Tìm hiểu tiến trình ra đời của Kalêvala (Phần Lan) và việc
biên soạn sử thi Con cháu Mon Mân (Việt Nam) [1]
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, bên cạnh hai loại sử thi
đã được biết đến là sử thi miệng (oral epic) và sử thi viết (written epic) các
chuyên gia nghiên cứu sử thi ở Phần Lan, nơi có truyền thống nghiên cứu sử
thi nổi tiếng thế giới,đã đưa ra một thể loại sử thi mới là sử thi truyền thống
(tradition-oriented epic), dựa vào sự ra đời và hình thức tồn tại của các sử
thi. Lauri Honko [2], một trong những nhà nghiên cứu sử thi nổi tiếng nhất của
Phần Lan đương đại, đã xác định các loại sử thi như sau:
Nơi ra đời và hình thức tồn tại của sử thi miệng là bài ca
đang được hát, bài diễn xướng đầy tính tự sự được tiến triển theo các quy tắc
của truyền thống, dựa vào ngôn ngữ và trí nhớ. Sử thi loại này không có hình
thức cố định. Trong thời gian tồn tại của mình, nó là văn học truyền miệng.
Hình thức tồn tại của sử thi viết là văn bản đã được nhà thơ một lần sáng tác
ra, và không ai được thay đổi Còn sử thi truyền thống là tác phẩm xê dịch
giữa văn học thành văn và văn học truyền miệng, vì sử thi loại này ra đời dựa
vào nguồn tư liệu của văn học truyền miệng, nhưng lại có hình thức viết cố định.
Sự khác biệt giữa sử thi miệng và sử thi truyền thống là
quá trình biên tập và xử lý tư liệu. Tham gia quá trình này có nghệ nhân cung
cấp tư liệu, người sưu tập tư liệu và người hoàn chỉnh chúng. Theo nghĩa rộng
hơn, đây chính là quá trình tái tạo văn bản. Kết quả là: sử thi luôn thay đổi
tự do trong văn học truyền miệng được ghi lại thành văn bản, mà theo suy nghĩ
của người biên tập và nhà xuất bản là rất tiêu biểu, nên được đưa vào danh mục
văn học sử thi thế giới. Ấn phẩm được xuất bản này là sử thi miệng, hay sử
thi truyền thống tuỳ thuộc vào việc nó được biên tập như thế nào, và quan trọng
hơn cả, nó có phản ánh trung thực bài diễn xướng hay không. Bởi vì biên tập một
sử thi miệng thành sách là công việc khó khăn. Và bởi vì việc biên tập này gắn
với những mục đích rất xa lạ với văn hoá truyền miệng, nên kết quả nhiều khi
là những thoả hiệp và giải pháp khác nhau. Giải pháp hoặc thoả hiệp tồi
sẽ làm hỏng cả một bài diễn xướng.
Khó có thể gọi sử thi của Home là sử thi truyền miệng, mặc
dù nhiều học giả muốn làm điều đó. Trái lại, chúng phải được xếp vào loại sử
thi truyền thống cùng với Kalêvala, và hầu hết các sử thi lớn ở châu Âu như
Beowulf, La Chanson de Roland, Niebelungienlied…
Điều khác biệt rõ rệt nhất về mặt nguyên tắc giữa sử thi
truyền thống và sử thi viết là: đối với nhà thơ - tác giả của sử thi viết,
các sản phẩm của văn học dân gian đều là nguồn tư liệu có thể thay đổi tuỳ
theo cảm hứng của tác giả. Nguồn tư liệu này không hề gây khó khăn cho tác giả.
Chúng có thể thay đổi theo cách hiểu của ông/bà. Tác giả là chủ nhân của cốt
truyện cũng như các hình ảnh trong tác phẩm của mình. Người biên soạn sử thi
truyền thống lại có hoàn cảnh hoàn toàn khác. Ví dụ như trong trường hợp của
Elias Lönnrot: Ngòi bút của ông đã viết các câu thơ, các khúc đoạn mà chính bản
thân ông cũng không thật sự hiểu hết. Sức mạnh của bài diễn xướng, hình ảnh
và khái niệm của thơ ca dân gian, thần thoại và nghi lễ vẫn luôn chứa đầy bí ẩn,
ngay cả khi đã được in lên giấy…[3]
Quan niệm và cách phân loại trên đây của các học giả Phần
Lan được đúc kết từ quá trình nghiên cứu sự ra đời của các sử thi trên thế giới,
đặc biệt là sử thi Kalêvala.
Nói đến Kalêvala, nhiều người thường nghĩ đến một sử thi có
duy nhất một văn bản với gần hai mươi ba nghìn câu thơ, được tái tạo lại từ
“mảnh vụn” của một sử thi cổ sơ, đã tan vỡ theo thời gian. Nhưng kỳ thực
không phải vậy. Lönnrot không hồi sinh lại sử thi cổ, mà ông sáng tạo nên
Kalêvala từ nguồn văn học dân gian Phần Lan và Karêlia. Cũng ít người được biết,
trước và sau văn bản Kalêvala ra đời năm 1849 (phiên bản được biết đến nhiều
nhất hiện nay), còn có bốn văn bản khác. Các nhà nghiên cứu sử thi Phần Lan
coi tất cả các văn bản này như năm lần “diễn xướng” của tiến trình Kalêvala.
Các văn bản đó là:
·Sikermä-Kalevala (Chùm thơ Kalêvala) gồm ba truyện thơ dài
Väinämöinen (Vaynemuênên) gồm 1867 câu thơ, Lemminkäinen (Lêminkaynên) gồm
825 câu thơ, và Naimakansan virsiä (Thơ đám cưới) gồm 499 câu thơ, được hoàn
thành năm 1833.
·Runokokous Väinämöisestä (Chùm thơ về Vaynemuênên) gồm mười
sáu ca khúc, 5052 câu thơ, cũng được hoàn thành năm 1833. Ở văn bản này
Lönnrot không chia tư liệu mình sưu tầm được thành các chùm thơ riêng biệt,
mà lấy các tình tiết xoay quanh Sampo làm cốt truyện chính, rồi lắp ghép các
bài thơ và dị bản lại, tạo nên một tác phẩm duy nhất. Vì cấu trúc của Chùm
thơ về Vaynemuênên đã mang nhiều nét chính của Kalêvala sau này, nên nó còn
có tên khác là Alku-Kalevala (Khúc dạo đầuKalêvala).
·Kalewala taikka Wanhoja Karjalan Runoja Suomen kansan
muinoisista ajoista (Kalêvala hay những bài thơ cổ vùng Karêlia về thời kỳ xa
xưa của dân tộc Phần Lan) có ba mươi hai ca khúc, 12 078 câu thơ, xuất bản
năm 1835. Tác phẩm này được gọi là Vanha Kalevala (Kalêvala Cũ), để phân biệt
với bản Kalêvala được xuất bản mười lăm năm sau.
Kalêvala Cũlà một tác phẩm thơ hoàn chỉnh, được biên soạn từ
nhiều nguồn tư liệu dân gian, chứ không phải là tuyển tập các bài thơ ca dân
gian, như tiêu đề khiêm tốn của tác phẩm. Cấu trúc chính của Kalêvala dựa vào
“bộ khung” của Chùm thơ về Vaynemuênên. Nhân tố quan trọng nhất tạo nên sự
hoàn chỉnh cho sử thi chính là việc tạo ra hai dân tộc đối địch Kalêvala và
Pôhiôla, và cuộc chiến giữa hai dân tộc này nhằm sở hữu cối thần Sampô. Những
phần miêu tả ngắn trong Chùm thơ về Vaynemuênên được Lönnrot mở rộng, bằng
cách thêm vào các khúc đoạn tự sự, các bài ca trữ tình mới và các câu thần
chú.
· , toinen painos (Kalêvala, bản thứ hai) được xuất bản năm
1849 và được đời sau gọi là Uusi Kalevala - Kalêvala Mới. Tác phẩm được chia
thành năm mươi ca khúc với 22 795 câu thơ.
Trong vòng mười lăm năm giữa hai Kalêvala, Lönnrot cùng các
cộng sự sưu tập được thêm gần 130 000 câu thơ. Giờ đây, vốn thơ ca dân gian của
ông lớn hơn gấp nhiều lần so với vốn thơ ca của bất cứ nghệ nhân dân gian
nào. Dựa vào vốn thơ ca đó, ông xây dựng thêm các tình tiết, cấu trúc mới,
kéo dài hoặc cắt ngắn các hồi, đoạn, kết hợp bài thơ và chủ đề của chúng
thành một tổng thể dài hơn. Kalêvala Mới, với dung lượng gần gấp đôi Kalêvala
Cũ, đã không còn giữ được tính dân gian nhiều như trong Kalêvala Cũ.
· Kalevala, lyhennetty laitos (Kalêvala, bản rút gọn) được
xuất bản năm 1862. Lönnrot đã rút ngắn Kalêvala Mới, và thêm lời chú giải để
đưa sử thi này vào sử dụng trong trường học. Chính vì vậy đời sau gọi phiên bản
này là Koulu-Kalevala (Kalêvala dành cho nhà trường). Từ 22 795 câu thơ, văn
bản này được rút gọn lại còn 9 732 câu. Tác giả không bỏ bớt ca khúc như người
cùng thời ông đã làm với Kalêvala Mới, mà vẫn giữ nguyên cấu trúc và tinh thần
của văn bản này, chỉ lược bớt các đoạn thơ.[4]
Tiến trình Kalêvala với năm văn bản khác nhau đã phản ánh
rõ sự thay đổi trong suy nghĩ và nhận thức của Lönnrot đối với công việc ông
làm. Trong ba phiên bản đầu ông vẫn thận trọng coi mình chỉ là người sưu tầm,
ghi chép và biên tập tác phẩm. Lời nói đầu của Kalêvala Cũ cho thấy Lönnrot vẫn
mong mỏi và chờ đợi một hay nhiều cốt truyện khác nhau từ các nghệ nhân dân
gian, để có thể dựa vào đó tái tạo nên một sử thi khác hoàn chỉnh hơn. Các dị
bản của các bài ca dân gian ông xếp vào cuối tác phẩm giống như một lời kêu gọi
hãy sưu tập thêm thơ ca dân gian và cho ra các giải pháp mới để xây dựng sử
thi. Mười lăm năm sau, trong Kalêvala Mới, ông đã nhận thấy, bên cạnh vai trò
của người sưu tầm và ghi chép, ông buộc phải trao cho mình nhiệm vụ của nghệ
nhân và người kể chuyện. Trong thời gian biên soạn văn bản này, Lönnrot nghĩ
ông cần phải làm công việc giống như các nghệ nhân dân gian tài năng đã làm.
Nghĩa là gắn kết, hợp nhất các bài thơ và chủ đề của chúng theo cách mà mình
thấy hợp lý nhất.
Sau khi Kalêvala ra đời, ảnh hưởng của sử thi không chỉ giới
hạn trong phạm vi Phần Lan, mà dần dần lan rộng ra các nước khác trên thế giới.
Có thể kể ra đây The Song of Hiawatha (1855) của H. W. Longfellow, được coi
là sử thi của người Mỹ, Kalevipoeg (Con trai của Kalevi, 1862) - sử thi
Estonia của F. R. Kreutzwald, sử thi Latvia, Làplèsis (Chàng giết gấu,
1888) của A. Pumpurs; và gần đây nhất là sử thi Mordvin, Mastorava (Mẹ đất,
1994) của A. Saronov. Tác giả các sử thi này đã sử dụng phương pháp của
Lönnrot, kết nối thơ ca dân gian của dân tộc mình thành sử thi hoàn chỉnh.
Sử thi Việt Nam Con cháu Mon Mân được biên soạn dựa trên
các phương pháp mà Elias Lönnrot (1802-1884) đã sử dụng khi ông sáng tạo nên
Kalêvala. Tuy nhiên, khi vận dụng phương pháp của Lönnrot vào biên soạn sử
thi này, chúng tôi gặp một số vấn đề nan giải.
Theo cách phân loại của nhà nghiên cứu sử thi Honko mà chúng
tôi đã trích dẫn ở trên, các phiên bản do nhiều người biên soạn khác nhau, được
xuất bản trong những thời gian khác nhau của các sử thi như Đam Săn, Đẻ đất đẻ
nước v.v. đã có thể được coi làcác sử thi truyền thống. Ngoài ra, nhiều dân tộc
ở nước ta vẫn còn lưu giữ nguồn sử thi miệng rất phong phú như các loại sử
thi akayet, hơ mon, hơ ri, khan, khắp, otnrong. Bảy mươi lăm sử thi được xuất
bản trong khuôn khổ dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản
kho tàng sử thi Tây Nguyên đã chứng minh điều đó, mặc dù đấy mới chỉ là con số
rất nhỏ trong kho tàng sử thi miệng giàu có của Việt Nam. Nếu chỉ sử dụng
riêng nguồn tư liệu này, chúng tôi đã buộc phải đọc, làm quen và xếp loại
hàng trăm nghìn câu thơ theo các mô típ của chúng trong quá trình xây dựng nội
dung sử thi. Chọn tư liệu nào? Bỏ tư liệu nào? Đó là những câu hỏi nan giải
luôn được đặt ra trong suốt thời gian thực hiện công trình.
Sử thi miệng của các dân tộc Việt Nam được diễn xướng, hát
kể trong môi trường dân gian. Khi được dịch sang tiếng Việt và xuất hiện dưới
dạng văn bản, lối nói vần cũng như giai điệu của nhiều sử thi đã không còn giữđược
như nó vốn có ban đầu. Hơn thế nữa, một số sử thi lại được chuyển dịch sang
tiếng Việt dưới hình thức văn xuôi! Khi xây dựng Con cháu Mon Mân, chúng tôi
không có nhịp thơ, vần luật gốc để lấy đó làm nhịp thơ cho tác phẩm như
Lönnrot đã lấy nhịp thơ truyền thống tám nhịp của thơ ca dân gian Phần Lan và
Karêlia làm vần luật của Kalêvala. Chúng tôi chọn thể thơ thất ngôn truyền thống
vì thấy rằng thể thơ này vừa có khả năng bộc lộ chất tự sự của truyện dài, vừa
có khả năng truyền tải tính trữ tình cần thiết khi miêu tả nội tâm nhân vật.
Như vậy, ít hay nhiều, chúng tôi buộc phải thay đổi lời thơ, vần điệu của các
chương, đoạn lấy từ các văn bản sử thi nguồn. Chúng tôi cũng buộc phải “thơ
hóa” hay đúng hơn là “thất ngôn hoá” các đoạn lấy từ sử thi được dịch sang tiếng
Việt dưới hình thức văn xuôi, cũng như các mô típ, điển tích lấy từ thần thoại,
truyền thuyết hay cổ tích của các dân tộc.
Khi xây dựng tác phẩm của mình, Lönnrot chủ yếu sử dụng tư
liệu ông trực tiếp sưu tầm được. Nguồn tư liệu “bên ngoài” cũng do các đồng
nghiệp của ông sưu tập, và được ghi lại dưới dạng thô - viết tay, chứ chưa
biên tập, biên dịch. Tất cả nguồn tư liệu này đều do nghệ nhân các dân tộc
cùng sử dụng ngôn ngữ Phần Lan, và các “phương ngữ” của ngôn ngữ này như
Karêlia và Inkêri, hát kể. Khi “văn bản hóa” nguồn tư liệu truyền miệng này,
tác giả của Kalêvala đã đồng thời tạo ra và phát triển ngôn ngữ viết của Phần
Lan.
Khi biên soạn Con cháu Mon Mân, tư liệu chúng tôi sử dụng
là vốn văn hóa, văn học dân gian của các dân tộc nói các ngôn ngữ khác nhau
trên đất nước Việt Nam. Nguồn tư liệu này đã được một hay nhiều soạn giả biên
tập lại qua hai hoặc nhiều lần. Chúng tôi cũng buộc phải sử dụng các phiên bản
tiếng Việt của sản phẩm văn hóa dân gian các dân tộc ít người, mà không có khả
năng đối chiếu xem bản tiếng Việt mình sử dụng đã chuyển tải được bao nhiêu
phần trăm bản gốc. Mục tiêu của chúng tôi trong quá trình biên soạn sử thi là
phần nào “tiếng Việt hóa” nguồn tư liệu đa ngôn ngữ, mà vẫn cố gắng không để
mất bản sắc của các dân tộc, trong chừng mực có thể.
Cốt truyện chính của Con cháu Mon Mân được phát triển từ
hai chữ “đồng bào” và mô típ chính trong thần thoại các dân tộc Việt Nam: người
Việt Nam ta được sinh ra từ bọc trăm trứng (thần thoại Việt), từ trứng điếng
(Đẻ đất, đẻ nước - Mường), từ quả bầu sau nạn hồng thủy (thần thoại nhiều dân
tộc ít người), là con Rồng cháu Tiên. Mạch truyện của sử thi được bắt đầu từ
lúc đất trời khai sinh, sự xuất hiện của con người, lớp lớp con cháu của Mon
Mân - dòng dõi của Người và Tiên - đã chiến thắng thiên tai, khai phá và xây
dựng nên Đồi, Biển và Rú Đá, nơi tổ tiên họ lưu lạc đến sau nạn hồng thủy.
Tuy có những va chạm, xích mích, thậm chí đánh giết nhau trong quá trình sinh
tồn, nhưng dân của cả ba miền phải đoàn kết lại mới thắng được kẻ thù chung
Để truyền tải được cốt truyện trên, chúng tôi không những
chỉ sử dụng nguồn tư liệu sử thi truyền thống và sử thi miệng, mà còn chọn lọc,
xây dựng các tích truyện từ truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ tự sự, ca dao,
dân ca trữ tình v.v. của các dân tộc Việt Nam. Ngay cả những mô típ chỉ được
đề cập đến trong các công trình nghiên cứu cũng được cân nhắc và lựa chọn.
Kho tàng văn học dân gian của phần lớn các dân tộc ở Việt Nam đã được tận dụng
đến mức tối đa, trong điều kiện cho phép. Đấy là lý do chúng tôi đặt phụ đề
“Sử thi Việt Nam” sau tên chính của tác phẩm.
Bên cạnh việc sử dụng nguồn tư liệu văn học dân gian đã được
xuất bản, chúng tôi còn tham khảo và sử dụng một số tư liệu tuy chưa được
công bố, nhưng đã được các nhà sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian ở một số
địa phương như Lào Cai, Hoà Bình chia sẻ và cho phép sử dụng.
Nhân danh và địa danh trong sử thi phần lớn là hư cấu.
Trong một số trường hợp, chúng tôi giữ nguyên các nhân vật của một số sử
thi miệng, như Dạ Dần, Ây Ứa (Mường), Ti-ăng (M’nông) hay Ông Dóng (thần thoại
Việt). Các nhân vật khác được tạo dựng và kết nối bằng tính cách, hành động
anh hùng của các nguyên mẫu trong sử thi và văn học dân gian. Các thao tác
trên cũng được áp dụng đối với địa danh.
Trong thời gian chúng tôi thực hiện công trình Sử thi Việt
Nam, dự án Sử thi Tây Nguyên cũng được Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp
với các tỉnh Tây Nguyên thực hiện. Một trong những mục đích của dự án này là
bảo quản cho đời sau kho tàng sử thi Tây Nguyên với hiện trạng của những năm
đầu thế kỷ XXI, một việc làm rất hữu ích, nhất là cho các nhà nghiên cứu sử
thi, văn hóa Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng. Mục đích công trình
của chúng tôi khi sáng tạo Con cháu Mon Mân là giới thiệu cho đông đảo bạn đọc
Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, sự giàu có của văn học dân gian đất nước mình
thông qua cách tiếp cận mới mà qua đó sản phẩm của văn học truyền miệng được
biên soạn thành tác phẩm văn học. Sinh thời, Lönnrot đã từng nói, bằng vốn tư
liệu có được khi biên soạn Kalêvala Mới, ông có thể sáng tạo nên bảy sử thi với
các cốt truyện khác nhau. Vận dụng phương pháp của Elias Lönnrot, chúng ta có
thể sáng tạo ra được nhiều sử thi truyền thống dựa trên kho tàng sử thi và
văn học dân gian hết sức giàu có của các dân tộc trên đất nước Việt Nam [5].
Con cháu Mon Mân là kết quả của công trình Khảo sát tiến
trình ra đời của Kalêvala và vận dụng kết quả nghiên cứu sử thi này để biên
soạn Sử thi Việt Nam do Quỹ Juminkeko, trung tâm thông tin về văn hóa Karêlia
và sử thi Kalêvala có trụ sở tại thành phố Kuhmo (Phần Lan) [6] chủ trì, và cố
vấn về mặt khoa học với sự trợ giúp về kinh phí của Bộ Ngoại giao Phần
Lan [7]. Tác phẩm được Juminkeko và Nhà xuất bản Văn học hợp tác xuất bản tại
Việt Nam vào tháng 11 năm 2008. Với sử thi này, tác giả Bùi Việt Hoa là người
đầu tiên được nhận Giải thưởng Sử Thi do Hội Kalevala (Phần Lan) trao tặng
vào năm 2009. Hiện nay, Con cháu Mon Mân đang được dịch sang tiếng Phần Lan
và sẽ được dịch sang tiếng Anh trong thời gian không xa.
Sau sử thi Việt Nam, Quỹ Juminkeko vẫn tiếp tục hỗ trợ cho
các dự án sử thi khác nhau. Sử thi của dân tộc vepsä “Virantanaz” do nhà
nghiên cứu ngôn ngữ Niina Zaitseva biên soạn ra mắt bạn đọc vào năm 2012. Một
năm sau đó, năm 2013 là sự ra đời của sử thi “Liekku” (dân tộc Inkeri) của
tác giả Mirja Kemppinen.
Có thể tìm hiểu thêm về quá trình biên soạn sử thi
Con cháu Mon Mân qua website:
www.juminkeko.fi/vietnam
[1] Tham luận tại Hội thảo quốc tế sử thi Việt Nam tổ chức tại
Buôn Mê Thuột 23. – 26.10.2008
[2] Lauri Honko (1932-2002), Nguyên viện trưởng Viện
Kalêvala, Giáo sư văn học dân gian và tôn giáo của Đại học tổng hợp Turku (Phần
Lan), Viện trưởng Viện nghiên cứu Folklore Bắc Âu, tác giả của nhiều công
trình nghiên cứu về sử thi.
[3] Honko, Lauri: - Kalevalan viisi esitystä “Năm lần diễn
xướng Kalêvala”. Roininen, Niina Viimeinen Väinämöinen. Näkökulmia
kansalliseepokseen ”Vaynemuênên cuối cùng. Những góc nhìn đến sử thi dân tộc”.
Kirja-Aurora, Turku, 2000, tr. 10-37.
- The Five Performances of the Kalevala. In: FF Network For
the Folklore Fellows, FFN 24, May 2003: p. 6-17
[4] Kuusi, Matti – Anttonen, Pertti: Kalevala lipas
(tr. 86-97). Helsinki, SKS, 1985
[5] Chủ tịch Quỹ Juminkeko – Nhà văn Markku Nieminen, đề nghị
trong tương lai không xa Con cháu Mon Mân cũng cần có một bản rút gọn dành
cho thiếu nhi và trường học như của Kalêvala.
[6] www.juminkeko.fi
[7] Nhân đây, chúng tôi xin trân trọng cám ơn Juminkeko, Bộ
Ngoại Giao Phần lan, Hội Kalêvala Phần Lan đã giúp đỡ chúng tôi thực hiện
công trình này. Đặc biệt, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
tới các nghệ nhân, các nhà sưu tầm, nghiên cứu đã lưu giữ, biên soạn và xuất
bản các tác phẩm văn học dân gian của các dân tộc ở Việt Nam, nhờ đó chúng
tôi có được nguồn tư liệu sử dụng cho công trình này.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét