Ba bài thơ - Ba tác giả:
Mô típ của thơ Tình yêu - Chia li thường là: Đôi trai gái - Người
Tình - Vợ chồng yêu nhau, lấy nhau rồi vì một lý do nào đó phải chia lìa, ly
biệt...
Đại thi hào Nguyễn Du - viết Truyện Kiều - cho đôi nhân vật Thúy
Kiều - Kim Trọng yêu nhau nhưng phải qua thử thách 15 năm sau, họ mới gặp lại,
đoàn viên trong xót xa, mất mát...
Hồng Hà Nữ Sỹ - Đoàn Thị Điểm lấy chồng, yêu chồng nhưng phải xa
nhau 3 năm vì chồng bà được nhà vua phái đi Sứ bên Trung Hoa. Một mình vò võ,
khắc khoải đợi chờ... bà trút tâm tư tình cảm vào bản dịch Chinh Phụ Ngâm - (từ
chữ Hán sang chữ Nôm - nguyên tác của Đặng Trần Côn) của nữ sĩ họ Đoàn trở
thành áng thơ tuyệt diệu trong kho tàng văn học Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Hinh - bút danh Bà Huyện Thanh Quan (...) - sinh ra,
lớn lên ở cổ thành Thăng Long, được vua Minh Mạng triệu vào kinh làm giáo sư
dậy dỗ công chúa, cung nữ. Trên đường từ Thăng Long vào kinh đô Huế thời xa xưa
- vời vợi nghìn trùng... bà Huyện Thanh Quan phải lên đường trong tâm trạng nhớ
nhà, nhớ người thân thương... (Có thể) Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang... - ra
đời trong hoàn cảnh này...
Bà Chúa Thơ Nôm - Hồ Xuân Hương với những bài thơ tình, khát khao
tình yêu đến cháy bỏng... Từ những cuộc ’’li biệt ’’của chính mình,
nhà thơ đã viết lên những tác phẩm bất hủ, lưu truyền cho hậu thế...
Đầu thế kỉ 20, đề tài Tình yêu được Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tiếp
tục khai thác, nâng lên, đượm mầu sắc cách tân, theo xu hường thời đại. Thề Non
Nước củu Tản Đà, là một thí dụ điển hình về thể loại ’’thơ tình’’ mới, tuy
nhiên vẫn không khác những cuộc tình của ngưòi xưa: Tình yêu - chia li chỉ mới
ở mức độ tạm xa nhau, cả hai đối tượng vẫn nuôi hi vọng ngày gặp lại...
Bước vào những năm ba mươi của Thế kỷ 20, trong phong trào Thơ
Mới, xuất hiện những áng thơ li biệt, mà mức độ ’’nước mắt’’ đã gia tăng, điển
hình bài thơ Hai Sắc Hoa Tigôn của TTKH, bài đáp lời TTKH, Tồng Biệt Hành của
thi sĩ Thâm Tâm, cùng thơ tình của những nhà thơ tiêu biểu: Thế Lữ (Bên sông
đưa khách), Thanh Tịnh (Mòn mỏi), Xuân Diệu (Lời kỹ nữ), Huy Cận (Ngậm ngùi),
Nguyễn Bính (Cô hàng xóm)... Thơ Tình yêu đã manh nha một thể loại
mới: Thơ vĩnh biệt người tình!
Phải đợi đến gần nửa sau của thế kỉ 20 - giữa cuộc kháng chiến
chống Pháp 1949 - Thi Sĩ Hữu Loan mới đẩy đề tài tình yêu trong chia li lên tới
mức độ mới: Chia lìa - Vĩnh biệt, thể hiện rõ trong Mầu Tím Hoa Sim. Tác gỉa
diễn tả nỗi lòng khi nghe tin người vơ mới cưới ở quê nhà đã chết trong một tai
nạn rất đáng tiếc (chết đuối). Nhà thơ đau đớn thốt lên như chất vấn trời xanh:
(sao) ’’Không chết người trai khói lửa, mà chết người em gái nhỏ hậu phương’’?
Xuyên suốt, bao trùm cả bài thơ là sự đau thương tang tóc đối với người trai ở
chiến trường xa. Giờ trở về, chỉ còn biết đến nấm mồ viếng người ’’em gái nhỏ
hậu phương’’ đang nằm trong lòng đất lạnh! Những câu thơ như máu thịt, rứt ra
từ cơ thể mình, tác gỉa làm người đọc dù không ở trong hoàn cảnh, tự nhiên cũng
xót thương, đồng điệu. Tác giả khóc vợ nhưng người đọc cũng bi
lụy’’khóc’’ theo như cảnh ’’Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa’’ của nàng Kiều
khi viếng mộ Đạm Tiên...
Trước MTHS của Hữu Loan, chưa có bài thơ nào có chủ đề về Tình yêu
- Chia Li - Vĩnh biệt sâu sắc đến dữ dội như vậy. MTHS như một chất xúc tác,
kích thích tình cảm của người thưởng thức (đọc và nghe người khác ngâm thơ),
đẩy lên tới cao trào... Sự đồng cảm của độc gỉa còn bởi câu chuyện
đời thực của tác giả - như một câu chuyện đặc trưng - xẩy ra nơi này, nơi khác,
đây đó... xuất hiện trong lòng người Việt. Với bi kịch của chính mình, Hữu Loan
chỉ việc ghi lại những rung động (dữ dội) của trái tim rồi bằng tài năng diễn
đạt, dùng ngôn từ chắt lọc, dân dã, dung dị... MTHS khiến mọi lứa tuổi biết
yêu, mọi trình độ, tầng lớp trong xã hội đều cảm nhận, rung động. Thi phẩm đến
với người đọc ở hoàn cảnh đất nước đang trong thời tao loạn, đôi lứa rực lửa
thanh xuân - phải xa nhau... xa nhau trìên miên trong tâm thức: ’’Cố lai chinh
chiến kỉ nhân hồi’’ , ’’Nhât tướng công thành, vạn cốt khô’’ - càng có ý nghĩa
nhân văn!.
Sự thuyết phục tự nhiên của MTHS, khiến những nhà lãnh đạo tư
tưởng (tuyên huấn) đương thời - (kháng chiến chống Pháp) - e ngại. Rồi, khi vào
cuộc chiến tranh tiếp theo - (chống Mĩ) - sợ ’’tác động ngược’’, nghĩa là - sợ
khi đối tượng trẻ tuổi đọc bài thơ sẽ không tránh khỏi trạng thái
tâm lý bi lụy, làm giảm ’’khí tiết anh dũng’’ cần phải có trong mổi người tham
gia cuộc chiến, mà tầng lớp trẻ vốn dĩ rất mẫn cảm - đang là số đông, đóng vai
trò chủ chốt. Chính vì vậy, trong suốt thời gian dài, MTHS không được phổ biến.
Sau 1954, một phần, có thể do dư âm của sự kiện tác giả ’’liên can’’ đến phong
trào Nhân văn giai phẩm. Nhưng cái chính, phần khác - Theo những người lãnh đạo
tư tưởng quan niệm: Cái tôi (cá nhân - cái riêng) của bài thơ bao trùm lừng
lững. Mà thời đó, chủ trương phải cổ võ hết sức cho ý thức tập thể (cái chung).
phải ’’Chống chủ nghĩa cá nhân’’ (cái riêng). Sau này, còn được nâng quan điểm
lên, đối diện với ’’Chủ nghĩa cá nhân’’ là chủ nghĩa ’’Anh hùng tập thể’’. Bài
thơ lại thêm một lí do cấm phổ biến mặc dù không hề có văn bản chính thức cấm -
nào.
(Chỉ khi cuộc chiến kết thúc - sau 1975, MTHS mới được đây đó,
(báo chí, xuất bản) dè dặt in, qủang bá, mọi người biết, đua nhau
tìm đọc).
Bẩy năm sau, khi MTHS ra đời (1949 - 1956), có dịp đến vùng Núi
Đôi, nhà thơ Vũ Cao thu lượm, dựa vào những sự kiện có thật ở điạ phương (...),
đặc biệt là hình ảnh của những nữ liệt sĩ, anh hùng: Mạc Thị Bưởi, Bùi Thị Cúc,
Nguyễn Thị Chiên... đã là nguồn cảm hứng cho ông sáng tác và công bố Núi Đôi
(1). Bi kịch Núi Đôi tuy cũng làm người thưởng thức xúc động, nhưng ... dường
như người nữ du kích của Vũ Cao chỉ gây cho người đọc chút luyến tiếc vì cái chết
của người yêu anh Vệ quôc quân xẩy ra rât bình thường như mọi sự hi sinh khác
trong thời chiến tranh.
Trong khi cái chết của người vợ trẻ của Hữu Loan trong MTHS là cái
chết tức tưởi của cô gái bình dị, được tác gỉa chắt lọc ngôn từ khi diễn đạt,
đặt những chi tiết đúng chổ để người sống về chứng kiến cảnh người đã khuất:
’’...Bình hương tàn lạnh vây quanh...Nắng sớm thu về rờn rợn nước sông... cỏ
vàng trên mộ chí... vá áo cho chồng’’ - đã đẩy cảm xúc người thưởng thức lên
cực điểm, trở thành cảm động đến rơi nước mắt!
Về cấu trúc, Núi Đôi giống Mầu Tím Hoa Sim, tuy có một chi tiết
hơi khác:
Mầu Tím Hoa Sim: người vợ trẻ ở quê nhà ngày đêm mong ngóng chàng
Vệ quốc đoàn của mình trở về đoàn tụ... một lần ra sông giặt giũ không may chết
đuối - nghĩa là gían tiếp bị chiến tranh - hại.
Núi Đôi: Người yêu, ở quê nhà tham gia du kích chiến
đấu chống Pháp. Người con trai ’’vào bộ đội lên Tây Bắc’’, người con gái đau
đắu nỗi nhớ nhung, chờ ngày gặp mặt người yêu. Khi chàng trở về mới biết Nàng
đã bị quân Pháp giết - trực tiếp bị chiến tranh - hại.
Cả hai chàng Vệ quốc quân trong MTHS và NĐ - đều mất mát, đều từ
chiến trường trở về, đến nấm mồ người thương, ’’khóc’’!
Lại gần 10 năm sau nữa (1956 - 1965, 1966) , khi cuộc chiến tranh
ở Miền Nam trở nên ác liệt, nhà thơ Giang Nam cũng từ những sự kiện đang diễn
ra xung quanh - viết lên Quê Hương. Về cấu trúc. Quê Hương hoàn toàn giống Núi
Đôi và cùng mô típ MTHS:
Hai người - hai nhân vật chính - đều còn rất trẻ, lớn lên ở cùng
miền quê, cùng đi học một trường... bước vào tuổi thanh niên đã phải xa nhau.
Chàng lên đường tham gia quân giải phóng, Nàng ở lại quê nhà, vào du kích, rồi
cũng bị chiến tranh cướp đi mạng sống... Từ chiến trường trở về thăm người
thương, người con gái đã không còn... những kí ức tuổi thơ qúa sâu đậm - phục
hiện, trỗi dậy - trong lòng người con trai:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu Quê hương trên từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ (2)
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.....
Bỏ qua vài tiểu tiết, 3 thi phẩm được 3 tác gỉa viết về Tình yêu -
Chia Li - Vĩnh biệt, có cùng một chủ đề, cùng cấu trúc, thấm đậm chất kế
thừa... và điều đáng khâm phục: 3 tác gỉa cùng thế hệ, theo thời gian trước sau
- của hai cuộc kháng chiến Chống Pháp và chống Mỹ - hơn 17 năm: 1949 - 1956 -
1966 viết lên 3 tác phẩm đạt tời điểm đỉnh của sự thành công, đi vào lòng người
thưởng thức với cảm súc sâu sắc, sống động...
Riêng Mầu Tím Hoa Sim có phần thiệt thòi: Suốt nhiều năm Núi Đôi,
Quê Hương đưọc phổ biến rộng rãi, được trích dẫn, giảng dậy trong trường học
cho các thế hệ trẻ nói tiếp học tập noi theo, trong khi MTHS bị lãng quên, bị
’’khóa chặt’’ bỏ trong rương. Nhưng khi được ’’cởi trói’’ MTHS không thua kém
Núi Đôi và Quê Hương về sự ngưỡng mộ của người thưởng thức... Để chứng minh cho
nhận định này, tôi kể lại tình tiết một buổi biểu diễn bài thơ Mầu Tím Hoa Sim
rất ngẫu nhiên - cách đây hơn 40 năm:
Không lực Hoa kì tấn công Miền Bắc (1965), dân chúng bất ngờ, chưa
ai có thể tưởng tượng được cuộc chiến lại diễn ra càng ngày càng ác liêt, nhất
là khi R. Nich xon trúng cử tổng thống. (Cuộc chiến leo từng nấc thang cao dần
lên. Đỉnh cuối cùng của nó chính là từ 18 - đến 30 tháng 12 năm 1972 - 12 ngày
đêm - Mĩ đánh phá Hà Nội bằng máy bay B.52).
Mới vào cuộc chiến (1965 - 1966), để động viên cả xã hội bình
tĩnh, tránh gây xáo trộn, hoang mang, Theo chủ trương của Trên, tổ chức Đoàn
Thanh Niên Lao động ở mọi cấp, ngoài việc động viên thanh niên tòng quân trực
tiếp chiến đấu, còn vận động lớp trẻ tham gia Thanh Niên Xung Phong phục vụ
chiến đấu và tăng năng xuất trong lao động. Các đoàn cơ sở chẳng những duy trì
nếp sinh hoạt thời chiến, mà còn có phần đẩy mạnh các hoạt động văn hóa lên cao
hơn, bằng cách tổ chức các buổi Hội diễn Văn nghệ. Ở vào khoảng đầu những năm
1965 - 1966, máy bay Mỹ chưa leo thang đến nấc: đánh phá cả ban đêm,
các Đoàn thanh niên trong công ty than Hồng Gai đua nhau mở Hội diễn. Đòan mỏ
Cọc 6 đi đầu trong chủ trương này. Hội diễn từ chi đoàn, liên chi đoàn, chọn ra
1, hoặc 2 tiết mục đặc sắc nhất về dư đêm chung kết tại hội trường Mỏ.
Buổi chung kết có 2 vở kịch ngắn của kịch tác gia Ngô Y Linh: Diễn
Viên Không Chuyên Nghiệp và Đâu có giặc là ta cứ đi, cùng hơn 30 tiết mục: Độc
tấu, hoạt cảnh , đơn ca, tốp ca và ngâm thơ. Một cán bộ đoàn có giọng ngâm khá
hay, trình diễn bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao (ngâm theo cách miền Bắc). Để Ban
giám khảo dễ so sánh khi chấm điểm, chương trình bố trí luôn tiết mục ngâm bài
thơ thứ 2 - Quê Hương của Giang Nam - ngâm theo giọng miền Nam. Cả 2 tiết mục
đều được người xem tán thưởng. Tiếng vỗ tay chưa dứt, ông Vũ Hồng Hải thư kí
công đoàn Mỏ - (cán bộ và công nhân Mỏ thường gọi ông ’’Hải Bạc’’ - bởi ông
gìa, đầu tóc bạc phơ - để phân biệt với gần chục cán bộ, kĩ sư có tên Hải cùng
làm việc ở khối văn phòng).
Ông Hải từ cánh gà tiến ra đón lấy chiếc Micro, đứng vào vị trí
trình diễn.
Cã hội trường xôn xao...
Người điều khiển chương trình thoáng bỡ ngỡ vì tình huống này
không có trong dự kiến.... hội trường đang ồn ào bỗng im lặng trở lại. Mọi
người chưa hiểu vị ’’bộ tứ lãnh đạo’’ sẽ làm gi? Sau ít giây ngần ngừ, ông Hải
nói chậm: Các đồng chí vừa nghe 2 bạn trẻ trình bầy 2 bài thơ nói về cuộc tình
của đôi trai gái trong chiến tranh... Tôi xin góp vui với các bạn một bài thơ
khác, cũng có chủ đề tương tự như Núi Đôi và Quê Hương. Bài này tựa đề là Mầu
Tím Hoa
Sim.
Hội trường lao xao...
Ông Hải ngần ngừ giây lát rồi cất tiếng...
Ông không ngâm như 2 diễn viên vừa trình bầy trước đó, mà đọc,
giọng ông dàn trải, lúc chậm rãi, lúc gấp nhanh... âm vang, như tiếng của ông
gìa trong đêm khuya, bên bếp lửa hồng bập bùng, kể cho mọi người nghe về một
mối tình bi thảm... trước mắt người nghe hiện ra khung cảnh làng quê với con
sông nước ngầu đỏ, cuồn cuộn chảy... bải tha ma và nấm mồ đất chưa kịp khô...
Đặc biệt, người nghe mường tượng ra - mỗi người một hình ảnh - về người ’’em
gái nhỏ’’:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Nhưng em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi
Người Vệ quốc quân
Yêu nàng như tình yêu em gái...
Cứ từng đoạn... từng đoạn, ông Hải thay tác giả Hữu Loan diễn đạt
nỗi lòng mình...
Gần 1000 người đứng, ngồi chật ních hội trường im lặng lắng nghe.
Họ đang theo bước chân của anh Vệ quốc quân với ’’đôi giầy đinh bê bết bùn hành
quân’’...từ chiến trường về... bước vào căn nhà... hoang vắng, khói lạnh...
chiếc bình cắm hoa ngày cười giờ dùng làm bình cắm hương, tàn hương lạnh vây
quanh...
Khi đến đoạn kết thúc, giọng người lính gìa bỗng cao hơn, chuyển
thành giọng ngâm:
’’Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm
Mẹ gìa chưa khâu’’!
Tôi đứng bên cánh gà nhìn thấy trong mắt của ông gìa
long lanh, như ngấn nước. Cả hội trường không một tiếng động… Ông Hải cúi chào
khán gia rồi châm chạp đi vào, chưa khuất, mọi người như nhận ra sự vô tâm -
đột nhiên vỡ òa giữa âm thanh reo hò, vỗ tay, thổi ’’còi môi’’... Ông Hải lại
quay người đi ra, cúi chào…
Khi bóng ông đã khuất, hội trường vẫn rung lên bởi tiếng vỗ tay.
Chương trình chuyển sang vở kịch Diễn Viên Không Chuyên Nghiệp,
rồi kết thúc trong không khí phấn khích, nhiệt thành của người xem…
Sáng hôm sau vào thứ 2, đầu tuần, Gíam đốc Mỏ họp giao ban, phổ
biến công tác trong tuần. Thành phần họp gồm bộ Tứ lãnh đạo: Giám đốc, Chủ tịch
Công đoàn. Bí thư Đoàn Thanh Niên và Chủ tịch Nữ công cùng các phòng ban có
liên quan. Cuộc họp thời chiến diễn ra ngăn gọn… Gíam độc tuyên bố kết thúc.
Mọi người lục tục đứng dậy nhưng chưa ai ra khỏi cửa, Ông Phó giám đốc phụ
trách hành chính, học ở Liên Xô về - mới đưọc bổ nhiệm - tiến đến bắt tay ông
Hải, nói: Hôm qua bác trình bầy tiết mục đọc thơ qúa hay. Hình thức trình bầy
thơ kiểu này ở châu Âu người ta hay dùng. Bài thơ này bác lấy ở báo nào thế?Có
thể cho tôi chép lại được không?
Ông Hải chưa kịp lên tiếng, Trưởng phòng Tổ chưc cán bộ, trả lời
thay: Hay thi rât hay nhưng đó là bài thơ bị cấm…
- Sao, sao… có gì đâu mà phải cấm - Phó giám đốc Hành chính phản
ứng.
Ông Hải quay sang Trưởng phòng tổ chức vẻ nghiêm nghị: Ở lứa tuổi
ông và tôi, trong kháng chiến chống Pháp, ai mà chẳng biết dăm ba câu, nhiều
người thuộc cả bài MTHS... Có văn bản nào cấm đâu.
Ngừng lại một chút, như ngẫm nghĩ, mọi người im lặng chờ… ông Hải,
tiếp: Mà có gì phải cấm. Anh Vệ quốc quân thương vợ bỏ mình trong một tai nạn
khi đang ở chiến trường xa. Trở về, đau buồn trước mất mát, có tâm trạng bi
lụy… đó là hành động rất tình, rất người. Điều quan trọng: Anh không
phản chiến ‘’B- quay’’ - tiếp tục lên đường chiến đấu - có sao?
Mọi người xung quanh cười phá lên với vẻ, tán thưởng.
Thời bấy giờ, dám ’’ngang nhiên’’ đọc bài MTHS trước một hội diễn
văn nghệ làm cánh thanh niên trẻ tập tễnh văn thơ, láng máng biết lai lịch của
bài thơ MTHS và tác giả - phải ‘’Sờn gai ốc’’.
Ra tới bên ngoài phòng họp, ông trưởng phòng Lao động tiền lương -
cùng giới đầu bạc, cùng hàm Đại úy chuyển ngành - tủm tỉm cười, hỏi ’’kháy’’,
vui - ’’trêu’’ ông Hải: Sao ông biết, anh chiến sĩ kia không ’’B -
quay’’?
Đây là danh từ hồi đó trở thành phổ biến, chỉ thành phần thanh
niên ‘’cầu an, sợ chết’’ - trốn lính. Sau khi nhập ngũ, số thanh niên này trên
đường hành quân vào Nam, trước khi vượt giới tuyến đào thoát (quay) trở ra.
’’B… quay’’ là cách nói gọn (4).
Ông Hải hiểu ý bạn, cười xoà: Biết chứ! Vì cậu ấy là bạn cùng đơn
vị chiến đấu với mình!
Có thể lớp cán bộ quân đội cùng trang lứa, chuyển ngành về nắm giữ
các chức vụ chủ chốt của Mỏ nên nể, trọng nhau, không ai nghi ngờ ‘’Tư tưởng
biến chất’’ của ngưòi cán bộ quân đội đang đứng ở vị trí lãnh đạo có thứ hạng…
Cũng có thể: Đây là khu mỏ, cơ sở sản xuất nằm cách xa Hà Nội -
nơi không phải là khu vực ’’Trường Văn - trận Bút’’ nên sau đó… sau đó… không
có vấn đề gì xẩy ra tiếp theo.
(1) . Cựu sinh viên Đại học XDHN - Kĩ sư Vũ Chí Hoàn, bạn tôi, có
lần đi an dưỡng ở cùng với nhà thơ Vũ Cao - kể lại: Nhân vật ngoài đời của Núi
Đôi thực ra không có như nội dung Vũ Cao miêu tả… (Một trường hợp dân quanh
vùng bàn tán: Có 2 người yêu nhau, chàng đi Vệ quốc quân, nàng ở quê nhà. Khi
chiến tranh kết thúc, chàng trở về tìm Nàng thì… Nàng đã theo viên sĩ quan
’’Ngụy’’ vào Nam)… Các nhân vật nữ du kích: Mạc Thị Bưởi, Bùi Thị
Cúc - mới là hình tượng thực của Núi Đôi...
(2) Một bài văn trích trong Quốc Văn Gíao Khoa thư:
Ai bảo chăn trâu là khổ? Không, chăn trâu sướng lắm chứ!
(3). Câu khẩu hiệu hàng đầu của thời đó, được kẻ
trên những bức tường, treo khắp nơi trên đất Mỏ - động viên công
nhân hăng hái thi đua lao động làm ra nhiều than cho tổ quốc….
(4) - Việt Nam lúc đó chia làm 3 vùng cơ bản, kí hiệu: A - Miền
Bắc. B - Chiến trường miền Trung (có B1 và B2…). C - Chiến trường Nam Bộ. Dân
Bắc gọi chung: Đi B là vào Nam). B… Quay là hình dung từ dành cho ’’thanh niên
chậm tiến’’, thối chí - thời chống Mĩ. Chàng Thanh niên nào rơi vào hành động
này coi như ‘’xong đời’’, bi mang đến các trại cải tạo lao đông (một loại tù)
mãi sau khi kết thúc chiến tranh, Tội B. Quay mới tự nhiên được
xóa. Cánh lính trẻ đã đặt vè vui về
hiện tượng ’’B. quay’’ - này:
Quảng Bình, Hà (tĩnh), Nghệ (an): Lên Đường ngay!.
Thanh (hóa), Bắc (thái), Hà nam - ‘’Vút’’ ban ngày
Hà Nội, Hải Phòng - Tối mới ’’lủi’’
Thái (bình), Nam (định), Hải (hưng) Qủang (ninh): Hở là
‘’Bay’’!
HỮU LOAN:
Mầu
Tím Hoa Sim
Nàng
có ba người anh đi bộ đội
Nhưng
em nàng, có em chưa biết nói
Khi
tóc nàng xanh xanh.
Tôi
Người
vệ quốc quân xa gia đình
Yêu
nàng như tình yêu em gái
Ngày
hợp hôn nàng
không
đòi may áo cưới
Tôi
mặc đồ quân nhân
Đôi
giầy đinh, vết bùn đất hành quân
Nàng
cười xinh xinh
Bên
anh chồng độc đáo
Tôi
ở đơn vị về
Cưới
xong là đi
Từ
chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy
chồng thời chiến chinh
Mấy
người đi trở lại
Nhỡ
khi mình không về
Thì
thương người vợ chờ,
bé
bỏng chiều quê
Nhưng
không chết người trai khói lửa
Mà
chết người em gái nhỏ hậu phương
Tôi
về không gặp nàng
Mẹ
tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc
bình hoa ngày cưới
Thành
bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc
nàng xanh xanh
ngắm
chưa đầy bụi
Em
ơi giây phút cuối
Không
được nghe nhau nói
Không
được nhìn nhau một lần
Ngày
xưa nàng yêu hoa Sim tím
Áo
nàng mầu tím hoa Sim
Ngày
xưa một mình
đèn
khuya bóng nhỏ
Nàng
vá cho chồng tấm áo
Ngày
xưa...
Một
chiều rừng mưa
Ba
người anh trên
chiến
trường đông Bắc
Biết
tin em gái mất
Gió
sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa
em nhỏ lớn lên
Ngỡ
ngàng nhìn ảnh chị
Khi
gió sớm thu về
Cỏ
vàng trên mộ chí.
Chiều
hành quân qua những đồi Sim
Những
đồi Sim
dài
trong chiều không hết
Màu
tím hoa Sim
tím
chiều hoang biền biệ
Nhìn
áo rách vai,
tôi
hát trong màu hoa:
''Áo
anh sứt chỉ đường tà
Vợ
anh mất sớm,
mẹ
già chưa khâu''(**)
H.L
1949
(Từ đây trở xuống - đoạn thơ
này mới được tác giả bổ xung, công bố ... Tôi chép đüa vào để bạn đọc tham khảo)
‘‘Có ai ví như từ chiều ca
dao nào xa xưa
''Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có
Mẹ già chưa
khâu''
Ai hát vô tình
hay ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết.
Chiều hoang tím
Tím thêm mầu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong mầu hoa.
''Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm...''
Màu tím hoa Sim
tím tình tang
lệ rớm
Ráng vàng mạ
Và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn
Theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh
Vào thăm thẳm chiều hoang
Mầu tím.
Tôi ví vọng về đâu?
Tôi với vọng về đâu?
Áo anh nát chỉ dù lâu‘‘.
H.L. Nghệ An 1949
VŨ CAO:
Núi Đôi
Bảy năm về trước em mười bẩy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất
làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh
lúa
Bữa thì em tới bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi
Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song
đôi
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc
tới
Xóm Chùa cháy đỏ những thân
Cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Ai ngờ từ đó vắng tin nhau
Anh vào bộ đội lên Tây Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại
năm
Mỗi bận dân công (*) về lại
hỏi
Ai người Xuân Dục, Núi Đôi
chăng.
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ
nguôi
Mỗi đêm súng nổ vành đai địch
Sương trắng người đi, lại nhớ
người
Đồng đội có nhau thường nhắc
nhở
Trung du làng xóm vẫn chờ
trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Anh vẫn đi về những bến
sông.
Nao nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về
xuôi
Hành quân qua tắt đường
ngang Huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi
Đôi
Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc
thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy
chung
Anh ngước nhìn lên hai dốc
núi
Rừng thông, bờ cỏ, con đường
quen
Nắng lại bỗng dưng mờ bóng
khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em
Dân chợ Phù Ninh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm nhất làng
trong
Mấy năm cô ấy làm du kìch
Không hiểu vì sao chửa lấy
chồng.
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc
cau
Nứa gianh nửa mái nhà che tạm,
Khuya sớm khuây dần chuyện
xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua
lại
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát
cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao
nhiêu
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân ở đất này
Ai viết tên em thành liệt sỹ
Bên những hàng bia trắng giữa
đồng
Nhớ nhau anh gọi: Em, đồng
chí!
Một tấm lòng trong vạn tấm
lòng
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa
thơm.
Ghi chú:
(*) - Dân công là
những Nông dân, Dân nghèo ở các tỉnh từ Thanh Hoá trở ra, thời chiến tranh chống
Pháp, Ủy Ban Kháng Chiến - Hành chính các địa phương huy động đi phục vụ các mặt
trận, làm nhiệm vụ tải đạn, tải lương thực... Các chiến dịch kết thúc, họ lại
trở về quê tiếp tục làm ruộng....
GIANG NAM:
Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến
trường
Yêu quê hương trên từng
trang sách nhỏ
''Ai bảo chăn Trâu là khổ''
(1)...
Tôi mơ màng nghe chim hót
trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh cầu ao
Mẹ bắt được, chưa đánh roi
nào đã khóc
Cô bé nhà bên nhìn tôi cười
khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ !)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc
khích
Mắt đen tròn (thương thương
quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không
nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu
nhìn lại
Mưa đầy trời, nhưng lòng tôi
ấm mãi...
Hòa bình, tôi trở về đây (2)
Với mái trường xưa, bãi mía,
luống cầy
Lại gặp em thẹn thùng nép
sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi
hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm
anh ơi)!
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm
ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi
nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự
thật
Giặc bắn em rồi quăng mất
xác
Chỉ vì em là du kích em ơi
Đau xé lòng anh, chết nửa
con người
Xưa yêu quê hương vì có chim
có bướm
Có những ngày trốn học bị
đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng
nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi.
(1) - Một bài viết trích
trong Quốc văn giáo khoa thư, xuất bản trước 1945.
(2) - Đoạn này, tác gỉa nói
về thời điểm Hòa bình năm 1954 (Kháng chiến chống Pháp). Các chiến sĩ trở về
thăm nhà trước khi đi tập kết? Còn đoạn kết là lúc tác giả về trong chiến tranh
chống Mỹ…
Lê Xuân Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét