ lụa"
buôn bán với phương Đông.
Sau thành công của F.
Majenlăng và C. Côlông, việc vượt biển cả đi tìm của cải là một động lực thôi
thúc rất mạnh tầng lớp thương nhân đang trỗi dậy trong xã hội thời bấy giờ.
Tiêu biểu rõ rệt cho tinh thần ấy, và phản ánh hiện tượng lịch sử này, là chuỗi
"Chuyện Xinbát, người đi biển". Sau khi thuật lại cho một người
khuân vác nghèo khổ đang thắc mắc vì sao Xinbát sống sung sướng hơn mình, người
đi biển kết luận: "Thế nào, ông bạn, bạn có bao giờ nghe ai đã từng trải
qua nhiều khổ ải bằng tôi không, hoặc có ai đã từng sống trong những tình huống
gian nan dường ấy? Sau bao nhiêu việc làm, tôi hưởng thụ một cuộc sống dễ chịu
và bình yên, chẳng phải là điều công bằng sao?". Một hoàng tử thất cơ lỡ
vận, phải nương náu nhà một tiều phu. Ông này hỏi chàng có biết một nghề nào
khả dĩ kiếm sống qua ngày. "Tôi thạo môn này khoa nọ, rằng tôi là nhà ngữ
pháp, nhà thơ v.v... và nhất là tôi viết chữ rất tốt". - "Với tất cả
những điều cậu vừa nói đó - bác đáp - ở xứ này sẽ không kiếm ra nổi một miếng
bánh đâu: không có gì vô tích sự hơn là những hiểu biết đại loại như cậu vừa
nói tới. Nếu cậu nghe lời khuyên của tôi thì cậu hãy mặc một chiếc áo cộc, và
trông cậu cũng có vẻ cường tráng và sức khỏe tốt đây, cậu hãy đi vào khu rừng
bên cạnh mà đốn củi, mang về bày ra chợ bán. Tôi đảm bảo là cậu sẽ thu được một
món tiền nho nhỏ đủ sống mà không cần nhờ vả ai" (Chuyện khất sĩ thứ
hai, con vua).
Các tác phẩm bất hủ thường
nói nhiều hơn lượng từ ngữ dùng để viết ra nó. C. Pauxtốpxki có lần nhận xét
Ăngđécxen viết truyện cho trẻ em, người lớn đọc nhiều khi không hiểu nổi ý
nghĩa thâm thúy. Càng có thể nói như vậy lắm về Nghìn lẻ một đêm. Đằng
sau những tình tiết khó tin, thấp thoáng nhân tình thế thái. Chuyện người chợt
tỉnh giấc mơ là một trường hợp đáng chú ý. Một chàng trai vì ngán ngẩm sự bạc
bẽo của người đời, tỏ ý ước mơ được làm vua một ngày, chỉ để làm mỗi việc đơn
giản là sai đánh đòn mấy lão giáo trưởng cứ hay thọc mũi vào chuyện nhà hàng
xóm. Không ngờ hoàng đế trong một chuyến vi hành biết được ước mong hiền lành
đó. Vua sai người đánh thuốc mê, đang đêm đưa chàng trai ấy về đặt lên giường
ngủ của chính mình, rồi truyền lệnh cho cả triều đình ngày hôm sau hãy coi
chàng như hoàng đế thật, và hãy thi hành mọi lệnh của chàng, bất chấp mọi sự
ngông cuồng, "cho dù có vì thế mà ngân khố ta bị cạn sạch trong một
ngày". Người dân làm vua đúng một ngày. Nửa đêm hôm sau, chàng lại bị
đánh thuốc mê và đưa trở về nhà cũ của mình. Khi tỉnh dậy, buồn thay, chàng vẫn
ngỡ mình là hoàng đế. Bệnh "say quyền lực" khiến cho chàng trai hiền
lành, đáng mến ấy nói nhảm, rồi đi tới chỗ vác gậy đánh mẹ, bởi vì bà cụ
không chịu tin anh chàng là vua, không chịu "tâu hoàng đế" mà chỉ gọi
anh là "con trai yêu quý của mẹ". Chàng say quyền lực đến nỗi hàng
xóm phải xích tay chân chàng lại tống vào nhà thương điên. Ở đây người ta nhốt
chàng vào cũi sắt, mỗi ngày cho ăn một trận đòn "để cho cu cậu hết cái bệnh
cuồng làm hoàng đế". Hoàn cảnh làm thay đổi con người. Quyền hành phong
kiến tuyệt đối và phú quí vinh hoa đã tha hóa nó. Đã đành các tác giả còn muốn
mượn cốt truyện ly kỳ để mô tả cảnh sống cực kỳ xa hoa trong cung đình, và
mua vui người đọc bằng nhiều tình tiết bất ngờ song tư duy thật của họ không
giản đơn có thế.
Có bản dịch đã đổi tựa đề
truyện ấy thành "Chuyện người làm vua một ngày", làm như vậy theo
chúng tôi là chưa thấu suốt "ý tại ngôn ngoại" của câu chuyện.
Xưa nay Nghìn lẻ một
đêm thường được coi là một bộ truyện đọc để giải trí. Chắc chắn đó không
phải là chủ ý của tác giả. Trong Lời nói đầu, sau khi chúc tụng Thượng đế chí
nhân chí từ và cầu nguyện cho Sứ giả tối cao Môhamết, người sáng lập đạo Hồi,
tác giả vô danh đã viết: "Vinh quang cho những ai đã góp chuyện đời xưa
để làm bài học cho người đời nay. Chính từ những bài học ấy, xin kể chuyện Nghìn
lẻ một đêm với tất cả những phép nhiệm màu, những châm ngôn chứa đựng
trong đó".
V/ Ở nước ta, bản dịch Nghìn
lẻ một đêm đầu tiên là bản của Đinh Thái Sơn, chủ nhiệm Nam Kỳ thư xã, ấn
hành thành 24 tập, mỗi tập khoảng 50 trang, ra đời vào đầu thế kỷ, khoảng năm
1910 và những năm tiếp sau. Các tập đầu được in ở Nhà in Phát Toán, đường
Đormay (d’Ormay) Sài Gòn; những tập cuối ở Nhà in Liên Hiệp (Union) đường
Luyxiêng Môtxar (Lucien Mossard) cũng ở Sài Gòn. Bản dịch này mang tên
"Giạ đàm dị sử"[12] với
phụ đề đóng trong ngoặc đơn: Chuyện Arập một nghìn lẻ một đêm.
Năm 1918, Trần Thái Nguyên
lại dịch đăng vào mục tiểu thuyết trên tờ báo hằng ngày Nam Trung nhật báo. Bản
dịch này lấy đề là "Một ngàn lẻ một đêm".
Ở Thư viện Quốc gia (Hà Nội)
hiện nay có lưu trữ một bản dịch xuất bản khoảng năm 1930 trở về sau. Hiện
còn tám tập, mỗi tập dày 16 hoặc 20 trang khổ nhỏ, nhan đề là "Sách giải
trí - Một nghìn lẻ một đêm". Đây là một bản phỏng dịch và tóm tắt khá sơ
sài. Năm 1935, tuần báo Hoàn cầu Tân văn của Nguyễn Háo Vĩnh, chủ nhà in Xưa
Nay trên đường Bôna (Bônard) Sài Gòn, lại đăng một bản dịch khác, ký tên
Dương Quang Nhiễu. Tên truyện vẫn là "Một ngàn lẻ một đêm". Tuần
báo đăng truyện này chỉ được ít lâu thì đình bản. Nhà in Xưa Nay trích một
vài đoạn ngắn ra thành sách khổ nhỏ, chữ to, có minh họa dành cho trẻ em.
Ở Hà Nội, năm 1939, Nhà xuất
bản Tân Dân ở phố Hàng Bông cho ra đời trên Phổ thông bán nguyệt san, tạp chí
nửa tháng một kỳ, bản dịch của La Sơn, rồi sau đó của Hoàng Cầm. Mỗi tập dày
160 trang, đăng trọn một hoặc hai truyện, cách năm sáu tháng hay một năm ra một
tập. Đề sách lần này là "Một nghìn lẻ một đêm".
Tất cả các bản dịch nói
trên đều dịch hoặc phỏng theo bản tiếng Pháp của Ăngtoan Galăng.
Năm 1943 trở về sau, Nhà
xuất bản Tân Việt, Sài Gòn lần lượt phát hành bản dịch của Trần Văn Lai có
chia thành từng đêm với đầu đề "Ngàn lẻ một đêm". Tập I dày 184
trang với khổ 13x19 "từ chuyện mở đầu đến đêm thứ chín". Trần Văn
Lai dựa theo bản của J. C. Mácđruytx. Mặc dù có ghi rõ ở đầu sách "dịch
đầy đủ và cặn kẽ theo nguyên văn" nhưng người dịch "cũng phải loại
bớt mấy đoạn văn khiêu dâm của các nam nữ nhân vật trong truyện" (trích
lời tựa).
Ở Hà Nội, từ 1952 và những
năm tiếp sau, Nhà xuất bản Vĩnh Thịnh ở phố Lò Sũ cho in "Một nghìn một
đêm lẻ" bản dịch của Trần Duy Đức. Bản này cũng ghi: "dịch đầy đủ
đúng nguyên bản Arập", tuy vậy không những nó không tạo được không khí
Arập mà còn gây cho người đọc cảm giác như đang xem những tiểu thuyết Trung
Quốc cổ. Nàng Sêhêrazát trở thành nàng Giáng Nga, vua Haron An-Rasít là hoàng
đế Hạ Luân An, tể tướng Giafa được mệnh danh là thừa tướng Giả Hoa, còn Mêrua
là tổng binh Mạnh Lực, v.v...
Sau 1954, một số bản dịch
phổ thông lại được xuất bản ở Sài Gòn. Tại miền Bắc, Nhà xuất bản Phổ thông
(Hà Nội) cho in "Một nghìn một đêm lẻ", bản dịch của La Côn (1963).
Đây là hai tập sách mỏng 130 trang khổ nhỏ. Gần đây hơn (1973), Nhà xuất bản
Kim Đồng cho xuất bản "Cây đèn thần" gồm hai truyện tóm tắt và có
minh họa dành cho thiếu nhi: "Cây đèn thần" và "Ali Baba và bốn
mươi tên cướp" do Đỗ Đức Khang phỏng dịch.
Bản dịch của chúng tôi dựa
vào bản in gồm ba tập do Nhà xuất bản Anh em Garniê (Librairie GARNIER
FRÈRES, 6 rue des Saints-Pères, Paris) phát hành năm 1921. Bản này hoàn toàn
giống bản in năm 1881, là bản cổ nhất còn giữ được ở Việt Nam, do Nhà xuất bản
Librairie des Bibliophiles, 5 rue Saint-Honoré, Paris phát hành.
Lại so sánh bản in năm
1921 với một bản khác cũng do Nhà xuất bản Anh em Garniê "được nhà văn
Gaxtông Picar soát lại và đề tựa" mới in năm 1962, chúng tôi thấy về cơ
bản không có gì khác. Một đôi chỗ, G. Picar đã làm công việc biên tập, cụ thể
là ngắt câu hoặc đặt lại các dấu chấm câu cho gãy gọn, sáng sủa, dễ đọc hơn.
Có trường hợp, đã thay đổi một vài từ cổ hoặc chưa thật chuẩn xác để cho câu
văn khỏi tối nghĩa.
Giọng văn kể chuyện đượm
màu sắc Arập với nhiều chi tiết cụ thể đôi khi trùng lặp. Chúng tôi cố gắng
tôn trọng phong cách đó và bám sát nguyên bản mặc dù thoạt nghe có hơi lạ
tai, thậm chí không được trong sáng như ta hiểu ngày nay. Trừ một số ít trường
hợp phải dịch thoát để khỏi tối nghĩa hoặc trở thành ngô nghê. Chúng tôi cũng
có tước bớt một vài câu ngắn hoặc để lẩn đi một vài chi tiết xét ra quá sỗ
sàng trong quan hệ nam nữ. Một đôi chỗ chúng tôi dựa vào các văn bản và tài
liệu khác để chú thích thêm cho người đọc đỡ mất công tìm hiểu, Một khó khăn
lớn khi dịch là cách xưng hô. Phần lớn các truyện đều bắt đầu bằng "Tâu
bệ hạ" vì nếu không phải là nàng Sêhêrazát đang kể cho vua Ba Tư Saria
nghe thì cũng là lời của một nhân vật nào đó trong truyện kể cho một ông vua
nào đấy cũng vừa mới được sáng tạo nên thưởng thức. Theo cách hiểu thông thường,
đã "Tâu bệ hạ " thì phải xưng "thần", nhưng cứ nói năng
như vậy qua suốt mấy chục truyện, sẽ khó tránh khỏi gò bó. Hơn nữa, xét cho
cùng "bệ hạ " ở đây chẳng qua là công chúng đang nghe những người kể
chuyện rong trình bày. Bởi vậy, trong bản dịch này, trừ một vài trường hợp,
còn nói chung các ngôi thứ nhất đều xin được xưng "tôi", một cách
thoải mái. Thật ra, chỉ cần qua năm, sáu mươi dòng, người đọc sẽ quên bẵng đi
triều đình vua chúa, mà bị cuốn hút theo câu chuyện. Không ai còn nhớ đâu là
bạo chúa, đâu là ái phi, chỉ còn có người kể chuyện tài hoa và những câu chuyện
hấp dẫn.
Nguồn: Lời tựa cho tác phẩm Nghìn
lẻ một đêm. Phan Quang dịch từ bản tiếng Pháp của Antoine Galland: Les
Mille Et Une Nuits. Librairie Garnier Freres. Paris, 1921. Nhà văn Triệu Xuân
viết lời tựa. NXB Văn học in lần thứ 29, năm 2011.
[5] Thật ra, nguyên tác hình như mới có 256 đêm (theo
lời giới thiệu Nghìn lẻ một đêm bản của nhà xuất bản Đơlagoravơ,
Paris).
[7] Trong lời nói đầu, A. Galăng nói đây chỉ là bản dịch
phần đầu bộ Nghìn lẻ một đêm, nguyên bản tiếng Arập gồm ba mươi sáu phần.
[8] Tên đầy đủ của ông là Môhamết Abun Caxim, Ben
Apđala, Ben Apđen - Mốttalít. En Hasimi (Môhamed Aboul Qâsim, Bes
Abdallâh, Ben Abd-el-Mottatid. El Hácchimi).
|
Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016
Bộ truyện cổ Ảrập tuyệt vời: Nghìn lẻ một đêm
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Khúc hát Marseilles
Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét