Tiểu thuyết Việt Nam 1945 –
1975 không đơn điệu về bút pháp như nhiều người vẫn tưởng. Khi mô tả cuộc kháng
chiến thời hiện đại, nhiều nhà văn đã sử dụng bút pháp huyền thoại với tinh thần
“Biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thực”Có thể nói,
Thu Bồn là người sử dụng nhiều nhất yếu tố kì ảo trong văn xuôi. Tiểu thuyết
”Dưới đám mây màu cánh vạc” của ông đã tạo nên nét độc đáo riêng biệt và
sẽ khẳng định sức hấp dẫn mạnh mẽ trong tương lai giống như loại hình văn học
huyễn tưởng trong văn học thế giới.
Chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, với
tư cách là một trào lưu văn học, đã phát triển mạnh mẽ trong văn học thế giới từ
giữa thế kỷ XX trở đi. Loại hình văn học huyễn tưởng có sức hấp dẫn mạnh mẽ đến
mức nhiều người cho rằng nó sẽ giữ vai trò chủ đạo trong nền văn học tương lai.
Ở Việt Nam, mặc dù chưa làm thành một trào lưu nhưng nó vẫn tạo ra một dòng chảy
lặng lẽ xuyên suốt văn học cổ trung đại đến hiện đại. Có thể nói đại diện xuất
sắc nhất cho kiểu sáng tác huyền thoại trong văn học hiện đại Việt Nam là Thu Bồn.
Và tác phẩm thể hiện nhiều nhất yếu tố kỳ ảo trong sự nghiệp sáng
tác của ông không phải là “Bài ca chim Chơ-rao” mà là tiểu thuyết “Dưới đám mây
màu cánh vạc” (1975).
Mặc dù có tiếp
thu nhiều yếu tố huyền thoại dân gian nhưng Thu Bồn không dẫn dắt bạn đọc vào
cái “quá khứ tuyệt đối” đầy rẫy chuyện hoang đường mà ông đưa bạn đọc tham
quan một thế giới kỳ lạ ngay trong thời hiện tại: Câu chuyện xảy ra vào khoảng
năm 1969-1972 tại một làng ven biển tên là Mỹ Thuỷ,thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh
Quảng Trị. Nhưng khác với các nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt,
Thu Bồn đã tô điểm vào bức tranh hiện đại đó bằng một màu sắc huyền thoại, thậm
chí có đôi chỗ quái dị, có thể gây “sốc“ cho những bạn đọc chưa chuẩn bị sẵn
tâm thế tiếp nhận. Có thể chia thế giới kỳ dị trong tác phẩm thành ba loại: các
sự vật hiện tượng thiên nhiên, thế giới loài vật và thế giới con người.
Dưới ngòi bút của Thu Bồn,
các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên đều mang linh hồn, chúng hoạt động và
suy nghĩ như con người. Suốt gần 700 trang sách, ta gặp vô số những hình tượng
mang tính người như: bầu trời, mặt trời, nắng, mây, gió, sông, biển, hạt cát,
con đường, mái nhà, chiếc tã lót… Sau đây chỉ là một vài ví dụ minh hoạ cho các
đặc điểm của bút pháp huyền thoại mà thôi. Trước hết là việc sử dụng đậm đặc
các biện pháp tu từ. Thu Bồn vốn có sở trường về mặt này bởi lẽ ông là một nhà
thơ, mà thơ ca là vương quốc của các biện pháp tu từ. Ông đã làm “lạ hoá” hình
tượng nắng bằng biện pháp nhân hoá:”Gió ngừng thổi, nắng cô đặc lại đè nguyên cả
khối xuống mái tôn (…) Những lưỡi dao nắng cứ cắm vào phổi người ta một cách nặng
nề rồi nằm nguyên trong ấy, kéo thêm cái nắng bên ngoài vào. Đến khi phổi không
co bóp được nữa, người ngã quay ra chết ngất”. Các hành động dị thường của sự vật
thường rất khó lý giải. Nó đe doạ con người và làm cho cả những anh hùng hảo hớn
cũng phải khiếp sợ “giật mình, Tư Quéo co giò chạy. Những chiếc tã bị
gió đưa đưa như những chiếc cánh rời dây phơi đuổi theo mà thắt cổ nó. Nó càng
chạy nhanh, những cánh tã rượt theo ù ù rật rật”. Không chỉ miêu tả những cái hữu
hình mà cây cọ vẽ của Thu Bồn còn dựng lên được chân dung của những cái vô hình
như gió. Nó chỉ có tay và chân, đã mù loà lại còn tác oai tác quái trong bóng tối:
“Nửa đêm gió chạy vào những khoảng đất trống của làng (…) cơn gió lồng lên phá
cửa, tiền vàng cứ giãy đành đạch dưới những cái lư hương. Gió sờ soạng cái then
cửa, sờ vào tấm mành. Gió ra vườn xé te tàu chuối. Gió như thằng mù cứ đi quanh
quẩn. Tiếng gió chui qua ống thổi lửa vo vo làm tung những tiếng tro cho những
than lửa hấp háy con mắt. Lúc đầu, những than lửa còn ngái ngủ, cứ mở rồi nhắm
một lúc nó thức dậy hẳn, liếc con mắt xanh rồi cứ phóng mình lên đột vào lòng
bóng đêm”. Hình ảnh bóng tối xuất hiện với tần số đậm đặc trong tác phẩm, nó là
cái nền để thêu dệt nên bao câu chuyện ly kỳ. Nhưng đằng sau bức màn hư ảo đó
là hiện thực cuộc sống. Bởi vậy, biện pháp nhân hoá thường đi kèm với biện pháp
ẩn dụ, tượng trưng:” Những đám mây trên trời cũng dắt díu nhau bỏ chạy”,”Mặt
trăng từ biển nhô ra đỏ rực, ướt nhoè cả máu”, “con đường không dẫn người ta
vào những mái nhà, mà nó đưa người ta đến những cái bẫy có gài mìn, có những
con mắt độc ác dòm ngó”.
Rõ ràng là tác giả muốn nói đến hiện thực chiến tranh, nó khốc liệt đến nỗi làm xáo động cả trời cao. Lòng căm thù ngút trời và muôn dân đang chờ đợi một ngày mai tươi sáng: “Mặt trời không nhẫn nhục được với mây mù đã chín bầm trên đỉnh núi phía tây (….) mặt trời bị táng trong đám mây cả ngày, tức giận đốt cháy lung tung. Nó sẽ vác một bó đuốc đi vòng quanh đêm đen, để ngày mai thắp lên phía đông một ngọn lửa mới”. Đoạn văn này cũng dễ làm cho người đọc liên tưởng đến hoạt động thường ngày của thần mặt trời trong các truyện thần thoại xa xưa.
Rõ ràng là tác giả muốn nói đến hiện thực chiến tranh, nó khốc liệt đến nỗi làm xáo động cả trời cao. Lòng căm thù ngút trời và muôn dân đang chờ đợi một ngày mai tươi sáng: “Mặt trời không nhẫn nhục được với mây mù đã chín bầm trên đỉnh núi phía tây (….) mặt trời bị táng trong đám mây cả ngày, tức giận đốt cháy lung tung. Nó sẽ vác một bó đuốc đi vòng quanh đêm đen, để ngày mai thắp lên phía đông một ngọn lửa mới”. Đoạn văn này cũng dễ làm cho người đọc liên tưởng đến hoạt động thường ngày của thần mặt trời trong các truyện thần thoại xa xưa.
Trong tiểu thuyết “Dưới đám
mây màu cánh vạc”, ta cũng bắt gặp những con vật biết ăn nói giống như con người.
Trong thế giới cổ tích đó , con chó cũng biết nói:”mau mau”để giục người chạy
trốn, con mèo cũng biết hỏi “sao sao ?” và biết đeo túi cá trên cổ để đi làm
liên lạc tiếp tế cho du kích. Con trâu biết mỉa mai châm chọc “ngá ẹ” và biết dạ
thưa “Ngá ..ạ”. Còn những con còng biển giống như quân lính:”Lũ còng thấy bóng
lão tiến đến đâu, chúng rẽ ra đến đấy, đứng hai bên thành hai hàng rào danh dự
gương những cái càng nhọn như súng lắp lê tua tủa”. Trong thế giới loài vật ở
đây, đông nhất là quạ, “bầy quạ bay đen kịt giống như những mảnh đêm đen nát vụng
trên bãi cát”. Xung quanh hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra, dân số loài người ngày
càng giảm, dân số loài quạ ngày càng tăng. Chúng là hiện thân cho sự chết chóc,
chúng ăn thịt người nhiều đến mức thành nghiện “lũ quạ lại vào làng kêu vang
đòi thịt”. Nhiều con rất quái dị “đôi mắt đỏ như máu, đầu nó trọc lóc”. Khi cướp
được thức ăn, chúng cũng biết “cười khà khà” nghe rất rùng rợn “và cả một “phân
đội” quạ bay theo như để “hộ tống” chiếc lạp xường đó bay vào hoàng hôn”. Có một
con vật xứng đáng để được gọi là “nhân vật” của truyện là
con chó Sác. Bởi lẽ , tác giả miêu tả nó có một lai lịch đầy đủ như con người.
Mẹ gốc Phi-líp-pin, cha gốc Mỹ, sinh trưởng ở Ca-li-phóc-ni-a. Trình độ học vấn:
tốt nghiệp trường đào tạo chó của cục tình báo CIA. Nó được đưa sang
Việt Nam với sứ mệnh tiêu diệt cộng sản. Sau “chiến công” phát hiện hai cái hầm
giấu vũ khí của du kích “con Sác được phong hàm thiếu uý”. Về tính cách cá
nhân, con Sác thích hút thuốc lá Sa lem loại hảo hạng và cảm thấy “tự ái” nếu
không được mời thuốc. Sau khi táp được điếu rơi từ trên cao xuống một cách điệu
nghệ, “nó để điếu thuốc bên mép trông như một tay nghiện sành sỏi, đểu giả”. Nó
biết “phì khói ra đằng mũi” và phả khói thuốc vào mặt bọn lính. Nhược điểm của
con Sác là khinh người :”khi đi nó vênh mặt lên trời (…) mắt nó nhìn lúc nào
cũng vênh váo, kẻ cả (…) nó đưa chân trước cho tụi lính bắt một cách trịnh trọng”.
Nó cũng có lần suýt bị kỷ luật vì đã táp vào tay lão Ó-bốn-hoa trong khi tên
này mò sang rờ rẫm mụ Cửu Xéo mà trong đêm đó con Sác đang ngủ chung với mụ Cửu
Xéo trên gường. Rõ ràng, đây không phải là một con chó bình thường mà là một
con quái vật. Nhiều hành vi của nó không khỏi làm cho người đọc rùng mình.
Ở trên, ta đã gặp những vật
mang tính người, dưới đây ta sẽ gặp nhiều người mang tính vật. Trước tiên, thể
hiện ở tên gọi các nhân vật: tên Ó-đen, lão Ó-bốn- hoa, con ác-là, thằng Con
Sóc, thượng sĩ Roi cá đuối, mụ Cua-sáng -trăng, Hoàng-cò-sếu,Tự-trâu-trắng… Đến
những cái tên nếu không mang hình ảnh con vật thì cũng kỳ dị: Tư Quéo, Lưu
Vong, mụ Cửu Xéo, mụ Khờ Thứ … Ngôn ngữ cũng lạ, người Việt này nói mà người Việt
kia không hiểu:”Hân-lai, ân-lem, chận-lay nhân-lanh, bấn lao tân-linh chân- lo
ân lanh Phất-lung…”. Hình dạng con người cũng quái dị, trước hết phải kể đến
lão gù “ngồi thu lu như con chàng hiu trên giàn trầu. Mắt lồi ra”. Còn lão thầy
thuốc hành nghề mê tín thì giống như một phù thuỷ: “Hai bàn tay trắng, cổ chân
cũng trắng, còn lại thì đen tuyền”. Trong đám ma, “lão Dòn giống như một cây đuốc
đỏ rực từ chân đến ngọn”. Dưới con mắt kỳ thị của sĩ quan Mỹ, lão Ó- bốn- hoa
“giống như con vượn mới chuyển từ lượm hái sang săn bắn”. Nhiều con người cũng
không hoàn mỹ: kẻ chột, người đui, kẻ què, người điếc, không mang cái bướu to
tướng ở cổ thì cũng gù còm, không hói trọc thì cũng vàng tóc như quỷ. Có khi ta
gặp “một bà già chỉ còn nửa cái đầu” hoặc một bàn tay người nằm trong miệng
chó. Một cái xác cũng biết cử động:”tay mụ nắm một cái chân. Mụ kéo mạnh, cái
xác bật lên khỏi cát. Cái xác không ngã xuống mà lại dựng đứng lên máu đỏ rực
như một cây cột lửa”. Các nhân vật thường hoạt động trong bóng tối, ta chỉ nghe
thấy tiếng mà không thấy hình, hoặc thấy hình mà không rõ là ai. Như lúc mụ Cửu
Xéo đang ngủ thì “trong bóng tối mọc ra một bàn tay xương xẩu sờ vào ngực mụ”.
Nhiều khi nghe tiếng nói của nhân vật nhưng không rõ nhân vật ấy còn sống hay
đã chết như tiếng của Tư Quéo gọi chỉ chỗ cho du kích bắt tên Đạm. Và hành động
của nhân vật cũng lạ thường,khó tin :”máu đông một cục trên tóc. Nó vất cục máu
xuống đất và như một người điên, nó giơ hai bàn tay chùi vào ánh trăng (…) ánh
trăng như vấy máu từ hai bàn tay nó, đỏ choé”. Tác phẩm lặp đi lặp lại rất nhiều
các hình tượng ma quỷ , thánh thần… phản ánh lòng tin của các nhân vật vào sự
hiện hữu của các thế lực siêu nhiên. Hễ ai tin có ma thì ma hiện lên trước mắt
họ: “hai bóng đen ngồi xuống ngạch cửa (…)mụ vừa gọi được cái hồn của con mụ về,
ai ngờ quỷ sứ đã kéo đến đầy cửa (…). Hai con quỷ đặt bút cho con mụ ký vào tờ
trát đòi của Diêm vương (…)Hai con quỷ bước ra ngoài sân, ngửa mặt nhìn trời cười,
răng trắng loá”
Hình tượng trung tâm của tác
phẩm là “con quỷ tóc vàng”. Suốt từ đầu chí cuối tác phẩm, các nhân vật lẫn bạn
đọc đều băn khoăn tự hỏi: con quỷ tóc vàng là ai mà nó làm nên bao chuyện động
trời? Trước hết, người ta tin đó là mụ Khờ Thứ. Lúc còn sống, mụ là một người
đàn bà điên, ăn mặc dơ bẩn, thường ôm bọc giẻ rách và hát những lời ai oán ru đứa
con tưởng tượng. Mụ thường đi ăn đêm, “ Cả người mụ thường chập choạng vào những
đêm trăng có quầng. Xung quanh mụ vàng rực một màu. Có người gọi mụ là con quỷ
tóc vàng “. Điều quái lạ nhất là cái chết của mụ đã gây nên bao nhiêu tai hoạ
khôn lường . “Những con quạ rỉa xác mụ, con nào cũng vàng cả lông”. Tiếp theo
là “lưng lão Mãn gù xuống. Người ta nói mụ đã rút mấy đốt xương sườn của lão” .
Và “bệnh chấy rận đã lan khắp làng” thành ra “làng trọc”. Cho rằng hồn ma mụ rất
thiêng nên làng phải xây miếu thờ (cái miếu đó là địa danh được nhắc tới nhiều
nhất trong tác phẩm vì là nơi lui tới thường xuyên của du kích). Cả làng phải uống
thuốc thánh, nhờ đó mà họ thoát nạn, “Tóc Tâm xanh lại và trên mộ những người
chết cỏ cũng bắt đầu xanh.” Những câu chuyện ma rùng rợn như thế này ta cũng
thường nghe đồn trong dân gian. Và người ta thích nghe những câu chuyện hoang
đường đó bởi lẽ nó mở ra một thế giới bao la và đủ sắc màu để trí tưởng tượng
tha hồ bay bổng tìm điều lạ.” Thật là một nghịch lý! Chính cái điều không đáng
để ta chú ý tới chỉ vì là chuyện huyền hoặc thì lại là mê hoặc được ta”
(L.Vax).
Câu chuyện về mụ Khờ Thứ chỉ
là một chi tiết nhỏ nhưng tác giả đã dùng nó để triển khai hàng loạt các sự kiện
chính của tác phẩm. Dường như hồn của” con quỷ tóc vàng” vẫn còn lẩn vất ở cõi
dương nên luôn gây sự xôn xao trong dư luận dân chúng. Đây là một lần nó xuất
hiện ở nhà mụ Chín Chè “ Một cái bóng đen vừa mới lách vào đứng bên giường mụ .
Mụ giật thót mình. Một tiếng sét đánh ở góc vườn, khét lẹt (…) con
ma đứng sững tóc rũ rượi, mình mẩy nó choàng một thứ giẻ rách mướp như làm bằng
cánh con dơi. Mụ nghe như trên mái tôn nhà mụ có muôn nghìn con quỷ đương nhảy
câng cẫng (…) một bàn tay ướt lạnh đầy nhớt giơ ra nắm vào cổ tay mụ “. Một lần
khác,lão gù cũng nhìn thấy con quỷ tóc vàng lấy đồ cúng và hiện lên ở bàn thờ
nhà lão: “Mụ Khờ Thứ chứ còn ai nữa” . Mọi người đều tin như vậy . Nhưng điều lạ
nhất là con quỷ tóc vàng này cứ thích tham dự vào các sự kiện chính trị, như lời
tên Con Sóc nhận định: “cái con quỷ tóc vàng thường nổ súng trên bãi cát đêm
đêm,kêu hú trong giấc ngủ những người lính chúng ta (…) Việc xe tăng của ngài Lếch
bị ăn mìn . Việc các ngài Ó đen đi khui hầm bị ăn hàng loạt mìn Mo kia không
dính díu đến “ con quỷ tóc vàng” kia là gì”. Không chỉ dân chúng địa phương và
các binh sĩ Việt Nam cộng hoà tin rằng có con quỷ tóc vàng mà ngay cả sĩ quan Mỹ
cũng tin điều đó. Trong thư gởi Râu giơ, Lếch kể lại câu chuyện về đội xe tăng
của hắn bị phục kích như sau : “Nghe một tiếng thét rất lạ, tớ nghiêng mặt lại
nhìn thì chao ôi : một con quỷ tóc vàng - Lạy chúa, tớ không tin là mắt tớ bị
hoa đâu. Đầu tóc nó vàng rực, quần áo nó rách bươm-một thứ giẻ rách thì đúng
hơn. Nó cầm một cây tiểu liên cũng rách nát như nó, quạt không thương xót vào
những tên lính đang bò lổn ngổn trên mặt cát (…). Trong buổi chiều nhợt nhạt của
hoả châu và cát xám lạnh, con quỷ ấy cứ hiện ra trên các ngọn cây”. Lần cuối
cùng “con quỷ tóc vàng” xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là “quỷ” là để chỉ
huy “Đảng khăn xô” đấu tranh chính trị. Mụ Cửu Xéo đương hăng hái dẫn đầu đoàn
biểu tình thì “Trước mặt mụ, một con quỷ tóc vàng ở đâu từ dưới cát trồi lên
hay trên trời rơi xuống, mụ không biết (…)”con quỷ tóc vàng” đưa tay chỉ mụ đi
về phía nhà thờ Mỹ Thuỷ (….) con quỷ ấy nói được tiếng người, nó bắt tay lên miệng
kêu gào về phía Ngàn Khơi” (để kêu gọi anh em binh sĩ cộng hoà ủng hộ nhân dân)
Thu Bồn luôn đặt bạn đọc vào
tâm thế hồi hộp và buộc họ phải đọc kỹ từng câu, thậm chí đọc đi đọc lại để tìm
chứng cớ trả lời cho câu hỏi: con quỷ tóc vàng xuất hiện trên cõi dương đó là mụ
Khờ Thứ hay một cô du kích? “Viết một cách thông minh là không nói hết mà để
cho người đọc tự nói với mình “ (Phơ bách). Trên cơ sở liên hội ngữ nghĩa, bạn
đọc có thể đoán ra “con quỷ tóc vàng” là Tâm, người chỉ huy đội du kích địa
phương.
Và giả thuyết này được khẳng định chắc chắn hơn khi cuối tác phẩm có đoạn viết: ” Tâm đưa tay vén lại mái tóc. Mái tóc cộc lốc vàng rực xù ra quanh đầu như bờm một con sư tử (…). Gió ơi! Sao gió không kéo cho mái tóc Tâm dài ra và óng mượt như những năm xưa”. Do hiện thực cuộc chiến đấu khắc nghiệt mà mái tóc cô chuyển sang màu vàng. Nhưng cũng nhờ đó mà làm cho kẻ thù khiếp sợ và đánh lạc hướng dư luận vì mọi người tin đó là hồn bóng của mụ Khờ Thứ. Và cũng bởi vì hành động phi thường của đội du kích, ban ngày dưới lòng đất, ban đêm hiện lên thoắt ẩn, thoắt hiện, xuất quỷ nhập thần như ma. Việc cho một nhân vật nữ du kích đội lốt một con quỷ tóc vàng là một biện pháp nghệ thuật độc đáo, có một không hai. Sở dĩ tác giả được phép tung hoành ngòi bút và khai thác đến kiệt cùng thế giới kỳ ảo là bởi vì điều này tỏ ra thích hợp với tín ngưỡng của các nhân vật trong tác phẩm. Chính tín ngưỡng dân gian là hạt giống tốt để làm nảy sinh chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo trong văn học Mỹ Latinh. Nhưng không phải vì dung nạp những yếu tố hư ảo mà tác phẩm kém đi tính chân thực. Nhà văn G.G.Máckét, tác giả của “Trăm năm cô đơn” cho rằng: “Cái gọi là văn chương kỳ diệu Mỹ Latinh - nó có lẽ là văn chương hiện thực nhất thế giới”[4, tr.343]. Bởi vì nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo là: “biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thực” [3, tr.53]. . Và thực vậy, đọc “Dưới đám mây màu cánh vạc” người đọc sẽ nhận ra rằng đây là cuốn tiểu thuyết miêu tả chân thật nhất hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ so với hàng trăm quyển tiểu thuyết khác cùng thời.
Và giả thuyết này được khẳng định chắc chắn hơn khi cuối tác phẩm có đoạn viết: ” Tâm đưa tay vén lại mái tóc. Mái tóc cộc lốc vàng rực xù ra quanh đầu như bờm một con sư tử (…). Gió ơi! Sao gió không kéo cho mái tóc Tâm dài ra và óng mượt như những năm xưa”. Do hiện thực cuộc chiến đấu khắc nghiệt mà mái tóc cô chuyển sang màu vàng. Nhưng cũng nhờ đó mà làm cho kẻ thù khiếp sợ và đánh lạc hướng dư luận vì mọi người tin đó là hồn bóng của mụ Khờ Thứ. Và cũng bởi vì hành động phi thường của đội du kích, ban ngày dưới lòng đất, ban đêm hiện lên thoắt ẩn, thoắt hiện, xuất quỷ nhập thần như ma. Việc cho một nhân vật nữ du kích đội lốt một con quỷ tóc vàng là một biện pháp nghệ thuật độc đáo, có một không hai. Sở dĩ tác giả được phép tung hoành ngòi bút và khai thác đến kiệt cùng thế giới kỳ ảo là bởi vì điều này tỏ ra thích hợp với tín ngưỡng của các nhân vật trong tác phẩm. Chính tín ngưỡng dân gian là hạt giống tốt để làm nảy sinh chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo trong văn học Mỹ Latinh. Nhưng không phải vì dung nạp những yếu tố hư ảo mà tác phẩm kém đi tính chân thực. Nhà văn G.G.Máckét, tác giả của “Trăm năm cô đơn” cho rằng: “Cái gọi là văn chương kỳ diệu Mỹ Latinh - nó có lẽ là văn chương hiện thực nhất thế giới”[4, tr.343]. Bởi vì nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo là: “biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thực” [3, tr.53]. . Và thực vậy, đọc “Dưới đám mây màu cánh vạc” người đọc sẽ nhận ra rằng đây là cuốn tiểu thuyết miêu tả chân thật nhất hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ so với hàng trăm quyển tiểu thuyết khác cùng thời.
Tiểu thuyết “Dưới đám mây
màu cánh vạc” thành công trên rất nhiều phương diện: nghệ thuật trào phúng,
ngôn ngữ đa thanh, cách xây dựng nhân vật độc đáo, giá trị hiện thực cao… Nhưng
chỉ xét riêng một phương diện nhỏ là yếu tố kỳ ảo thôi, ta cũng thấy được tầm
vóc nghệ thuật của Thu Bồn. Tác phẩm này đã thực sự tạo ra được một diện mạo
riêng độc đáo không thể lẫn lộn với tác phẩm nào khác. Rồi thời gian sẽ tiếp tục
sàng lọc để giữ lại những tác phẩm có giá trị nghệ thuật đích thực. Nhưng chúng
ta có cơ sở tin tưởng rằng “Dưới đám mây màu cánh vạc” (cũng như bút pháp hiện
thực kỳ ảo) sẽ khẳng định được sức sống mạnh mẽ trong tương lai và sẽ làm vinh
dự cho tiểu thuyết cách mạng Việt Nam.
Tiểu thuyết “Dưới đám mây
màu cánh vạc” của Thu Bồn, viết trong khoảng thời gian 1972-1973.
NXB Thanh Niên,1975/1977.
NXB Quân đội nhân dân, 2003. NXB Văn học, 2008, trong Tổng tập Văn học Việt nam
Thế kỷ XX.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét