Cổng làng của thi sĩ Bàng Bá
Lân:
Tuyệt phẩm về làng quê Việt Nam!
Đề tài Quê hương có lẽ
trong âm nhạc, mức độ phát huy hiệu qủa không kém Văn chương. Ngay từ những
năm 30 – 40 của thế kỉ trước, trong khung cảnh Quê hương còn ’’binh lửa’’,
nhạc sĩ Hoàng Giác đã cho ra đời bài hát mà nét nhạc thấm đượm tình yêu quê
hương, lời ca khơi dậy trong lòng người nghe nhớ thương da diết:
Ai qua miền quê binh khói
Nhắn giúp rằng nơi xa xôi
Tôi vẫn mơ lùm tre xanh ngắt...
Một nhạc sĩ khác - tôi
không nhớ tên - viết trong ca khúc Làng Tôi của ông:
Làng tôi có cây đa cao ngất
từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn
quanh, êm xuôi về nam
Làng tôi bao mái tranh san
sát kề nhau
Bóng tre ru bên những hàng
cau: Đồng quê mơ màng...
Hình như Nhạc sĩ Phạm Duy
- viết về làng mình trong một ca khúc nói về Quê nghèo:
Làng tôi, không xa kinh kỳ
sáng chói
Có những cánh đồng…
có lũy tre còm…
Nhạc sĩ Văn Cao lại viết về
Làng mình theo cảm nghĩ của ông khi quê hương bị quân Pháp dày xéo:
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung…
Đời đang vui đồng quê yêu
dấu
Bóng cau với con thuyền một
giòng sông
Nhưng thôi rồi…
Và còn rất nhiều người viết
về quê hương, khói lửa, chiến tranh liên miên hơn 30 năm... Khi đất nước hết
cơn binh lửa, các nhạc sĩ lại tiếp tục đề tài muôn thuở - Quê hương.
Đổ Trung Quân viết bài thơ
quê hương được nhạc sĩ Gíap Văn Thạch dùng làm lời cho bài hát nổi tiếng cũng
mang tựa đề - Quê Hương:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc…
Quê hương là con đò nhỏ…
Quê hương…
Quê hương…
Và gần đây nhất, nhạc sĩ
Phó Đức Phương viết bài hát Về Quê, nét nhạc tha thiết, lời ca mộc mạc, gỉan
dị mà rung động lòng người:
Theo em anh thì về, thăm lại
miền quê
Nơi có một triền đê, có
hàng tre ru khi chiều về…
Ơi quê ta bánh Đa, bánh
Đúc
Nơi thảo thơm đồng xanh
trái ngọt
Nơi tuổi thơ đẹp bao giấc
mơ
Ơi quê ta dầu sương dãi nắng,
Phiên chợ nghèo lều mái
tranh xiêu
Kìa dáng ai như
dáng chị, dáng mẹ tôi…
Thế nhưng: Chưa có bài
thơ, bài hát nào gợi cho tôi nhớ về Làng tôi bằng bài thơ Cổng Làng của thi
sĩ Bàng Bá Lân. (được nhà biên khảo Hoài Thanh đưa vào Thi Nhân Việt Nam xuất
bản năm 1941).
Bởi vì cái cổng làng trong
thơ của cụ đúng là cổng của làng tôi, mặc dù cụ quê ở đâu tôi không hề biết.
Hình ảnh xung quanh chiếc Cổng làng chính là những hình ảnh mà tôi đã chứng
kiến: Qủa là vào một buổi chiều mùa thu cách đây hơn nửa thế kỉ, tôi đã từng
đứng hóng gió mát ở Cổng Làng như cụ Bàng miêu tả:
Chiều hôm đón mát cổng
làng
Gió Hiu hiu thổi (1), mây
vàng êm trôi
Đồng quê vờn lượn chân trời
Đường quê quanh quất bao
người về thôn
Lúc đó độ mươi tuổi.
Cái tuổi mới cắp sách đến
trường tiểu học ở làng bên, thời học sinh viết bút ngòi ‘’’mỏ (chim) sẻ’’, chấm
mực tím trong lọ. Sau buổi học, mực dây đầy tay, đầy quần áo… Quanh nhà tôi,
xóm tôi - bạt ngàn cây ăn qủa. Trên cành chim hót, hoa nở rực rỡ.
Bình minh - bọn chim đánh thức, tôi vội vội vàng vàng cùng các cô bác Nông
phu băng qua cổng làng hối hả ra đồng, còn tôi đến trường:
Sáng hồng lơ lửng mây son
Mặt trời thức giấc véo von
chim chào
Cổng làng mở rộng ồn ào
Nông phu lững thững đi vào
sớm mai.
Mùa hè, đi học về, lại qua
cổng làng. Những hình ảnh thân thương sống động tiếp diễn:
Trưa hè bóng lặng, nắng oi
Mái gà cục tác tìm mồi dắt
con
Cổng làng vài chị gái non
Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm.
Xuân qua, Hè tới.
Mùa Hè ở vùng đồng bằng Bắc
bộ hay có mưa rào. Mỗi khi đi học về gặp mưa, tôi lại đứng trong lòng cổng
trú mưa. Trận mưa đem theo gió lạnh. Chiều, tối, mưa…trời xùm xụp, trưởng
làng cho đóng cổng. Nhìn khung cảnh xung quanh chợt lòng xao động. Nhưng khi
mưa tạnh, trời quang, trăng lên, hình ảnh xung quanh cổng làng trở nên sinh động:
Những khi gió lạnh mưa buồn
Cổng làng im ỉm trên đường
lội trơn
Những khi trăng sáng chập
chờn
Kìa bao nhiêu bóng trên đường
thướt tha.
Ngày mùa luá chín hương
đưa
Rồi đông gầy chết, Xuân
chưa vội vàng
Mừng Xuân ngày hội, Cổng
Làng
Là nơi chen chúc bao nàng
ngây thơ
Cách đây hơn 50 năm, tuy tục
lệ của làng rất khắt khe với đám trai gái đến tuổi cập kê. Ban
ngày, họ không được phép tỏ tình qúa suồng sã… nhưng khi đến tối, sáng trăng,
họ cũng hẹn hò nhau và bóng họ tha thướt trên đường qua cổng làng, sang làng
bên xem hội…
Gây cho tôi niềm
vui nhất phải kể: Khi mùa gặt tới.
Cổng làng nhộn nhịp, ồn ào
tới đêm tối, khi cánh đồng đã vắng bóng người, cánh cổng đóng lại. Làng xóm
râm ran: Kéo đá, đập lúa – (làm hạt thóc trên bông rơi ra)… 3 tháng vất vả
chăm bón, giờ thu hoạch, người làng hồ hởi được bửa no nê, cơm mới thơm lừng…
Hè qua, Thu đến rồi Đông
cũng đi. Xuân tới: Làng tôi mở hội.
Ở cái tuổi viết bút ‘’mỏ sẻ’’,
chấm mực tím - không gì vui, hạnh phúc bằng được dự hội làng. Đông người dự lắm.
Người trong làng đi dự đông đã đành, người các làng bên cũng đổ đến xem… đường
đầy Trai thanh – Gái lịch. Nhưng đông nhất vẫn là bọn trẻ. Hội làng chính là
nơi ’’chen chúc bao nàng ngây thơ’’. Tôi là một trong số những ’’Chàng,
Nàng’’ - ngây thơ đó.
Lớn lên, tôi ra ’’kinh kì
sáng chói’’ - học hành, làm việc.
Hàng năm, kì nghỉ, lại về
Làng thăm ông bà, Thầy, U, họ hàng… Trên đường về lòng rạo rực. Chưa tới đầu
Làng, từ xa, đã nhìn thấy hai cây gạo ở cổng chùa. Cây cao mấy chục mét, gốc
to dăm ngừơi ôm. Tới cổng làng, nhìn hai cây đa cổ thụ quầng lá xum
xuê, trùm cả lên mái cổng. Bao cảm xúc rạt rào ập tới: Lòng tôi xốn
xang…
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây Đa đầu
làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thóang cổng
Làng trong tre. (2)
Đọc bài thơ, người đọc như
được kích thích trí tưởng tượng.
Cái cổng, cái Làng của cụ
Bàng Bá Lân không còn là của riêng cụ, của làng cụ, mà đã trở thành cổng -
làng của tôi, của bạn, mặc dù chúng ta không hề biết Cụ quê ở đâu. Cổng,
Làng đã trở thành của cả các làng quê Việt Nam. Cụ Hoàng Cầm có lần
đã nói đại ý: Thơ hay, trước hết phải tạo cảm xúc, kích thich được trí tưởng
tượng của người đọc. Cổng làng đã đạt được mục đích đó, cảnh giới đó!.
Hai nhà thơ: Nguyễn Duy và
Nguyễn Quang Thiều cùng báo Tổ Quốc khởi xướng việc tuyển chọn 99 bài thơ Lục
Bát hay nhất thế kỉ 20. Tôi cũng muốn tham gia bình chọn, nhưng không có tài
liệu, thư mục 99 bài Lục Bát đọc để chọn, đành từ bỏ ý định tham gia cuộc
chơi kia...
Tuy nhiên, theo tôi: Hai
bài thơ Lục Bát hay nhất, nhì Thế kỉ 20, trên thi đàn Việt Nam - có lẽ là:
Thề Non Nước của cụ Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu.
Cổng Làng của cụ
Bàng Bá Lân!
(1) Bản in trong Thi Nhân
Việt Nam, xuất bản năm 1941: …gió hiu hiu ’’Đẩy’’. Các bản in sau, từ ‘’Đẩy’’
được thay là ‘’Thổi’’. Có lẽ sau khi đăng tải, tác gỉa sửa lại khiến từ đúng
nghĩa và hay hơn.
(2) Tờ Khởi Hành - báo Văn
học ở Hoa Kì - đăng lại Cổng Làng nhưng đối chiếu với bản in năm 1941 trong
Thi Nhân Việt Nam, bản của Khởi Hành không có 4 câu kết này…
30/6/2007
|
Lê
Xuân Quang
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét