Ban biên tập sách giáo
khoa Cánh Buồm và nhà giáo Phạm Toàn đề nghị chúng tôi viết một tiểu luận cho
học sinh trung học về đề tài "đọc thơ". Sau đây là tiểu luận ấy,
tuy viết cho học sinh nhưng cũng hướng tới độc giả đại chúng, nhất là những
người yêu thơ và muốn tìm hiểu về nghệ thuật thơ ca. Trong khuôn khổ sách
giáo khoa, chúng tôi rất tiếc không thể bàn thêm nhiều chi tiết cũng như dẫn
hết các nguồn trích dẫn và tham khảo, nhất là trên mạng, nhân đây xin được
cám ơn những tác giả đã mở rộng kiến thức cho chúng tôi về nhiều khía cạnh.
Kính mong sự góp ý của quý độc giả.
1. Đọc mỗi lần một chữ
Khi tôi học lớp Năm, có lần
được thầy gọi lên bảng đọc cho cả lớp chép một đoạn trích từ cuốn Tâm Hồn Cao
Thượng, bản dịch Hà Mai Anh, nguyên tác Edmond De Amicis. Đó là sách dạy
chính thức trong nhà trường miền Nam thời ấy. Giờ ám tả, học trò lắng nghe,
chép lên giấy. Năm cuối bậc tiểu học, chuẩn bị thi vào trung học, nên bài
cũng khó hơn. Phải đọc từng câu, dấu phẩy dừng ngắn, dấu chấm dừng dài, các
chữ phiên âm đánh vần. Khi thấy tôi luống cuống, chữ nọ xọ chữ kia, thầy bắt
dừng lại, đọc chậm, với lời khuyên: em hãy đọc mỗi lần một chữ. Tôi đọc lại.
Sáng nay, chúng tôi vừa vặn
có dịp xét đoán anh Garônê.
Giờ vào lớp, ông Perbôni chưa có đấy, ba bốn cậu đang thi nhau chế giễu anh
Crôtxi khốn nạn - tức là cậu bé tóc vàng, tay liệt, con bà bán hoa quả. Họ lấy
thước đánh cậu, lấy vỏ hạt dẻ ném cậu, họ gọi cậu là con quỉ què và mếu máo
giả cách làm người liệt tay. Ngồi trơ một mình ở đầu ghế, cậu thẹn thùng và
đưa mắt nhìn người nọ, người kia như để van lơn họ khỏi hành hạ mình. Được thể,
bọn học trò càng làm già. Cậu phẫn uất quá, máu đưa lên cổ và phát run người.
Thình lình, Phranti, một đứa học trò mặt xấu như khỉ, đứng lên ghế, khuỳnh
hai cánh tay như người khoác hai cái giỏ, bắt chước bộ tịch mẹ cậu Crôtxi những
khi đứng đợi con ở cửa trường. (Đã mấy hôm nay, bà không đến đón con vì bị ốm).
Coi tấn tuồng câm ấy, học trò cười ầm cả lên. Crôtxi điên tiết, vồ ngay lọ mực
trước mặt ném Phranti, Phranti né mình, lọ mực trúng giữa ngực ông Perbôni ở
ngoài bước vào.
Mọi người hết vía, chạy trốn về chỗ và ngồi im thin thít.
Thầy giáo lên bục cau mày hỏi :
- Ai ném lọ mực ?
Chẳng ai hé răng.
Tôi không bao giờ quên lời
khuyên ấy. Sau này, đó là nguyên tắc tôi dùng khi đọc bất cứ bản văn nào, tiếng
Việt hay sinh ngữ khác: đọc mỗi lần một chữ. Các nhà văn đều biết rõ điều
này, dù viết bằng bút máy, bút chì, hay máy điện toán, người ta chỉ có thể viết
mỗi lần một chữ, mỗi lần một dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy.
Đọc cũng thế. Đọc thơ càng
thế. Vì thơ là một ngôn ngữ quy ước, nhiều tu từ, điển tích, có tính cô đọng,
giản lược, đôi khi gián đoạn.
Ngôn ngữ cô đọng:
Lâm tri người cũ chàng còn
nhớ không
(Nguyễn Du)
Nếu ngoài đời, câu ấy của
Kiều sẽ là: anh còn nhớ hồi xưa mình gặp nhau ở Lâm tri không, hình như trong
tiệm phở 88?
Giản lược chủ từ:
Quây quần trong một tổ
Như đôi chim bồ câu
(Đông Hồ)
Giản lược nội dung:
Mạnh giỏi không em gái nữ
sinh
Hồi này đi học chắc ít bị
tụi con trai nó phá
Nếu ta biết rằng Nguyên Sa
đang nói về chiến tranh, và "tụi con trai" phải đi lính hết, thì thấy
câu thơ rất buồn.
Điển tích:
Thương nữ bất tri vong quốc
hận
Cách giang do xướng Hậu
đình hoa
(Đỗ Mục, Bạc Tần hoài)
Gái ca không biết thù nhà
Bên sông còn hát khúc ca Hậu
đình
(Trần Trọng Kim dịch)
Khúc Hậu đình do Trần Hậu
Chủ sáng tác; ông vua vì ham vui chơi mà mất nước. Vui chơi không phải là cái
tội, nhưng làm vua, sắp mất nước, mà vẫn vui chơi là một cái tội.
Mỗi ngôn ngữ đều có những
chữ và quy luật chi phối các chữ ấy, gọi là cú pháp, văn phạm, ngữ pháp, tùy
trường hợp. Đọc thơ và làm thơ cần một số kiến thức căn bản về tiếng Việt, khả
năng phân biệt tinh tế chữ, nghĩa. Vì ngôn ngữ là biểu hiện hoạt động cao nhất
của tinh thần, biểu hiện của trí thông minh và ngược lại bồi đắp hay hủy hoại
trí thông minh. Một lối dùng chữ ngắn gọn, chính xác, chứng tỏ suy nghĩ mạch
lạc, một lối trò chuyện mập mờ, hồ đồ, chứng tỏ suy nghĩ luẩn quẩn, hời hợt.
Đọc hơi văn, biết tính cách. Trong khi tập trung rèn luyện khả năng viết và đọc,
nói và nghe, người ta cũng rèn luyện cách suy nghĩ.
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng
bay
(Nguyễn Bính)
Trong mấy chữ xa lắc
xa lơ chỉ có chữ xa là có nghĩa, hai chữ lắc và lơ không
có nghĩa, nhưng không có chúng thì nghĩa của chữ xa cũng thay đổi.
Nghe một câu nói hay, bạn
dừng lại, đọc một bài thơ hay, bạn vui sướng như khi đứng trước cảnh đẹp. Khi
đọc, một điều gì thay đổi trong bạn cũng xảy ra. Không những thưởng thức cái
đẹp, bạn còn biết nâng cao hiểu biết và cảm kích đối với các giá trị văn hóa.
Một người loại trừ văn chương ra khỏi đời sống, chỉ cốt làm các bài tập cho đủ
điểm, ra đời hành nghề có lương cao, là tự hạ mình xuống, làm mình nhỏ lại,
thành một người chỉ sống vì các nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở. Một cá nhân
như thế vẫn có thể thành công về mưu sinh, địa vị, nhưng sẽ trưởng thành
không trọn vẹn. Nếu bạn có thể đọc thơ trong sinh ngữ khác, tiếng Anh, Pháp,
Nga, Hoa, bạn còn phát triển một tình yêu đặc biệt đối với các nền văn hoá và
các dân tộc ấy.
Khác với nghệ thuật, thơ
văn chỉ dùng đến chữ, vì vậy nhiều người hiểu lầm để đọc không cần học hành
gì cả. Mặt khác, lại có kẻ xưng tụng thơ đến mức cho sự thưởng thức một bài
thơ là có tính thần linh, không thể phân tích, giải thích, và do đó mang tính
cá biệt, đơn nhất, không ai học được ở ai cả.
Đó là khuynh hướng thần bí
hóa hay gặp ở những xứ ít phát triển.
I understand English
This poem is written in
English
I have no idea what this
poem is saying
Tôi biết tiếng Anh
Bài thơ này viết bằng tiếng
Anh
Vậy mà tôi chẳng hiểu nó
nói cái chi
Thật ra, đọc thơ vừa là
thích thú tự nhiên vừa là kỹ thuật có thể học hỏi. Có những sở thích chỉ được
khơi dậy dựa trên học tập. Cách phân tích một bài thơ thông thường bắt đầu bằng
các dẫn giải xuất xứ, tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời bài thơ ấy, chủ đề
chính trị hay xã hội của nó. Đó là phương pháp thường dùng trong các sách
giáo khoa. Tuy có những lợi ích quan trọng, phương pháp này có mấy hạn chế.
Chẳng hạn, trong nhiều trường hợp, xuất xứ không rõ, tác giả đã mất, hoặc nếu
còn sống cũng không nhớ hết. Lấy thí dụ bài Tương Tư của Nguyễn Bính: tôi
không có tài liệu nào về việc nhà thơ làm bài ấy ở đâu, thôn Đoài ngày trước
là thôn nào. Chỉ biết rằng nhiều người vẫn thích câu:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn
Đông
Một người chín nhớ mười
mong một người
Giả sử chúng ta biết rõ
chuyện tình của nhà thơ, cô gái trong bài thơ ấy hiện còn sống, đang ở Paris
quận 13 chẳng hạn, già móm mém nhai trầu, ngay thế đi nữa thì ý nghĩa của câu
thơ, tác động lên người đọc, không mấy thay đổi. Khuyết điểm của phương pháp
tiểu sử hay giáo dục hóa, luân lý hóa thơ ca, còn ở chỗ gây cảm giác chán nản
cho học sinh: người ta chỉ thấy việc đọc thơ là một bổn phận. Bổn phận nào
cũng kèm theo tưởng thưởng và hình phạt. Thời đi học, bạn học để trả bài,
không học thì thi hỏng, học giỏi được điểm cao. Ra đời rồi, không ai cho điểm
nữa: bạn thoát nạn đọc thơ, mừng hết lớn.
Cũng có những mặc định
không đúng. Mặc định cho rằng khi đọc một bài thơ, việc đầu tiên là tìm nghĩa
của nó. Thứ hai là cho rằng nghĩa ấy cố định, mỗi chữ mỗi câu là một bảng sắp
xếp, như ổ khóa cửa, bấm mã số đúng thì mở được, người nào cũng mở được. Thứ
ba, giá trị một bài thơ tùy thuộc hoàn toàn ở bạn, có thể thay đổi trong mọi
trường hợp, nếu bạn cho nó hay thì nó hay, bạn nghĩ nó dở thì nó dở, từ chối
lý giải.
Đọc thơ là việc khó; thật
ra, chẳng có việc gì dễ. Bất kể chúng là môn bắt buộc hay trò chơi. Thơ vừa
nghiêm trang vừa tiêu khiển. Đó là sự tương tác giữa người viết và người đọc,
rộng hơn là tương tác giữa người đọc khác nhau, trong đó có nhà phê bình. Tức
là sự trao đổi và san sẻ kinh nghiệm đối với một tác phẩm, hình tượng của nó,
ý nghĩa của nó, và bí mật nhất, sự quyến rũ của nó.
Những bài thơ hay có sức
hút, mời gọi. Cánh cửa của nó mở rộng. Một bài thơ hay, ngay cả thơ trữ tình,
bao giờ cũng dẫn tới đối thoại. Hãy để ý câu mở đầu.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
(Lưu Trọng Lư, Tiếng Thu)
Hình ảnh, nhạc điệu của
hai câu ấy tạo ra một lực đẩy: bộ máy khởi động. Bạn muốn nghe tiếp những câu
sau đó. Bạn muốn nghe lại nữa.
Nhưng bạn không dừng ở đó.
Bạn muốn tháo những câu thơ ấy ra, như người ta tháo cái máy. Những người
không có kinh nghiệm khi tháo máy có thể làm hỏng nó, thậm chí không gắn lại
được. May thay, một bài thơ cho phép bạn tháo ra và lắp lại bất kỳ lúc nào, bất
kể bạn tháo như thế nào, đúng hay sai. Bài thơ được cấu trúc như những câu hỏi,
đối thoại. Hai câu mở đầu thoạt nhìn không giống thơ có vần, nhưng đọc kỹ bạn
sẽ gặp những chữ đi với nhau, mùa đi với mờ, thu đi với thổn
thức, thậm chí em đi với nghe, không đi với trăng. Có
một thuận lợi mà tác giả tận dụng, đối với nhiều người chỉ cần nói đến mùa
thu, nói đến hươu nai, chinh phụ, là đã chạnh lòng, kỷ niệm dồn về. Tác giả
đi đúng mạch xúc cảm của nhiều người, bài thơ hay lên vì những yếu tố ngoài
văn bản. Tuy nhiên trong một tình huống tốt đẹp như thế, nhiều nhà thơ khác
có thể đã không chọn được những chữ như Lưu Trọng Lư đã làm.
Mùa thu, lá vàng, nai,
trong truyền thống nhiều dân tộc, là các biểu tượng. Mạch xúc cảm của
bài Tiếng Thu dựa trên quyền lực của biểu tượng.
2. Đọc lớn một bài
thơ
Bạn cần tập đọc lớn lên
khi gặp một bài thơ mới. Trước hết đọc không suy nghĩ, không phân tích, không
quan tâm nghĩa của nó ra sao, có ích cho ai không? Bạn vứt hết các thứ ấy đi,
và cứ đọc lớn lên đã.
Trăng:
Trong vườn đêm ấy nhiều
trăng quá,
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi.
Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ.
Im lìm, không dám nói năng chi.
Bâng khuâng chân tiếc giậm lên vàng,
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang,
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá,
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh,
Cho gió du dương điệu múa cành;
Cho gió đượm buồn, thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh.
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ,
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ.
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá!
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.
(Xuân Diệu)
Tại sao tôi chọn bài thơ
này, tôi không biết. Chỉ nhớ rằng vào năm học lớp Đệ Ngũ, tức lớp Tám ngày
nay, tôi đã phải học thuộc lòng. Và sau này thỉnh thoảng nhớ lại, câu được
câu mất, nhưng nhiều năm qua tôi chưa bao giờ hối hận vì phải thức suốt đêm để
học nó cả.
Cũng như đối với một bài
hát, bạn nghe vài lần mới nhớ hết các ca từ, giai điệu; các lần nghe ấy
có khi trong một ngày, có khi cách nhau năm, mười năm. Người xưa chú trọng việc
đọc thành lời, hoặc nâng kỹ thuật lên thành ngâm thơ. Bạn chú ý đến các chữ đầu
câu, cuối câu, hiệp vần. Đối với các chữ hiệp vần, bạn cần thận trọng: không
được lướt qua, nhưng cũng không dừng lại lâu quá. Có lần tôi nghe một ca sĩ nổi
tiếng ngâm thơ, cô ngâm hay, nhưng đến chữ có vần hay những đoạn mà cô thích,
lại nhấn mạnh quá đáng. Các chữ hiệp vần cần được đọc thận trọng, trọn tiếng,
nhưng không được đọc lớn hơn nhiều so với những chữ khác. Việc đọc lớn hơn
các chữ khác, như người nghệ sĩ kia, sẽ gây cảm giác màu mè hay giả tạo. Màu
mè cũng là một hình thức của giả tạo.
L'Adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Bản dịch của Bùi Giáng:
Lời Vĩnh Biệt
Ta đã hái nhành lá cây thạch
thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó
Thế hệ thanh niên học sinh
ngày trước nhiều người thuộc những câu thơ này, và mang theo chúng vào đời. Đọc
lớn, bạn lắng nghe chính giọng của mình, để ý sự khác nhau của âm thanh các
chữ, những chữ xem ra hay hơn những chữ khác, những câu có vẻ đặc biệt hơn những
câu khác, ngẫm nghĩ về tác động của chúng. Đối với các ngôn ngữ đa âm, bạn
chú ý từng âm tiết. Khi đó bạn sẽ nghe được chất âm nhạc trong bài thơ đầy
nhạc điệu của Guillaume Apollinaire (1880-1918).
3. Ý nghĩa của thơ
Định nghĩa thơ là việc
khó. Nhưng mỗi người tự tìm cho mình một cách, có lẽ là bước đầu có ích. Có
nhiều định nghĩa, ví dụ:
- Nhà thơ Emily Dickinson:
"Nếu tôi đọc một cuốn sách và nó làm tôi lạnh thấu xương, không một ngọn
lửa nào sưởi ấm được cả, tôi liền biết rằng đó thực là thơ ca."
- Nhà thơ William
Wordsworth gọi thơ là "dòng trôi chảy tự nhiên của những cảm xúc mạnh mẽ
vô bờ."
Bạn có thể tìm thấy nhiều
định nghĩa khác, hầu hết chúng đều đúng, nhưng một cách tương đối, về một
khía cạnh nào đó. Thật ra, thơ có thể là nhiều thứ khác nhau, có thể là bài
hát, sự xúc cảm, một triết lý. Có thể lãng mạn, có thể hài hước, châm biếm,
có thể là bản tường trình về lịch sử. Tuy nhiên tất cả liệt kê vừa rồi, trong
khi đúng với thơ, cũng đúng với nghệ thuật khác. Có thể phát biểu ngắn gọn rằng
thơ là một ngôn ngữ nghệ thuật với ba đặc tính: cô đọng, ngắn gọn, chặt
chẽ; có nhạc tính; được sắp xếp trong một hình thức sao cho tập hợp các
chữ tạo ra ý nghĩa nhiều hơn tổng số những ý nghĩa ban đầu của từng
chữ.
Các định nghĩa khác nhau
này, tuy vậy, lại giúp bạn mở rộng hiểu biết. Cần chú ý thơ không phải chỉ là
một phán đoán, tuyên bố, có thể viết dưới những hình thức khác nhau. Bài thơ
là một tồn tại độc lập, gồm những chữ, tất nhiên, được sắp xếp như một cấu
trúc cố định.
Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngút!
Mây trời Ai lao sầu đại
dương!
(Hữu Loan)
Nếu bạn thêm một chữ Đèo
Cả! vào, thành ba, hay rút bớt một, còn một, bạn sẽ thấy sự khác nhau.
Khi rút ngắn, câu thơ trở nên cụt lủn, không gây ấn tượng về ngọn đèo hiểm trở.
Khi nối dài, câu thơ trở nên dùng dằng không dứt khoát, thừa thãi. Sự vụng về
của các bài thơ dở, đầy rẫy hiện nay, thường xuất phát từ đây: nghệ thuật
dùng chữ kém.
Thế còn câu sau đây?
Một đèo, một đèo, lại một
đèo
(Hồ Xuân Hương)
Trở lại với Hữu Loan.
Không ngồi trên đỉnh dốc đèo Cả, thì không viết được mấy câu nhiếp hồn này:
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Núi Đá Bia có thật, gần
đèo Cả, nhưng cái tên của nó gây cảm giác huyền bí sâu thẳm, như bao bọc bởi
mù sương. Lúc này bạn bắt đầu muốn biết đèo Cả ở đâu, núi Đá Bia là núi gì,
có gì hay ho ở đó, tức bạn muốn biết địa lý và lịch sử, còn gọi là sử địa.
Một người không có trí tò
mò về lịch sử và địa lý, thì làm sao có lòng yêu nước? Đôi khi cái mà xưa nay
bạn tưởng là lòng yêu nước thực ra chỉ là sự theo đuôi hoặc mê tín.
Đừng bỏ qua những dịp dự
các buổi đọc thơ, hay nghe thơ trên đài phát thanh, truyền hình. Cần chú ý
văn chương không có câu trả lời hay đáp số cụ thể như khoa học. Một bài thơ đối
với hai người đọc khác nhau có thể mang ý nghĩa khác nhau. Cùng một bài có
người chê dở có người khen hay. Bạn không nên quá lo âu về điều này. Không những
không cần quan tâm nhiều đến ý nghĩa của bài thơ, mà cũng không cần quan tâm
vì sao các ý nghĩa ấy có thể khác nhau đến thế. Đọc thơ cũng tựa như thể
thao, bạn phải xuống sân cỏ, sân trượt băng, bạn phải mang giày vào, trái
bóng phải lăn đi dưới chân, cây gậy phải nằm chặt trong tay bạn, trước khi bạn
biết nhiều hơn về thú vui, và sự khổ đau, tất nhiên, của chúng. Khi chạy theo
trái bóng, bạn sẽ nhận ra rằng lời hướng dẫn khô khan của huấn luyện viên, mà
bạn đã từng ngủ gật khi nghe chúng trong phòng học, thật là có ích biết bao.
Bạn sẽ thấy càng nắm vững luật chơi bạn càng chơi giỏi, và càng chơi giỏi bạn
càng nắm vững luật chơi. Những cầu thủ bóng đá nổi tiếng không thích đá vào
chân đối phương vì họ có thú vui khác, chân chính hơn, ví dụ đá vào bóng.
Để thưởng thức hay làm ra
nghệ thuật, cũng như muốn chơi bóng hay, bạn phải té xước đầu gối, ngã bong
gân, tay chân bầm tím. Không ai muốn thế, nhưng cũng như trong đời, bạn không
nên tìm mọi cách để an toàn và tránh chúng mãi.
Ý nghĩa của thơ là mang lại
cho người đọc sự thấu hiểu, dung thứ, lời xin lỗi, lòng can đảm, sự biết ơn,
lòng hối hận trước dĩ vãng và sự phản kháng trước tương lai. Bài thơ không phải
là trò tiêu khiển phút chốc, nhưng cũng không phải là bài toán đố nhức đầu bạn
phải giải, và giải một lần là xong.
Thơ là một ngôn ngữ tự ý
thức về mình. Nói cách khác, ngôn ngữ thơ chú ý đến chính nó, lấy nó làm mục
đích, tức là phương tiện dùng để diễn tả sự vật trở nên quan trọng bằng hoặc
hơn sự vật được diễn tả. Trong khi ý nghĩa góp phần tạo nên giá trị của thơ,
thì ngôn ngữ quyết định giá trị ấy.
Đây là ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng mán thằng mường
nó leo
Đây có lẽ là thơ:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, lẫy lừng
ai hay (*)
4. Ngôn ngữ trong thơ
Cần chú ý rằng ngôn ngữ và
lời nói là hai khái niệm khác nhau. Đối với người Việt, tiếng Việt là ngôn ngữ
chung. Mọi người đều nói và viết tiếng Việt, tuy nhiên mỗi người có một lời
nói riêng, cách nói riêng. Cách nói khác nhau còn vì giọng điệu khác.
Ví dụ:
Tôi chịu thua anh.
Tùy theo giọng nói và bối
cảnh, có thể là câu tuyên bố nghiêm trang, nhưng cũng có thể là hài hước và
châm biếm.
Thơ là chữ. Chúng ta có thể
có quan niệm rằng thơ chính là cảm xúc hoặc tư tưởng. Kỳ thực dù cảm xúc hay
tư tưởng cũng đều thông qua cấu trúc vật thể là các chữ. Như vậy chữ là
phương tiện, hơn nữa, cấu trúc vật chất của thơ. Cũng như nhạc cụ đàn, sáo,
kèn, là phương tiện của âm nhạc, mực, chất màu, vải, giấy là phương tiện của
hội họa. Bài thơ là một cấu trúc toàn thể, tuy nhiên khi phân tích, người ta
có thể chọn lựa tách một bài thơ thành nhiều bộ phận, như bạn xem xét một cỗ
máy, một cái đồng hồ. Các bộ phận của đồng hồ tách biệt nhau: kim giờ khác
kim phút, bánh xe khác với dây cót. Một bài thơ thì khác: bạn không thể tách
rời hình ảnh và nhạc tính, thậm chí một chữ này và một chữ khác, mà không làm
thay đổi nghĩa của chúng.
Ngôn ngữ trong thơ có tính
dồn nén, có sức hấp dẫn hay sức đẩy, như một năng lượng. Một câu thơ dở
nhận rất nhiều năng lượng của nhà thơ, nhưng để mặc chúng dò rỉ tan tác
trong quá trình vận động, như một cái máy kém, tốn nhiều xăng mà chạy ì ạch,
xả khói đen mù trời. Đó là đặc tính của thơ dở, thời nào cũng vậy, nhưng thời
nay càng nhiều, vì việc công bố dễ dàng, không qua tay nhà biên tập khó
tính.
Thơ ca là bộ máy sử dụng
năng lượng tiết kiệm nhất của ngôn ngữ.
Nghĩa của chữ thường có
hai: nghĩa đen, như trong từ điển, và nghĩa bóng, liên kết với những chữ
khác, văn cảnh khác. Cần biết việc sử dụng từ ngữ ảnh hưởng rất lớn đến nếp
suy nghĩ của một thế hệ, nhiều thế hệ, của một cuộc cách mạng, một quốc gia.
Phép tu từ có thể là khai
trí hoặc là thuốc lú bùa mê.
Em về điểm phấn, tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ
cười
Thi sĩ Thái Can không chỉ
muốn nói về son phấn cụ thể, mà còn nói đến nghĩa bóng của nó, tức là vẻ đẹp
bên trong của tâm hồn, của ý chí. Tiếng Việt có nhiều chữ được dùng với nghĩa
bóng như thế: nóng tính, không phải nói về nhiệt độ của cơ thể, trả
giá, không phải chỉ nói về tiền bạc, lên mây, ý nói sung sướng. Không phải
chữ nào cũng được dùng theo nghĩa bóng, và không phải tất cả mọi nghĩa của một
chữ đều được sử dụng hết trong một câu thơ.
Trời nóng băm bốn độ
Đèn, sao khắp đế đô
Nam Trân tả cảnh Huế mùa
hè. Sợ bạn nghĩ là ông muốn dùng nghĩa bóng, thi sĩ còn cẩn thận chú thích: băm
bốn độ. Tuy nhiên khái niệm nghĩa đen hay nghĩa bóng, sự đối lập của chúng,
nhiều khi không còn quan trọng trong những văn cảnh khác.
Hoa tặng vừa tàn bông thược
dược
Tìm chàng bỗng vắng, bóng
chàng xa
Trong hai câu thơ của J.
Leiba, bông thược dược có thể là bông hoa thật, nhưng người đọc không quan
tâm nhiều lắm, vì hình như có một nghĩa khác đằng sau quan trọng hơn. Bông
hoa được sử dụng như một hình ảnh nói về ngày xuân, hạnh phúc, sự ngây thơ.
Ngôn ngữ học gọi là phép ẩn dụ.
Các kiến thức về từ nguyên
học và về điển tích cũng quan trọng trong việc đọc. Cần làm quen với các
phương pháp dùng chữ thiên biến vạn hoá. Lối nói phóng đại hay thậm xưng:
Ôi những cánh đồng quê chảy
máu
Dây thép gai đâm nát trời
chiều
(Nguyễn Đình Thi)
Như một tác phẩm hội họa.
Cách nói hình ảnh này cũng hay gặp trong thơ siêu thực Pháp.
Việc chọn chữ của một nhà
thơ thường có khuynh hướng cá nhân: không phải người nào cũng dùng tất cả các
chữ và dùng chúng với mật độ như nhau. Nếu so sánh các từ ngữ trong thơ của
Tú Xương và Nguyễn Khuyến, hay Xuân Diệu và Nguyễn Bính, tức là những người cùng
thời, bạn sẽ thấy một số chữ được dùng với tần số xuất hiện cao hơn ở người
này và thấp hơn ở người khác. Việc chọn chữ như vậy gọi là từ vựng của mỗi
tác giả. Các chữ làm nên một câu văn phạm hay một câu thơ, để mang lại nghĩa
cho chúng, theo những quy luật ngữ pháp nhất định. Công việc ấy có thể gọi là
cú pháp (syntax). Trong khi tuân theo lề luật riêng của một ngôn ngữ, mỗi bài
thơ có thể thiết lập những độ tự do khác nhau, trong việc đem lại ý nghĩa mới
cho cú pháp của mình. Việc chọn chữ trong thơ không những có tầm quan trọng đặc
biệt đối với mỗi nhà thơ mà còn đối với cả một phong trào, một thế hệ, một
khuynh hướng thẩm mỹ. Đối với phong trào thơ mới, việc chọn chữ như trong câu
thơ sau đây:
Ta mơ trong đời hay trong
mộng?
Vùng cúc bên ngoài đọng dưới
sương
(Lưu Trọng Lư)
Là không thể có trong thơ
Việt trước đó.
Nếu có cái nhìn về lịch sử,
chẳng hạn khi so sánh thơ Việt trung đại, thơ mới, thơ hiện nay, chúng ta sẽ
thấy ngôn ngữ mới đầu dành cho tầng lớp quan lại quý tộc, về sau dành cho trí
thức xuất thân Tây học, và cuối cùng đó là ngôn ngữ dành cho mọi người. Thơ
ca ngày trước nói về các điều to lớn, vĩ đại, linh thiêng, thơ ca ngày nay
nói về cuộc sống hàng ngày, đôi khi tầm thường.
Ngôn ngữ càng tầm thường,
càng nhiều tiếng lóng, thô tục, càng giàu tính hài hước: đó là khởi điểm của
chủ nghĩa hậu hiện đại. Như vậy chữ trong thơ không chỉ dùng để mô tả các ý
nghĩa mà còn thể hiện vị trí của nhà thơ và đối tượng độc giả.
5. Hình ảnh trong thơ
Hình ảnh trong thơ là một
chữ, một nhóm chữ, ghi lại một tác động giác quan, trong trường hợp này là thị
giác, tuy vậy hình ảnh không phải chỉ nói về thị giác, mà có thể gây cảm giác
như thể bạn đang chạm tay, ngửi mùi hương, nghe tiếng động, âm nhạc. Hình ảnh
biển quê hương đẹp, đứng mãi, tươi vui, nhờ chữ của Huy Cận:
Cái đuôi em quẫy trăng
vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ
Long
Cái mà người đọc nhận được
bằng hình ảnh nhiều hơn chính hình ảnh ấy.
Việc sử dụng chữ trong thơ
được điều khiển một cách có ý thức bởi nhà thơ. Một trong những hình ảnh được
dùng là sự tương hợp, so sánh, trong đó có hai phương pháp được dùng nhiều:
phép so sánh và phép ẩn dụ.
Cả hai đều nhấn mạnh rằng
cái này giống cái kia. Phép so sánh chỉ rõ sự so sánh:
Hai ta như sen mùa hạ như
cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng
năm nhãn
Em theo chim em đi về
tháng tám
Anh theo chim đi về với
tháng ba qua.
(Tế Hanh)
Đó là sự so sánh trực tiếp
một sự vật (hai ta) với một sự vật (sen mùa hạ, cúc mùa thu). Các câu so sánh
thường có chữ như để giúp phân biệt.
Trong khi đó:
It pleure dans mon ceour
Comme il pleut sur la
ville
(Paul Verlaine)
Vừa là một so sánh (comme)
vừa là một so sánh ngầm.
Tác giả có cách chơi chữ
khó dịch giữa pleure (pleurer) là khóc và pleut (pleuvoir)
là mưa.
Mưa khóc trong lòng tôi
Mưa rơi ngoài phố vắng
Khi bạn so sánh một vật
này với một vật khác là bạn tạo ra mối quan hệ giữa chúng, dịch chuyển từ vật
này đến vật khác một số thuộc tính của chúng. Sự dịch chuyển như thế hàm ý so
sánh.
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả
cây già
Với tiếng gió gào ngàn với
giọng nguồn hét núi
Những câu thơ của Thế Lữ
trong bài Nhớ Rừng tả con hổ trong vườn bách thú, làm bạn nghĩ tới một điều
gì khác, ngoài con vật ấy: con người, xã hội tù ngục, chế độ độc tài, hoàn cảnh
khốn khổ của trí thức, sự bị làm nhục, giấc mơ tự do của tác giả.
Phương pháp so sánh trực
tiếp còn được nhiều người, như ở nhiều nhà thơ Pháp, sử dụng như nghệ thuật
chính yếu cho một bài thơ.
La Même Voix, Toujours
Je suis comme le pain que
tu rompras,
Comme le feu que tu feras,
comme l'eau pure
Qui t'accompagnera sur la
terre des morts.
Comme l'ecume
Qui a muri pour toi la
lumière et le port
Comme l'oiseau du soir,
qui efface les rives,
Comme le vent du soir
soudain plus brusque et froid.
(Yves Bonnefoy)
Anh như mẩu bánh mì em bẻ
ăn
Như lửa em nhen, như dòng
nước mát
Sẽ chảy cùng em trên đất
người đã khuất
Anh sẽ vì em như bọt sóng
Tung chín đỏ ráng chiều
vùng vịnh
Như chim hoàng hôn bôi xóa
bãi bờ
Như ngọn gió bất ngờ, thổi
gào, lạnh buốt.
Chịu ảnh hưởng các nhà thơ
phương Đông, đặc biệt là haiku Nhật Bản và thơ Đường Trung Hoa, nhiều nhà thơ
phương Tây sử dụng hình ảnh tiết kiệm, ấn tượng:
The apparition of these
faces in the crowd;
Petals on a wet, black
bough
Những khuôn mặt bỗng hiện
ra trong đám đông
Những nụ bông trên cành
cây đen, ướt
(E. Pound, In a Station of
the Metro)
Biểu tượng có thể xem là một
hình ảnh đặc biệt, một điều gì chúng ta có thể nhìn thấy được nhưng lại mang
ý nghĩa đằng sau nó, tượng trưng cho một điều khác, lớn hơn. Ví dụ, ở nước
ta, thức ăn chính là cơm gạo, sản phẩm của cây lúa nước. Vì vậy, bát cơm tượng
trưng cho sự no đủ. Bữa ăn gọi là bữa cơm, mời tiệc gọi là mời cơm. Cơm trở
thành biểu tượng cho nền văn hóa. Tương tự, người da đỏ Bắc Canada có nhiều
chữ khác nhau để chỉ tuyết, trong khi tiếng Việt chỉ có một.
Đường Tự Do chạy thẳng
Các anh đi về tuổi đúng
hai mươi
(Quách Thoại)
Tên riêng của một con đường
trở thành một biểu tượng. Như vậy một chữ để chỉ một hình ảnh, trở thành biểu
tượng, khi có chức năng nối kết giữa cái nhìn thấy và cái không
nhìn thấy.
Tư tưởng và cảm xúc là hai
cột trụ của thơ ca, nhưng đó không phải là những diễn tả trừu tượng mà được
thể hiện bằng hình ảnh, ẩn dụ, so sánh, đến lượt các hình ảnh này phải xuất
hiện trong một phương cách hợp lý, tự nhiên. Mấy câu thơ của Mary Oliver dày
đặc hình ảnh dùng để mô tả một câu hỏi siêu hình:
Is the soul solid, like
iron?
Or is it tender and
breakable, like
the wings of a moth in the
beak of the owl?
Who has it, and who
doesn't?
Có phải hồn ta bằng thể rắn,
như sắt
Hay mềm, dễ vỡ, tựa hồ
Cánh mối kia trong mỏ chim
cú nhọn hoắt
Ai có tâm hồn, ai không?
Trong khi ngôn ngữ là viên
gạch bắt buộc để xây nên bài thơ như một ngôi nhà, thì có những viên gạch
khác, tuy không thể chỉ ra cụ thể, lồng trong các chữ. Chữ mang lại thông
tin, trong khi hình ảnh chính là hoa của cây, điểm thăng hoa của bài thơ, sự
kết tụ cao nhất của thi tứ. Một lần nữa sự thưởng thức đối với hình ảnh trong
thơ phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh xã hội, thời kỳ. Có những hình ảnh đứng mãi
với thời gian, nhưng có những hình ảnh về sau không còn được yêu chuộng.
6. Giọng điệu trong thơ
Trong lời nói hàng ngày,
cùng một câu, chỉ cần thay đổi chất giọng, như khi bạn lên giọng, gắt gỏng,
hay khi bạn nói thầm, nghĩa sẽ khác. Giọng điệu của thơ không thể dễ dàng xếp
loại. Như bạn đóng một cánh cửa, khi lịch thiệp, lúc giận dữ. Có khi giữa hai
thứ đó, bạn gây tiếng ồn đủ để mọi người ngạc nhiên quay lại, nhưng không đến
nỗi đóng sầm một cái: đó là hờ hững. Tính ích kỷ hay vô tâm cũng hiện ra lúc
bạn đóng cửa. Tâm hồn cũng có tiếng vang.
Giọng hài hước:
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em em cứ ỡm ờ không
thưa
(Trần Tế Xương)
Nhưng lối nói hài hước hay
châm biếm phổ biến nhiều hơn trong thơ tiếng Anh, tiếng Pháp, so với thơ tiếng
Việt, có lẽ vì tinh thần u mặc của người phương Tây.
Giọng khinh bạc:
Hớt tóc cạo râu là chuyện
nhỏ
Ba ngàn thế giới cũng
không to
(Nguyễn Bắc Sơn)
Trầm uất:
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân
ơi
(Nguyễn Bính)
Dịu dàng, yêu thương,
nhưng thư thả:
Con mắt ấy vì sao em khép
lại
Làn mi kia em thử ngước lên nhìn
Vòng tay đẹp như cành xuân thơ dại
Ngón la đà sao chẳng chịu đưa tin
(Bùi Giáng)
Đọc thơ cũng thế, những
bài thơ hay có giọng rõ ràng, hoặc tâm tình, hoặc kêu gọi, hoặc triết lý. Những
bài thơ dở có giọng không rõ ràng, như một người nói lắp, hay một kẻ suy nghĩ
lẫn lộn, hồ đồ.
Cùng một Tản Đà:
Từ vào thu đến nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầy ghềnh,
Sông thu đưa lá bao ngành
biệt ly.
Giọng tình tứ, say đắm.
Trong khi đó:
Cũng phường dối nước quân
ăn cắp,
Cũng lũ tàn dân giống hại
dân.
Đúng là lời nguyền rủa, sự
khinh miệt đối với giới chức cầm quyền bất tài, tham nhũng, độc ác.
Khi nói đến giọng điệu và
thái độ của người nói, chúng ta sẽ đề cập đến một khái niệm khác là ý định. Ý định
của một bài thơ có thể tìm thấy dựa trên sự phân tích các đặc điểm của giọng điệu
trong bài thơ ấy. Cần chú ý rằng mặc dù có một số nhà thơ có ý định khi sáng
tác, ví dụ trong các bài thơ có tính tuyên truyền hay kêu gọi, như trường hợp
Phan Bội Châu:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý
chào mừng.
Xuân ơi xuân, xuân có biết
cho chăng?
Nhà thơ nói với ai? Với
thanh niên, đồng bào, với mùa xuân.
Hầu hết các trường hợp khác,
khi phân tích một bài thơ bạn thường dẫn đến kết luận ý định của nhà thơ ấy,
nhưng thật ra khái niệm ý định có thể gây hiểu lầm tai hại. Ngay cả hiện nay,
tôi vẫn ngạc nhiên thỉnh thoảng thấy một nhà thơ hay một nhà phê bình, dẫn giải
về các hoàn cảnh sáng tác với ngụ ý rằng đó là ý định căn bản của tác phẩm. Ý định
của một tác giả không nhất thiết phải là, và cũng không nên là, thứ chìa khóa
vàng để giải thích các giá trị căn bản của một tác phẩm. Ngay cả khi một nhà
thơ viết một bài thơ với ý định ban đầu, thì trong khi viết, ý định ấy cũng có
thể thay đổi, cũng như một người chuẩn bị xây căn nhà, cuối cùng anh ta có thể
xây một căn nhà nhỏ hơn nhưng đẹp hơn hoặc lớn hơn nhưng xấu hơn rất nhiều so với
bản vẽ ban đầu.
7. Nhạc điệu của bài thơ
Trăng nhập vào dây cung nguyệt
lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi
trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn
chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
(Xuân Diệu)
Một trong những bài thơ có
nhạc điệu hay nhất thời tiền chiến. Vần điệu của thơ có thể được xem như biểu
tượng. Khi đọc thơ, ngoài ý nghĩa, ta còn chú ý đến âm điệu, vì âm điệu là một
trong những nguyên cớ làm nên vui thú, khoan khoái của người đọc. Có những bài
thơ gần với ca khúc, nhưng thật ra tất cả những bài thơ hay, ngay cả thơ tự do,
cũng tạo ra một thứ âm nhạc riêng. Sự thích thú của người đọc trước nhạc tính của
bài thơ có thể xếp vào hai loại: sự hợp vần, lên bổng xuống trầm, du dương; và
thứ hai là việc chọn chữ, những chữ đặt cạnh nhau, mà khi đọc lên bạn cảm thấy
sảng khoái. Trong bốn câu thơ trên, có sự lên xuống trầm bổng của đoạn thơ,
thích hợp cho đối tượng mô tả là cây nguyệt cầm, nhưng mỗi chữ, mỗi cặp chữ đều
gây cảm giác vừa lạ vừa quen, dễ nhớ, bạn muốn đọc và ngâm nga:nguyệt lạnh, đàn
buồn, đàn lặng, đàn chậm, rơi tàn, lệ ngân.
Khi đọc một câu thơ, lắng
nghe kỹ các âm, bạn sẽ thấy vần, các nguyên âm và các thanh là ba yếu tố quyết
định tính vần điệu, nhạc điệu của thơ. Tiếng Việt là tiếng đơn âm, vì vậy dùng
nhiều thanh để chỉ các vật khác nhau và có những thanh không có nghĩa. Trong chữđa chẳng
hạn: đa, đà, đá, đạ, đả, đã, tùy theo dấu mà có nghĩa khác nhau và chỉ có
một chữ không có nghĩa, với dấu nặng. Trong tiếng Anh, sự nhấn các nguyên âm và
các chữ cuối đặc biệt quan trọng hơn so với một số ngôn ngữ khác, như tiếng
Pháp.
Nhạc điệu trong một câu thơ
có thể dùng để phục vụ cho một ý tưởng, nâng một hình ảnh lên, nhưng cũng có thể
tồn tại vì bản thân nó: âm nhạc phục vụ âm nhạc. Sự hiện hữu của nó là sự vui
thú của chính nó.
Lịch sử không có mục đích.
Nhiều nhà thơ hiện nay quên
mất rằng công việc đầu tiên của thơ và văn chương là vui thú, khoái cảm. Thơ dở,
không gây sảng khoái, bạn không đọc. Có hàng chục người ra sức viết lời giới
thiệu hoa mỹ, dẫn ra lý luận ông tây bà đầm, bạn cũng không đọc.
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
(Quang Dũng)
Vừa thoáng gặp một câu như
thế, như mỹ nhân, ai mà đành lòng quay đi?
Các nguyên âm và các phụ âm: sự
lặp lại các nguyên âm tạo ra vần, sự lặp lại các phụ âm tạo ra luyến láy.
Phố xá xôn xao người nhộn nhịp
Tìm em anh có thấy em đâu
(Lan Sơn)
Hai chữ xôn xao, nhộn
nhịp mở đường cho câu thứ hai, gây cảm giác bồn chồn, lạc lõng, thương nhớ.
Những câu thơ hay bao giờ
cũng có âm điệu, nhưng chúng không nhất thiết phải ở mức độ cao nhất của nhạc
tính. Những câu có nhạc điệu đẹp nếu đi kèm với hình ảnh đặc sắc thì giá trị
tăng lên. Tôi dùng chữ đặc sắc là nói về nghệ thuật của nhà thơ, không nhất thiết
hình ảnh phải khác thường, kỳ lạ. Nhiều người tả trăng, nhưng đến:
Tình cờ anh gặp lại vầng
trăng
Một nửa vầng trăng thôi, một
nửa
(Hoàng Hữu)
Thì chúng ta gặp cái xao xuyến
do sự va chạm giữa hình ảnh và âm điệu gây nên. Một nữa mà thành đôi.
Người xưa thường làm thơ có
vần chặt chẽ, hiện nay các nhà thơ buông lỏng vần.
Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
(Nguyễn Trãi)
Mặt khác, nói về tay nghề,
các nhà thơ mới viết dùng vần chặt chẽ, người có nhiều kinh nghiệm hơn thường
thả vần nhẹ nhàng. Tuy vậy, sự biến đổi của các quy luật về vần điệu trong thơ
Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, quan trọng nhất là phong cách:
Ta nhớ người xa cách núi
sông
Người xa xa lắm nhớ ta không
(Tú Xương)
Chú ý rằng trong các thể thơ
có một thể thơ giao hòa với văn xuôi gọi là thơ xuôi. Đây là ngoại lệ, trong ấy
ranh giới của câu thơ bị xóa nhòa, tuy nhiên khi đọc lên, âm điệu của các câu vẫn
có nhạc tính so với một bài văn xuôi bình thường. Một trong những người làm thơ
xuôi đầu tiên có lẽ là nhà thơ Hàn Mặc Tử trong tập Chơi Giữa Mùa Trăng:
" Tôi run run khi tôi
có cái ý nghĩ: Chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng
tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng, mà em đây cũng
là trăng nữa!”
Ngó lại, chị tôi và tôi, thì
quả nhiên là trăng thiệt."
Thay vì tìm cách đối lập các
khía cạnh khác nhau của đời sống, nhạc điệu trong thơ mở ra những liên kết, tìm
cách nối lại trạng thái vui và buồn, sợ hãi và hoan lạc. Nó xuyên qua lớp vỏ nhận
thức, vỉa tầng định kiến chính trị, vào sâu cõi vô thức.
Một trong những phương pháp
so sánh thường dùng trong thơ là nhân cách hóa. Nhân cách hóa cũng được dùng
trong văn xuôi, nhưng xuất hiện trong thơ nhiều hơn. Đó là phương pháp hình ảnh,
chuyển dịch một vật thể không phải người trở nên có tính chất của một nhân vật.
Nhân cách hóa có thể được sử dụng rộng rãi với nhiều mục đích, nhưng bao giờ
cũng thông qua so sánh hoặc ẩn dụ.
Nhân cách hóa từ thiên
nhiên:
Con sông dùng dằng con sông
không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất
sâu
(Thu Bồn)
Thú vật:
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu
voi
(Ngân Giang)
Một vật vô tri:
Đôi khi
ta như chiếc gàu thả sâu
trong lòng giếng
cứ va đập
va đập mãi vào bờ đất
cho đến hồi
chỉ còn lại một vốc nước nhỏ
(Ý Nhi)
Những người đã chết:
At night the dead come down
to the river to drink.
They unburden themselves of
their fears,
Their worries for us.
Ban đêm người chết xuống
sông uống nước.
Họ cởi hết sợ hãi,
Những âu lo mãi vì chúng ta.
(Susan Mitchell)
Có thể nhận xét rằng phương
pháp nhân cách hóa được dùng nhiều hơn hay ít hơn tùy thời đại, và đối với các
nhà thơ khác nhau. Tôi nhận xét rằng các nhà thơ Việt thời tiền chiến sử dụng
nó nhiều hơn các nhà thơ ở những giai đoạn sau.
Ở trên chúng ta nhắc đến mưa
của Paul Verlaine. Và đây là mưa trên một cái dù của một nhà thơ Hoa kỳ, cái dù
nhân cách hóa.
Umbrella
I press a button,
and this black flower
with its warped pistil
broods over me
tears dripping from a dozen
silver stamens.
It catches water, this
flower,
and sheds it,
consent to wilt in a closet
like some wrinkled mourner
between funerals.
(Duane Ackerson)
Tôi nhấn nút,
bông hoa màu đen
xòe ra, đài hoa liền cong lại
che phủ mái đầu tôi
nước nhễu xuống từ hàng chục
nhị hoa
óng ánh bạc
Nó hứng nước, bông hoa này
và hắt tung tóe ra
rồi tàn úa trong một góc nhà
như một người goá phụ
ở giữa những lần đám tang.
Hoa màu đen thì đối lập. Đối
lập thế nào? Nó nở trong mưa và héo úa khi trời nắng đẹp. Đối lập giữa những điều
gì? Giữa sự sống và cái chết, nắng và mưa, vui buồn, được mất. Giữa thống hận
và tình yêu.
9. Các thể thơ
Thể thơ là hình thức, tức là
thể. Thể được quyết định bởi chức năng, ngược lại, chức năng cũng được quyết định
bởi thể.
Thể thơ là vấn đề lớn trong
nghệ thuật. Đó là những quy ước về việc sắp xếp các chữ, các vần, số âm tiết, sự
hợp vần giữa các chữ và các câu, sự lặp lại trong một khổ thơ, sự lặp lại giữa
các khổ thơ. Ba loại thơ căn bản là thơ trữ tình, thơ tự sự và thơ có
tính kịch hay kịch thơ. Có những loại thơ ít phổ biến hơn hoặc mới mẻ hơn như
trường thi hay trường ca, thơ xuôi hay thơ văn xuôi.
Trong khi chữ, phép so sánh
và ẩn dụ, phép nhân cách hóa, câu thơ, làm nên những phần tử cấu trúc căn bản của
một bài thơ, thì thể thơ, như lục bát, đường luật, năm chữ, bảy chữ, thơ tự do,
tạo ra một cấu trúc cao hơn, toàn thể. Bất cứ một thể thơ nào cũng dựa trên sự
lập lại. Sự lập lại dễ thấy, nhưng không hạn chế, ở sự hiệp vần, ví dụ trong thể
lục bát là giữa câu sáu và câu tám, trong thất ngôn đường luật là giữa các câu,
một, hai, bốn, sáu, tám, vân vân.
Mặc dù thơ ca có bản chất
sáng tạo, việc lập lại trong thơ chứng tỏ điểm quan trọng khác. Cũng như bất cứ
nghệ thuật nào, thơ có tính quy ước. Quy ước là gì? Đó là sự chờ đợi, đoán định
của người đọc hay người thưởng thức. Tôi xin lấy một ví dụ dễ hiểu. Có những vở
kịch hay cuốn phim chúng ta xem đi xem lại nhiều lần. Điều đó chứng tỏ việc muốn
biết hồi sau kết cục ra sao của một câu chuyện tình hay phiêu lưu mạo hiểm chỉ
là một trong các nhu cầu. Nhu cầu khác là người đọc muốn thưởng thức lời văn
hay sự diễn xuất. Trong sự thưởng thức ấy, có sự chờ đợi. Như vậy, chờ đợi là một
nhu cầu thẩm mỹ. Đó là sự lập lại, với các biến đổi hợp lý.
Hãy tưởng tượng ra em
Ở một căn nhà lạ
Mình em một ngôn ngữ
Mình em một màu da
Mình em một màu mắt
Mình em một lệ nhòa
(Trần Mộng Tú)
Về mặt thông tin những chữ mình
em lập lại không đem lại điều gì mới, nhưng chúng ta vẫn muốn chúng lập lại,
vì đó là sự xúc động lập lại.
Người đọc tiếng Việt cần nắm
vững các thể thơ truyền thống và hiện đại của Việt Nam, nhưng cũng cần làm quen
với các thể thơ của các nước khác, văn hóa khác. Thơ tiếng Việt hay Việt hóa: lục
bát, song thất lục bát, thơ Đường, thơ bảy chữ, tứ tuyệt bảy chữ, tứ tuyệt năm
chữ, thơ tự do, và gần đây, thơ tân hình thức.
Thơ nước ngoài: thể sonnet
(xô nê), thơ haiku (hài cú), thể ballade, thể rondeau, thể sestina, thể
villanelle, thể ghazal.
Thơ haiku thường gồm
ba câu, dựa trên âm tiết (syllables): năm, bảy, năm. Hiện nay được học sinh các
trường trung học châu Âu và Bắc Mỹ sáng tác nhiều.
Yare utsu na (5)
Hae ga te o suru (7)
Ashi o suru (5)
(Kobayashi Issa)
Oh don't swat
The fly rubs hands
Rubs feet
(bản tiếng Anh của William
Higginson)
Ô, đừng đập nó chứ
Con ruồi đang gãi hai bàn
tay
Đang gãi hai bàn chân
Hay đang cầu nguyện? Thơ hài
cú là nghệ thuật bắt được một giây lát, biến nó thành vĩnh hằng.
Thể sonnet phổ biến
trong tiếng Ý, tiếng Pháp, Anh, Nga và nhiều ngôn ngữ khác từ thế kỷ 16,
có lẽ cùng với với Shakespeare. Thoạt tiên đây là loại thơ tình hoặc có tính chất
tôn giáo. Các nhà thơ nhiều nước hiện nay vẫn còn sáng tác theo lối này, nhưng
mở rộng đề tài sang các lãnh vực khác. Bài thơ gồm mười bốn câu. Trong truyền
thống châu Âu, bài thơ chia làm hai khổ, khổ đầu gồm tám câu (octave), khổ thứ
hai sáu câu (sestet). Mỗi dân tộc có thể có một truyền thống sonnet khác nhau
tùy theo đặc điểm ngôn ngữ, như tiếng Anh khác với tiếng Ý, tiếng Pháp. Nếu có
dịp so sánh bạn sẽ thấy trong tiếng Anh, việc hiệp vần không quan trọng bằng
trong một số ngôn ngữ khác. (**)
Các nhà thơ Ả Rập dùng thể thơ
ghazal: thể thơ này xuất phát từ Nam Á vào thế kỷ XII, sau đó được xiển dương bởi
hai nhà thơ lớn, Rumi và Hafiz. Hiện nay cũng rất phổ biến ở châu Âu và Bắc Mỹ,
cùng với làn sóng di dân từ vùng Vịnh và các nước Ả rập (***).
Thơ Tân hình thức là thể thơ
mới, phát sinh ở Mỹ cuối thế kỷ 20, được giới thiệu vào thơ Việt Nam ở hải ngoại
và trong nước mấy chục năm trở lại đây, ngày càng trở nên quen thuộc. Những đặc
điểm của thể thơ này là kỹ thuật vắt dòng, lối kể chuyện, vần điệu, số chữ của
câu gần như không đổi trong cùng một bài thơ, tính đối thoại và hài hước.
Bạn nên làm quen với sự khác
biệt giữa các thể thơ và các biến đổi bên trong mỗi thể thơ để ngày càng có cái
nhìn rộng rãi hơn đối với mọi thay đổi táo bạo trong nghệ thuật. Ngày nay, thể
thơ tự do được dùng quá phổ biến đến mức gây ra những hậu quả sau đây:
- Nhiều nhà thơ không biết
làm thơ có vần. Tức là tự lược bỏ đi các phương tiện của mình.
- Nhiều độc giả không quen với
thơ tự do, nên quay lưng lại với thơ nói chung.
Thơ tự do không phải là một
kiểu thơ tự nhiên, trời sinh ra vốn có, mà là một chọn lựa có ý thức của nhà
thơ. Nói cách khác, tôi cho rằng trong những trường hợp mà ý tưởng hay hình ảnh
phá vỡ các hạn chế của câu thơ, không cho phép vần điệu trói buộc được mình,
thì thể thơ tự do tự nhiên phát sinh. Có những quy ước riêng được xác định bởi chính
tác giả.
Toàn bài xoay quanh một ẩn dụ:
Em bỗng chín đỏ như trái cây
chạm mặt trời mùa hạ
Trái cây hoang dã
Vùng biển nâu
En chín đỏ
Mà sao không hái được
Rồi em sẽ rụng nằm trong cát
Bỏng rẫy mặt trời hoang
(Hoàng Hưng)
Hai câu cuối rất đặc biệt.
Và đây là lối nói thẳm sâu
mà hờ hững của Robert Creeley:
What did you say to me
that I had not heard.
She said she saw
a small bird.
Where was it.
In a tree.
Ah, he said, I thought
Em nói gì với anh
mà anh nghe không rõ.
Cô bảo cô nhìn thấy
một con chim nhỏ.
Nó ở đâu vậy.
Ở trên cây.
À, anh bảo, vậy mà anh tưởng
em nói với anh đây
Mỗi khi có dịp đọc bài này,
The Bird, tôi đều mỉm cười, ngẫm nghĩ, đôi khi thấy thương tiếc bồi hồi.
10. Câu thơ
Thơ là âm nhạc của ngôn ngữ
được tổ chức thành câu. Không kể ngoại lệ của thơ xuôi, cấu trúc một bài thơ
bao giờ cũng xoay quanh câu thơ.
Như vậy chức năng của một
câu trước hết là chức năng về âm điệu. Chỉ bằng cách lắng nghe từng câu trong
bài thơ, lắng nghe toàn bài thơ, bạn mới hiểu tác dụng của một câu, tại sao lúc
này thì bảy chữ, lúc kia năm chữ vân vân.
Nhưng thế nào là một câu thơ?
Có nhiều cách trả lời. Đối với
những thể thơ cố định, có luật, số chữ trong một câu được quy định sẵn. Nhưng
thơ tự do không có sự quy định bó buộc ấy. Có những thể cố định, nhưng tác giả
phá đi, đưa vào cách tân lạ.
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
(Cung Trầm Tưởng)
Các câu sáu chữ đi sau đoạn
bốn chữ là một sáng tạo.
Thật ra sự bó buộc chỉ có
tính hình thức. Khi bạn viết một câu thơ, chính câu đầu tiên sẽ quyết định thể
thơ của toàn bài. Chẳng hạn khi Du Tử Lê viết:
Tôi là chim bói cá
Câu năm chữ với tính chất âm
nhạc riêng của nó. Nhà thơ ấy khó có thể viết một câu thứ hai sáu chữ, chẳng hạn:
Trên một cọc nhọn trăm năm
Nếu bạn cố tình dùng sáu chữ,
dù chỉ một lần thôi, bạn đã bẻ ngoặt dòng chảy.
Tình hình khó hơn đối với
thơ tự do, không ràng buộc số chữ. Chẳng hạn:
Một tên trộm bẻ khóa
vào nhà
Và thản nhiên đi ra
Câu ấy thật ra có thể và nên
được viết như sau:
Một tên trộm bẻ khóa vào nhà
và thản nhiên đi ra
Như thế sự ngắt dòng của
một câu thơ phải có lý do nội tại. Nếu không có lý do cụ thể nào, câu thơ cần
phải viết một mạch.
Các câu được quyết định phần
lớn bởi ý định của chúng, nhưng cũng còn bởi âm điệu, sự hiệp vần. Sự ngắt dòng
trong thơ là khái niệm quan trọng. Sau đây là những kỹ thuật ngắt dòng khác
nhau:
- Câu thơ trùng với câu văn
phạm, tròn nghĩa. Ví dụ:
Em muốn thơ em hoàn toàn vui
(Thu Hồng)
- Nhiều hơn một câu:
Ngàn mai gió cuốn, chim bay
mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
- Câu thơ không trùng với câu
văn phạm, khi được ngắt dòng, mạch văn chính vẫn còn kế tục vào câu sau đó. Ví
dụ:
Người ấy thường hay ngắm lạnh
lùng
Dải đường xa vút bóng chiều
phong
(T.T. Kh)
Sự ngắt câu thơ không theo
văn phạm tạo ra một thứ tác dụng khác đặc biệt chỉ có trong thơ. Đọc kỹ và đọc
lớn tiếng một câu thơ được ngắt dòng ở giữa chừng, và vắt qua câu sau, còn gọi
là sự vắt dòng, bạn sẽ thấy tác dụng về âm điệu. Sự ngắt dòng không theo luật
văn phạm thường có hai mục đích: hiệu ứng về nghe và hiệu ứng về nhìn. Sự ngắt
dòng nếu được chú ý sẽ giúp người đọc có nhiều cách đọc khác nhau đối
với cùng một bài thơ. Trong các ngôn ngữ đa âm, sự ngắt câu còn nhiều biến dạng
phong phú khác, mà ngôn ngữ đơn âm của Việt Nam không làm được. Các nhạc sĩ khi
phổ nhạc cho các bài thơ, tôi tin rằng, dù ý thức hay không, cũng đều thực hiện thao
tác căn bản này.
Anh còn nợ em
Dòng xưa bến cũ
Dòng xưa bến cũ
Con sông êm đề
Anh còn nợ em
Chim về núi nhạn
Trời mờ mưa đêm
Nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc
bài thơ của thi sĩ Phan Anh Tài, đã dùng thao tác đọc các câu thơ khác nhau, lặp
lại, khi tạo ra lời cho ca khúc nổi tiếng của ông. Trong nguyên tác, các bài
thơ ít khi có sự lặp lại đó.
Hiện nay, nhiều người có
khuynh hướng viết những câu dài, nối qua nhiều hàng, kết hợp với kỹ thuật vắt
dòng, khái niệm câu thơ được mở rộng. Đối với trường hợp này, cách ngắt câu dừng
lại sau mỗi câu thơ có thể sử dụng hơi thở như một chuẩn mực. Bạn có thể tưởng
tượng một người thổi kèn hay sử dụng các nhạc cụ hơi, nhận thấy cách trình diễn
của họ gắn bó với hơi thở. Các câu thơ dài ngắn khác nhau, nhưng bao giờ cũng
biểu hiện một nhu cầu âm nhạc nội tại. Trong khi đó ở những bài thơ kém, việc
ngắt câu tùy tiện, những câu dài hay ngắn không căn cứ vào các quy luật thống
nhất.
Cũng cần biết rằng đối với
loại thơ cụ thể, thơ thị giác, câu dài ngắn tùy thuộc vào hiệu ứng của mắt
nhìn. Sự sắp xếp các chữ trên trang giấy, ví dụ theo hình của giọt mưa, cánh
hoa, cái dù, là kiểu sắp xếp khác.
Như vậy các yếu tố tạo nên một
câu thơ có thể có nhiều: ý nghĩa, nhạc điệu, hình dáng. Một bài thơ không chỉ
là phép tổng cộng của các chữ, mà có một điều gì đó lớn hơn nữa, đằng sau các
nghĩa ấy, cũng đang hoạt động.
Câu thơ không phải là một hiện
tượng huyền bí, tự thân. Câu thơ chỉ tồn tại với ý nghĩa đầy đủ trong mối quan
hệ với các câu khác và các yếu tố khác như cú pháp, hình ảnh, âm điệu của toàn
bài.
11. Vai trò của độc giả
Ngày nay, một phần nhờ lý
thuyết tiếp nhận, người ta biết rằng giá trị của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều
vào cách tiếp nhận của người thưởng thức.
Đọc thơ, bạn cần dành thời
gian rèn luyện. Chọn cách tìm hiểu một tác phẩm tùy ở sở học, ý thích riêng,
thói quen, nhưng có những phương pháp dễ hiểu hơn phương pháp khác. Đến một lúc,
đã quen, bạn có cảm giác như khi đọc một bài thơ, tác giả đang trò chuyện,
tâm sự với bạn. Những gợi ý cho một bài thơ, cũng như những dấu vết trên đường
đi bao giờ cũng nằm sẵn đâu đó. Nếu bạn có lần nào được biết ý kiến của một người
khác, đọc cùng một bài thơ mà bạn yêu thích, bạn sẽ ngạc nhiên thấy người đó
nghĩ khác bạn ít nhất trên ba điều:
- Về ý nghĩa của bài thơ
- Về cái hay của bài thơ
- Về điều thích nhất
Bất cứ một cuộc thảo luận
nào đều cần dựa vào các yếu tố:
- Xuất xứ của bài thơ, hoàn
cảnh ra đời, một ít tiểu sử của tác giả, tối thiểu cũng là áng chừng năm bài
thơ ấy được viết (ví dụ một bài thơ được viết những năm 60, những bài thơ được
viết thời tiền chiến trước 1945)
- Văn bản tác phẩm. Đây là yếu
tố quan trọng nhất.
- Dư luận khen chê, nhận định
của giới phê bình.
Nhiều người cho rằng một bài
thơ là tác phẩm hoàn tất, như một cái máy, đúng hơn là cỗ máy hoàn chỉnh, tự vận
động với quy luật của nó. Nhiều người khác cho bài thơ chỉ được đặt trong bối cảnh,
văn cảnh, như xã hội, lịch sử, văn hóa. Không có môi trường bên ngoài, bài thơ
mất hết ý nghĩa của nó.
Thơ có thể được hiểu, cắt
nghĩa, yêu mến, mà người đọc không cần phải có kiến thức về tiểu sử tác giả,
hoàn cảnh sáng tác, các yếu tố liên văn bản. Cách đọc thơ hay nhất là đọc một
cách hồn nhiên, đi thẳng vào, ít nhất là trong lần đọc đầu tiên. Tuy nhiên có
những bài thơ cần kiến thức bổ sung. Ví dụ bài thơ sau đây của Langston Hughes:
Harlem
What happens to a dream
deferred?
Does it dry up
like a raisin in the sun?
Or fester like a sore-
and then run?
Does it stink like rotten
meat?
Or crust and sugar over-
like a syrup sweet?
Điều gì xảy ra cho giấc mơ bị
hoãn lại?
Liệu nó có khô đi
Như trái nho phơi dưới mặt
trời?
Hay mưng mủ như vết thương-
Và chảy nước?
Liệu nó có hôi rình như thịt
cá để ươn?
Hay khô queo, phủ đường
Lên nước lịm ngọt ngào?
Bạn không thể hiểu một cách
sâu sắc, nếu không biết rằng Hughes là nhà thơ da đen, Harlem ở New York, và
hoàn cảnh của người da đen đầu thế kỷ trước, khốn khổ. Mặt khác, để hiểu sự
khác nhau giữa thơ cổ điển và thơ đương đại, bạn so sánh chúng với câu thơ sau
của Trần Huyền Trân:
Khóc nhau ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình
thành thơ
Đó là tiếng động của tâm hồn
thanh cao bị vây khổn, khi thì trong cảnh mất nước, trước đây, khi thì giữa cảnh
trí thức nô lệ, sau này.
Đối với cả những người có kiến
thức về hoàn cảnh, xuất xứ, một bài thơ cũng có thể mang ý nghĩa mới nằm ngoài
sự tiên liệu của người ấy. Vì văn bản chứa khả năng thay đổi về ý nghĩa và thẩm
mỹ. Bạn cần huấn luyện cho mình khả năng lượng giá, khả năng này dựa trên sự
phân biệt các đẳng cấp. Không có đẳng cấp trong thơ thì không có tiến bộ. Nguyễn
Trọng Tạo có bài thơ "Gởi người đọc" nói về việc phân biệt khó khăn
này giữa thơ hay và thơ dở, rất dí dỏm:
Không phải ai cũng hiểu thơ
ca
Cũng như tôi không hiểu xe
máy
Chiếc xe cũ người ta sơn lại
Tiếng máy nghe cũng êm
Thế là tôi đếm tiền
Công việc đọc thơ là hiểu biết,
cảm thông, ghi nhận, chia sẻ. Đối với nhiều người, sự sáng sủa, rõ nghĩa, làm họ
an tâm hơn mờ ảo. Hầu hết người đọc cảm thấy nhẹ nhõm khi đọc một bài thơ rõ
nghĩa. Nhu cầu hiểu trọn vẹn, nắm hết các ý nghĩa, ai nhắc đến có thể tóm tắt
trong một câu, nhu cầu ấy là có thật. Một bài thơ có thể rõ nghĩa ngay trong một
lần đọc, thường do mục đích của các nhiệm vụ tuyên truyền, rao giảng.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu
trau mình
Cụ Đồ Chiểu viết những câu
thơ như thế với mục đích dễ hiểu và dể nhớ. Người ta không có gì để suy nghĩ
hay bàn cãi về những câu như thế cả, trừ khi về nội dung của nó, chẳng hạn,trung
hiếu nghĩa là gì, trung với ai, hiếu với ai, nghĩa của chữ tiết hạnh ngày
nay thay đổi ra sao, vân vân.
Nhưng một bài thơ có nghĩa
phức tạp hơn, huyền ảo hơn, mang lại những cách cắt nghĩa khác; sự khác nhau
này làm nên tính phân vân, hoài nghi của văn bản. Mỗi cây mai, cây đào, tulip,
mẫu đơn, khi mùa xuân đến, chắc chắn sẽ ra hoa như những năm trước: hoa mai
vàng năm cánh, hoa mẫu đơn nhiều cánh, nhiều màu, nhưng chúng lại khác năm trước,
mỗi bông đều khác nhau. Một bài thơ hay thường có hai tính chất ấy,
vừa giữ được những tính căn bản, ổn định, những đặc trưng thẩm mỹ của cái
đẹp xưa nay đã được công nhận, sựmới mẻ, ngạc nhiên, sự say đắm.
Thật ra sự say đắm cần cả
hai: ổn định và mới mẻ.
Ngày nay nếu ngẫu nhiên mở một
trang, báo giấy hay báo mạng, khả năng bạn tìm được một bài thơ hay là bao
nhiêu phần trăm?
Tôi cho rằng đó là con số rất
nhỏ. Vì vậy công việc đầu tiên của người đọc thơ là tìm cách loại cho bằng được
các bài thơ kém ra khỏi danh sách đọc của mình. Tất nhiên, bạn cần đến kinh
nghiệm. Khi bạn bắt đầu xác định được, ít nhất là đối với chính bạn, thế nào là
một bài thơ hay hoặc làm bạn thích, bạn sẽ tiếp tục đọc để mở rộng kinh nghiệm ấy.
Những năm cuối bậc trung học có thể là nơi gầy dựng hay chôn vùi vĩnh viễn lòng
yêu văn chương của nhiều người.
Một bài thơ thực sự không có
ý định làm bạn rối trí. Tuy nhiên nhiều người cho rằng thơ hiện đại, hay hậu hiện
đại, khó đọc, khó hiểu. Trong lời than phiền ấy, có một phần sự thật, nhưng
không phải tất cả. Nhà thơ và nhà phê bình nổi tiếng Randall Jarrell có nói rằng
những người nào than phiền thơ hiện đại là khó hiểu thật ra là những người
không bao giờ đọc thơ.
Tôi không đồng ý. Ngay cả những
người thích đọc thơ nhất vẫn gặp những bài thơ khó hiểu. Có nhiều trường hợp:
- Đó là một bài thơ hay
nhưng mới, người đọc và người phê bình chưa tiếp cận được về phương pháp.
- Đó là một bài thơ viết đã
lâu nhưng chữ dùng ngắn gọn, không có nhiều gợi ý, ngôn ngữ gián đoạn không
liên tục, có những câu thơ có điển tích hoặc chỉ được hiểu trong các bối cảnh lịch
sử nào đó.
- Và cuối cùng, rất hay gặp:
một bài thơ dở.
Phân tâm học của Jung cho rằng
trong bản thân mỗi người chúng ta có hai cái tôi, cái tôi biểu hiện bên ngoài,
như căn cước của mỗi người trong xã hội, và cái tôi được giấu kín, bị chúng ta
từ chối không chấp nhận, tồn tại như cái bóng. Khái niệm cái tôi và cái bóng của
nó có thể chỉ ra tác dụng của thơ ca đối với con người. Cái tôi thứ hai, bị từ
chối ấy, không những chỉ chứa đầy bóng tối, sự cám dỗ, tội lỗi, mà còn chứa những
tiềm năng lớn lao, năng khiếu, sở thích, những sức mạnh tinh thần khác. Đọc thơ
và làm thơ, bạn tình nguyện mang những phần xúc cảm được giấu kín biểu hiện ra
ngoài, bạn tập nói lên sự thật hay tập lắng nghe sự thật và chia sẻ chúng.
12. Hãy để bài thơ thay đổi
bạn
Một ngôn ngữ của xúc cảm làm
người ta liên kết lại, một ngôn ngữ của sự thật mang tới lòng tin. Những bài
thơ thành công, cũng như tình yêu đích thực, có khả năng mở những cánh cửa. Khi
con người thất vọng, chán nản, thơ ca làm dịu lại, nhưng không chỉ bằng niềm an
ủi, nó còn mang lại sự liên tưởng, gợi ý. Thơ làm giàu thời gian và thời gian
chữa lành vết thương. Bài thơ xây đắp mảnh đất mới trong xứ sở tâm hồn, gieo hạt
giống mới, đi từ mùa màng đau khổ đến mùa hy vọng. Thơ và âm nhạc thường buồn,
nhưng đó không phải là nỗi buồn hư vô, tuyệt vọng, mà là sự đánh thức.
In a play, the actors cry
out
But in the poem the words
themselves cry out
(George Oppen)
Người nghệ sỹ khóc trong vở
kịch
Nhưng chữ của thơ ca
Chính chúng phải khóc òa
Bạn dừng lại lâu ở câu thơ bạn
thích. Không phải ngẫu nhiên mà người xưa ngâm đi ngâm lại một hay hai câu nào
đó. Trong một câu hay, có lực hấp dẫn kéo bạn trở lại, giữ bạn trong căn phòng
của nó, di chuyển trên hệ tọa độ của nó. Một câu thơ hay làm một khoảnh khắc dừng
lại.
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh
mông
(Bích Khê)
Tôi thường đọc lại câu này.
Khoảnh khắc đẹp. Bạn không muốn qua nhanh, bạn muốn nó dừng lại. Thiên nhiên
thơ mộng vì con người thơ mộng. Chủ nghĩa lãng mạn, và sự nối dài qua chủ nghĩa
tượng trưng, là người yêu của bầu khí quyển ấy, nâng đỡ nó, làm giàu nó. Do
hoàn cảnh lịch sử, người Việt đã từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn quá sớm, như một thai
nhi chưa trưởng thành đã rời bụng mẹ.
Có lẽ không một nghệ thuật
nào đòi hỏi người tiếp nhận mở hết lòng như đối với thơ ca, tập cách nhìn ngôn
ngữ như con đường đi tới đời sống mới mẻ. Không những người viết mà cả người đọc
cũng được tắm gội trong dòng sông đến hai lần. Lần đầu như bản thân tồn tại,
như lịch sử, lần thứ hai như quá trình thơ ca.
You must become an ignorant
man again
And see the sun again with
an ignorant eye
And see it clearly in the
idea of it
(Wallace Stevens)
Bạn phải trở thành một gã khờ
Và tập nhìn mặt trời với đôi
mắt ngây thơ
Và nhìn nó rõ ràng trong quầng
sáng ý tưởng về chính nó
Trong thơ tự do, nhà thơ cần
viết một câu rõ ràng, viết cho xong, và chỉ xuống dòng khi đã xong cái khoảnh
khắc mà câu thơ ấy mang lại. Chiều dài của một câu thơ tương tự như chiều dài của
một câu nói, trong khi bạn thực sự nói. Có người nói dài, có người nói ngắn, một
phần tùy hơi thở của mình, sức khỏe của mình, thói quen của mình. Nhưng đó phải
là câu nói của bạn. Vì vậy một câu thơ tự đầy đủ như một câu thơ, tức là một
chi tiết toàn vẹn của tổng thể, một phần của tổng thể, nhưng là một phần toàn vẹn.
Một bài thơ hay tự nó làm dễ
cho người đọc. Một bài thơ không thành công làm người đọc tìm kiếm vất vả đường
vào. Một câu thơ là một khoảnh khắc độc lập, đứng bên cạnh những khoảnh khắc
khác, một dụng cụ độc lập đứng bên cạnh những dụng cụ khác. Tín hiệu và phương
tiện xây dựng nên một câu thơ chính là sự ngắt dòng.
Nguyên tắc của ngắt dòng: khi
nào câu nói của bạn cần chỗ nghỉ hơi, câu nói ấy phải được ngắt ra làm đôi. Khi
nào câu nói của bạn là một câu liên tục, không có chỗ nào dừng lại, thì không
nên dừng lại: bạn không nên xuống dòng. Lòng yêu thích đối với một bài thơ bắt
đầu bằng việc bạn thú vị đối với câu thơ của nó.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp
Tự một mình đầy đủ là một
con sông. Bạn đọc lên lần nữa, nghĩ tới một dòng sông, mặt nước, buổi chiều mùa
đông. Rồi nghĩ xa hơn nữa, bạn đang ở đâu đó, một mình. Rồi bạn nghe tin về một
người thân.
Người thân nào vậy?
Thơ đích thực, cũng như tình
yêu đích thực, mở ra, đi vào, tìm lại, thay đổi.
Thơ có thể thương thảo với số
phận, đẩy lùi biên giới của nó, như ngọn đèn đẩy lùi bóng đêm. Thơ có thể làm bạn
khóc nhiều hơn nhưng không phải để làm bạn ngã lòng. Một bài thơ dở không mang
lại an ủi, can đảm. Giá trị thẩm mỹ của bài thơ và sự thật không phải khi nào
cũng đi đôi với nhau, đặc biệt đối với thơ thế sự và thơ chính trị. Một bài thơ
không đúng sự thật vẫn có sức hấp dẫn đối với một số người, với nhiều người,
nhưng trước sự thật, không thể kéo dài sự lừa dối của nó mãi.
Bất kỳ một người nào với tâm
trí bình thường cũng làm chủ được tiếng mẹ đẻ, và biết sử dụng chúng hàng ngày
một cách hiệu lực, trong việc học hành, buôn bán làm ăn, ra lệnh, dạy dỗ, châm
biếm, đả kích, thuyết phục, khiển trách, tỏ tình. Hầu hết mọi người khi đã qua
giai đoạn trung học, đều quên đi một thứ ngôn ngữ khác, họ đã từng tiếp cận
một lần, nhưng không bao giờ quay trở lại. Đó là ngôn ngữ thơ ca. Chỉ cần một lần
bạn lắng nghe bài thơ, dừng lại lâu hơn trong căn phòng của ngôn ngữ, chỉ cần một
cuộc đối thoại, bạn lại lập tức trở về căn nhà cũ, mái ngói âm dương, góc phố
nơi bạn lần đầu thấy hoa vông vang, nơi sâu thẳm nhất của một người.
Trong khi bạn học cách phân
biệt một bài thơ thật dở và một bài thơ thật hay, cũng như học cách phân biệt một
người thật tốt và bao dung với một người thật xấu và đố kỵ, hẹp hòi, bất kể quá
khứ nào, lập trường chính trị của họ ra sao, và các thứ lưng chừng giữa hai đối
cực ấy, vốn nhiều hơn vì bao giờ mà chẳng vậy, bạn làm thăng tiến các giá trị
tinh thần và văn hóa không những của bạn mà còn của cộng đồng mà bạn thuộc về.
Hãy tưởng tượng những người trẻ tuổi, và tất nhiên cả những người già, thay vì
chỉ biết cuối tuần la cà nhậu nhẹt quanh bàn tiệc, ngồi hàng giờ chơi game trước
máy điện toán, hay dán mắt vào truyền hình, hãy tưởng tượng những người ấy thỉnh
thoảng đi dự một buổi đọc thơ đâu đó, và khi ra về còn nhớ một hoặc hai câu
thơ, giản dị như thế này:
I asked God if it was okay
to be melodramatic
And she said yes
I asked her if it was okay
to be short
And she said it sure is
(Kaylin Haught)
Tôi hỏi Thượng đế điệu đàng
cải lương có được không
Ngài bảo được thôi
Tôi hỏi Ngài lùn có được
không
Ngài bảo lùn vẫn đẹp con ơi
Bạn thấy nụ cười trên môi một
cô gái mới lớn, lòng tự tin, sự khiêm tốn một cách dũng cảm, sự dũng cảm một
cách khiêm tốn, đã bị dập nát, nay được vực dậy.
Còn gì nữa? Thấy sự thật
trong suốt như pha lê: bạn nhìn thấy thay đổi.
a. Các sách tham khảo:
Văn 6, Cảm Hứng Nghệ Thuật,
Nhóm Cánh Buồm, nhiều tác giả, NXB Tri Thức, 2015
Tạp Chí Sông Hương, Liên hiệp
Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế, các số năm 2014- 2015
Ẩn Dụ, Cuộc Phiêu Lưu Của Chữ,
Trần Hữu Thục, NXB Người Việt, 2015
Thi Nhân Việt Nam, Hoài
Thanh - Hoài Chân, NXB VH tái bản, 2014
Thơ Đến Từ Đâu, Ng Đức
Tùng, nhiều tác giả, NXB Lao động, 2009
30 Tác Giả Văn Chương, Vũ Quần
Phương, NXB Giáo dục, 2009
Une Anthologie de la Poesie
Amoureuse, Jean Orizet, NXB Bartillat, 2007
Du Tử Lê 50 Năm, nhiều tác
giả, Hội VHóa KHọc Việt Nam, 2007
The Oxford Book Of American
Poetry, David Lehman, NXB Oxford, 2006
The Art of Reading Poetry,
Harold Bloom, NXB Perennial, 2004
Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Nguyễn
Bùi Vợi, NXB Giáo Dục, 2004
Poetry 180, Billy Collins,
NXB Random House, 2003
How poetry works, Phil
Roberts, NXB Penguin, 2000
Mắt Thơ, Đỗ Lai Thúy, NXB
Văn hóa Thông tin, 2000
The compact Bedford
introduction to literature, Michael Myer, NXB Bedford, 2000
Thơ Và Mấy Vấn Đề Trong Thơ
Việt Nam Hiện Đại, Hà Minh Đức, NXB Giáo Dục, 1998
A field guide to
contemporary poetry and poetics, Stuart Friebert, NXB Oberlin College, 1997
20th Century Poetry &
Poetics, Gary Geddes, NXB Oxford, 1996
Thơ Tình, tuyển tập, Thái
Doãn Hiểu và Hoàng Liên biên soạn, NXB Trẻ, 1994
Bốn Mươi Năm Thơ VNam
1945-1985, Thi Vũ, NXB Quê Mẹ, 1993
Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ VN, Ng Hưng Quốc, NXB Quê Mẹ, 1988
b. Trích dẫn:
(*) Theo tài liệu của nhà
ngôn ngữ học Nguyễn Phan Cảnh
(**) Các thể thơ nước ngoài,
chưa được Việt hoá, hầu hết chỉ có thể nghiên cứu trong ngôn ngữ gốc.
Sự hiệp vần cũng thay đổi
tùy theo từng tác giả, từng truyền thống khác nhau. Một bài thơ tiếng Pháp của
Pierre Corneille, mở đầu:
D’un accueil si flatteur, et
qui veut que j’espère,
Vous payez ma visite alors que je vous vois,
Que souvent à l’erreur j’abandonne ma foi,
Et croîs seul avoir droit d’aspirer à vous plaire.
Câu hai và câu ba vần với
nhau, câu một và câu bốn vần với nhau.
Sonnet trong tiếng Anh, như
trường hợp Shakespeare, có thể có vần kiểu khác. Đoạn mở đầu:
But wherefore do not you a
mightier way
Make war upon this bloody tyrant, Time?
And fortify your self in your decay
With means more blessed than my barren rhyme?
Câu một và ba vần với nhau,
câu hai và bốn vần với nhau.
(***)
Trong bài "Hôn nhân dị
chủng", nhà thơ công huân Hoa kỳ Natasha Trethewey dùng thể thơghazal để
kể một câu chuyện.
Miscegenation
In 1965 my parents broke two
laws of Mississippi;
they went to Ohio to marry, returned to Mississippi.
They crossed the river into Cincinnati, a city whose name
begins with a sound like sin, the sound of wrong -mis in Mississippi.
A year later they moved to Canada, followed a route the same
as slaves, the train slicing the white glaze of winter, leaving Mississippi. Faulkner's Joe Christmas was born in winter, like Jesus, given his name for the day he was left at the orphanage, his race unknown in Mississippi. My father was reading War and Peace when he gave me my name. I was born near Easter, 1966, in Mississippi.
When I turned 33 my father said, It's your Jesus year- you're the same age he was when he died. It was spring, the hills green in Mississippi.
I know more than Joe Christmas did. Natasha is a Russian name -
though I'm not; it means Christmas child, even in Mississippi.
Nguyễn Đức Tùng
Theo www.trieuxuan.info
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét