Bùi Giáng, Ai người chia xẻ
Đã có nhiều người viết về Bùi
Giáng, tôi chỉ ghi lại vài cảm nhận cuả mình, như là để góp thêm một cách hiểu
thơ ông, may ra chia xẻ được chút nỗi niềm cuả ông.
1. Trạng thái “điên“ cuả
Bùi Giáng có ý nghiã gì?.
Theo thầy Thích Nguyên Tạng
(chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn), Bùi Giáng tự ghi tiểu sử cuả
mình cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày
mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau:
“1971
- 75 - 93
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống
lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con
nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch
(482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh… “
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng
12 năm 1926 ỏ làng Thanh Châu xã Vĩnh-Trinh huyện Duy Xuyên Quảng-Nam . Tạ thế
tại bệnh viện Chợ Rẫy Sai-Gòn, hồi 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998. Ông là cháu ngoại của tổng-đốc
Hoàng-Diệu, con của ông Bùi-Thuyên và bà Huỳnh-Thị Kiền làm nghề dậy học ở Đà-Lạt,
Sài-Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm hiệp, viết văn,
làm thơ…
Theo Võ Đắc Danh, hồ
sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần.
Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í
vẫn còn trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3.
Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn
ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói
huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát
biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá trọng đại, có ý nghĩ bị người ta
phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách
vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...".
Tuy nhiên đọc thơ Bùi Giáng, tôi không thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ cuả ông. Trái lại, ông ý
thức rõ trạng thái điên cuả mình, điên là một thái độ sống có ý thức.
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa
nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở
đời
(Dzách)
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt
đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người
lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
(Người Điên Uống Rượu)
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ
đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau
bây giờ. 1996
(Ông Điên)
Anh đã định suốt thiên thu vạn
kỷ
Làm thằng điên rồ dại suốt
thiên thâu
Nhưng em ạ, dường như anh vô
lý
Lúc đoạn trường anh đứt ruột
khổ đau
(Quá Khứ Cuả Anh)
Những dòng thơ “điên “ ở
trên như ẩn chưá một điều gì sâu kín lắm trong tâm hồn Bùi Giáng. Ngôn ngữ thơ
vưà gói kín vưà gợi ra trạng thái mơ hồ, nưả như đuà, nưả như thật, nưả hồn
nhiên, nưả thương đau và cô độc cuả tâm hồn Bùi Giáng. Không có mặt trời mọc, không có trăng bên thềm, chỉ có tuyệt mù sông sâu, biển
cạn, bụi hồng và sự hiện hữungười ngợm vô thường trong nỗi
đau đứt ruột
2. Thơ Bùi Giáng , thơ tư tưởng
Trong thơ, người đọc khó
khám phá ra nỗi đau thực sự cuả Bùi Giáng là gì, nhưng nỗi đau ấy bàng bạc
trong hồn thơ ông
Niềm đau đớn xót xa như vĩnh
quyết
Niềm điêu linh như vĩnh biệt
muôn đời
Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời
chiêm bao
(Ngày Nay Ngày mai)
Ăn làm sao? nói làm sao?
Thủy chung muôn một? còn đau
đớn nghìn?
(Mười Hai Con Mắt)
Phải chăng đó là nỗi đau cuả
những cuộc tình “rã đôi“ không thành lời. Sự “chia ngã đường
thu“ đã để lại những vết thương tâm không rõ nguồn cơn,
nở thành những “đoá đoá sầu“ để Bùi Giáng tặng cho đời
.. Ông có nhắc đến một vài người cụ thể: “Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm
thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng
Khánh ( tức Trí Hải Ni Cô) “ ( tiểu sử tự ghi ) Nhưng những người phụ nữ
này được Bùi Giáng tôn vinh như là mẫu thân sinh đẻ ra
mình, tuyệt không có chút gì là quan hệ nhục thể cuả tình yêu nam nữ, nhớ mong, hờn ghen , đau khổ, hẹn hò, mộng mơ như
trong thơ tình cuả những nhà thơ khác.
Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã
đôi
(Theo Áng Mây bay)
Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời
rộng tênh
( Mai Sau Em về )
Kính thưa công chúa Kim
Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi
đây
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày
yêu nhau?
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm
ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa
thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt
vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời
bước đi
(Thơ Điên)
Nhân vật Em trong thơ Bùi
Giáng thấp thoáng bóng hình một con người cuả thực tại ,
cuả kỷ niệm cuả yêu thương ,
nhưng cũng là huyễn hoặc “ sương bóng “ tâm tưởng
để Bùi Giáng giãi bày
Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người
điên
(Mộng)
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương
bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm
lá ướt
Em đưa tay anh vói bắt chừng
này
Ngồi kể lại chuyện ngày xưa
cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng
không nghe..
(Nhiên Tượng)
Chuyện tình yêu chỉ thoáng
qua rất nhẹ vậy “Niềm đau đớn xót xa như vĩnh quyết “ cuả Bùi Giáng
là gì? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu ý thức về thân phận thiên
tài, số kiếp kẻ phong vận bạc mệnh mà Nguyễn
Du nói đến trong Độc Tiểu Thanh Ký? Xưa nay người phong vận phải
mang lấy những hận sự, những kỳ oan, như một định mệnh,
biết “ hỏi đoạn trường từ đâu “, dù có hỏi trời cũng không có lời giải
đáp . Cổ kim hận sự thiên nan vấn / Phong vận kỳ oan ngã tự cư “.
Bùi Giáng tự kham lấy những nghiệp chướng ấy chăng, rồi nín
thinh như cỏ cây
Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài
chết điên
(Mười Hai Con Mắt)
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ
cây
(Chào Nguyên Xuân)
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình
minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài
gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường
từ đâu …
(Vẫn Là Là)
Thực ra, trong bản chất cuả
thân phận làm người, Bùi Giáng đau nỗi đau kiếp nhân
sinh, nỗi đau cuả sự thất bại trong nỗ lực vượt qua “bốn nuí“
(Chữ cuả Trần Thái Tông,1218 - 1277, trong Thiền Tông
Chỉ Nam), vượt qua sắc không, ngũ uẩn, vô thường. Bùi Giáng không sao đặt được bước chân
vào cõi thanh tịnh vô vi (Asamkrita). Ông tự dày vò mình trong
hình hài “đười ươi“, con vật, giống khỉ, ngưả mặt cười
vu vơ (hình ảnh “điên“ cuả Bùi Giáng)
…Em về giũ áo mù sa
Tiền trình vạn lý anh
là đười ươi…
…Em về giũ áo đười ươi
Trút quần phong nhụy cho người
phụ nhau.
Đười ươi tại hạ ra đời
Thời gian rạch xé tô bồi cho
em.
….Ông già rất mực đười
ươi
Già nua lắm lắm còn cười vu
vơ.
Nhận ra “ tinh thể đười ươi
“ trong thân phận người là một giác ngộ tư tưởng cuả Bùi Giáng.
Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như
người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi
vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm
nay.
Trong Thiền Luận, Daisetz
Teitaro Suzuki nhắc đến Thiền Thoại sau :Khi Ngưỡng Sơn (804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân thí dụ như vầy: “Như ngôi nhà có
sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt khọt”, khỉ đáp lại “khọt khọt”,
cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng. Ngưỡng Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì
sao?". Hồng Ân bước xuống một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi
khỉ ơi , ta với ngươi cùng đối mặt nhau đây”.
Đoạn thơ trên biểu
hiện tâm hồn, tính cách , kiều nói năng rất Thiền cuả
Bùi Giáng.
Bùi Giáng nhận ra Phật Tánh
trong hình hài đười ươi cuả người , cuả tôi . “ người
cũng là tôi , tôi cũng là người , ấy rằng tinh thể đười ươi “ . Vũ trụ
, thời gian là nhất thể , tự tại , không sinh diệt : “ một cũng là ba
, là hai , là một ; mai , mốt cũng là hôm nay “ . Sự giác ngộ như thế là
bước giác ngộ thứ nhất để dẫn đấn đại ngộ . Đây không phải là sự “ xoá
nhoà ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung” như nhận
xét cuả Nguyễn Hưng Quốc.
Trong đoạn thơ trên, phải
chăng Bùi Giáng mượn lời thiền sư Hồng Ân để thể hiện tư tưởng cuả
mình? Rõ ràng tư tưởng thơ Bùi Giáng là tư tưởng Phật
Giáo . Đời hư huyễn, như hạt sương , bọt nước , như ánh chớp, như
áng mây , vô thường , chiêm bao ( Bùi Giáng có nhiều bài thơ đề tài Chiêm
Bao) .Tự Tánh cuả vạn vật là KHÔNG, sự từ bỏ Ngã ,
không để vướng mắc vào bất cứ cái gì đạt tới tinh thần “Ưng vô
sở trú “, ( Giới thiệu Kinh Kim Cang – Thích Thái Hoà ). Dường như
Bùi Giáng đang phát tâm, an trú tâm và hàng phục tâm, đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập
ngã- không
“Anh đã định sẽ cùng em kể lể
Một nỗi đời hư huyễn giữa
chiêm bao
Vườn hiu hắt nguyệt hờn mây
nhỏ lệ
Một mùi hương hồng tụ ở nơi
nao”
Anh đã định bỏ hoàng hoa say
đắm
Bỏ tâm tư về vắng lặng
phương trời
Bỏ tất cả tâm tình xưa say đắm
Tới muôn sau tình tuyệt vọng
không lời
(Quá Khứ Cuả Anh)
Có lúc Bùi Giáng
đã đạt đuợc sự hồn nhiên thanh tịnh (1), vượt quasắc không,
đạt đến tinh thần cuả Hoa Nghiêm, hoà trong tạo vật. Tôi không thấy
hồn thơ Bùi Giáng bị vây khốn như Thanh Tâm Tuyền đã từng viết về ông .
Rong rêu ngày tháng rong
chơi
Tìm xuân tinh thể chốn nơi
nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như
là hài nhi?
( Bé Con Ơi )
…Một hàng cây bóng thần tiên
Dập dìu ở giữa khuôn viên
thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy
quanh
(Thiên Thanh Là Là )
Xin yêu mãi mãi và yêu nhau
mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh
chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ
dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu
luôn.
( Phụng Hiền )
Nâu sồng ăn mặc sớm hôm
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm
song the.
( Ăn Mặc Nâu Sồng )
Dưới mắt người hành đạo theo
tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì
mà không dễ thương, không phải là Phật, kể cả sơn hà đại địa, phiến
đá, dòng suối trong rừng, một miếng gỗ, cục đá hay đồng
chì ..
Nhưng Bùi Giáng không trở
thành Thiền Sư , ông vẫn sống với thân phậnđười ươi khỉ đột giưã
đời, vẫn tra hỏi tìm kiếm mỏi mòn trong cõi bể dâu,
và ngày càng xa hút .. trong cái nhìn cuả con người, cái nhìn đười
ươi, nghi hoặc, đo, đếm.
Đười ươi giũ áo tình phong
nhã
Khỉ đột trút quần tưởng Việt
siêu …
( Chiêm Bao 7 )
Cố gắng trăm năm tìm kiếm
mãi
Mỏi mòn nghìn mối thể thân
ly …
(Chiêm Bao 3)
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu
đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi
tâm
(Tặng Mã Giám Sinh )
Ông chỉ đạt tới tiểu ngộ
mà không đạt tới đại ngộ cuả Thực tướng vô tướng; thực tánh vô tánh. Trạng thái “ điên “ cuả Bùi Giáng chính là trạng
thái bất lực trước cuộc vượt qua đề “tái sinh“,
mặc dù Bùi Giáng đã nhiều lần nói đến tái sinh.
Anh đã định sẽ yêu đời suốt
kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở
phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn
liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại
bông lông
(Quá Khứ Cuả Anh - tại Lê
Gia Trang 1991)
Tỉnh ra nửa sợ nửa mừng
Tận cùng gió núi trăng rừng
tái sinh
( Chuyện Chiêm Bao 20)
Tận cùng gió gác trăng lầu
Tái sinh rừng biển buồn rầu
trăm năm
(Chiêm Bao 21)
Chưa giác ngộ, người ta thấy
núi là núi sông là sông. Giác ngộ rồi, người ta vẫn thấy núi là núi, sông là
sông, nhưng là một tâm hồn tái sinh. Tái sinh trong tâm bình thường không
phải tâm sai biệt. Như trở về nhà xưa, hoa xuân như lộng
lẫy hơn, dòng nước đầu non như chảy mát rượi hơn, trong vắt hơn, trong mọi
vật bình thường là toàn thể vũ trụ, là tự do.
Chính vì không vượt qua được
sắc tướng huyễn hoặc hồng trần, Bùi Giáng cứ phiêu du trong cõi đời
cô độc mù khơi, hành trình ấy như một bế tắc , lại vưà như một khám phá hiện
sinh làm nên thơ Bùi Giáng, những bài thơ ấy chia xẻ được với mọi người nỗi niềm
gần xa. Bởi vì nếu Bùi Giáng “ngộ“ được chân như , có lẽ thơ Bùi
Giáng chỉ còn là những bài kệ để thuyết pháp mà thôi .
tôi người thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ
lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư
không
(Mái Hiên)
lạnh lùng dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong
mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối
trời
(Mái Hiên)
3. Giá trị thơ Bùi Giáng
Thơ Bùi Giáng tài hoa ở câu
chữ, những câu chữ chưá đầy bí mật . Nhiều người đọc thơ Bùi Giáng
không hiểu, tấm tắc khen, rằng là tài hoa , rằng là hay … nhưng
bất lực , không giải mã được , đành “ tán “
như vầy : “có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm
hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với tâm hồn ta, và
ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết chúng ta đã đánh mất,
đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi này”.( Phạm Xuân
Đài ) . Nguyễn Phú Long trích dẫn thơ trong một bài luận về “Sở Dĩ
Nhiên” cho rằng , đọc thơ Bùi Giáng không cần hiểu ý nghiã bài thơ :” Nhưng
tại sao lại đặt vấn đề ý nghĩa cho một bài thơ nhỉ ? Bài thơ là bài thơ, những
gì ta thấy ta đọc là những gì ta đọc ta thấy vậy thôi. Đừng đi tìm ý nghĩa. Bài
thơ như thế đấy, nó không cần có y’ nghĩa.” Nguyễn Hưng Quốc còn đi
xa hơn : “ Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. Bùi Giáng còn gần
gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều những
bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng .Nói cách khác, bài thơ là bài thơ.
Không có ý nghĩa nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm… Chúng
ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc lần thứ nhất:
chúng ta không hiểu gì cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Đọc
lần thứ ba: chúng ta lại vẫn không hiểu gì cả.”
Ô hay! Bùi Giáng làm thơ là
để mong có người chia xẻ tâm sự điêu linh, vậy mà người đọc lại
không hiểu, không cần hiểu, không cần đọc những gì ông gửi gắm qua câu chữ,
thử hỏi Bùi Giáng có buồn không?
Xổ bầu tâm sự điêu linh
Ai người chia xẻ với mình với
ta
(Một giờ)
Không phải thơ Bùi Giáng là
“thơ gần với thơ Hậu Hiện Đại, bài thơ là bài thơ, không có ý
nghiã nào ẩn sau để chúng ta đào sới “, đấy chỉ là cách nói cuả sự bất lực
trước ngôn ngữ tư tưởng cuả thơ Bùi Giáng Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng, không phải bằng câu chữ; hơn nưã Bùi Giáng đã dùng một loại ngôn
ngữ “khép kín“, yêu cầu rất cao đối với người đọc để có
thể hiểu thơ ông:
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở
ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng
dòng
(Bé Con Ơi )
Bùi Giáng bảo rằng phải mở óc
trong đầu ra , mở máu trong tim ra, phải có hùng tâm ,
phải trở về chín phương trời mười phương Phật nước
mắt dòng dòng tuôn rơi (như chín chiều ruột đau) mới có thể đọc
Bùi Giáng , lại phải biết trân trọng nâng niu , dịu dàng như nâng niu hoa
lá . Nhất là phải có “hùng tâm“, đừng nghi tâm .Chữ “hùng tâm“ theo tôi , là chữ Bùi
Giáng mượn cái tâm cuả Nguyễn Du : Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên/ hùng
tâm sinh kế lưỡng mang nhiên “ ( Tạp Thi ) . Vời yêu cầu như thế, việc đọc
thơ Bùi Giáng thật không dễ dàng.
Thực ra thơ Bùi Giáng là thơ
tư tưởng, thể tính cuả nó là tư tưởng, không phải câu chữ , hơn nưã ở
nhiều bài thơ, Bùi Giáng đã dùng kiểu diễn đạt “vô ngôn“ cuả Thiền. Với kiểu
ngôn ngữ này, càng bám vào ngôn ngữ, người đọc càng bị mắc bẫy bởi chính tư
duy cuả mình. Thí dụ;
Đệ tử hỏi:-
Thế nào là Phật?
Thiền sư Tịnh Không
(1091-1170) đáp :
- Nhật nguyệt sáng soi ức
triệu cõi
Ai hay mua móc gội non sông!
(Thiền Uyển Tập Anh)
Bùi Giáng cũng trả lời những
người hỏi mình:
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu
đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi
tâm
(Bùi Giáng)
Cách trả lời cuả Bùi Giáng
trong đoạn thơ trên cũng là cách trả lời cuả thiền sư Tịnh Không. Nếu
người đọc chỉ tra hỏi, đo, đếm với cái tâm sai biệt (Nghi
tâm), chỉ bám vào câu chữ, thì không thể hiểu ông nói gì. Bởi
vì Bùi Giáng tồn tại vô sắc tướng trong đoạn thơ. Người đọc cảm được
cái hay cuả đoạn thơ nhưng khó giải thích được được bản
chất thẩm mỹ cuả đoạn thơ là gì. Đây chính là đặc điểm ngôn ngữ Thiền. Không
hiểu mới là Thiền . Bởi vì Thiền “ ..Bất lập văn tự, trực
chỉ nhân tâm “, Thiền loại bỏ tất cả sự nhận thức cuả trí. Khi
còn bám vào sắc tướng ( lời ) còn nghi tâm, thì không hiểu được ý ở
ngoài lời.
Tất nhiên bằng trực giác,
ta vẫn có thể hiểu được lớp nghiã tường minh cuả văn bản, bởi vì trong ta đã
có sắn vốn ngôn ngữ để hiểu . Ta hiểu được “Biển xanh dâu“
vì trong ta đã có câu thơ Kiều “Trải qua một cuộc bể dâu“. Trong
ta, ai cũng đã từng một lần dệt mộng cho tình đầu cuả mình ,
”mộng ban đầu“, “mộng
dưới hoa“, “ mộng bình thường“. Đoạn thơ còn quen thuộc ở cấu
trúc giống với đoạn thơ Nguyễn Du giới thiệu Mã Giám Sinh, một nhân vật để lại
nhiều ấn tượng cho người đọc Kiều. Sự thú vị càng tăng lên khi người
đọc nhận ra phép đối trong câu chữ cuả Bùi Giáng với câu chữ cuả
Nguyễn Du: “Hỏi quê: “rằng huyện Lâm Thanh cũng gần“ (truyện Kiều), đối với “Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa“ (Bùi Giáng). Bùi
Giáng đối lập mình với Mã Giám Sinh, từ đó đặt mình trong tương quan với
Nguyễn Du. Câu thơ Nguyễn Du là câu thơ tả thực nói cái đời thường,
quê quán, tuổi tác, gia cảnh. Câu thơ Bùi Giáng ngược lại, dẫn người đọc vào
trường ngôn ngữ nghệ thuật đòi sự cảm nhận lãng mạn. Cái hay cuả đoạn
thơ còn ở chỗ Bùi Giáng làm thay đổi đột ngột cách tư duy cuả người đọc. Đang từ
kiểu tư duy hình tượng với biển xanh dâu, đột ngột đổi sang kiểu tư
duy cụ thể đo đếm, một, hai, ba, rồi tức khắc chuyển
sang tư duy triết học với những “diệu tưởng, nghi tâm “. Tư
duy logic cuả người đọc bị lật nhào, đoạn thơ mở ra chiều tư
tưởng, buộc người đọc phải thoát ra khỏi câu chữ để nhìn bằng cái tâm
không sai biệt. Tiến trình đọc như vậy tạo ra khoái cảm thẩm mỹ .Người đọc có
thể không hiểu câu chữ Bùi Giáng vẫn cảm nhận được cái hay cuả thơ ông là vậy.
Nói thơ Bùi Giáng
là thơ tư tưởng thì giá trị thơ Bùi Giáng cũng là giá trị cuả chính tư tưởng ấy. Vậy tư tưởng thơ Bùi Giáng là gì? Ở trên tôi đã nhận ra tư tưởng
cuả kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, tư tưởng Thiền trong thơ Bùi Giáng , nhưng
còn một thế giới tư tưởng khác trong thơ Bùi Giáng là thế giới tư
tưởng Nguyễn Du: biển xanh dâu, đoạn trường, phong vận, lầu
xanh, cát lầm , bụi hồng , hùm thiêng (thân phận Từ Hải), Đạm
Tiên, Từ Hải …Bùi Giáng mượn thế giới tư tưởng nghệ thuật ấy để thể hiện
tâm hồn mình
Thưa rằng bạc
mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt
xin làm cỏ cây
(Chào Nguyên
Xuân)
Tồn sinh quá khứ
chôn vùi
Cơn say suốt kiếp -
trận cười thâu canh
(Gõ Cưả Tồn
Sinh)
Hùm
thiêng chắp nối của tin
Cho người thổn thức
cầu xin đá vàng
(Mười Hai Con
Mắt)
Tuyệt mù biển cạn
sông sâu
Bụi hồng tản
mác trước sau bây giờ
(Ông
Điên)
Cô đơn chứa đựng
đầy miền
Cảo thơm tiền
kiếp qủa nhiên bây giờ .
(Quanh
Co)
Mặc người
mưa Sở mây Tần
Riêng mình gìn
giữ
một lần đầu tiên
(Riêng Mình)
Dấu bèo phong
vận nín thinh
Sóng phơi trường
mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu
bóng đài gương
Lời nghi hoặc
hỏi đoạn trường từ đâu
(Vẫn
Là Là)
Sao bằng riêng một
biên thuỳ
Cõi điên vũ trụ tuỳ
nghi tung hoành
(Sao Bằng)
Lừng bay thân thế
pha mù
Sương mây tuyết dậy
thân bù cho thân
(Đạm Tiên)
Nhưng thơ Bùi Giáng
không chỉ có ngần ấy tư tưởng. Những hệ tư tưởng ấy chưa đủ để ông giải quyết
những vấn đề cuả hiện hữu và cũng không giúp ông nói hết sự trải
nghiệm hiện sinh cuả mình , bởi cuộc đời ông , thời đại ông và tư tưởng cuả
ông khác rất xa với quá khứ . Ông tìm đến một cách thể hiện khác ,
đó là thái độ “ điên “ . Thiền thọai kể lại nhiều hành vi cuả các
Thiền sư mà nếu nhìn bằng con mắt bình thường ta có thể sẽ thốt lên rằng “ điên
thật ! điên thật !“, chẳng hạn : có một thượng tọa tên là Định hỏi sư Lâm
Tế về đại nghĩa pháp Phật . Sư bước xuống ghế rơm, nắm lấy Định,
xáng cho một bạt tai, rồi xô ra. Định choáng váng chưa biết phải làm gì. Một
ông tăng đứng bên bảo Định sao không lạy Sư đi. Định toan lạy thì ngay lúc ấy
hốt nhiên ngộ đạo. Sau đó, Định qua cầu gặp ba ông tọa chủ. Một ông
hỏi Định : tôi nghe nói dòng thiền sâu thẳm phải dò đến đáy, thế nghĩa là gì ?”. Định
bèn nắm lấy người ấy, toan ném xuống sông ( dẫn theo Suzuki ). Thiền
Uyển Tập Anh kể lại: Thiền sư Đại Xả (1120-1180) thường
xoã tóc, quên ăn, không ở hẳn một nơi nào. Ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5, sau khi dặn dò đệ tử, sư đọc bài kệ , đến canh năm hôm ấy sư uống
thuốc độc mà qua đời . (Thế có là điên hay không? )
Phải
chăng Điên là một cách hành Thiền cuả Bùi Giáng?
và Điên cũng là cách né tránh đối diện với thực tại , thực
tại thời chiến tranh Việt Nam , trước và sau 1975? Ta không thấy Bùi
Giáng bày tỏ bất cứ chính kiến nào về thực tại đó như thơ văn đương thời. Bài
thơ Về Quảng Nam được viết bằng ngôn ngữ đời thường thể hiện rõ thái độ né
tránh ấy:
Chiêm bao tôi thấy
tôi về Quảng Nam
Rong chơi Đại Lộc,
Điện Bàng
Duy Xuyên, Tiên
Phước, Hoà Vang, Thăng Bình...
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ
khác xa những ngày...
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi
chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh
đậm đà
Còn trong kỷ niệm
bao la tuổi nào...
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng
trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết
hoang mang
Bài thơ viết vội,
dở dang lạ lùng
1995
Ta chỉ thấy thấp
thoáng tâm hồn Bùi Giáng xiết bao hoang mang, xôn xao, dở
dang trước thực tại đã thay đổi lạ lùng .Bùi Giáng không lộ ra bất cứ một
phản ứng chinh trị xã hội nào.Thái độ này chẳng khác gì Nguyễn Du
lúc sinh thời. Nguyễn Du sống im lặng, dấu kín tư tưởng cuả mình
với thực tại thời Gia Long. Nhiều bài thơ cuả Nguyễn Du mượn đề tài
Trung Quốc . Thật khó tìm thấy hình ảnh đời sống thật cuả xã hội
Việt Nam và thái độ cuả Nguyễn Du trong thơ ông. Thái độ cuả Bùi
Giáng với Nguyễn Huệ (bài Nguyễn Huệ) cũng gần như thái độ Nguyễn Du với Từ
Hải , mà có ý kiến cho rằng Từ Hải là hình bóng Nguyễn Huệ. Và, phải
chăng thái độ cuả Bùi Giáng cũng là thái độ “giả cuồng“ cuả Nguyễn Gia Thiều
trước thời cuộc? Nguyễn Huệ ra Bắc 1786, Nguyễn Gia Thiều lẩn trốn ở núi rừng.
Khi không còn trốn tránh được, ông trở lại Thăng Long uống rượu, giả cuồng,
bất hợp tác với Tây Sơn.
Bùi Giáng ý thức rõ
việc lúc nào điên, lúc nào tỉnh, ông cũng ý thức rõ người đời hoài nghi về
thái độ “ giả cuồng “ ấy cuả ông
Uống và say nói
lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý
thằn lằn đứt đuôi
( Người Điên
Uống Rượu )
Tôi cười tôi khóc
bâng quơ
Người nghe người
khóc có ngờ chi không.
(Bao Giờ)
Tôi nằm ở giữa vườn
cây
Tấm lòng men rượu
từ nay chịu chừa
Điên cuồng nhảy múa
sớm trưa
Từ nay chấm dứt -
thượng thừa hoàng trang
(Cũng Là Như
Thế )
Uống rượu, điên
cuồng nhảy muá, nói năng lí nhí, cười khóc bâng quơ..Nếu nhìn ở hiện tượng
ngôn ngữ thì đó là hành vi cuả người điên không còn ý thức, nhưng ở Bùi Giáng
đó là một hành vi có ý thức, một thái độ chọn lưạ hiện sinh. Nhất định thái
độ ấy phải xuất phát từ tư tưởng. Có thể là ông mắc phải sai lầm
nào đó trong đời , hay sai lầm cuả những dấn thân “ tội lỗi “
Đời đã mất tự bao
giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn
tượng lúc đầu xanh
( Hư Vô Và
Vĩnh Viễn )
Máu trong mình mòn
ruỗng
Xương trong mình rã
riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong
tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ
nọ bay sang
(Bờ Luá )
Cũng có thể đó là
thái độ sống “hồn nhiên “ cuả người “ đắc đạo “ .Người đời nhìn ông điên nhưng, với ông, đó là tự do. Chữ tự do hiểu theo tư
tưởng Phật, không phải tự do chính trị . Tôi không nghĩ rằng “Anh càng lang
thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh đang
đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng cho
nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội…. Anh tượng trưng cho sự
"ngoài vòng cương tỏa" mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm
muốn.” (Phạm Xuân Đài) . Thực ra đó là tinh thần “ Ưng vô sở
trú ‘ cuả kinh Kim Cang , tinh thần tự do cuả Lâm Tế Nghĩa
Huyền (? – 867 ) “…gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng
thân thiết, giết hết, chớ ngần ngại: đó là con đường độc nhất để giải thoát.
Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình, hãy vượt lên, hãy bước qua, hãy tự
do.”(Dẫn theo Suzuki )
Ngủ yên bên lá cỏ
chiều
Giữa trời thu mỏng
gió dìu mây trôi
Ngủ yên bên suối
bên đồi
Bên rừng thu tạnh
bên người xót xa
Cát lầm ngọc trắng
ố hoa
Bên đời thổn thức
thiết tha bên người
Ngủ yên cây cỏ ngậm
ngùi
Một giờ yên ngủ lấp
vùi trăm năm
Tỉnh ra tìm lại chỗ
nằm
Chốn xa xôi ấy đêm
rằm trăng soi
( Chuyện Chiêm
Bao 17)
Bùi Giáng có thể
ngủ yên bên cỏ, bên suối, bên đồi, bên rừng để lấp vùi trăm
năm, nhưng Bùi Giáng không thể quên nguôi nỗi đau đời.
Ông gắn bó đá vàng bên đời buồn tủi, bên người xót
xa , ông thiết tha bên ngườivới tất cả nỗi ngậm ngùi
thổn thức cuả cõi nhân sinh, và ông bỗng nhận ra mình lạc
mất trong chốn xa xối ấy, tỉnh ra đi tìm lại chính mình .
Trước khi về chín suối
Em xin gửi đá vàng
Của trăm năm buồn
tủi
Về trở lại nhân gian
(Trước
Khi )
Có thể nhận thấy
sau Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát, thì Bùi Giáng là người làm thơ
tư tưởng, và đưa thơ tư tưởng Việt Nam lên những bước phát triển
mới. Điều này trở thành giá trị thơ Bùi Giáng, vì đương thời và
cả hiện nay , rất ít nhà thơ Việt Nam trở thành nhà thơ tư
tưởng (Có chăng là Phạm Thiên Thư, và hiện nay là Trần Ngọc Tuấn với tập
thơ Gió Reo). Tuy nhiên tư tưởng thơ Bùi Giáng không sánh được với
tư tưởng thơ Nguyễn Du và Nguyễn Gia Thiều ở sự giác ngộnhững trải nghiệm
bể dâu , ở cái “ hùng tâm“ và thần lực cuả một hồn thơ mà ngòi bút
có thể làm rung chuyển khắp cõi nhân gian như Không Lộ Thiền
Sư “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.” (Không Lộ -
?-1119. Thiền Uyển Tập Anh )
4. Bùi Giáng có
cách tân thơ không?
Bùi Giáng không có
cách tân gì về thơ, ông chỉ kế thưà truyền thống và làm mới thơ bằng phong cách
ngôn ngữ cuả mình.
Về nghệ thuật và tư
tưởng , thơ Bùi Giáng nằm trong bầu khí tư tưởng và thế giới nghệ
thuật cuả thơ cổ điển , cuả Nguyễn Du, tư tưởng Phật Giáo .
Thử xem
xét yếu tố thiên nhiên trong thơ Bùi Giáng , người đọc nhận ra ngay
chất cổ điển trong cách Bùi Giáng sử dụng những chất liệu này. Thiên
trong thơ Bùi Giáng rất ít khi là thiên nhiên đời thường cuả ca dao, đó là
thiên nhiên khái niệm, mang tính trí tuệ, tính tư tưởng cuả thơ
Đường, nó cũng mang cái nhìn Hoa Nghiêm cuả Bùi Giáng trên hoa cỏ, sông núi,
ruộng đồng, gió trăng, mây nước. Thiên nhiên ấy cũng mang màu
sắc Kiều cuả Nguyễn Du. Ta gặp nhiều hình ảnh này: chân trời rộng tênh,
nguyệt tỏ bên thềm, biển cạn sông sâu , chiều xuân thơ mộng, bình
minh vô thường, sương đầm lá ướt, vườn hiu hắt nguyệt
hờn mây nhỏ lệ , gió núi trăng rừng, biển xanh dâu, cây cỏ ngậm
ngùi, trời thu, rừng thu, mây trôi, bụi hồng, cát lầm, nguyên khê, đầu núi,
…và dường như thấp thoáng Bùi Giáng trong bài thơ này :
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ
lưu
Tri âm như bất
thưởng
Quy ngoạ cố sơn thu
( Giả Đảo )
[ Ba năm
làm được hai câu thơ /mỗi lần ngâm lên hai hàng lệ chảy /
( nếu )bạn tri âm
mà không thưởng thức /
( ta
sẽ) về nằm trong núi xưa (với) muà thu]
Nằm giữa vườn cây
nhớ bốn trời
Ba bề bảy ngõ nhớ
muôn nơi
Tưởng chừng thiên
hạ mênh mông quá
Mà thơ ta chỉ có
vài lời
Tặng người người có
nhận hay không
(Cũng là như thế -
Bùi Giáng)
Thơ Lục bát cuả Bùi
Giáng cũng gần gũi như Lục bát cuả Đoạn Trường Tân Thanh, và gần như ca dao
, có cả thơ đuà cợt kiểu ca dao (Tuy Nhiên Em Có Mặc
Quần , Lời Sơn Nữ )
Nhiều bài thơ cuả
Bùi Giáng có giọng thơ cuả thơ Lãng Mạn 1930-1945 (Ly Tao 1.Ly Tao
III. .Màu Trời Đó …) Cảm hứng chính cuả thơ Bùi Giáng là cảm
hứng lãng mạn có màu sắc Thiền (Chào Xuân Nguyên, Cỏ Hoa Hồn Du Mục , Dư
Vang … )
Bùi Giáng có rất ít
bài thơ nói về thực tại bằng ngôn ngữ đời thường.(Không Đề - tặng nhạc sĩ
Quốc Bảo; Nguyễn Huệ, Về Quảng Nam , Em Mọi Ơi ), ngay cả những
bài như thế cũng lãng đãng không khi lãng mạn ( Oà Các Em, Nỗi Lòng Tô Vũ – kỷ niệm 15 năm chăn dê)
Nhưng Bùi Giáng có
phong cách ngôn ngữ riêng, người ta có thể nói đến kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng.
Ông sử dụng rất nhiều từ Hán Việt bên cạnh từ thuần Việt, đó là vốn từ Hán Việt
cuả nhà Phật và cuả văn chương cổ điển, đồng thời ông tạo nên những từ lạ so
với vốn từ đã quen dung. Nhiều bài, từ Hán Việt dày đặc đến nỗi
trở nên rất khó đối với độc giả bình thường
Em từ non nước Viễn
Khơi
Trùng lai cố quận
chịu chơi một lần
(Em
Từ)
Thiệt thòi đời mộng
phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm Giấc quày quả lạnh anh trâm Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu Hoài mong hiu hắt nhịp cầu Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.
(Muà Phượng
Cũ)
Điều này giải thích
tại sao thơ Bùi Giáng khó hiểu. Bùi Giáng cố ý dùng nhiều từ Hán Việt
trong một cấu trúc ngữ pháp đã bị xáo trộn so với cấu trúc bình
thường để tạo nên “ mật ngữ “ cuả riêng ông. Có điều lạ
là tuy có nhiều từ Hán Việt nhưng thơ ông không hề cổ điển, có lẽ vì ông khai
thác thi tứ , đề tài , chất liệu và tạo ra trường nghiã mới so với thơ cổ điển
chăng. Cách dùng chữ Hán Việt cuả Bùi Giáng rất khác Nguyễn
Du. Trong Đoạn Trường Tân Thanh , Nguyễn Du đặt từ Hán
Việt bên cạnh những từ thuần Việt sao cho người đọc dù không biết chữ Hán vẫn
có thể cảm hiểu được thơ .
“ Song sa vò võ
phương trời
Nay hoàng hôn đã
lại mai hôn hoàng “ (Nguyễn Du )
Thiên hương quốc
sắc lạ thay
Một tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên Khiến đời tứ đảo tam điên Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng (Gà Gáy Sáng – Bùi Giáng)
Với Bùi Giáng, làm
thơ như một trò nghịch ngợm chữ nghiã cuả một con người tài hoa. Trong đoạn thơ
trên , rõ ràng có bàn tay nghịch ngợm rất mực tài hoa cuả Bùi Giáng. Câu thơ
Kiều
“ Dày
dày sẵn đúc một toà thiên nhiên “ đã được Bùi Giáng viết lại “ Một
toà sẵn đúc dày dày thiên nhiên “ và câu thơ “cuồng quay đảo phụng
cường kiên điên hoàng“, xáo trộn nghịch ngợm triệt để những từ Hán Việt, ngữ
nghiã trở nên xa lạ không sao hiểu được. Có thể sắp xếp lại theo
cấu trúc thông thường : phụng hoàng kiên cường quay cuồng điên
đảo. Tất nhiên như thế không còn là thơ Bùi Giáng, và ngay cả
khi đã xắp lại như thế, vẫn khó tìm ra một cấu trúc thực sự hợp lý
để hiểu ý thơ. Mật ngữ cuả Bùi Giáng là ở đó. Thực ra Bùi Giáng
có thể viết những câu thơ thật thà hiền lành thế này:
Chiều nay anh làm
thơ
Chẳng còn hay như trước Suốt một tháng Viết không được một câu Thì lấy đâu ra thơ Mà tặng em cho được Tặng một câu cũng chưa đủ Thì lấy đâu bốn câu Cho đủ một bài.
(Em Mọi
Ơi )
Bùi Giáng là một
phong cách đặc sắc, nếu chỉ viết như thế sẽ chẳng bao giờ
có thơ Bùi Giáng để người đọc ái mộ.
Phong cách thơ Bùi
Giáng trước hết thể hiện ở trò chơi ngôn ngữ thách đố người đọc như trong trò chơi
ú tim . Bùi Giáng có khả năng biến hoá ngôn ngữ một cách tài hoa. Tôi không
nghĩ đó là thi pháp, mà chỉ là sự tài hoa cuả ngòi bút , cuả cá tính sáng tạo. Thi pháp thơ Bùi Giáng nằm trong thi pháp thơ cổ điển và thơ Lãng Mạn. Bùi
Giáng chưa vượt ra ngoài cõi thi pháp ấy.
Nguyễn Hưng Quốc
coi những kiểu chơi chữ cuả Bùi Giáng như là thi pháp, điều ấy có đi xa quá
chăng?. Ông nhận định: “Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong
phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhoà của mọi đường biên
quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong
văn học từ xưa đến nay… xoá nhoà những đường biên về giọng điệu., xoá
nhoà ranh giới giữa truyền thống và hiện đại .., xoá nhoà ranh giới giữa cái
gọi là thơ và cái gọi là phi thơ …, xoá nhoà giữa cái lý và cái
phi lý..” (Cuộc Hoà Giải Vô tận – Trường Hợp Bùi Giáng) .
Đúng là có những
hiện tượng lẻ tẻ như vậy, nhưng không là chủ đạo cuả ngòi bút Bùi Giáng ..Thơ
ông là thơ truyền thống , chủ yếu là Lục bát , thất ngôn cổ điển
(Chiêm Bao 7, Chiêm Bao 4.. ) thơ 7 chữ . 8 chữ kiểu Thơ Mới (Kể Chuyện, Giòng Sông; Hư Vô và Vĩnh Viễn .. ), lâu lâu ông đuà
nghịch một chút, tạo ra một kiểu chơi chữ mới, thách đố ngôn từ,
dẫn người đọc vào những miền xa lạ cuả tư duy, tạo ra sự thích thú, như kiểu
làm thơ phá cách vậy thôi, đuà một chút thôi mà!
Phong cách Bùi
Giáng toát ra từ thế giới nghệ thuật cuả cả bài thơ . Thơ Bùi Giáng là một thế
giới riêng, thế giới thơ cổ điển cuả hôm nay. Thế giới cuả nghệ
thuật kết hợp với tư tưởng, cuả tâm thức hiển hiện trong ý thức ,
cuả câu chữ thật nói lời vô ngôn , cuả sự trộn lẫn tài hoa và bi
thương , cuả thực tướng và hư huyễn, cuả những “ đổ lộn “, “ từ
bỏ “ núi sông , thành luỹ , hiện hữu , thời gian ,
thành “ tiếng vàng vang vọng “ xa lạ..Tiếng Việt trở nên sang
trọng và phong phú vô cùng , câu thơ trùng trùng nghiã , chữ gọi chữ , chữ thai
nghén nghiã mới, nghiã gọi tâm , tâm lay động thái hư , vang vọng
mãi vào vô biên . Bùi Giáng có nhiều bài thơ hay, không chỉ có câu thơ
hay .Điều đặc biệt là có thể nhặt ra những câu thơ hay , để riêng lẻ
, câu thơ vẫn tồn tại độc lập như câu thơ Kiều .
Nghe trời đổ lộn
nguyên khê
Tiếng vàng rụng rớt gieo về động xanh Gót chân khơi rộng bóng cành Nhịp vang đầu núi vọng thành lũy siêu Thời gian chắc bước bên chiều Khóc sông bến lạ mưa chiều sớm xuân Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng Hồn du mục cũ xa gần hử em
(Cỏ Hoa Hồn Du Mục)
Những bài thơ
như Cỏ Hoa Hồn Du Mục trở nên mới lạ và làm nên phong cách Bùi Giáng so với thơ
đương thời. Tôi nghĩ rằng người đọc có thể tìm thấy nhiều giá trị
khác trong thơ ông nếu có được trình độ tư tưởng và khả năng vượt qua được kiểu
ngôn ngữ Bùi Giáng: Một rừng dày đặc từ Hán Việt trộn lẫn với khẩu
ngữ, nghịch ngợm, xáo trộn, thành “ mật ngữ“, thách đố
năng lực tư duy, tạo ra thú vị.
“ Dù sao chăng
nưã ,Bùi Giáng tạo được một mẫu ngông thời đại , sáng tạo một kiểu say
sưa , chán đời cuả
thế kỷ XX , khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ XIX và Tản Đà đầu thế kỷ
XX “ ( T. Khuê –Tự điển Văn Học bộ mới – Nxb Thế Giới 2004 )
.Đó là kết luận cuả Tự Điển Văn Học
Nếu Bùi Giáng đọc
được nhận định như thế , có lẽ ông chỉ cười, cái cười “đười ươi “
nắm tay ngưả mặt
nhìn “đười ươi “ , như ông đã cười khi gặp bà Khổng Tử ở Lục Tỉnh ( Đêm
Lục Tỉnh)
(1) Thiền Luận
- Daisetz Teitaro Suzuki:
Trường Thủy
Từ Huyền hỏi Thiền sư Huệ Giác ở núi Lang Gia,:
“Cái thanh tịnh bổn
nhiên nhân sao bỗng dưng sanh núi sông thế giới?”
(Thanh tịnh bổn
nhiên vân hà hốt sanh sơn hà đại địa?)
Câu hỏi mượn ở kinh
Lăng Nghiêm, đoạn Phú Lâu Na hỏi Phật tại sao cái Chân Như Tuyệt Đối hốt nhiên
hóa thành thế giới hiện tượng nầy.
Tháng 6/2007
Bùi Công Thuấn
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét