Năm nay, 1999, Kỷ niệm 200
năm ngày sinh
Balzac (20/5/1799 – 18/8/1850)
Năm 1799 đã "giáng
sinh" ở thành phố Tours (Pháp) một thiên tài tiểu thuyết, người đã hoàn chỉnh
nghệ thuật tiểu thuyết của nhân loại, đưa nó lên đến đỉnh điểm, đến mức
"tuyệt đối", mức "cuối cùng", như đánh giá của Barthes
("roman absolu", "roman définitif", tức là tiểu thuyết hoàn
chỉnh, biểu hiện mọi sức sáng tạo của Balzac. Biết bao nhân vật sống mãi trong
lòng người đọc, những Eugénie Grandet, Augustine (Guillaume, Fanny Malvaut, Eve
Chardon, quận chúa De Cardignan và Daniel d' Arthez, tương phản với lão
Grandet, Gobseck, nữ hầu tước D' Espard v.v... Tôi nhớ đến bức tường phù điêu
khắc họa hàng trăm nhân vật trong Tấn trò đời ở Nhà Balzac (còn gọi
là Bảo tàng Balzac); chị Lê Hồng Sâm, một chuyên gia Balzac, và tôi, sau khi xuống
mấy chục bậc thang, ngồi nghỉ ở một khu vườn thoáng, trồng nhiều cây hoa, cây cảnh,
một khuôn viên rực rỡ màu xanh, màu vàng của lá cây.
Chúng tôi ngắm nhìn bức tường
lớn phù điêu và như thấy cả một lịch sử nước Pháp thế kỷ XIX, nhốn nháo, xáo động,
những bi kịch và những hài kịch, những anh hùng ca và những bài thơ, ngập trong
không khí cái kỳ ảo. "Một thế giới kỳ ảo", tôi nghĩ thầm. Có lẽ đúng
vậy, tiểu thuyết Balzac vang vọng thơ mộng và cái kỳ ảo, cũng có lẽ vì vậy mà
nó sống với chúng ta, với toàn thể nhân loại, từ gần hai thế kỷ nay. Một ngày
chủ nhật, cuối mùa hè 1982, hai chúng tôi đến nghĩa trang Père - Lachaise, một
khu rừng thưa, bát ngát, những con đường sỏi rộng, ngang dọc, với những lối rẽ
nhỏ trồng nhiều cây tỏa ra tứ phía. Gần trưa, mặt trời lộng lẫy, nắng đổ chan
hòa trên các vòm cây xanh, long lanh sương đêm còn đọng lại. Chúng tôi tìm đến
mộ Balzac trước tiên, rồi tìm mộ Paul E luard, rồi hai nấm mộ khiêm nhường, cũ
kỹ, cây leo, nhiều lá đã khô, của Molière và La Fontaine liền kề nhau. Cành lá
nghĩa trang rì rào; xa xa, như vẳng lên tiếng nhạc Chopin hòa với nắng vàng.
Tượng bán thân Balzac ở
nghĩa trang Père - Lachaise
Tượng bán thân Balzac bằng đồng
đen, đứng thẳng trong hàng rào thấp sơn xanh; có mấy bó hoa tươi, ai mới đặt dưới
chân tượng. Tôi ngước nhìn lên; vầng trán và ngực Balzac sáng chói, lấp lánh
ánh nắng gần thu. Balzac đứng đó với thời gian, vừa mênh mông vừa khiêm tốn, vừa
hiện tại vừa vĩnh cửu, trái tim ấy, khối óc ấy còn đang rạng rỡ, còn đang xúc động,
suy tư, còn đang sáng tạo những cảnh đời kỳ ảo của nhân gian, hòa nhập và tương
ứng với thế giới vô cùng vô tận đầy bí ẩn. Chúng tôi chiêm ngưỡng Balzac hồi
lâu rồi thơ thẩn đi trên những con đường sỏi. Một khoảng đất tròn phơi nắng,
chung quanh là những chiếc ghế dài bằng đá. Nhiều khách du lịch đã ngồi đấy, có
lẽ là Nhật, Mỹ, hoặc Thụy Điển; họ ăn bánh, uống nước. Chúng tôi chọn một cái
ghế dài dưới bóng cây; một cảnh tượng vui mắt ; những chú mèo, nhiều lắm, có đến
hơn một chục mèo hoang, béo núc ních, mèo đen truyền, trắng muốt, hoặc tam thể,
hoặc mướp, hoặc vàng óng ánh, nhanh nhẹn đớp hoặc nhặt những miếng bánh, miếng
giăm-bông khách ném cho chúng. Chúng tôi từ biệt Père - Lachaise, thấp thoáng
trong đầu hình bóng Balzac, Chopin, La Fontaine, Molière, E luard... Đến nay, gần
hai chục năm đã trôi qua.
Balzac không những là nhà
sáng tác tiểu thuyết vĩ đại, ông còn là một nhà lý luận tuyệt vời về tiểu thuyết,
- với Lời nói đầu bộ Tấn trò đời; nhà nghiên cứu Pierre
Chartier, giáo sư trường Đại học Paris 7, đánh giá nó là "Thi pháp tiểu
thuyết" của Balzac. Balzac viết Lời nói đầu năm 1843, sau mười
ba năm viết nhiều tiểu thuyết sẽ được ông sắp xếp trong bộ Tấn trò đời, và
ông viết tiếp trong tám năm nữa, (trong hơn hai mươi năm, 1829 - 1851) hoàn
thành chín mươi cuốn tiểu thuyết trong số trên một trăm ba mươi cuốn dự kiến
cho bộ Tấn trò đời.
Tác phẩm vĩ đại này được
Balzac quan niệm và viết như "trong một giấc mơ" (Rêve) như trong
"một ảo giác" (chimère), như "một gương mặt phụ nữ đang mỉm cười",
- giấc mơ "bay bổng trong bầu trời kỳ ảo"; đó là những câu chữ mở Lời
nói đầu của Balzac; có thể thấy ngòi bút của Balzac là ngòi bút "kỳ ảo"
(fantastique); ngòi bút (stylus) ấy sẽ được gọi là "phong cách"
(style)
Với phong cách kỳ ảo, Balzac
sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết hoàn chỉnh, "tuyệt đối", "cuối
cùng". Nghệ thuật tiểu thuyết của ông rất đa dạng, muôn nghìn sắc thái, nó
là kịch (tấn trò, comédie) với những cảnh (cảnh đời tư, cảnh đời Paris v.v...),
nó là thơ, là truyện, là đối thoại; nó đi khắp các ngả đường, xông xáo vào các
ngõ hẻm, các lâu đài, vùng thôn dã; nó là hành động, là trái tim, là triết lý,
với biết bao "ngoại đề" rẽ ngang, rẽ dọc (làn sóng ngầm của lịch sử,
của xã hội); chỉ xét một câu văn, cũng thấy nó đâm nhành, mọc mầm, nảy lộc, ra
tứ phía, nhiều tiếng nói xô đẩy nhau, xen lấn nhau, - như mỗi tiểu thuyết của
ông, như chính bộ Tấn trò đời, tưởng như vô cùng tận. Trí óc, sức khỏe, trái
tim, suy tư, cảm xúc, ước mơ, tức là tất cả con người Balzac tràn trề ham mê,
say đắm, khoa học, tôn giáo, cái thật lịch sử và xã hội, ảo mộng và ác mộng,
liên kết với nhau, hòa hợp, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc, kèn
trompette, violon, viola, violoncelle, trống, sáo, khoảng trống, thanh la...
Balzac đã khai thác tinh thần
truyền thống tiểu thuyết Rabelais, bà De Lafayette, Walter Scott, ông khai thác
thế kỷ ông và, với bộ óc phi thường, với sức lực khổng lồ, ông sáng tạo biết
bao điều kỳ diệu bay bên trên tất cả thế kỷ: khoa học của Cuvier, Buffon Saint
- Hilaire và tôn giáo, lịch sử và trái tim; nhờ có Buffon chẳng hạn, ông thấy
các "loài giống" trong xã hội, các "types" (kiểu người)
trong lịch sử thế kỷ XIX ở Pháp, những người quý tộc, những thầy kiện, cha cố,
tỉnh lẻ, Paris, "người phụ nữ ba mươi tuổi", người độc thân, hàng
trăm kiểu người - như trong các "loài thú", sói, cáo, rắn, sư tử,
mèo, gà, sâu bọ v.v... và ông thấy những môi trường tạo nên những con người.
Song, khác với loài vật, con người có phong tục, có nghệ thuật, văn học, thời
trang (con vật thì tĩnh tại); cuộc sống con người là những ngẫu nhiên; ông viết:
"Ngẫu nhiên là nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất trên thế gian này" (Lời
nói đầu). Truyện của ông là sự tập hợp những ngẫu nhiên; vì vậy, truyện của ông
kỳ ảo, nhân vật của ông kỳ ảo, thời gian, không gian của ông kỳ ảo, những
"sự thật" biến diễn quanh ông. Ông coi trọng các nhà khoa học tự
nhiên bao nhiêu, ông tôn quý các "nhà văn thần bí" bấy nhiêu (như
Saint - Martin, Swedenborg...). Trong Tấn trò đời, biết bao nhân vật vượt ra
ngoài môi trường, truyền thống gia đình của mình, và đến với tình yêu. Lão
Grandet càng tiến gần đến cái chết, càng tàn bạo, độc đoán; còn với Eugénie thì
ngược lại sắc tăng trưởng ấy, mối tình ảo vọng của cô ngày càng sâu đậm, đằm thắm.
Hai cái "đường cong" ngược chiều này của mô hình tiểu thuyết Eugénie
Grandet, là một sáng tạo nghệ thuật lớn của Balzac. Và cô gái Augustine diễm lệ
trong Mèo chơi bóng, vượt qua "môi trường" nhà buôn cổ lỗ của mình, đến
với một họa sĩ thiên tài. Như vậy, trong Tấn trò đời, hoàn cảnh không hoàn toàn
quy định nhân vật; những nhân vật đẹp của Balzac có tự do.
Balzac có tham vọng bộ sách
của ông là một quyển "lịch sử nước Pháp thế kỷ XIX"; mỗi truyện trong
bộ sách sẽ là một trang, hoặc một giai đoạn, một thời kỳ của lịch sử. Quan niệm
của ông về "lịch sử" là một đóng góp quan trọng vào nghệ thuật tiểu
thuyết lúc bấy giờ. Sau khi phê bình "lịch sử" trước đó, nó chỉ là những
thống kê sự kiện, liệt kê nghề nghiệp, cái thiện, cái ác..., Balzac muốn viết một
lịch sử sống động, lịch sử những động lực bên trong, lịch sử tư tưởng, phong tục,
tập quán. Chắc là Balzac gửi ý tưởng của ông trong nhân vật hầu tước D' Espard
(truyện Luật cấm, L' Interdiction), người đã bỏ tất cả gia sản nghèo nàn của
mình sau bao biến động chính trị, để viết tác phẩm đồ sộ Lịch sử bằng tranh nước
Trung Hoa. "Người thư ký" tài ba của nhà sử học xã hội, để lại cho
ngày nay, một pho lịch sử, với những sự kiện và những trái tim, trên mọi bình
diện, vĩ mô và vi mô, - chính trị, kinh tế, thời trang, nghệ thuật, văn hóa, những
bi kịch và những hài kịch, những ham mê, nguồn gốc của các biến động lịch sử, -
mà biết bao sử gia La Mã, Athènes, Ấn Độ, Ba Tư... đã bỏ quên. Bạn bè ông, những
người đọc không quen biết, khích lệ ông: "Cầu Chúa cho ông sống lâu";
đoạn mở đầu và đoạn kết thúc Lời nói đầu đầy hương sắc, đầy phấn khích. Tấn trò
đời là một giấc mơ.
Và, người đọc biết bao suy
nghĩ về một câu có thể gọi là bao trùm cả bản "Tuyên ngôn", hoặc
"Thi pháp" về tiểu thuyết này (tức Lời nói đầu): "Tôi viết dưới
ánh sáng le lói của hai chân lý vĩnh cửu: tôn giáo và chế độ quân chủ";
tôi hiểu: Tinh thần của tôn giáo là tình thương yêu, lòng bao dung; tinh thần của
nền quân chủ là tinh thần thượng võ, cao thượng, lòng tri ân, trí thức uyên
thâm.
Trên một chuyến xe buýt Hà Nội
- Hà Đông, hai thanh niên, một nữ, một nam, tuổi chưa đầy hai mươi, có lẽ là
sinh viên, trao đổi khe khẽ với nhau một câu chuyện văn chương. Tôi lắng nghe.
Người con trai nói:
- Balzac bảo ông viết dưới
ánh sáng của hai chân lý vĩnh cửu, cậu biết rồi đấy, có nghĩa là... là, thế nào
nhỉ... À, là ông có thiện cảm với giai cấp đã tiêu vong; tớ nhớ rồi... song,
trong Tấn trò đời, ông lại châm biếm, mỉa mai chua chát các ông bà quý tộc
một cách rất sắc bén..., ấy đại khái như thế, thế là trong Balzac, nhà chính trị
và nhà sáng tác đối nghịch nhau... có phải không?
Cô gái ngập ngừng đáp:
- Tớ cũng nhớ... đại khái
như vậy... nhưng trong Balzac có mâu thuẫn à? Chả có lẽ.
- Để về đọc lại...
- Đọc tác phẩm, đọc lại tác
phẩm... xem thế nào.
Tôi có cảm tình và thầm mến
yêu hai thanh niên ham hiểu biết kỹ lưỡng này. Riêng tôi, tôi nhớ Balzac viết
trong Lời nói đầu: "Tôi viết dưới ánh sáng le lói của hai chân lý
vĩnh cửu...", tiếng Pháp: "J' écris à la lueur de deux Vérités
éternelles...", tôi đã suy nghĩ về từ lueur, có nghĩa là ánh sáng le lói,
hay mờ nhạt, hay xa mờ, hay yếu ớt; tinh thần của tôn giáo và của nền quân chủ
chỉ còn thấp thoáng chiếu sáng; hai thể chế này đã sụp đổ trên nửa thế kỷ, khi
Balzac viết Lời nói đầu (từ cách mạng nhân quyền Pháp, 1789). Balzac
căm ghét các công nương, công tử, các hầu tước, bá tước, nam hay nữ, các quận
chúa, vương tôn sống hiện nay, hư hỏng và phá hoại tất cả, đạo đức, gia
phong... họ không phải "chủ nghĩa chính thống". Trong Tấn trò đời,
còn le lói hình ảnh xa mờ của hầu tước D' Espard (truyện Luật cấm); còn chút
tài sản, hầu tước D' Espard ở một căn hộ nghèo; ông cặm cụi đêm ngày sưu tầm,
nghiên cứu, viết và xuất bản một công trình khoa học đồ sộ về lịch sử nước
Trung Hoa; ông dành dụm từng đồng tiền để giáo dục hai con trai: ông dạy con cưỡi
ngựa, săn bắn, dạy triết học, khoa học tự nhiên, ngôn ngữ học, lịch sử phương
Đông, luật pháp, ngoại giao... Ý tưởng của Balzac trong Tấn trò đời và ý tưởng
chính trị của ông là nhất quán.
Lần thứ hai, tôi đến
"Nhà Balzac"; lại xuống những bậc thang hun hút; lần này, để ngắm
nhìn lại bức tường phù điêu các nhân vật trong Tấn trò đời. Bất giác, tôi tìm
phù điêu Eugénie Grandet; có phải nàng ngồi kia, trên chiếc ghế dài, chìm trong
giấc mơ? Và tôi tìm phù điêu Augustine (Mèo chơi bóng); nàng đâu? Hình như
không có. Hai khuôn mặt tuyệt đẹp trong sáng tác của Balzac; hai bản tình ca,
hai bi kịch, hai bài thơ, hai chân dung kỳ ảo. Hai người con gái ấy "ngẫu
nhiên" bước vào tình yêu, như vào một xứ sở xa lạ, như lạc loài, như say
mê, như những người xa lạ, như đắm đuối. Eugénie Grandet là tiểu thuyết một cuộc
gặp gỡ, một sự chờ đợi, của cái chết; số phận của người phụ nữ là sự chờ đợi,
xa mờ, vô vọng. Eugénie tích lũy những xót thương, những nhớ mong, những ngày bị
giam tù, ăn cơm nhạt, uống nước lã, tang mẹ, cô độc, cô đơn, và biến nó thành một
mối tình ngày càng sâu đậm cao cả; như một nhà luyện đan thời Trung Cổ, nàng biến
cái tầm thường, cái đau khổ hàng ngày, trong đêm tối, thành một kho vàng trong
trái tim nàng, tức tình yêu. Chàng công tử parisien, cái hôn, cái ghế dài trong
vườn... tất cả những kỷ niệm ấy đã biến thành một thiên đường, một kho vàng và
kim cương, nàng ấp ủ nó, nàng vứt bỏ tất cả tài sản khổng lồ của cha để lại,
nàng sống với nó, chìm đắm trong kho vàng lung linh ấy. Eugénie là tình yêu,
tình yêu thuần túy (hay tuyệt đối) mà nhân loại ước mơ.Augustine cũng vậy,
choáng váng bước vào tình yêu; Eugénie sống với kỷ niệm, quá khứ, với những khoảng
trống, còn Augustine sống với hiện tại; nàng từ bỏ gia đình nhỏ hẹp, đến ở khu
phố sang trọng, dinh thự sang trọng, nàng lạc vào những "thính phòng"
quý tộc; khi bị nghệ sĩ thiên tài phụ bạc, nàng trở về nhà cha mẹ, lại ra đi,
nàng vùng vẫy khắp nơi để tìm lại tình yêu, cuối cùng bước vào lâu đài một phu
nhân "tình địch". Song ở đâu nàng cũng là người xa lạ; nàng lạc trong
một mê cung, rồi chết.
Tiểu thuyết thường là sự tiếp
diễn những ngẫu nhiên; nó đưa người đọc từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Nhân vật của Kafka cũng vậy. Samsa sáng ngủ dậy, thấy mình đã hóa thành con bọ
bẩn thỉu. K, và Joseph K., một chàng ngủ dậy, thấy mình bị kết án, chàng đi tìm
tòa án, thì lạc vào một mê cung không lối thoát; cuối cùng, hai bóng người lờ mờ
dẫn chàng đến một nơi vắng vẻ, lấy dao đâm vào cổ chàng, "ngoáy ngoáy hai
lần". Còn anh chàng đo đạc thì bỗng nhiên mất thiên đường; cái "lâu
đài" chàng đi tìm, ở ngay đấy, trước mắt, nhưng chàng đến gần thì nó lùi
xa, xa tít; chàng cũng lạc vào một mê lộ mênh mang, mờ mịt, - thế giới hiện đại,
bất công và phi lý; anh nhân viên đo đạc, chẳng "đo" được cái thế
gian huyền bí này.
Balzac báo hiệu Zola, nhà
văn xây dựng các huyền thoại hiện tại, những Vệ nữ - Nana, những Minotaures -
Vùng mỏ, với biết bao mê lộ, mê lộ đủ các kiểu: Bảo tàng Louvre là một mê lộ;
Quán rượu là một mê lộ; Đến với "Hạnh phúc các Bà" là một mê lộ thời
trang, Etienne Lautier tự hủy hoại trong mê lộ Montsou, cái đầu tàu hỏa bốc
cháy như bó đuốc, chạy như điên trong một mê lộ tối mịt mù.
Eugénie, Augustine, K.và
Joseph K., Gervaise, Etienne, v.v... Không có sợi chỉ Ariane để thoát khỏi những
mê cung, mê lộ hiện đại ấy. Và những nhân vật ấy đã chết.
Vậy, Balzac là ai? Với tôi,
Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là
"tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo
của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn
giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật,
tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh. Ông khám phá
những chức năng, những mối liên hệ bên trong của từng chi tiết, từng tác phẩm,
của đồ vật, môi trường với nhân vật, với con người và xã hội. Ông không sao
chép, không tái hiện, không phản ánh hiện thực; ông khám phá và ông sáng tạo.
Thế giới balzacien là thế giới hư ảo, được xây dựng bằng nghệ thuật ngôn từ hư ảo.
Với Balzac, theo tôi hiểu,
cuộc sống là những cạm bẫy, mỗi con người là một bí ẩn, là một ẩn số, là một bí
mật của vũ trụ. Mỗi tác phẩm của ông là một câu hỏi trước cuộc đời; nhà văn
không bao giờ trả lời (chỉ có những écrivants (tạm dịch: những người tập trọng
viết văn), theo Barthes và Marthe Robert, mới đưa ra lời khuyên dạy như
"những ông thánh con". Người đọc sẽ cùng tham gia sáng tạo với nhà
văn.
Tôi vẫn có ý thức rằng tiểu
thuyết Balzac là tiểu thuyết cổ điển; nó là sáng tạo vĩ đại mà Balzac cống hiến
cho loài người. Đến nay, gần hai thế kỷ đã qua, nghệ thuật tiểu thuyết đã có biết
bao biến đổi: nào thế giới bên trong, nào độc thoại triền miền, nào hóa thân,
tiềm thức, vô thức, huyền thoại, nào cái "chủ thể" (sujet) thay thế
cho cái "cá nhân" (individu), nhân vật và cốt truyện "biến mất",
vân vân. Nhiều nhà phê bình văn học lỗi lạc tầm cỡ quốc tế (Bakhtine, Barthes,
Aueurbach, Genette, Marthe, Robert v.v...) đã phân tích đầy tài năng những đổi
mới của nghệ thuật tiểu thuyết, từ Zola đến nay, Proust, Joyce, Kafka, Camus,
Hemingway, Nathalie Sarraute, Duras... Cái chung nhất, mẫu số chung, là cái gì?
Có phải là sự xuất hiện cái tôi trăm sắc ngàn hương, cái "đa ngã"?
Cái thế giới này cũng nhốn nháo, xáo động, sụp đổ, trỗi dậy,đắm chìm, im lặng,
dìu dặt, bụi đời, sâu thẳm, ma quái, đau khổ..., ở những ngõ hẻm, quán cà phê,
ngã ba đường, hòn đảo xa..., chẳng khác gì "thế giới nhân gian" của
Balzac, có điều nó nằm ở "bên trong" con người hiện đại, - đó là cái
tôi, cái tôi xã hội, cái tôi tâm linh, cái tôi độc thoại, cái tôi đối thoại,
cái tôi cô đơn, cái tôi lạc loài, cái tôi niệm Phật, cái tôi chủ thể...
Bên trên là cảm nhận của
riêng tôi về Balzac và về tiểu thuyết.
Thế còn về "chủ nghĩa
hiện thực", mà một số người thường gắn với tên tuổi Balzac. Bà Colette
Becker, một chuyên gia về lý luận chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, viết
nhiều lần: "Không thể định nghĩa chủ nghĩa hiện thực", bởi vì mỗi người
hiểu nó một cách, và đánh giá nó một cách (1).
Về chủ nghĩa tự nhiên (trong
văn học), một giáo trình viết: "Các nhà tiểu thuyết tự nhiên chủ nghĩa thường
chụp ảnh thực tế một cách vụn vặt, lấy cái cá biệt thay thế cho cái điển
hình...". Và đây là lời Zola, trong Tiểu thuyết thực nghiệm tác phẩm lý luận
của ông: "Lời trách móc ngu xuẩn nhằm vào chúng tôi, những nhà văn tự
nhiên chủ nghĩa, rằng chúng tôi chỉ muốn là những nhà chụp ảnh. Chúng tôi đã
tuyên bố rằng chúng tôi chấp nhận khí chất (tempérament) là cái biểu hiện có cá
tính, nhưng vô ích, người ta vẫn dai dẳng trả lời chúng tôi bằng những lý lẽ
ngu ngốc...". Maupassant thì viết trong bài Tựa tiểu thuyết Pierre và Jean
của ông: "Nhà hiện thực, nếu là nghệ sĩ, sẽ tìm tòi không phải trình bày bức
ảnh chụp vô vị, mà đưa ra cái nhìn đầy đủ hơn, gây xúc động hơn, có sức thuyết
phục hơn chính sự thật". Zola còn trả lời đích đáng những ai bảo văn học tự
nhiên chủ nghĩa là tục tằn, bẩn thỉu và nó khinh rẻ quần chúng nghèo khổ.
Về chủ nghĩa hiện thực, cũng
có những hiểu lầm đáng tiếc (hoặc những quan niệm rất khác nhau) như đối với chủ
nghĩa tự nhiên. Zola, Maupassant luôn luôn nói đến cá tính, "khí chất"
(hay cái "tạng") của nhà văn, nó quyết định phong cách và giá trị của
văn chương. Maupassant viết:"Các nhà hiện thực, chính là các nhà ảo mộng
(illusionnistes). Cái thực tại, cái hiện thực là cái gì? "Tôi nhìn sự vật
bằng con mắt của tôi, tôi nghe bằng tai của tôi, tôi ngửi bằng mũi của
tôi..." Mỗi người, nhất là mỗi nghệ sĩ, mỗi nhà văn, vốn mang trong mình
vô vàn hình ảnh về xã hội và con người trong cái vô thức tập thể và vô thức cá
nhân, tích tụ từ hàng triệu năm, mỗi người ấy, mỗi nghệ sĩ ấy, sẽ in cái thực tại
trước mắt vào cái khuôn sẵn có của mình; nó nổi rõ lên, ngời sáng lên trong tâm
linh nhà văn, với ngôn từ của nó; và nhà văn sáng tác theo ngôn từ của riêng
mình, của chủ thể mình. Đó là phong cách nhà văn, chỉ nhà văn ấy mới có; cái chủ
thể ấy quyết định cái thực tại khách quan, bên ngoài. Tôi nghĩ người phê bình
văn học cũng vậy; mỗi người phê bình cảm thụ thực tại của mình (tức văn bản
sáng tác, đối tượng của phê bình), theo tâm linh, theo tất cả sức mạnh của con
người mình, và sáng tạo siêu văn bản.
Đọc tiểu sử Balzac, tôi suy
nghĩ nhiều về giờ giấc sáng tác của ông, - từ đêm khuya đến sáng hôm sau. Lúc
đêm ấy, mọi "hiện thực" đã ngủ, xung quanh ông, cả nước Pháp đã nhắm
mắt, có thể đang mơ. Trong bóng đêm, trong tĩnh mịch, thế giới Balzac sống dậy
trong đầu óc ông, trong tâm linh ông, nhốn nháo, hoạt động, ăn nói - những bi kịch,
những hài kịch, tiếng ca, màu sắc..., với những hình bóng Liêu Trai, những người
khổng lồ, những gì cực thiện, những gì cực ác, những Vệ nữ hiện đại, những
Sphinx (Nhân sư) hiện đại, những nhà chiêm tinh, những nhà luyện đan hiện đại,
bóng dáng những người cổ đại, trung cổ hiện đại, hòa lẫn, du nhập vào nhau; đó
là thời gian trong tiểu thuyết Balzac. Thế giới của ông tràn ngập ảo ảnh. Jean
- Paul Sartre hỏi: Cuộc đời, cái ấy, nó là cái gì? Và ông trả lời: Là con số cộng
những ngày, những tháng, những năm: Thứ hai, thứ ba, thứ tư... Tháng tư, tháng
năm, tháng sáu... 1924, 1925, 1920... cái ấy, gọi là sống. Như một nhà luyện
đan, Balzac biến những "hiện đại" hàng ngày, chán ngắt, vụn vặt, nhàm
chán, thành một kho vàng, - kho vàng Tấn trò đời, thơ ca và kỳ ảo.
(1) Xem Colette Becker -
Lire le Réalisme et le Naturalisme, Dunod, P.-1992 (Đọc chủ nghĩa hiện thực và
chủ nghĩa tự nhiên).
Đỗ Đức Hiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét