Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Dưới đám mây màu cánh vạc của Thu Bồn

Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Dưới đám mây 
màu cánh vạc của Thu Bồn
Tiểu thuyết Việt Nam 1945 – 1975 không đơn điệu về bút pháp như nhiều người vẫn tưởng. Khi mô tả cuộc kháng chiến thời hiện đại, nhiều nhà văn đã sử dụng bút pháp huyền thoại với tinh thần “Biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thực”Có thể nói, Thu Bồn là người sử dụng nhiều nhất yếu tố kì ảo trong văn xuôi. Tiểu thuyết ”Dưới đám mây màu cánh vạc” của ông đã tạo nên nét độc đáo riêng biệt  và sẽ khẳng định sức hấp dẫn mạnh mẽ trong tương lai giống như loại hình văn học huyễn tưởng trong văn học thế giới.
Chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, với tư cách là một trào lưu văn học, đã phát triển mạnh mẽ trong văn học thế giới từ giữa thế kỷ XX trở đi. Loại hình văn học huyễn tưởng có sức hấp dẫn mạnh mẽ đến mức nhiều người cho rằng nó sẽ giữ vai trò chủ đạo trong nền văn học tương lai. Ở Việt Nam, mặc dù chưa làm thành một trào lưu nhưng nó vẫn tạo ra một dòng chảy lặng lẽ xuyên suốt văn học cổ trung đại đến hiện đại. Có thể nói đại diện xuất sắc nhất cho kiểu sáng tác huyền thoại trong văn học hiện đại Việt Nam là Thu Bồn. Và tác phẩm thể hiện nhiều nhất  yếu tố kỳ ảo trong sự nghiệp sáng tác của ông không phải là “Bài ca chim Chơ-rao” mà là tiểu thuyết “Dưới đám mây màu cánh vạc” (1975).
Mặc  dù có tiếp thu nhiều yếu tố huyền thoại dân gian nhưng Thu Bồn không dẫn dắt bạn đọc vào cái “quá khứ tuyệt đối” đầy rẫy chuyện hoang đường mà ông đưa bạn đọc  tham quan một thế giới kỳ lạ ngay trong thời hiện tại: Câu chuyện xảy ra vào khoảng năm 1969-1972 tại một làng ven biển tên là Mỹ Thuỷ,thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Nhưng khác với các nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực nghiêm  nhặt, Thu Bồn đã tô điểm vào bức tranh hiện đại đó bằng một màu sắc huyền thoại, thậm chí có đôi chỗ quái dị, có thể gây “sốc“ cho những bạn đọc chưa chuẩn bị sẵn tâm thế tiếp nhận. Có thể chia thế giới kỳ dị trong tác phẩm thành ba loại: các sự vật hiện tượng thiên nhiên, thế giới loài vật và thế giới con người.
Dưới ngòi bút của Thu Bồn, các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên đều mang linh hồn, chúng hoạt động và suy nghĩ như con người. Suốt gần 700 trang sách, ta gặp vô số những hình tượng mang tính người như: bầu trời, mặt trời, nắng, mây, gió, sông, biển, hạt cát, con đường, mái nhà, chiếc tã lót… Sau đây chỉ là một vài ví dụ minh hoạ cho các đặc điểm của bút pháp huyền thoại mà thôi. Trước hết là việc sử dụng đậm đặc các biện pháp tu từ. Thu Bồn vốn có sở trường về mặt này bởi lẽ ông là một nhà thơ, mà thơ ca là vương quốc của các biện pháp tu từ. Ông đã làm “lạ hoá” hình tượng nắng bằng biện pháp nhân hoá:”Gió ngừng thổi, nắng cô đặc lại đè nguyên cả khối xuống mái tôn (…) Những lưỡi dao nắng cứ cắm vào phổi người ta một cách nặng nề rồi nằm nguyên trong ấy, kéo thêm cái nắng bên ngoài vào. Đến khi phổi không co bóp được nữa, người ngã quay ra chết ngất”. Các hành động dị thường của sự vật thường rất khó lý giải. Nó đe doạ con người và làm cho cả những anh hùng hảo hớn cũng phải khiếp sợ “giật mình, Tư Quéo co giò chạy. Những chiếc  tã bị gió đưa đưa như những chiếc cánh rời dây phơi đuổi theo mà thắt cổ nó. Nó càng chạy nhanh, những cánh tã rượt theo ù ù rật rật”. Không chỉ miêu tả những cái hữu hình mà cây cọ vẽ của Thu Bồn còn dựng lên được chân dung của những cái vô hình như gió. Nó chỉ có tay và chân, đã mù loà lại còn tác oai tác quái trong bóng tối: “Nửa đêm gió chạy vào những khoảng đất trống của làng (…) cơn gió lồng lên phá cửa, tiền vàng cứ giãy đành đạch dưới những cái lư hương. Gió sờ soạng cái then cửa, sờ vào tấm mành. Gió ra vườn xé te tàu chuối. Gió như thằng mù cứ đi quanh quẩn. Tiếng gió chui qua ống thổi lửa vo vo làm tung những tiếng tro cho những than lửa hấp háy con mắt. Lúc đầu, những than lửa còn ngái ngủ, cứ mở rồi nhắm một lúc nó thức dậy hẳn, liếc con mắt xanh rồi cứ phóng mình lên đột vào lòng bóng đêm”. Hình ảnh bóng tối xuất hiện với tần số đậm đặc trong tác phẩm, nó là cái nền để thêu dệt nên bao câu chuyện ly kỳ. Nhưng đằng sau bức màn hư ảo đó là hiện thực cuộc sống. Bởi vậy, biện pháp nhân hoá thường đi kèm với biện pháp ẩn dụ, tượng trưng:” Những đám mây trên trời cũng dắt díu nhau bỏ chạy”,”Mặt trăng từ biển nhô ra đỏ rực, ướt nhoè cả máu”, “con đường không dẫn người ta vào những mái nhà, mà nó đưa người ta đến những cái bẫy có gài mìn, có những con mắt độc ác dòm ngó”.
Rõ ràng là tác giả muốn nói đến hiện thực chiến tranh, nó khốc liệt đến nỗi làm xáo động cả trời cao. Lòng căm thù ngút trời và muôn dân đang chờ đợi một ngày mai tươi sáng: “Mặt trời không nhẫn nhục được với mây mù đã chín bầm trên đỉnh núi phía tây (….) mặt trời bị táng trong đám mây cả ngày, tức giận đốt cháy lung tung. Nó sẽ vác một bó đuốc đi vòng quanh đêm đen, để ngày mai thắp lên phía đông một ngọn lửa mới”. Đoạn văn này cũng dễ làm cho người đọc liên tưởng đến hoạt động thường ngày của thần mặt trời trong các truyện thần thoại xa xưa.
Trong tiểu thuyết “Dưới đám mây màu cánh vạc”, ta cũng bắt gặp những con vật biết ăn nói giống như con người. Trong thế giới cổ tích đó , con chó cũng biết nói:”mau mau”để giục người chạy trốn, con mèo cũng biết hỏi “sao sao ?” và biết đeo túi cá trên cổ để đi làm liên lạc tiếp tế cho du kích. Con trâu biết mỉa mai châm chọc “ngá ẹ” và biết dạ thưa “Ngá ..ạ”. Còn những con còng biển giống như quân lính:”Lũ còng thấy bóng lão tiến đến đâu, chúng rẽ ra đến đấy, đứng hai bên thành hai hàng rào danh dự gương những cái càng nhọn như súng lắp lê tua tủa”. Trong thế giới loài vật ở đây, đông nhất là quạ, “bầy quạ bay đen kịt giống như những mảnh đêm đen nát vụng trên bãi cát”. Xung quanh hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra, dân số loài người ngày càng giảm, dân số loài quạ ngày càng tăng. Chúng là hiện thân cho sự chết chóc, chúng ăn thịt người nhiều đến mức thành nghiện “lũ quạ lại vào làng kêu vang đòi thịt”. Nhiều con rất quái dị “đôi mắt đỏ như máu, đầu nó trọc lóc”. Khi cướp được thức ăn, chúng cũng biết “cười khà khà” nghe rất rùng rợn “và cả một “phân đội” quạ bay theo như để “hộ tống” chiếc lạp xường đó bay vào hoàng hôn”. Có một con vật xứng đáng để được gọi là “nhân vật”  của truyện  là con chó Sác. Bởi lẽ , tác giả miêu tả nó có một lai lịch đầy đủ như con người. Mẹ gốc Phi-líp-pin, cha gốc Mỹ, sinh trưởng ở Ca-li-phóc-ni-a. Trình độ học vấn: tốt nghiệp trường đào tạo chó  của cục tình báo CIA. Nó được đưa sang Việt Nam với sứ mệnh tiêu diệt cộng sản. Sau “chiến công” phát hiện hai cái hầm giấu vũ khí của du kích “con Sác được phong hàm thiếu uý”. Về tính cách cá nhân, con Sác thích hút thuốc lá Sa lem loại hảo hạng và cảm thấy “tự ái” nếu không được mời thuốc. Sau khi táp được điếu rơi từ trên cao xuống một cách điệu nghệ, “nó để điếu thuốc bên mép trông như một tay nghiện sành sỏi, đểu giả”. Nó biết “phì khói ra đằng mũi” và phả khói thuốc vào mặt bọn lính. Nhược điểm của con Sác là khinh người :”khi đi nó vênh mặt lên trời (…) mắt nó nhìn lúc nào cũng vênh váo, kẻ cả (…) nó đưa chân trước cho tụi lính bắt một cách trịnh trọng”. Nó cũng có lần suýt bị kỷ luật vì đã táp vào tay lão Ó-bốn-hoa trong khi tên này mò sang rờ rẫm mụ Cửu Xéo mà trong đêm đó con Sác đang ngủ chung với mụ Cửu Xéo trên gường. Rõ ràng, đây không phải là một con chó bình thường mà là một con quái vật. Nhiều hành vi của nó không khỏi làm cho người đọc rùng mình.
Ở trên, ta đã gặp những vật mang tính người, dưới đây ta sẽ gặp nhiều người mang tính vật. Trước tiên, thể hiện ở tên gọi các nhân vật: tên Ó-đen, lão Ó-bốn- hoa, con ác-là, thằng Con Sóc, thượng sĩ Roi cá đuối, mụ Cua-sáng -trăng, Hoàng-cò-sếu,Tự-trâu-trắng… Đến những cái tên nếu không mang hình ảnh con vật thì cũng kỳ dị: Tư Quéo, Lưu Vong, mụ Cửu Xéo, mụ Khờ Thứ … Ngôn ngữ cũng lạ, người Việt này nói mà người Việt kia không hiểu:”Hân-lai, ân-lem, chận-lay nhân-lanh, bấn lao tân-linh chân- lo ân lanh Phất-lung…”. Hình dạng con người cũng quái dị, trước hết phải kể đến lão gù “ngồi thu lu như con chàng hiu trên giàn trầu. Mắt lồi ra”. Còn lão thầy thuốc hành nghề mê tín thì giống như một phù thuỷ: “Hai bàn tay trắng, cổ chân cũng trắng, còn lại thì đen tuyền”. Trong đám ma, “lão Dòn giống như một cây đuốc đỏ rực từ chân đến ngọn”. Dưới con mắt kỳ thị của sĩ quan Mỹ, lão Ó- bốn- hoa “giống như con vượn mới chuyển từ lượm hái sang săn bắn”. Nhiều con người cũng không hoàn mỹ: kẻ chột, người đui, kẻ què, người điếc, không mang cái bướu to tướng ở cổ thì cũng gù còm, không hói trọc thì cũng vàng tóc như quỷ. Có khi ta gặp “một bà già chỉ còn nửa cái đầu” hoặc một bàn tay người nằm trong miệng chó. Một cái xác cũng biết cử động:”tay mụ nắm một cái chân. Mụ kéo mạnh, cái xác bật lên khỏi cát. Cái xác không ngã xuống mà lại dựng đứng lên máu đỏ rực như một cây cột lửa”. Các nhân vật thường hoạt động trong bóng tối, ta chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy hình, hoặc thấy hình mà không rõ là ai. Như lúc mụ Cửu Xéo đang ngủ thì “trong bóng tối mọc ra một bàn tay xương xẩu sờ vào ngực mụ”. Nhiều khi nghe tiếng nói của nhân vật nhưng không rõ nhân vật ấy còn sống hay đã chết như tiếng của Tư Quéo gọi chỉ chỗ cho du kích bắt tên Đạm. Và hành động của nhân vật cũng lạ thường,khó tin :”máu đông một cục trên tóc. Nó vất cục máu xuống đất và như một người điên, nó giơ hai bàn tay chùi vào ánh trăng (…) ánh trăng như vấy máu từ hai bàn tay nó, đỏ choé”. Tác phẩm lặp đi lặp lại rất nhiều các hình tượng ma quỷ , thánh thần… phản ánh lòng tin của các nhân vật vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên. Hễ ai tin có ma thì ma hiện lên trước mắt họ: “hai bóng đen ngồi xuống ngạch cửa (…)mụ vừa gọi được cái hồn của con mụ về, ai ngờ quỷ sứ đã kéo đến đầy cửa (…). Hai con quỷ đặt bút cho con mụ ký vào tờ trát đòi của Diêm vương (…)Hai con quỷ bước ra ngoài sân, ngửa mặt nhìn trời cười, răng trắng loá”
Hình tượng trung tâm của tác phẩm là “con quỷ tóc vàng”. Suốt từ đầu chí cuối tác phẩm, các nhân vật lẫn bạn đọc đều băn khoăn tự hỏi: con quỷ tóc vàng là ai mà nó làm nên bao chuyện động trời? Trước hết, người ta tin đó là mụ Khờ Thứ. Lúc còn sống, mụ là một người đàn bà điên, ăn mặc dơ bẩn, thường ôm bọc giẻ rách và hát những lời ai oán ru đứa con tưởng tượng. Mụ thường đi ăn đêm, “ Cả người mụ thường chập choạng vào những đêm trăng có quầng. Xung quanh mụ vàng rực một màu. Có người gọi mụ là con quỷ tóc vàng “. Điều quái lạ nhất là cái chết của mụ đã gây nên bao nhiêu tai hoạ khôn lường . “Những con quạ rỉa xác mụ, con nào cũng vàng cả lông”. Tiếp theo là “lưng lão Mãn gù xuống. Người ta nói mụ đã rút mấy đốt xương sườn của lão” . Và “bệnh chấy rận đã lan khắp làng” thành ra “làng trọc”. Cho rằng hồn ma mụ rất thiêng nên làng phải xây miếu thờ (cái miếu đó là địa danh được nhắc tới nhiều nhất trong tác phẩm vì là nơi lui tới thường xuyên của du kích). Cả làng phải uống thuốc thánh, nhờ đó mà họ thoát nạn, “Tóc Tâm xanh lại và trên mộ những người chết cỏ cũng bắt đầu xanh.” Những câu chuyện ma rùng rợn như thế này ta cũng thường nghe đồn trong dân gian. Và người ta thích nghe những câu chuyện hoang đường đó bởi lẽ nó mở ra một thế giới bao la và đủ sắc màu để trí tưởng tượng tha hồ bay bổng tìm điều lạ.” Thật là một nghịch lý! Chính cái điều không đáng để ta chú ý tới chỉ vì là chuyện huyền hoặc thì lại là mê hoặc được ta” (L.Vax).
Câu chuyện về mụ Khờ Thứ chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng tác giả đã dùng nó để triển khai hàng loạt các sự kiện chính của tác phẩm. Dường như hồn của” con quỷ tóc vàng” vẫn còn lẩn vất ở cõi dương nên luôn gây sự xôn xao trong dư luận dân chúng. Đây là một lần nó xuất hiện ở nhà mụ Chín Chè “ Một cái bóng đen vừa mới lách vào đứng bên giường mụ . Mụ giật thót  mình. Một tiếng sét đánh ở góc vườn, khét lẹt (…) con ma đứng sững tóc rũ rượi, mình mẩy nó choàng một thứ giẻ rách mướp như làm bằng cánh con dơi. Mụ nghe như trên mái tôn nhà mụ có muôn nghìn con quỷ đương nhảy câng cẫng (…) một bàn tay ướt lạnh đầy nhớt giơ ra nắm vào cổ tay mụ “. Một lần khác,lão gù cũng nhìn thấy con quỷ tóc vàng lấy đồ cúng và hiện lên ở bàn thờ nhà lão: “Mụ Khờ Thứ chứ còn ai nữa” . Mọi người đều tin như vậy . Nhưng điều lạ nhất là con quỷ tóc vàng này cứ thích tham dự vào các sự kiện chính trị, như lời tên Con Sóc nhận định: “cái con quỷ tóc vàng thường nổ súng trên bãi cát đêm đêm,kêu hú trong giấc ngủ những người lính chúng ta (…) Việc xe tăng của ngài Lếch bị ăn mìn . Việc các ngài Ó đen đi khui hầm bị ăn hàng loạt mìn Mo kia không dính díu đến “ con quỷ tóc vàng” kia là gì”. Không chỉ dân chúng địa phương và các binh sĩ Việt Nam cộng hoà tin rằng có con quỷ tóc vàng mà ngay cả sĩ quan Mỹ cũng tin điều đó. Trong thư gởi Râu giơ, Lếch kể lại câu chuyện về đội xe tăng của hắn bị phục kích như sau : “Nghe một tiếng thét rất lạ, tớ nghiêng mặt lại nhìn thì chao ôi : một con quỷ tóc vàng - Lạy chúa, tớ không tin là mắt tớ bị hoa đâu. Đầu tóc nó vàng rực, quần áo nó rách bươm-một thứ giẻ rách thì đúng hơn. Nó cầm một cây tiểu liên cũng rách nát như nó, quạt không thương xót vào những tên lính đang bò lổn ngổn trên mặt cát (…). Trong buổi chiều nhợt nhạt của hoả châu và cát xám lạnh, con quỷ ấy cứ hiện ra trên các ngọn cây”. Lần cuối cùng “con quỷ tóc vàng” xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là “quỷ” là để chỉ huy “Đảng khăn xô” đấu tranh chính trị. Mụ Cửu Xéo đương hăng hái dẫn đầu đoàn biểu tình thì “Trước mặt mụ, một con quỷ tóc vàng ở đâu từ dưới cát trồi lên hay trên trời rơi xuống, mụ không biết (…)”con quỷ tóc vàng” đưa tay chỉ mụ đi về phía nhà thờ Mỹ Thuỷ (….) con quỷ ấy nói được tiếng người, nó bắt tay lên miệng kêu gào về phía Ngàn Khơi” (để kêu gọi anh em binh sĩ cộng hoà ủng hộ nhân dân)
Thu Bồn luôn đặt bạn đọc vào tâm thế hồi hộp và buộc họ phải đọc kỹ từng câu, thậm chí đọc đi đọc lại để tìm chứng cớ trả lời cho câu hỏi: con quỷ tóc vàng xuất hiện trên cõi dương đó là mụ Khờ Thứ hay một cô du kích? “Viết một cách thông minh là không nói hết mà để cho người đọc tự nói với mình “ (Phơ bách). Trên cơ sở liên hội ngữ nghĩa, bạn đọc có thể đoán ra “con quỷ tóc vàng” là Tâm, người chỉ huy đội du kích địa phương.
Và giả thuyết này được khẳng định chắc chắn hơn khi cuối tác phẩm có đoạn viết: ” Tâm đưa tay vén lại mái tóc. Mái tóc cộc lốc vàng rực xù ra quanh đầu như bờm một con sư tử (…). Gió ơi! Sao gió không kéo cho mái tóc Tâm dài ra và óng mượt như những năm xưa”. Do hiện thực cuộc chiến đấu khắc nghiệt mà mái tóc cô chuyển sang màu vàng. Nhưng cũng nhờ đó mà làm cho kẻ thù khiếp sợ và đánh lạc hướng dư luận vì mọi người tin đó là hồn bóng  của mụ Khờ Thứ. Và cũng bởi vì hành động phi thường của đội du kích, ban ngày dưới lòng đất, ban đêm hiện lên thoắt ẩn, thoắt hiện, xuất quỷ nhập thần như ma. Việc cho một nhân vật nữ du kích đội lốt một con quỷ tóc vàng là một biện pháp nghệ thuật độc đáo, có một không hai. Sở dĩ tác giả được phép tung hoành ngòi bút và khai thác đến kiệt cùng thế giới kỳ ảo là bởi vì điều này tỏ ra thích hợp với tín ngưỡng của các nhân vật trong tác phẩm. Chính tín ngưỡng dân gian là hạt giống tốt để làm nảy sinh chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo trong văn học Mỹ Latinh. Nhưng không phải vì dung nạp những yếu tố hư ảo mà tác phẩm kém đi tính chân thực. Nhà văn G.G.Máckét, tác giả của “Trăm năm cô đơn” cho rằng: “Cái gọi là văn chương kỳ diệu Mỹ Latinh - nó có lẽ là văn chương hiện thực nhất thế giới”[4, tr.343]. Bởi vì nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo là: “biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thực” [3, tr.53].  . Và thực vậy, đọc “Dưới đám mây màu cánh vạc” người đọc sẽ nhận ra rằng đây là cuốn tiểu thuyết miêu tả chân thật nhất hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ so với hàng trăm quyển tiểu thuyết khác cùng thời.
Tiểu thuyết “Dưới đám mây màu cánh vạc” thành công trên rất nhiều phương diện: nghệ thuật trào phúng, ngôn ngữ đa thanh, cách xây dựng nhân vật độc đáo, giá trị hiện thực cao… Nhưng chỉ xét riêng một phương diện nhỏ là yếu tố kỳ ảo thôi, ta cũng thấy được tầm vóc nghệ thuật của Thu Bồn. Tác phẩm này đã thực sự tạo ra được một diện mạo riêng độc đáo không thể lẫn lộn với tác phẩm nào khác. Rồi thời gian sẽ tiếp tục sàng lọc để giữ lại những tác phẩm có giá trị nghệ thuật đích thực. Nhưng chúng ta có cơ sở tin tưởng rằng “Dưới đám mây màu cánh vạc” (cũng như bút pháp hiện thực kỳ ảo) sẽ khẳng định được sức sống mạnh mẽ trong tương lai và sẽ làm vinh dự cho tiểu thuyết cách mạng Việt Nam.
Tiểu thuyết “Dưới đám mây màu cánh vạc” của Thu Bồn, viết trong khoảng thời gian 1972-1973.
NXB Thanh Niên,1975/1977. NXB Quân đội nhân dân, 2003. NXB Văn học, 2008, trong Tổng tập Văn học Việt nam Thế kỷ XX.
Phạm Ngọc Hiền
Theo http://trieuxuan.info/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...