Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

Một quan niệm rất sai về tiếng Việt

Một quan niệm rất sai về tiếng Việt
Báo Văn nghệ số 16 (năm 2014) có bài “Tiếng Việt chưa có chuẩn” của tác giả Phạm Thuận Thành. Đây là một bài viết có nhiều lập luận  thiếu cơ sở khoa học, hơn nữa, về tư tưởng còn bộc lộ một thái độ coi thường tiếng Việt, có tác động không tốt đến tầng lớp thanh thiếu niên. Vì vậy, với thái độ thẳng thắn, chúng tôi thấy cần trao đổi với tác giả bài viết một số vấn đề đáng chú ý sau đây.
Thứ nhất, bài viết này có những sai lầm cơ bản trong nhận thức. Đó là sự nhầm lẫn trong việc nhận biết giữa cái toàn thể và cái bộ phận (trong triết học còn gọi là quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái khái quát và cái cụ thể), giữa hiện tượng và bản chất. Từ đó nêu ra những nhận định hồ đồ, vội vã. Tuy chỉ là một phát biểu mang tính cảm tính, thiếu khách quan khoa học, nhưng nó lại gây ra hoang mang không ít cho học sinh, sinh viên. Từ sự hoang mang này, học sinh sẽ  có thái độ coi thường không nghiêm túc trong việc học tập và rèn luyện tiếng Việt. Hơn nữa nó còn tác động không nhỏ tới một bộ phận giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học.
Chúng ta đều biết, ngôn ngữ là sản phẩm của một loại vật chất đặc biệt, đó là bộ óc con người. “Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vgôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ tồn tại cho người khách và cho chính bản thân tôi” (Các Mác). Nói đến ngôn ngữ chính là nói đến tư duy của  một cộng đồng người nhất định. Vì vậy, ta mới có các khái niệm: Tiếng Việt, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Hán…Đây là cách gọi tắt của các cụm từ : Ngôn ngữ của người/dân tộc Việt”, “Ngôn ngữ của người/dân tộc Nga”… Mặc dù khác nhau, nhưng ngôn ngữ nào cũng có cái chuẩn riêng của mình. Không có chuẩn, ngôn ngữ sẽ là một hệ thống rối loạn, không thể giao tiếp được. Nói một cách khác, không có chuẩn thì khi nói hay viết, người ta không thể hiểu được nhau. Hơn nữa, nhờ có chuẩn và sự bảo lưu được chuẩn mà các thế hệ sau mới hiểu được các thông tin của các thế hệ trước để lại. Thử hỏi tiếng Việt không có chuẩn thì làm sao đến thế kỷ thứ XXI, người Việt vẫn đọc và hiểu được Hồng Đức quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Truyện Kiểu của Nguyễn Du…? Không có chuẩn thì ngôn ngữ không thể trường tồn. Dân tộc Việt hàng ngàn năm bị đô hộ của phong kiến phương Bắc, gần trăm năm bị nô lệ bởi thực dân, nhưng không bị đồng hóa hay bị tiêu diệt bởi chính sách xâm lược của ngoại bang (coi rẻ tiếng Việt, bắt dân ta phải dùng chữ Hán và chữ Pháp làm văn tự chính thống) chính nhờ có sự đấu tranh sống còn để bảo lưu cái chuẩn của tiếng nói dân tộc. Như vậy, nói tới chuẩn ngôn ngữ là ta nói tới tính qui ước của cộng đồng và tính hành chính của bộ máy quản lý Nhà nước. Chuẩn ngôn ngữ không do một cá nhân hay một nhóm người qui định mà do một cộng đồng ngôn ngữ rộng lớn- tức cộng đồng dân tộc và những qui định mang tính chế ước của Nhà nước quản lý nó qui định. Nếu những qui ước của cộng đồng và qui định của Nhà nước ngược nhau thì nó kìm hãm không cho ngôn ngữ phát triển. Ngược lại, nếu có sự phù hợp thì ngôn ngữ lại có cơ hội tiến triển và ngày càng đạt được chuẩn mực cao. Trước năm 1945, do tiếng Việt bị chính quyền thực dân coi rẻ, cho nên khi giành được độc lập rồi nhiều người bị ảnh hưởng nền giáo dục Pháp đã còn cho rằng tiếng Việt không thể giảng dạy ở bậc đại học. Nhưng sự thực là chính quyền cách mạng, sau tháng Tám, tiếng Việt đã được đưa vào giảng dạy ở mọi cấp học. Ngày nay, tiếng Việt không những chỉ được dùng ở bậc đại học mà còn được dùng ở bậc cao hơn để đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Tôn vinh tiếng Việt, đưa vị trí của tiếng Việt từ địa vị thứ yếu (bị trị) sang địa vị chính thống, độc tôn chính là ý thức bảo vệ văn hóa, tư duy của người Việt, cái làm nên bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Tác giả Phạm Thuận Thành rất sai lầm khi coi tiếng Việt chưa có chuẩn, lại càng sai lầm hơn nữa khi coi một số hiện tượng tùy tiện trong sử dụng ngôn ngữ là cách tân. Tác giả này viết “Trong ngôn ngữ mạng, giới trẻ đang có xu hướng dùng chữ cái w thay cho phụ âm qu, chữ cái j thay cho phụ âm ch… là sự cách tân rất đáng chú ý”. Chúng tôi rất lấy làm lạ trước cách lập luận của tác giả. Bởi về mặt khoa học, ai cũng biết đó là những hiện tượng ngôn ngữ chỉ có thể được xếp vào thứ “tiếng lóng” của một số ít người trong lớp trẻ (không phải tất cả thanh niên VN đều dùng như vậy). Nó không thể đại diện cho hệ thống ngôn ngữ của một cộng đồng. Hơn nữa, tác giả lớn tiếng để đả phá cái gọi là “tiếng Việt không có chuẩn” nhưng những tri thức tối thiểu về ngôn ngữ học tác giả lại tỏ ra không hiểu gì. Vậy làm sao có thể thuyết phục người đọc ? Chẳng hạn, trong tiếng Việt không có cái gọi là “phụ âm qu” như tác giả quan niệm. Đó là một tổ hợp gồm phụ âm [ k ] kết hợp với bán nguyên [ w ] (còn gọi là âm đệm [ w]). Chính vì thiếu những tri thức cần thiết nên tác giả kêu lên “Dựa vào chuẩn nào để nói người khác”lệc chuẩn đây”? Xin thưa, khi chúng ta chưa chính thức có luật về ngôn ngữ thì vẫn có rất nhiều cơ sở cho phép  ta có thể dựa vào để xem xét về chuẩn. Chẳng hạn, dựa vào qui định, nghị định của các cơ quan có thẩm quyền với chức năng đại diện cho Nhà nước về lĩnh vực mà mình quản lý. Ví dụ, qui định về cách viết chính tả, cách phiên âm từ, thuật ngữ tiếng nước ngoai của UBKHXH Việt Nam trước đây (đã có nhiều văn bản) và của Viện Hàn lâm KHXH ngày nay. Cũng có thể dựa vào các bộ Từ điển tiếng Việt do Nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn và ấn hành. Ngoài ra, còn có thể dựa vào các tài liệu được sử dụng chính thống trong giáo dục. Chẳng hạn, có thể dựa vào sách dạy tiếng Việt hiện đã được Nhà nước ban hành (tức sách giáo khoa)…Có lẽ vì thiếu những hiểu biết này mà tác giả bài viết trên đã nhầm lẫn coi những hiện tượng tùy tiện về sử dụng ngôn ngữ là các hiện tượng cách tân và cổ súy cho nó. Nhận định này có tác dụng rất tai hại đối với việc giáo dục tiếng mẹ đẻ cho tầng lớp thanh thiếu niên hiện nay.
Thực ra, cách nói “chuẩn ngôn ngữ” là cách nói chung chung. Trên thực tế, chuẩn ngôn ngữ là cái được thể hiện trên nhiều bình diện cụ thể. Chính vì thế, trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”(*), chuẩn ngôn ngữ được bàn đến từ nhiều bình diện: Chuẩn ngữ pháp, chuẩn ngữ âm, chuẩn từ vựng, chuẩn phong cách. Cơ sở đê xác định chuẩn là những qui tắc cơ bản của tiếng Việt, trong đó cần phải xem xét cả mối quan hệ giữa tiếng toàn dân (ngôn ngữ phổ thông) và tiếng địa phương (phương ngữ). Ví dụ, ta có cặp từ chính phủ/chánh phủ thì “chánh phủ” được coi là tiếng địa phương, còn “chính phủ” được coi là tiếng toàn dân và là chuẩn (được dùng chính thức trong các văn bản hành chính, ngoại giao…mang tính quốc gia). Với cặp vào/vô thì “vào” được coi là chuẩn. Về cách viết, nếu viết “nghành giáo dục” sẽ là lệch chuẩn, là sai vì âm [ng ] trong tiếng Việt được thể hiện dưới 2 dạng chứ viết là: ng, ngh tùy theo nó kết hợp với âm nào sau nó. Nếu nó kết hợp với các nguyên âm dòng sau và nguyên âm dòng giữa (a, u, ơ) thì phải viết là ng: nga, ngành, ngả, ngu, ngư, ngô, ngơ, ngớ…. Nếu nó kết hợp với các nguyên âm dòng trước  (i,e,ê) thì phải viết là ngh: nghe, nghi, nghỉ, nghê (ngô nghê); nếu viết là ngi, ngỉ, nge phải coi là lệch chuẩn, là sai.
Tương tự như vậy, âm [ k ] trong tiếng Việt được thể hiện bằng 2 chữ cái là c và k. Nếu sau nó là nguyên âm dòng sau hay dòng giữa thì dứt khoát phải viết là c: ca, có, cốc, cưng (viết: ka, kó, kốc là sai, là lệch chuẩn)...; nếu sau nó là nguyên âm dòng trước phải viết là k: kỷ, kiệt, kẻ, kế, kể (viết: cỉ,ciệt, cẻ, cể là sai là lệc chuẩn)…  Vì sao lại như vậy? Vì đó là qui ước của những nguời sáng lập ra chữ Quốc ngữ - một thứ văn tự dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Đó là thứ văn tự đã được Chính phủ, Quốc hội nước Việt Nam Dân chú Công hòa chọn làm văn tự chính thống của quốc gia ngay từ khi thành lập và được toàn dân ủng hộ. Đây chính là cơ sở pháp lý mà tác giả Phạm Thuận Thành không nhận ra. Chính vì thế, tác giả mới hồ đồ cho rằng “lấy J thay cho ch, z thay cho tr…” là sự cách tân. Trái lại, cần coi đây là hiện tượng lệch chuẩn vì nó chỉ là thứ tiếng lóng do một bộ phân thanh thiếu niên tạo ra. Nó không thể đại diện cho một cộng đồng ngôn ngữ, cũng không thể thay thế cho hệ thống chữ viết được thừa nhận chính thống về mặt Nhà nước.
Đành rằng, trong hệ thống chữ Quốc ngữ không khỏi có chỗ bất hợp lý, nhưng việc cải tiến chữ Quốc ngữ là một câu chuyện lớn lao và lâu dài. Muốn cải tiến nó phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc nếu không cải tiến sẽ trở thành thụt lùi. Bởi tiếng Việt là ngôn ngữ rất phong phú, đa dạng về cách phát âm nên không phải ngẫu nhiên, hệ thống chữ cái La tinh là một hệ thống chữ cái khá hoàn chỉnh, được nhiều ngôn ngữ Âu châu sử dụng (tiếng Anh, Pháp, Đức) nhưng khi dùng là văn tự ghi âm tiếng Việt, các nhà sáng lập phải tạo thêm các dấu phụ để ghi lại cách phát âm mang tính đặc trưng của người Việt. Thế cho nên, tuy cùng dùng hệ chữ cái La tinh để ghi âm, nhưng chỉ trong tiếng Việt mới có các nguyên âm mang dấu mũ. Bài học vui dạy viết cho trẻ có câu: O tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ ơ thì thêm râu…được sáng tạo để ghi dấu nét đặc trưng đó.
Mấy điều vừa nói ở trên là nói về chuẩn chính tả. Còn chuẩn ngữ âm thì sao? Một câu chuyện mất khá nhiều giấy bút trên báo mạng trong năm trước là câu chuyện lẫn lộn n / l. Tại sao có nhiều vị quan chức khi xuất hiên trên truyền hình, khi diễn thuyết người nghe-xem phải phì cười? Vì họ có những cách phát âm lệch chuẩn lẽ ra không nên có với cương vị công tác của mình. Ví dụ, “làng tôi có rất nhiều nhà cao tầng” thì lại phát âm thành “nàng tôi có rất nhiều nhà cao tầng”; “Nó nói lắm lại hay lẫn lộn” lại phát âm thành “ló nói nắm nại hay ní nuận”
Trong sử dụng từ vựng, sự lệch chuẩn cũng không kém phần phong phú. Ở một số địa phương người nông dân thường nói “Con tôi mợc lên chú ý rồi” trong khi cần phải nói “Con tôi mới được lên thiếu úy rồi”, Hoặc nói: “Nó bàng quang lắm” thay vì phải nói “Nó bàng quan lắm
Nói đến chuẩn ngữ pháp hay chuẩn phong cách cũng còn vô vàn những ví dụ sinh động khác.
Có thể nói hiện tượng lệch chuẩn là hiện tượng làm vẩn đục ngôn ngữ và là hiện tượng rất cần được khắc phục, Tuy nhiên, hiện tượng lệch chuẩn cũng rất đa dạng và có nhiều nguyên nhân khác nhau. Có những hiện tượng lệch chuẩn là do thói quen phát âm của tiếng địa phương, biệt ngữ hay thổ ngữ. Có những cách phát âm phổ biến trong một vùng phương ngữ rộng lớn như tiếng Nghệ Tĩnh  chẳng hạn, có thể vẫn được coi là những nét bản sắc miền vùng. Nó có thể được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động giao tiếp khẩu ngữ, thậm chí được dùng trên đài phát thanh truyền hình địa phương nhưng không được dùng làm ngôn ngữ chuẩn trên phương tiện truyền thông quốc gia. Những hiện tượng lệch chuẩn do cá nhân hay một nhóm người tự đặt ra (gọi là tiếng lóng) vẫn có thể được dùng giao tiếp trong phạm vi hẹp và được dùng trong sáng tác văn học với ý nghĩa là một phong cách chức năng, nhưng nó không bao được coi là chuẩn trong giao tiếp chính thức. Điều này không hề hạn chế đến khả năng sáng tạo của cá nhân hay nhóm người trong quá trình sáng tạo. Vì rằng, chuẩn không phải là cái bất biến, không biến đổi. Trái lại, chuẩn là cái mang tính thời đại và có tính khả biến cao. Nhưng chuẩn chỉ chấp nhận những gì là thực sự sáng tạo, hợp qui luật và phù hợp với tâm thức của người bản ngữ và được cộng đồng ghi nhận. Cách dùng ngôn ngữ của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều trường hợp chính là sự sáng tạo để tạo ra chuẩn mới cho tiếng Việt.      
Từ trước đến nay, có nhiều bài viết bàn về tiếng Việt, về từ vay mượn tiếng nước ngoài (nhất là tiếng Hán), về chuẩn đã làm cho ngôn ngữ của ta rối rắm thêm vì: một là họ không hiểu rõ bản chất của ngôn ngữ cũng như qui luật vận hành, tiếp xúc của ngôn ngữ; hai là, có  không ít người có nhầm lẫn tai hại là đồng nhất ngôn ngữ với văn tự, hoặc đồng nhất ngôn ngữ với cách phát âm. Những sự nhầm lẫn này dẫn đến nhiều suy lý sai và hiểu không đúng về bản chất cũng như tính năng động của tiếng Việt.
*) Xem thêm, Hữu Đạt “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”, Nxb Giáo dục Việt nam, 2009.
Hữu Đạt
Theo http://trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...