Tại Pari, trong kỳ họp thứ
37 ngày 25 tháng 10 năm 2013, UNESCO đã quyết định cùng với Việt Nam sẽ kỷ niệm
250 năm ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du vào năm 2015. Như vậy, Đại thi
hào Nguyễn Du của chúng ta đã trở thành “Danh nhân văn hóa thế giới” như Nguyễn
Trãi (năm 1980) và Hồ Chí Minh (năm 1990). Đó không chỉ là tin vui, mà là niềm
tự hào của mọi người dân Việt Nam, đặc biệt đối với những người say mê Truyện
Kiều và các tác phẩm khác của Nguyễn Du.
Chúng ta biết rằng, những
nhà thơ, nhà văn lớn thường làm giàu thêm ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người
nói rằng Gớt (Goethe) đã tạo ra một nửa thành ngữ của Đức, không biết đó là
con số chính xác hay là lối nói thậm xưng để nêu vai trò của Gớt trong ngôn
ngữ nước Đức. Còn đối với đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta, không những Cụ
đã sử dụng các thành ngữ, tục ngữ… một cách tài tình mà còn sáng tạo ra nhiều
thành ngữ mới. Bên cạnh đó, nhiều từ trong tiếng Việt được mở rộng thêm nghĩa
khi qua bàn tay Cụ. Không thể thống kê hết những từ như vậy, chúng ta chỉ đơn
cử một vài ví dụ để minh chứng điều đó.
Theo “Từ điển Tiếng Việt”,
chữ NỖI có hai ý. Thứ nhất là chỉ sự tình, sự thể không hay xẩy ra, nói về mặt
tác động đến tình cảm của con người như “nỗi bất công”, “nỗi oan ức”. Thứ
hai, là từ dùng để chỉ tâm trạng, tình cảm cụ thể (thường vào loại không được
như ý muốn) mà con người phải trải qua, ví dụ như “nỗi buồn, nỗi nhớ”…
Để xem Đại thi hào Nguyễn
Du đã sử dụng chữ NỖI như thế nào, trước hết ta thống kê những câu thơ có chữ
NỖI trong Truyện Kiều:
Câu 109: Nỗi niềm
tưởng đến mà đau
Câu 178: Rộn đường
gần với nỗi xa bời bời
Câu 221: Nỗi
riêng lớp lớp sóng dồi
Câu 242: Nỗi
riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Câu 246: Nỗi
nàng canh cánh bên lòng biếng khuây
Câu 535: Mảng
tin xiết nỗi kinh hoàng
Câu 537: Gót đầu
mọi nỗi đinh ninh
Câu 538: Nỗi
nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi
Câu 633 Nỗi
mình thêm tức nỗi nhà
Câu 711: Nỗi
riêng riêng những bàn hoàn
Câu 718: Nỗi
riêng còn mắc mối tình chi đây
Câu 765: Nỗi
nàng, Vân mới rỉ tai
Câu 777: Xiết
bao kể nỗi thảm sầu
Câu 852: Phần
căm nỗi khách, phần nhơ nỗi mình
Câu 863: Nỗi
mình âu cũng giãn dần
Câu 987: Nỗi
oan vỡ lở xa gần
Câu 1015: Kề
tai mấy nỗi nằn nì
Câu1082: Nỗi
nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài
Câu 1208: Nỗi
đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung
Câu 1220: Nước
đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe
Câu 1250: Ngản
ngơ trăm nỗi dùi mài một thân
Câu 1251: Nỗi
lòng đòi đoạn xa gần
Câu 1318: Nỗi
quê còn một hai điều ngang ngang
Câu 1444: Để
nàng cho đến nỗi này vì tôi
Câu 1464: Thôi
thì dẹp nỗi bất bình là xong
Câu 1527: Kể
chi những nỗi dọc đường
Câu 1528: Buồng
trong này nỗi chủ trương ở nhà
Câu 1635: Thân
sao lắm nỗi bất bằng
Câu 1640: Nỗi lòng khấn chửa
cạn lời vân vân
Câu 1760: Nỗi
lòng luống những bàn hoàn niềm tây
Câu 1790: Nỗi gần
nào biết đường xa thế nào
Câu 1853: Nỗi
lòng kín chẳng ai hay
Câu 1870: Nỗi
lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng
Câu 1872: Nỗi
lòng ai ở trong lòng mà ra
Câu 1888: Phải
chi mình lại xót xa nỗi mình
Câu 1904: Hữu
tài thương nỗi vô duyên lạ đời
Câu 1943: Sụt
sùi giở nỗi đoạn trường
Câu 2000: Nỗi
ông vật vã, nỗi nàng thở than
Câu 2006: Nghĩ
mà thêm nỗi sởn gai rụng rời
Câu 2069: Nghĩ
rằng khôn nỗi giấu mình
Câu 2246: Đường
kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời
Câu 2739: Nỗi
nàng tai nạn đã đầy
Câu 2740: Nỗi chàng Kim Trọng
bấy chầy càng thương
Câu 2754: Nỗi
niềm tâm sự bây giờ hỏi ai
Câu 2770: Càng
ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường
Câu 2776: Chàng
ôi biết nỗi nước này cho chưa?
Câu 1782: Cực
trăm ngàn nỗi, dặn ba bốn lần
Câu 2799: Thấy
chàng đau nỗi biệt ly
Câu 2812: Để
cho đến nỗi trôi hoa, giạt bèo
Câu 2819: Nỗi
thương nói chẳng hết lời
Câu 2847: Nỗi
nàng nhớ đến bao giờ
Câu 2868: Nỗi
nàng càng nghĩ xa gần càng thương
Câu 2915: Nỗi
nàng hỏi hết phân minh
Câu 3027: Nỗi mừng
biết lấy gì cân
Câu 3102: Đã
xong thân thế còn toan nỗi nào
Câu 3140: Bi
hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao
Như vậy, chúng ta đã thống
kê được 56 câu thơ trong Truyện Kiều có chữ “nỗi” tham gia. Trừ hai lần “nỗi”
kết hợp với “niềm” để thành để thành danh từ “nỗi niềm”, còn ở 54 câu còn lại,
ta xem Đại thi hào đã sử dụng chữ này như thế nào.
Như “Từ điển tiếng Việt”
đã định nghĩa ở trên, cũng như theo thói quen thông thường của chúng ta, chữ
“nỗi” thường được kết hợp với một tính từ để tạo thành danh từ như “nỗi đau”,
“nỗi khổ”, “nỗi buồn”, “nỗi oan ức”, “nỗi bất công”… Trong Truyện Kiều, sự kết
hợp này khá phổ biến, đó là “nỗi kinh hoàng” (câu 535), “nỗi thảm sầu” (câu
777), “nỗi oan” (987), “nỗi bất bình” (1464), “nỗi bất bằng” (1635), “nỗi biệt
ly” (2799)… Bên cạnh đó, là sự kết hợp khá quen thuộc với chúng ta hôm nay
như “nỗi lòng” (1640, 1760, 1853, 1872)… Còn phần lớn trong Truyện Kiều, Nguyễn
Du sử dụng chữ nỗi thật mới mẻ, mới mẻ đến nỗi cho đến ngày nay, sau khi Truyện
Kiều đã được sáng tác trên 200 năm, chúng ta vẫn chưa mấy ai dám sử dụng chữ
này như Cụ.
Trước hết là chữ “nỗi” đứng
độc lập, không kết hợp với một tính từ hay danh từ nào để có một ý nghĩa cụ
thể, mà Cụ dành phần đó cho người đọc suy nghĩ mà hiểu lấy. Đó là “gót đầu mọi
nỗi đinh ninh”, là khi chàng Kim nghe tin chú mất, tìm tới để than vãn với
nàng Kiều. Tác giả không nói cụ thể Kim Trọng tâm sự những gì, mà chỉ dùng
hai chữ “mọi nỗi”, chữ “nỗi” ở đây hàm ý những “chuyện” của nỗi lòng. Khi mụ
Tú Bà khuyên giãi nàng Kiều sau khi nàng toan tự tử ở lầu xanh, Nguyễn Du viết:
“Kề tai mấy nỗi nằn nì” thì không ai hiểu đây là “nỗi nằn nì”, mà tác giả muốn
nói mụ Tú ra vẻ nói thật lòng, đưa ra bao nhiêu chuyện để nằn nì, khuyên giải
Thúy Kiều. Rồi “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe”, và “Cực trăm
ngàn nỗi dặn ba bốn lần”…thì chữ “nỗi” cũng theo nghĩa “tổng quát” này.
Không biết thời cụ Nguyễn
Du về trước đã ai đem kết hợp chữ “nỗi” với một đại từ nhân xưng như trong
Truyện Kiều hay chưa, điều mà ngày nay chúng ta ít thấy trên thi đàn. Đó là
“nỗi nàng” (2006, 2739, 2847, 2868, 2915) , “nỗi chàng” (2740), “nỗi ông”
(2606), “nỗi mình” (538, 633, 852…) …Cách dùng này hiệu quả và mới mẻ ngay cả
thế kỷ 21 này.
Nguyễn Du mạnh dạn kết hợp
chữ “nỗi” với một danh từ chỉ thời gian như “nỗi đêm”, “nỗi ngày” (1208) làm
cho ý nghĩa chữ “nỗi” được mở rộng ra, gợi người đọc suy nghĩ, liên tưởng. Rồi
“nỗi riêng”, nỗi “gần” và bao nhiêu “nỗi” khác nữa.
Trong Truyện Kiều có hai
câu thơ tác giả dùng chữ “nỗi”, theo tôi, là “táo bạo” nhất:
Kể chi những nỗi dọc đường
(1527)
Buồng trong này nỗi chủ
trương ở nhà (1528)
Đây là hai câu thơ chuyển
đoạn từ việc nói Thúy Kiều để bắt đầu nói về Hoạn Thư. “Nỗi chủ trương ở nhà”
là nói Thúc Sinh đã có người vợ chính thức ở nhà thì ai cũng hiểu, còn “nỗi dọc
đường” là gì? Trong một chuyến đi công tác, ngồi trên xe có nhiều nhà thơ,
khi nhắc hai câu thơ này thì nhà thơ Bằng Việt và Trần Đăng Thao hiểu rằng “nỗi
dọc đường” đây là nói chuyện đi đường của Thúc Sinh. Tôi lại không hiểu như
thế. Nếu chỉ nói chuyện đi đường thôi, thì Nguyễn Du sẽ không dùng chữ “nỗi”
mà dùng chữ “chuyện”: chuyện dọc đường. Trong Truyện Kiều, chữ “nỗi” thường ẩn
chứa ý nghĩa sâu xa hơn là “chuyện”. Vậy “nỗi dọc đường” là gì? Theo tôi, “nỗi
dọc đường” của Thúc sinh chính là Thúy Kiều, dù có hôn nhân nhưng khác xa sự
hôn nhân với Hoạn Thư. Câu chuyển đoạn này nói theo ý nghĩ của Thúc Sinh, coi
Hoạn Thư là quan trọng. Như thế thì mới có sự cân xứng giữa “nỗi dọc đường”
và “nỗi chủ trương ở nhà”. Nếu vậy, chính Nguyễn Du đã sáng tạo ba chữ “nỗi dọc
đường” để nói chuyện tình tang ngoài vợ của các đấng nam nhi. Hiện đại biết
chừng nào!
Bên cạnh chữ “nỗi’ tôi đã
trình bày, các bạn có thể khảo sát chữ ‘khuôn” và bao chữ khác trong Truyện
Kiều để thấy Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc, một Danh nhân Văn hóa thế giới,
đã làm cho ngôn ngữ chúng ta giàu thêm biết bao!.
Nguồn vanvn.net
Theo http://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét