Một buổi chiều, một buổi chiều
nào đó, như tất cả những buổi chiều ta đã lang thang trên xứ lạ, như tất cả những
buổi chiều mặt trời rơi xuống xoáy buồn vào trái tim, ta nhìn đời sống mình bốc
khói. Khói cay ngun ngún cháy đi tất cả những ngày đã qua, cháy đi những mộng
tưởng cũ kỹ, những hè đường đầy lá úa ướt át, những dòng sông thở nồng mùi gỗ mục.
Đời đã ngun ngún cháy đi những giây phút hạnh phúc đẹp đẽ và mơ mộng nhất của
ta, cháy đi những cửa sổ mở tung nhìn con chim bay trên trời, những ngõ hẹp cất
giấu bóng chiều âm ỉ, và khuôn mặt em, khuôn mặt ướt mưa mà hai bàn tay ta đã
nâng niu như một cánh hoa gần. Trong mắt em ta nhìn thấy ngoài kia cơn mưa chụp
xuống giăng kín buổi chiều. Em chớp mi, và bầu trời phủ đầy bóng tối. Một bóng
tối thơm ngát mùi hoa chanh.
Một buổi chiều, một buổi chiều
nào đó, giam mình giữa dòng xe cộ trùng điệp của giờ tan sở, để chiếc xe tự động
lăn theo dòng nối tiếp mệt nhoài, tâm tư ta lại nhớ về những buổi chiều cũ ở
quê nhà. Những buổi chiều đã ngun ngún bay đi. Bay đi như khói thuốc, như hương
khói mùa xưa. Những buổi chiều trời thắp mãi tiếng mưa sầu. Làm thế nào để quên
được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu
khói nhạt...
Ta chợt nhớ đến người thi sĩ
ấy. Thanh Tâm Tuyền. Bây giờ, ông đang nuôi những cơn mộng nào. Ông đã sống như
thế nào giữa lòng quê nhà mưa bay gió thổi [1]. Ông nhìn ngắm như thế nào những
con đường, những buổi chiều, những băng đá, những dòng sông, những thành phố
ngày xưa. Trời thì còn mưa, mưa mãi. Mưa rơi ướt những hoài vọng, những ước mơ,
và bóng tối như đang đổ xuống không cùng. Ta muốn bật một que diêm để cùng
Thanh Tâm Tuyền nhìn lại những buổi chiều cũ, có hơi ấm ngày xưa.
Buổi chiều vào chật khoang
xe. Đèn thắp lên
Tiếng máy nổ bỗng thành tiếng
cười dài
Mưa xuống bên ngoài, ngoài cửa
sổ. Những bàn tay níu lấy vòng sắt lạnh
Mỗi ngày chúng ta đứng bên
nhau không quen nhau
Thân mật ngó lên mái tóc rối
nền trời khuya
Ngó vào mắt hoang xa dòng
sông không bờ
(...)
Chuyến xe buýt chạy trong buổi
chiều. Trời mưa, mưa ngoài châu thành.
Không tìm thấy bến không đỗ
lại
Vai áo đã ướt đầy
Tóc em rét mướt
Một ngày mới bắt đầu với tờ
báo phát hành sớm gói trên tay.
Xe còn chạy mưa hoài dòng
sông hoang mắt bỏ cố níu lấy cửa xe...
Một chỗ trên ô-tô-buýt
Que diêm đã bật lên rồi đó,
chúng ta có ngửi thấy hơi ấm quê nhà? Ôi, một chiều mưa, mưa rơi ngoài châu
thành, chiếc xe buýt xanh chạy vào trái tim, dòng sông và những chấm mưa lổ đổ,
buổi chiều xanh lơ màu sương khói, vai áo em mềm ướt hồng da thịt, vùng tóc rối
rét đầy. Em hiền, em hiền như bánh không men, như ngọn tháp giáo đường ngoài xa
kia vươn lên như một búp nến. Hơi lửa nhỏ nhẹ cháy vào lòng ta rét mướt. Xe chạy
hoài dòng sông nuối mắt. Búp nến buồn hiu hắt những hơi mưa. Sợi tóc quệt ngang
vành môi theo đường bay của gió. Những con chim bay vào cõi sa mù.
Tôi muốn viết về Thanh Tâm
Tuyền như ông vẫn còn đang đứng ở đó, bên một cây cầu hay một dòng sông, tay sờ
lên đường viền của những vòng sắt lạnh. Tôi muốn viết về ông như viết về những kỷ
niệm của mỗi một chúng ta. Tôi không nghĩ là thơ ông đã tạo được những rung động
trong đông đảo quần chúng hay được tất cả những người thưởng ngoạn, những người
làm văn nghệ thời đó nhất trí chấp nhận như một giá trị hiển nhiên. Thanh Tâm
Tuyền, và một vài người khác cùng thời với ông, đã có công giới thiệu và làm
bùng nở một dòng thơ tự do đầy sức sống trong một giai đoạn phát triển của văn
học miền Nam. Trong cái nhiệt tình thắp lửa, có những lúc có thể là ông đã phát
biểu cái tiếng nói thơ, chuyên chở tâm tình và sự suy tư của ông, ở những cung
bậc quá khác lạ với những âm điệu vẫn được những người khác - những người cùng
sống ở một thời đại với ông - thường dùng.
Thanh Tâm Tuyền đã được yêu
thương, ca tụng cũng như đã bị lên án và chối bỏ trong những năm ông bám lấy
thơ, coi thơ như một cung cách sống, một nỗ lực để có thể sống cái đời sống của
mình một cách trọn vẹn. Ngoài một số những bài thơ làm sau giai đoạn 1964, chưa
được in thành tập, những bài thơ tiêu biểu nhất của ông, làm trong những giai
đoạn trước đó, đã được ông thu góp trong hai tập Tôi không còn cô độc (1955) và
Liên-đêm-mặt trời tìm thấy (1964). Hai tập thơ đã trình bày trước độc giả con
người của Thanh Tâm Tuyền một cách khá rõ nét. Kiêu căng, ngạo mạn, lạnh lùng,
cô độc, cô đơn, cô lữ, lãng mạn, tha thiết, dằn vặt, yêu thương, khô khan, bùng
cháy, mệt mỏi, hoài nghi, thất vọng, siêu hình, trong sáng, rắc rối, phức tạp,
xót xa, phẫn nộ... Đó là một số từ chúng ta có thể dùng để nói về thơ Thanh Tâm
Tuyền, về Thanh Tâm Tuyền. Ông đã sống thiết tha và vũ bão như vậy. Có những
lúc ông cũng đã cảm thấy mệt mỏi, hoài nghi, và thất vọng, nhưng trong tất cả
những trạng thái sống đó, tôi chưa từng thấy ông sợ sệt.
Như con sư tử và như đứa trẻ
thơ (đúng, Thanh Tâm Tuyền cũng có đôi khi như thế) của Nietzsche, Thanh Tâm
Tuyền đi vào đời sống với tất cả những say đắm, yêu thương, thơ dại và phẫn nộ
chất chứa trong hồn ông. Ông đã được yêu ghét thế nào, chúng ta chắc chẳng cần
nhắc lại. Hãy chỉ nhớ là, bây giờ, Thanh Tâm Tuyền vẫn đang ở tại quê nhà, vẫn
còn canh giữ cho ta những giấc mộng cũ, và những bài thơ của ông, lang thang ở
những xó góc tối tăm nào đó của đời sống, của trí óc ta, lâu lâu vẫn còn khua
gõ những bước chân âm thầm trở về. Và ta lại nhìn ra những bóng mưa của thời
gian xưa cũ, những dòng sông vẫn chảy lặng lẽ, mưa vẫn rơi, mưa rơi nhỏ nhẹ,
mưa rơi ngoài châu thành. Trái tim ta ướt đẫm nước mắt...
Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ
tàn lá về chiều
Khóc thờ ơ ngoài không
trung.
Đọc lại những bài thơ Thanh
Tâm Tuyền, tôi thấy mình yêu và gần ông ở những bài, những đoạn, những ý ông
nói về tình yêu. Thật ra, bài nào của Thanh Tâm Tuyền lại không có tình yêu
trong đó. Tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu mến thiên nhiên, yêu thương con người
nói chung. Tình yêu giữa ánh sáng và bóng tối, tình yêu đồng loại bị dồn nén bởi
sự tàn ác, bất công và nước mắt - nổ bùng ra thành phẫn nộ. Tình yêu làm Thanh
Tâm Tuyền trở nên lãng mạn, và đau khổ, nhục nhằn. Tình yêu xót xa hoà chung với
sự đau khổ vì nỗi đời, vì mệnh nước.
Nói như thế có nghĩa là tôi
gần như yêu hết tất cả những bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, vì có thể nói bài thơ
nào của ông mà lại không chứa đựng tình yêu, tôi lại muốn nói một lần nữa như vậy.
Dù sao, có những bài thơ trong đó ông đã đưa vào quá nhiều những hình ảnh, những
tư tưởng siêu hình, và những điều đó, theo ý tôi, làm bài thơ ông mất bớt đi sự
lôi cuốn. Điều tôi đang nói đây có thể là một điều kỳ lạ đối với một số người
yêu thích Thanh Tâm Tuyền và nghĩ rằng thơ ông chủ yếu ở chỗ siêu thực, như thơ
của Paul Eluard, Breton, Aragon, Rimbaud, Lautréamont... Thật sự, nói chung,
thơ Thanh Tâm Tuyền đúng là rất gần với thơ của các nhà thơ siêu thực của Pháp;
nhưng trong thơ của ông, những bài mà cảm tính và lý tính được diễn ra ở một mức
độ cân bằng, hoặc nghiêng nhiều hơn về phía cảm tính, lại cuốn hút tôi hơn. Những
bài quá nghiêng về lý tính không mời gọi tôi trở lại với chúng nhiều lần như những
bài kia. Như vậy, có phải tôi là con người nghiêng nhiều về cảm tính? Tôi cũng
không rõ. Nhưng nếu tôi là một mẫu người thích để cảm tính ngự trị, chắc tôi đã
không chọn con đường đi vào phân tích, lý luận hay phê bình. Có lẽ, cuối cùng
tôi đã nghĩ, không biết có phải là một sự bất công đối với Thanh Tâm Tuyền
không, là những bài thơ quá nghiêng về lý tính của Thanh Tâm Tuyền, những bài
thơ có vẻ quá sức siêu thực hay siêu hình của ông, làm cho tôi thấy ông bớt đi
sự tự nhiên, tự tại của mình [2]. Những bài thơ ấy che giấu ông lại, thay vì mở
ông ra với nụ cười tiếng khóc, với sự xót xa thương yêu, dằn vặt, phẫn nộ... của
ông. Mà chính những điều ấy lại làm Thanh Tâm Tuyền gần gũi chúng ta hơn.
Hãy đọc ít đoạn thơ cũ của
Thanh Tâm Tuyền, những lời thơ rất cũ gõ cửa trái tim nàng kia, để thấy lại
bóng dáng của tình yêu, sự dịu dàng của bóng tối, những xót xa, đau khổ của nỗi
đời, mệnh nước đan kín lấy nhau.
Hỡi Liên những Liên và Liên
Anh muốn nghe một bài hát buồn
- lời anh không thành điệu - muốn nghe một bản hát buồn. Thí dụ.
Trưa nắng giữa ngã năm ngã sáu có chợ có ga, đường tàu mải miết.
Bóng tối lặng thinh em hát lên làm sao mà chịu đựng, hoa lá
chia sầu. Một góc bàn anh hôn màu gỗ trống.
Hỡi Liên những Liên và Liên
Chẳng là anh ngông cuồng kiếm
tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì
trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu
em vậy em biết không? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà,
làm thế nào để quên được nhau...
Nói về dĩ vãng
Đôi khi ở nơi đất lạ này,
trưa nắng giữa ngã năm ngã sáu có chợ có ga, đường tàu mải miết, tôi chợt rưng
rưng nhớ nhà. Tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho
hết. Người thi sĩ ấy đã cảm ra những điều xót xa bàng hoàng này từ những ngày
xưa. Sự bén nhạy của người thi sĩ đã khiến cho chàng ta được gọi tên như những
nhà tiên tri thấu thị. Những nhà tiên tri này lên tiếng báo trước định mệnh của
con người. Định mệnh có thể mang hình một cây thập tự nhưng cũng có thể là sự
phục sinh. Nó có thể có mùi vị ẩm mốc của những đám lá chết nhưng cũng có thể
có mùi thơm mát của những giọt sương long lanh đầu lá. Lên tiếng nói về những
điều đó là nỗi khao khát đồng thời cũng là chức năng của người thi sĩ. Thế
nhưng, đối với những chế độ đòi hỏi sự đồng phục trong lề lối sống của những
con người mà nó nắm giữ, định mệnh con người phải hiểu là của nhà nước và do
nhà nước định đoạt, ban phát. Thi sĩ không có quyền cất lên tiếng nói để làm
tròn chức năng cũng như để thoả mãn những khao khát của chàng. Thi sĩ bị lưu
đày khỏi quê hương hay bị lưu đày vào đời sống cùng khốn theo cả hai nghĩa đen
và bóng. Ngày xưa, thời Platon, người ta trịnh trọng và lễ phép (giả hình)
choàng vòng hoa vào cổ người thi sĩ, rồi đuổi họ ra khỏi xứ sở. Bây giờ, người
ta không cần triết học, người ta vất bỏ sự lễ phép (giả hình và không giả
hình), người ta tóm lấy cổ thi sĩ và tống chàng vào ngục. Hãy vào trong ngục mà
rao giảng cho bóng tối lòng yêu thương và những điều tiên tri của ngươi, hỡi kẻ
thi sĩ kia. Trong vùng bóng tối đó, ngươi hãy nói lên sự thấu thị của ngươi.
Đâu là sự thật của cuộc đời? Mặt trời đang lên ngoài kia, và ngươi là kẻ ngồi
trong bóng tối. Hỡi kẻ thi sĩ kia, ngươi không sản xuất ra của cải vật chất,
ngươi đòi lên tiếng nói năng gì?!!
Ngày xưa, người thi sĩ đã phẫn
nộ, đã hét lên, đã run lên, đã giận dữ, đã tràn nước mắt... vì những kẻ đòi độc
quyền ban phát sự thật như thế. Hãy nhớ về Hung gia lợi, 1956.
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên
Budapest
Anh một trái tim em một trái
tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa
đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực
em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng
rào
Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như
gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát
tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường
biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Đau dấu đạn
Đêm không bao giờ không bao
giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi
sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong giây xích chiến xa tội
nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên
Budapest
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
những cuộc tình duyên Budapest
Phẫn nộ là phẫn nộ trước sự
đè nén, áp bức và dối trá, bưng bít sự thật. Sự thật của người thi sĩ, sự thật
cháy hoài trong trái tim người thi sĩ là gì? Đó là tình yêu. Tình yêu trong tất
cả mọi thể thái và lốt vỏ của nó: hạnh phúc, đau khổ, hoang mang, xót xa, hoài
nghi, tuyệt vọng, rạng rỡ, âm u, hơi thở, tiếng cười, ngọt ngào, cay đắng, gần
gũi, cách xa, dịu dàng, hung bạo, phương phi, rực rỡ, mệt mỏi, chán chường...
Hãy khép mắt khép mắt thật
khẽ
Có thấy chúng ta rơi vào giấc
ngủ sâu vào những giấc mơ
Hương hoàng lan lẫn mái tóc
người yêu
Xa thành phố bỗng lạc đường
Tại sao cánh rừng cháy tôi một
mình
Người nào ngủ đây người nào
chết đây thân xác tan tành
Hãy khép mắt khép thật kín
Và chúng ta rơi vào cơn ác mộng
một mình
Khai từ của một bản anh hùng
ca
Em gối đầu sương xuống
Chuyện trò bằng bóng hình
Tôi đẹp như hình tôi
Như cuộc đời
Như mọi người
(...)
Em là lá biếc là mây cao là
tiếng hát
Sớm mai khua thức nhiều nhớ
thương
Em là cánh hoa là khói sóng
Đêm màu hồng
Bài ngợi ca tình yêu
Tình yêu trong thơ Thanh Tâm
Tuyền ít khi được nhìn thấy dưới một khía cạnh vẹn toàn. Tình yêu ấy luôn luôn
xao động, sấp ngửa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa chúm môi lá biếc những chòm
hôn vội vàng và con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù, giữa
những
Ngón tay âm thầm trò chuyện
Những bước chân thỏ rừng
Chạy trên cỏ sắc
Sợi tóc đen như một chuỗi cười
và:
(...)
Điếu thuốc bỗng trở niềm hắt
hủi
Khói tím buồn
Vì chiều theo chân em sang
bên kia đồi
Nụ cười mang theo
(...)
Em có biết sau lúc em từ biệt
Điếu thuốc cháy trên môi như
người bạn chết
Hơi nóng khô nhành củi gẫy
tàn...
Tình yêu trong thơ Thanh Tâm
Tuyền còn là tình nhân ái, là lời yêu thương cho những con người cô độc, lẻ
loi, trong bóng tối chảy thảm giọt lệ sầu. Thi sĩ khi nghĩ đến mình, đồng thời,
chàng nghĩ đến những người xung quanh. Nhìn cuộc lênh đênh chìm nổi của người
khác, chàng nghĩ đến cuộc lang thang, nỗi cô đơn của chính mình. Những mơ-ước-hoài-nghi-ngọt-ngào-cay-đắng-thiết-tha
cứ thế quyện lấy trái tim chàng.
Tôi biết những người khóc lẻ
loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không
rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời chỉ có trời sao là
đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh
đôi mắt em
đến ngày cuối
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những
trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt
ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh
tay em
vòng ân ái
đôi khi anh muốn tin
ôi những người khóc lẻ loi một
mình
đau đớn lệ là những viên đá
xanh
tim rũ rượi
Lệ đá xanh
Trong ngôn ngữ tình yêu của
Thanh Tâm Tuyền, những sợi tóc không còn chỉ là những sợi tóc, những sợi tóc
đen như một chuỗi cười. Những giọt lệ không còn là những giọt lệ, nhưng lệ là
những viên đá xanh. Và môi em là trái cây ngọt ngào. Cánh tay, thân thể em là cỏ
hoa quyến rũ. Buổi chiều không còn đứng yên, nhưng chiều theo chân em sang bên
kia đồi. Và bệnh viện mắt kín mưa đêm. Đêm trong thơ Thanh Tâm Tuyền, như thế,
có một thân xác và một linh hồn.
Đêm hiền từ nhỏ to trên trán
Màu đen sáng đủ ngó vào nụ
cười
Có đấy không này em mưa chan
hoà
Trên ngực trên ngực em bát
ngát
Thân thể người con gái, người
đàn bà trở thành một cái gì vừa cụ thể, gần gũi, có thể ăn cắn như một thứ trái
cây, có thể ngửi được, vùi đầu vào được, sờ mó, nâng niu, vuốt ve được..., vừa
trở nên một cái gì trừu tượng hoặc thanh thoát xa vời:
Da trắng như tiếng hát ở
trên trời...
Anh cúi xuống hôn cánh môi
tím màu đêm mà thương nhớ...
Đừng trói anh vào trần gian
bằng mắt em nhìn kia...
Người đàn bà rũ tóc thành một
cơn bão mặn
Hương nồng chiều dòng kinh
mùa hè...
Tất cả những sự chuyển dịch,
biến hoá từ hơi thở của tình yêu ấy luôn luôn kéo thi sĩ vào thiên nhiên. Một
thiên nhiên khi thì trong xanh, bừng lên sáng sủa như một tiếng chim, nhưng
cũng có những lúc cái thiên nhiên ấy lại chỉ hiện ra ở những hình thể sắc cạnh,
chỉ là những khối gỗ, sắt vô tri.
Trước hết, đây là thiên
nhiên mềm, mở tung cửa sáng vào trời xanh. Tiếng mưa gõ nhịp lách tách vào mắt
em.
(...)
Cửa sổ trời những mắt chưa
quen
trán hoang đồng cỏ
run đường môi kỷ niệm
đi qua những thành phố đầy
tim
cười đổ mưa một mình
Của em
Hay là thiên nhiên của mùa về
với những bông mía trắng phất phơ hay đám lau buồn lắt lay trong gió.
(...)
Ai xui rằng mùa măng chưa tới
Mà mùa về măng thôi chẳng ngọt
Vườn măng rừng tháng sáu đêm
sâu
Muốn làm người học trò mười
bảy tuổi
Đạp xe trên đường đồng
Bông mía trắng những căn nhà
ngủ dưới cây...
Bao giờ
(...)
Tuổi ấu thơ hòn cù lao xa
khuất
Và tình yêu như đám lau buồn
Vàm sông nước xoáy như tiếng
cười thầm
Ở sau lưng ở trước mặt
Anh thả người trôi nổi
Sầu khúc
Đó là những mảnh thiên nhiên
hiền lành, thơ mộng, hoặc buồn bã, nhưng trong chúng, người ta vẫn thấy một cái
gì thân mật, gần gũi. Nhưng đó là khi con người còn giữ lại được mình. Khi người
ta cảm nhận được sự mất mát, xa lạ của mình đối với chính mình, khi người ta thấy
mình đang bị cái thiên nhiên của sắt thép gỗ đá, của tiếng cơ khí chạm vào nhau
và phát ra tiếng kêu của một loài sắt lạnh, của những cao ốc, những cột đèn...
bao phủ lấy họ, người ta không còn thấy được nét mềm mại thơ mộng của thiên
nhiên nữa.
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng
ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu em đi xa
Đi đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Đi đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Để anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh (...) ôm em trong tay mà
đã nhớ em
ngày sắp tới.
Chiếc kèn hát mãi than van
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt
vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bầy...
(...)
Anh đưa em đi trốn
Những dày vò ngày mai
Dạ khúc
Khi người ta ý thức được
tình trạng bị mất mát, bị xâm chiếm, bị tha hoá của mình thì người ta hoặc là
chạy trốn, hoặc chống cự lại, hoặc là trở nên chai lì, mất hết rung động trước
những hiện hữu quanh mình. Lòng trở nên dửng dưng, hoang vắng.
(...)
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống
dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
Con thuyền xuôi
Chiều không xanh không tím
không hồng
Những ống khói tàu mệt lả
Bao giờ
Trước một đời sống đang bị
cuộn tròn vào tiếng cười của cơ khí, của tiếng động cơ xô anh vào bẫy, trên cát
lầy lún mãi, tuổi thiếu niên chạy về nhảy múa trên tóc anh và gọi, có những lúc
người thi sĩ đã dửng dưng một cách xót xa như thế, buổi chiều bây giờ trở thành
dửng dưng, như lòng ta dửng dưng nhìn những ống khói cơ khí kia kiệt sức. Màu sắc
thường làm dậy lên những rung động trong hồn người. Buổi sáng sắc xanh, buổi
trưa sắc trắng, buổi chiều sắc tím, hay hồng. Cũng có khi yêu đời, người ta thấy
buổi chiều sắc xanh, hoặc đang yêu người, ta thấy chiều lên sắc hồng; còn khi
người ta buồn hoặc để lòng mình lãng mạn vu vơ bập bềnh tiếng sóng, người ta thấy
chiều tím. Chiều không xanh không tím không hồng,
ấy là chiều đã không còn chỗ trú ngụ trong lòng người. Chiều đã đi ra ngoài trí
nhớ. Chiều đã trở thành một thực thể biệt lập, ngoại tại. Và chiều dửng dưng:
Em biết không?
Em biết không?
Trong ngục tù giam giữ những
than van
Người ta kêu một mình
Thành tiếng động rửng rưng đống
sắt rỉ hoen rơi đổ
Não óc anh hàng chấn song
nguyền rủa
Khi em đi qua những đường phố
dẫm nát những giấc mộng theo đòi
Hy vọng dội lên trong mọi hồi
trống rỗng
Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ
tàn lá về chiều
Khóc thờ ơ ngoài không
trung...
Sầu khúc
Nhưng Thanh Tâm Tuyền không
để cho những tù ngục của mệt mỏi, dửng dưng ấy giam giữ ông. Ông bám vào tình
yêu, vào sự lãng mạn của mình. Đó là chiếc chìa khoá giúp ông mở tung những
cánh cửa của chán nản, của tuyệt vọng, của mệt mỏi, của sự đồng phục trong đời
sống, của những sắt thép gỗ đá và những mệnh lệnh liên tiếp được dựng lên, tung
ra để cầm nắm, để giam giữ tâm-ý-thể con người. Khuôn mặt tình yêu có trong
sáng hay buồn bã, đôi mắt tình yêu có rạng rỡ hay thảm sầu, chàng thi sĩ vẫn
tìm ra ở đó những phúc âm của đời mình.
(...)
Hãy ngửa khuôn cổ tròn như một
cành hoa trắng,
anh đeo vào đây vòng ca ngợi
Hãy chìm mắt xuống những lớp
nhớ nhung
như biển lớn anh đang dâng
Hãy đặt bàn tay mười ngón lửa
sưởi lên môi anh từng lạnh
giá bởi những lời đã thốt
Anh sẽ hôn em, thời khắc hạnh
phúc vẫn mong manh
Bởi con chim vẫn giam trong
lồng ngực vừa được bay nên bay mau hơn ánh sáng, anh nhìn
được mắt em tuyệt vời tận muôn nghìn quá khứ. Bởi con chim đã bay kịp thời-gian
nên chậm lại, anh nhìn thấu hồn em trong suốt những
mai sau.
Bởi con chim còn xoè cánh liệng
tròn, anh thâu nhận hết em qua vô vàn hình ảnh
Liên-đêm-mặt trời tìm thấy
Anh đưa tiễn em, gửi theo những
giấc mộng giấu kín hết đời. Em lên đường và anh chỉ còn
chân tay tẻ nhạt vô duyên như xứ sở tang thương vì bom đạn.
Chiều trên phi trường
Trong tình yêu riêng của
mình, Thanh Tâm Tuyền đã sống và chết trong đời sống như thế, đã hạnh phúc và đớn
đau như thế, nhưng người thi sĩ ấy không để tình yêu che mờ hết những rung động
khác trong con người chàng. Thanh Tâm Tuyền đòi hỏi tự do. Tự do trong mọi thể
thái của nó. Người thi sĩ ấy đã làm thơ, và thơ của ông trước tiên là một sự
phá bỏ những xiềng xích cũ. Sự cân đối, mực thước, cùng nhịp điệu, lối gieo vần
của những thể thơ cũ có lẽ đã cản trở Thanh Tâm Tuyền trong cách diễn đạt những
tư tưởng vỡ bờ, những lề lối suy nghĩ nằm ngoài khuôn phép của ông. Thanh Tâm Tuyền
muốn cho hơi thở mình được tự do, tư tưởng mình được phóng khoát, nên ông đã đẩy
thơ tự do của ông, thời ấy, vào những con đường hết sức mới lạ. Dĩ nhiên là
Thanh Tâm Tuyền không thể thoát khỏi ảnh hưởng của những trào lưu Tây Phương
đang ghi những dấu ấn trên tâm thức của thanh niên thời đó. Nhưng việc ông can
đảm đưa vào thi ca chúng ta thời ấy những thể mới, ý mới như ông đã làm cũng đã
cho chúng ta thấy tính cách khai phá của ông.
Trên đường đi tìm một tự do
hằng khao khát, Thanh Tâm Tuyền, như bất cứ ai chọn cuộc lên đường đầy thử
thách để tìm một dải đất mới cho mình, đã có những lúc phẫn nộ. Có những phẫn nộ
chính đáng, trong đó có những mầm hạt cho một hạnh phúc ước mơ sau này. Có những
phẫn nộ vô lý, vô cớ, không dựa trên một lý do chính đáng nào cả. Nhưng thật sự
ra thì phẫn nộ, phản kháng là yếu tính của con người nghệ sĩ, của kẻ sáng tạo.
Tôi thấy, ở một mức độ nào đó, sự phản kháng của Thanh Tâm Tuyền có một số nét
gần gũi với cung cách phản kháng của Albert Camus.
Trong Con người phản kháng
(L'homme révolté), và trước đó, thể hiện trong Kẻ xa lạ (L'étranger), Camus đã
trình bày ý nghĩa của cung cách phản kháng này. Nhiều người và nhiều nhà phê
bình đã không hiểu rõ ý nghĩa phản kháng trong các tác phẩm của Camus nên đã
đưa ra những bàn cãi và phê bình đi ra ngoài những điều ông muốn nói, và bởi thế,
đã thất bại trong việc đánh giá các tác phẩm của ông. Bây giờ, sau khi những
bàn cãi sôi nổi đã lắng xuống, Albert Camus đã chết, và tác phẩm của ông đã được
xếp vào loại những tác phẩm chứa đựng những giá trị thâm sâu và nhân bản nhất của
con người [3], người ta mới nhìn kỹ hơn những ý nghĩa mà Camus đã mang đến cùng
với từ "phản kháng" trong văn chương ông. Camus đã không dùng từ này
theo nghĩa vẫn được chấp nhận. Sự phản kháng của ông không trực tiếp để chống lại
cái khát vọng có tính cách lãng mạn để thăng hoa và tiêu diệt những giới hạn
ràng buộc con người. Sự phản kháng này nhắm thẳng vào tất cả những âm mưu, những
sức cản làm giảm bớt đi cái khả năng của con người trong việc nắm bắt những cơ
hội để sống hạnh phúc trong vòng những giới hạn ấy. Những kẻ thù mà Camus vạch
mặt và không ngừng chiến đấu để chống lại là tất cả những sức mạnh làm đông cứng,
mô-mi-hoá con người, cho dù bất cứ những sức mạnh này ở dưới dạng nào - tinh thần,
cá nhân, hay định chế - bắt nguồn từ sự vô cảm, mơ ngủ, hay từ những mạng lưới
chằng chịt của các ý thức hệ, xanh hay đỏ, của thời đại này nhằm trói buộc và cầm
bắt tâm-ý-thể con người. [4]
Hãy đọc lại Hãy cho anh khóc
bằng mắt em những cuộc tình duyên Budapest để thấy sự phản kháng này của Thanh
Tâm Tuyền. Hay là đọc bài sau đây
Ngực anh thủng lỗ đạn tròn
lưỡi lê thấu phổi
tim còn nhẩy đập
nhịp ba nhịp ba nhịp ba
tình yêu tự do mãi mãi
(...).
núi cao uốn cây rừng
nhịp ba nhịp ba nhịp ba
tình yêu tự do mãi mãi
đất nước ào ào vỗ nhịp
triều biển chập chùng
Hà Nội Huế Sài gòn
ôm nhau nức nở
(...).
nhịp ba
tình yêu
tự do
mãi mãi
tình yêu tự do mãi mãi
tình yêu tự do mãi mãi
tình yêu tự do
mãi mãi anh ơi
Hoặc sự phản kháng của Thanh
Tâm Tuyền trước những bất hạnh, những bất công, những bất túc của lương tâm con
người. Trong lời phản kháng này, ta vẫn còn nghe ra một niềm hy vọng.
Một người da đen một khúc
hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những dòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng
kèn đồng
Bằng giọng của máu của tuỷ của
hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lời rừng mãi
trống không
(...).
Vì Blues không xanh vì điệu
Blues đen
Trên màu da nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy máu thầm kín
khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn như
một bùa thiêng
(...).
thế giới va chạm những loài
kim réo gọi
Thời gian mềm
không gặp thời gian
Không gian quay thành những
vòng kỷ niệm
Rồi một buổi nào Blues hiện
về xanh
Đen
Và sau đây là một cơn phẫn nộ
vô cớ. Nào ai có biết tôi phẫn nộ gì. Cuộc đời này lúc nào cũng chật hẹp, tù
túng, người nhìn người hau háu những móng vuốt giơ ra. Tôi phẫn nộ với tất cả mọi
thứ đảo lộn hay đã được sắp xếp để đặt vào thế giới này. Hãy hét lên cho nguôi
giận.
Tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ
sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm
tội lỗi... [5]
Phục sinh
Ngôn ngữ của Thanh Tâm Tuyền
mạnh và chắc; nhịp điệu sắc gọn ở những bài mang ý phẫn nộ. Trong những bài nói
chuyện yêu đương chan chứa, những hình ảnh dịu được đưa vào đã giúp điều chỉnh
giọng thơ. Chính Thanh Tâm Tuyền cũng có nói xa gần đến điều này khi bảo thơ tự
do "không gieo vần lối đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách
xa (có thể đi tới khác âm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một
toàn thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo
dài hơn các hơi thơ khác" [6]. Ngoài ra, cũng trong đoạn trình bày về thơ
tự do, cũng như về thái độ, cung cách làm thơ của mình, như Võ Phiến đã dẫn
trong Văn học Miền Nam, Tổng quan (Văn nghệ 1986), trong tập Liên-đêm-mặt trời
tìm thấy, Thanh Tâm Tuyền cũng nhắc đến một thứ nhịp điệu gọi là nhịp điệu của
hình ảnh, một thứ nhịp điệu khác là nhịp điệu của ý tưởng, cả hai thứ này là sự
thể hiện của nhịp điệu của ý thức.
Tôi nghĩ là Thanh Tâm Tuyền
cũng đã khá hào hứng khi nói về những bài thơ cũng như những khám phá của mình
- mặc dù nhiều điều trong những suy nghĩ của ông rất đáng cho chúng ta lưu ý.
Nhưng, thật sự, như tôi đã nhận xét ở trên, trong những bài có chủ ý rõ là nói
về tình yêu nam nữ, tình yêu đôi lứa, Thanh Tâm Tuyền vẫn dùng những nhịp gãy,
nhịp trắc trở, những dấu nhấn khác thường so với những thể thơ cũ. Nhưng những
hình ảnh rất đẹp và lạ và mới trong những bài thơ này đã làm cho cả bài thơ mềm
đi và bay lên như một tiếng chim vào cửa sổ trời mở rộng.
Đọc kỹ, thật sự, ở một số
bài, người ta vẫn thấy Thanh Tâm Tuyền còn sử dụng những vần hoặc nhịp điệu của
thơ cũ. Những bài này không nhiều, nhưng vẫn có. Và vẫn rất đáng yêu. Hãy đọc lại
năm câu thơ này:
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống
dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
Con thuyền xuôi
Chiều không xanh không tím
không hồng
Những ống khói tàu mệt lả.
Bao giờ
Vần vẫn còn đấy, mặc dù nhịp
điệu có được làm cho sai khác đi. Đoạn thơ sau đây cũng thế. Vần vẫn còn đó,
nhưng nhịp điệu đã được chuyển hoá đi làm cho khác lạ, tạo nên những syncopes
như trong âm nhạc. Những âm được sử dụng cũng là những âm chõi, cùng với những
nhịp nhấn khác lạ, làm cho bài thơ toát ra một cảm giác buồn bực, dồn nét, bứt
rứt. Tất cả những điều đó dọi phóng thành một cảnh buồn, chiếu mãi trong tâm thức
người đọc. Những cảnh này được tạo nên bằng những bức ảnh đen trắng hoặc có màu
xám xịt. Tiếng lóc cóc của vó ngựa trên đường về huyệt mộ và tiếng kèn
harmonica nổi bật lên trong bối cảnh này.
Khi đêm chạy trở lui
Người nào thổi harmonica
Tôi đến bằng mọi cách
Tiếng kèn khóc oà
Mưa bẩn sân ga
Toa tầu hạng ba
Chuyến xe hàng ốm yếu
Thổ mộ con ngựa già
Đường mòn đưa đến huyệt
Đứa trẻ con thổi harmonica
Trong hoàng hôn tóc rối
Tiếng kèn khoá oà...
Sầu khúc
Tôi đã yêu thơ, đã làm thơ,
và đã đọc thơ của nhiều người. Càng đọc nhiều tôi lại càng yêu nhiều. Càng yêu
nhiều, tôi lại cứ muốn đọc mãi. Thơ làm cho ta yêu cuộc sống hơn, thiết tha với
sự sống hơn. Nếu thơ không làm được những điều đó, không gợi lên trong lòng người
đọc những tình cảm đó, thơ không đạt đến cứu cánh của nó nữa.
Thơ Thanh Tâm Tuyền cho tôi
nhiều cảm xúc. Mỗi lần trở lại với thơ ông, tôi đều tìm ra một nét gì mà tôi đã
chưa hề thấy trước đó. Bởi những ý tưởng, những hình ảnh Thanh Tâm Tuyền sử dụng
thường không nằm trong những ước lệ của tiếng nói hay của lối suy tư hàng ngày,
ta thường không nhìn ra được hết cái chân diện mục của chúng. Gần gũi với trường
phái thơ siêu thực của Pháp, những hình ảnh mà Thanh Tâm Tuyền sử dụng trong
thơ ông cũng, phần nào, có tác dụng của những đường nét trong những bức tranh
siêu thực của các hoạ sĩ thế kỷ 20. Dù sao, nếu nhìn dưới khía cạnh hội hoạ,
tôi nghĩ chúng ta đều thấy rằng những "bức tranh cất tiếng" [7] của
Thanh Tâm Tuyền có nhiều nét gần gũi với các bức tranh của những hoạ sĩ siêu thực
lớp sau như Max Ernst, René Magritte, Salvador Dali, Pierre Roy... hơn là với
những hoạ sĩ siêu thực lớp trước như Jean (Hans) Arp [8]. Nói về tính chất siêu
thực trong văn chương, cũng như trong các thể thái khác, có lẽ không ai có thẩm
quyền hơn André Breton. Ông định nghĩa: tính cách siêu thực là cái tính cách tự
động thuần tuý xét trên mặt tâm linh, qua đó, nó được diễn tả ra hết sức rõ
ràng - bằng chữ viết, hoặc bằng bất cứ một thể thái nào khác - cái tiến trình
tư duy thật sự của con người. Đây là tiếng nói của bất cứ một hình thái thẩm mỹ
hay đạo đức nào. Được sáng tạo ra từ những thúc đẩy ở ngoài phạm vi luận lý và
lấy chất liệu từ tiềm thức và từ những thị kiến nghệ thuật, các thi sĩ hoặc hoạ
sĩ thuộc trường phái siêu thực đã sáng tạo nên những tác phẩm xuất phát từ những
mơ mộng thuần tuý của họ về một thế giới mà họ mong ước đạt tới. Tác phẩm của họ
không còn nằm trong phạm trù thực tại mà đã bước chân sang một biên địa khác,
có những lý tưởng, những ước mơ, và ngay cả những ảo vọng nữa. Đây là những con
chim vô hình đập cánh và bay vào cõi vô biên, để rơi lại những tiếng hót vương
vất trong cõi trần gian.
Thơ Thanh Tâm Tuyền, ở một số
khía cạnh, đã bay nghiêng về những vùng không gian đó. Còn ông, trong chốn trần
gian tăm tối và đầy lệ thảm kia, nơi tất cả những tiếng nói bình thường của con
người đang bị bóp nghẹt hay bóp méo, nơi những trái tim không còn được tiếp tục
nhẩy đập những nhịp yêu thương cũ, ông sẽ ra sao?
Những câu thơ tiên tri ngày
nào có trở về trong đời sống kẻ thi sĩ?
Những giấc ngủ xiềng xích
Cuộc lưu đày thêm xa
Tôi trốn về lẩn lút
Đất đai không tìm ra
Đâu cũng toàn quỷ sứ
Riễu cợt tôi ngây ngô
Cớ sao nhà ngươi khóc
Muốn làm người là điên
Con người thì cô độc
Không phép thuật nhiệm mầu
Tôi khóc mặc tôi khóc
Bầy quỷ nhảy xung quanh
Tôi khóc hoài tôi khóc
Và chúng nó phát điên
Chúng tước lấy tiếng nói
Giam tôi trong bóng tối.
Và tôi đi lang thang
Tôi đi tìm tiếng nói
Cho cổ họng của tôi
(...)..
Tôi nhìn người tuyệt vọng
Tôi nhìn người khẩn cầu
Linh hồn tôi rách nát
Lời nói còn ở đâu....
Liên-đêm-mặt trời tìm thấy
Thanh Tâm Tuyền, ngay trong
những ngày xưa, thời ông còn được tự do làm thơ hạnh-phúc-yêu-thương-phẫn-nộ,
đã cho thấy ông là một con người đã từng nếm nhiều trái-cây-đau-khổ. Tôi nghĩ
là ông đã đọc nhiều, đi nhiều, thấy nhiều, cảm nhiều, mơ mộng nhiều, suy nghĩ
nhiều, nhớ thương nhiều... Ông đã sống nhiều và ông đã trải đời sống mình ra
thơ. Con người ấy, nhìn ở một góc cạnh nào đó, có những lúc ngạo mạn, vô lý, rừng
rú, nhưng cũng có những lúc sôi nổi, thiết tha, đắm đuối, dịu dàng.
Để tóm kết bài viết này, tôi
muốn ghi lại những dòng chữ sau đây của Rainer Maria Rilke. Người thi sĩ Đức
tài hoa và tha thiết ấy đã nói những lời hết sức thật và sống động về thơ, về sự
làm thơ:
Người ta phải chờ đợi và gom
góp những cảm xúc và sự dịu ngọt của cả đời dài, có khi cả một đời người, tới
lúc đó, ở cuối cuộc gom góp đó, người ta mới có thể viết được mươi câu thơ hay.
Bởi lẽ, thơ, không phải như người ta tưởng chỉ là những cảm xúc giản dị, mà nó
chính là kinh nghiệm.
Để có thể viết được một câu
thơ, người ta phải thấy bao nhiêu là thành phố, bao nhiêu là người là vật, người
ta phải hiểu biết về loài vật, người ta phải cảm được sự sung sướng của con
chim bay và biết được những cánh hoa nhỏ bé đã mở mắt chào đón bình minh như thế
nào. Người ta phải có khả năng nhớ lại những con đường ở những xứ sở xa xôi mà
người ta đã đi qua, những gặp gỡ bất ngờ và những chia tay xa tắp trong trí nhớ.
Người ta phải có khả năng nhớ lại được những ngày niên thiếu với những dấu vết
khó giải thích, nhớ lại những bậc sinh thành mà người ta đã làm cho đau khổ khi
những bậc sinh thành này mang đến cho người ta niềm vui mà người ta không thèm
đón bắt, nhớ lại những cơn đau yếu hết sức kỳ lạ bắt đầu bằng một số những thay
đổi sâu xa và trầm trọng, nhớ lại những ngày người ta ẩn kín, im lặng trong
phòng, nhớ lại những buổi sáng bên bờ biển, những biển hồ sông rạch, nhớ lại những
buổi tối lang thang đã bay qua đời người ta rồi bay tuốt lên trời cao với những
vì sao (...). Người ta phải có những kỷ niệm về những đêm yêu đương, không đêm
nào giống một đêm nào, có những hồi tưởng về những tiếng la hét của phụ nữ
trong khi sinh đẻ, và về những người đàn bà nhẹ hẫng, tái nhợt, nằm thiêm thiếp
trên giường với em bé ở bên. Nhưng người ta cũng cần phải có kinh nghiệm ở bên
cạnh một người đang chết, người ta cần phải có kinh nghiệm ngồi bên cạnh một
người đã chết rồi trong một căn phòng có cửa sổ mở tung ra những cơn ồn ào từng
chập. Nhưng chỉ có hồi niệm không vẫn chưa đủ. Người ta phải có khả năng để
quên chúng đi khi chúng trở nên quá nhiều, quá đầy trong óc người ta, và người
ta phải có lòng nhẫn nại để chờ cho đến khi chúng quay trở lại. Bởi vì đấy chưa
phải là hồi niệm đâu. Chúng chỉ là hồi niệm khi chúng biến thành máu chảy trong
trái tim, trong thân thể người ta, khi chúng trở thành cái nhìn và những điệu bộ,
không tên tuổi và không còn có thể tách thoát, phân biệt khỏi chính chúng ta.
Chỉ tới lúc đó người ta mới có thể bất ngờ, trong một thời khắc hiếm hoi nào
đó, viết ra chữ đầu tiên của một câu thơ đang bắt đầu ngoi lên từ trong những
vùng âm u mờ mờ sương đục của hồi niệm và chảy tràn ra ngoài. [9]
Thanh Tâm Tuyền đã dâng hiến
cho đời nhiều dòng thơ rất đẹp, những câu thơ đau khổ và phẫn nộ, hạnh phúc và
thương yêu của ông làm cho ta chảy nước mắt. Nhưng nếu Thanh Tâm Tuyền chỉ có
được mươi câu thơ hay, ông cũng xứng đáng cho ta yêu mến và cảm phục, bởi lẽ
ông đã sống, đã tân toan trong đời sống, đã chịu đựng và gìn giữ tất cả để trở
nên một thi sĩ.
Hãy choàng vào cổ thi sĩ một
vòng hoa và hãy để chàng ngồi giữa chúng ta trong cuộc đời này.
Thi sĩ, hãy cho ta khóc bằng
mắt anh những cuộc tình duyên và những đời người khốn khổ!
[1] Bài này được viết vào năm
1986, khi Thanh Tâm Tuyền còn sống tại Việt Nam, chưa định cư tại Mỹ.
[2] Thật ra, có thể nói tính
chất siêu thực thường không dung nạp lý tính. Siêu thực ở ngoài lý trí. Thế
nhưng, những đoạn thơ mà nhiều người nghĩ có vẻ “siêu thực” nhất của Thanh Tâm
Tuyền lại chứa đựng đầy lý tính. Và hình ảnh trong những bài này thường mang
màu sắc ẩn dụ. Xin xem Liên-đêm-mặt trời tìm thấy ở các bài “Hơi thở”, “Thành
phố”; “Bài không tên” ở trang 72, đoạn 10,; “Sầu khúc”, đoạn 5; “Từ chối”; “Bài
không tên” trang 113-123.
[3] Trong một tiểu luận tựa đề
là “Camus in America”, Serge Doubrovsky đã cho rằng Camus là một nhà văn vĩ đại
của nước Mỹ. Và mặc dù Camus đương nhiên là một nhà văn lớn của Pháp, nhìn dưới
khía cạnh quần chúng, ông vĩ đại hơn nữa trong lòng người Mỹ. Trường hợp đặc biệt
và độc nhất của Camus được tạo ra do một sự liên đới cảm nhận và chia sẻ giữa
Camus, tác phẩm của ông và quần chúng Mỹ. Cái chết đột ngột của Camus làm chấn
động bất cứ một con người nào có suy tư. Chưa nói đến phản ứng của giới văn học,
có nhiều người bình thường đã nước mắt đầm đìa khi nghe tin Camus chết; có những
người khác thề nhịn ăn trong nhiều ngày. Trên nước Mỹ, nơi văn chương chỉ được
coi là một hoạt động có tính cách phụ thuộc, cái chết của Hemingway và Faulkner
không để lại những giọt nước mắt. Chưa nói là một tác giả ngoại quốc, một nhà
văn nổi tiếng của Mỹ chết đi cũng không gây xúc động gì lắm trong lòng quần
chúng Mỹ cho bằng cái chết của một tay chơi football hồi hưu. Trường hợp Camus
là trường hợp đặc biệt và độc nhất Camus in America”. Trích N.R.F., XCVIII
(01/02/1961), 292-296, Ellen Conroy Kennedy dịch ra Anh văn).
[4] Xem Germaine Brée,
Introduction to Camus, Prentice Hall, Inc. 1962.
[5] Thật sự, Thanh Tâm Tuyền
không phải là người đầu tiên tự gọi tên mình một cách đau khổ trong thơ. Trước
đó, một nhà thơ khác cũng đã tự gọi tên mình một cách thống khổ như thế. Xem
Federico García Lorca, “Thơ ở New York”, “Đất và trăng”.
Quiero llorar porque me da
la gana
como lloran los ninos del
último banco
porque yo no soy un poeta,
ni un hombre, ni una hoja
pero sí un pulso herido
(...)
Quiero llorar diciendo mi
nombre,
Federico García Lorca, a la
orilla de este lago...
(Tôi muốn khóc bởi vì tôi muốn
khóc
như những đứa trẻ con khóc
buồn trên những tay ghế dựa của những
kẻ ngẩn ngơ
bởi vì tôi không là thi sĩ,
cũng chẳng là con người, chẳng là cánh lá
nhưng chỉ là cái nẩy bật chảy
máu của một vết thương (...)
Tôi muốn khóc và gọi tên tôi
Federico García Lorca, bên bờ
hồ này... )
[6] Xem Liên-đêm-mặt trời tìm
thấy, 1964.
[7] Chữ của Plutarch (diễn lại
ý của Simonides): “Painting is mute poetry, and poetry a speaking picture”,
Irving Babbitt, The New Laokoon, Boston and New York, 1910.
[8]Những họa sĩ siêu thực đầu
tiên, trong nỗ lực diễn tả những kinh nghiệm nội tâm, ở bên ngoài ý thức, đã đi
theo con đường sử dụng các kỹ thuật của tâm lý học hiện đại. Sơn hay mực được vẩy
đổ trên vải vẽ không có một mục đích để tạo một hình thể rõ rệt nào trong óc
người sáng tạo. Những mảnh giấy nhỏ cũng được xé ra và thả xuống mặt tranh, tạo
nên những sự kết hợp bất ngờ. Nhà nghệ sĩ siêu thực hy vọng rằng những sự kết hợp
bất ngờ đó có thể là chìa khoá mở toang cánh cửa tiềm thức của họ. Những họa sĩ
siêu thực lớp sau phát triển tính cách siêu thực theo một kỹ thuật khác. Họ diễn
tả lại cái thế giới của những giấc mộng mà họ có qua nỗ lực thực hiện những bức
tranh tiến đến độ chính xác và rõ ràng như sự chính xác, rõ nét của một tấm ảnh
chụp. Mặc dù có vẻ đứng ở một cực bên kia với những họa sĩ siêu thực đầu tiên
trong kỹ thuật sáng tạo, những họa sĩ siêu thực lớp sau này cũng nhấn mạnh rằng
hình ảnh trong tranh của họ là những hình ảnh tự phát, tự sinh, và có những
liên hệ trực tiếp với những kinh nghiệm vô thức của thế giới nội tâm họ
[9] Rainer Maria Rilke, The
Notebooks of Malte Laurids Brigge, M.D. Herter Norton dịch ra Anh văn (W.W.
Norton & Company, Inc., 1949)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét