Tất cả những gì người ta
viết và nói về Hàn Mặc Tử trong vòng sáu chục năm nay đều sai lầm hoàn toàn.
Vì sao? Người ta viết và nói đến cái mà Hàn Mặc Tử đã vượt qua trọn vẹn trong
mỗi lời và trong mỗi chữ mà Hàn Mặc Tử đã bỏ lại dấu vết trên mặt đất.
Chỉ xin nói lên mười điều
chính yếu sau đây về Hàn Mặc Tử, nói mười và thực ra là một và ngay cái một
này chỉ là giả danh, vì cái một này vừa hiện ra thì biến mất liền lập tức;
cái một này từ có đến không và từ không đến có; không có cái một nào giống y
cái một nào, không có cái có nào giống hệt cái có nào, và cũng không có cái
không nào giống hẳn cái không nào.
Hàn Mặc Tử đã viết hai câu
bí mật đơn giản:
Con
sông này đã đi qua.
Suốt
đời ta thề không trở lại.
Hiểu được hai câu trên của
Hàn Mặc Tử thì không còn muốn hiểu nữa, vì tất cả những gì chúng ta hiểu được
thì đã đi qua rồi, cái hiểu của quá khứ không thể là cái hiểu của hiện tại và
cái hiểu của tương lai không thể hiểu, như vậy cái hiểu của hiện tại không thể
nào có được.
Muốn hiểu và muốn được hiểu
là hai trở ngại lớn nhất, ngăn chận lại không cho mình nhảy xuống sông để bơi
lội như con rồng con, như Long Nữ tám tuổi, như con rắn nước của linh thoại.
Tất cả những gì mà người ta khoái trí và khoái chí gọi là hermeneutics,
hermeneutic và hermeneutical của giới phê bình gia văn nghệ hiện thời và hậu
hiện thời đều sụp đổ ở nơi đây.
Vì sao, và tại sao thế? Vì
cái chữ “vì”, vì “vì sao” và vì “ tại sao“. Cái gọi là ”principe de raison
suffisante”, La Tinh gọi là “principium reddendoe rationis”, Anh Mỹ gọi là
“principle of sufficient reason”, Đức gọi là “Grundsatz vom Grund”, là cái
nguyên lý tối thượng và tối hậu điều động thống trị toàn thể văn hoá và văn
minh Tây phương, thống ngự tất cả triết học, thần học và khoa học, và nhất là
thống trị tất cả khuynh hướng phê bình văn nghệ hiện thời và hậu hiện thời
(post-modernism).
Chính nguyên lý của lý trí
tự túc này đã quay lưng lại với Hố Thẳm (Ab Grund) và đưa đẩy con người lọt
vào tất cả những dạng thái khác nhau của chủ nghĩa hư vô (Nihilism,
Nihilisme, Nihilismus).
Tất cả chủ nghĩa hư vô là
“hý luận” với cái sống và cái chết; tất cả triết học, thần học, khoa học và
toán học, tất cả văn hoá và văn minh Tây phương, tất cả phê bình văn học nghệ
thuật của Tây phương đều là những trò Hý luận với “hiện tượng” và “bản thể”,
“chân lý” và “phi chân lý”, “vật thể”, “hữu thể” và “vô thể”, “tại thế thể”
và “siêu việt thể”, “ở trên trời” và “ở dưới đất”, “lý trí” và “phi lý trí”,
“nghệ thuật” và “phi nghệ thuật.” Tất cả đều kẹt dính vào nhị biên, nhị tướng,
nhị lực, nhị tác, nhị dụng, nhị thể, nhị tánh, nhị nhân, nhị duyên, nhị quả,
nhị báo, nhị nguyên, nhị nhị. Dẫu đã tách rời nhị tướng đi nữa để đến Bất Nhị
đi nữa thì “để đến” cái Bất Nhị này cũng trở thành hình thể vi tế của cái Nhị
bất trị và vô phương giải tỏa.
Sự điên loạn thần trí và tất
cả ma quỉ yêu tinh đều là hậu quả tất nhiên của sự trói buộc vào cái hai cực
đoan, hai tướng trạng, hai biên giới, hai chiều hướng đối nghịch, hai nguồn
nghịch lưu. Chỉ có sự điên loạn toàn diện mới “chuyển y” được tâm thức bình
thường, mới thay đổi trọn vẹn nền tảng cơ sở tầm thường của ý thức phân biệt
khả dĩ đưa con người đến sự giải thoát tâm linh hoặc xô con người nhảy xuống
hố thẳm của Im Lặng để được giải cứu một cách khác trong cõi Trung Hữu Ấm
(Bardo).
Chỉ có Thơ mới là khoa trị
liệu thần kinh hữu hiệu nhất để giải cứu nhân loại khỏi điên. Mâu thuẫn thơ mộng
nhất là tất cả những nhà thơ thiên tài vĩ đại nhất của nhân loại đều là những
người điên thực sự vĩ đại đúng nghĩa. Những bác sĩ, tất cả những bác sĩ
chuyên trị bệnh điên đều là những người điên bình thường, nếu không muốn nói
là điên tầm thường, cả Laing và Cooper cũng đều điên bình thường; điên một
cách tục tĩu nhất là những bác sĩ phân tâm học, bác sĩ thần kinh trị liệu,
bác sĩ thần kinh bệnh học, bác sĩ tâm thần, bác sĩ chuyên khoa thần kinh não
bộ, bác sĩ giải phẫu não bộ, vân vân. Họ được quyền điên một cách khoa học. Tất
cả thế giới và tất cả nhân loại hiện nay đang điên. Chỉ có những người điên
thực sự hơn cả những người điên tầm thường hơn cả những người điên bình thường
và hơn cả những người điên tục tĩu: đó là những thi sĩ thực sự đúng nghĩa, những
nhà thơ trong sạch, những thi nhân thuần tuý.
Hàn Mặc Tử đã nói một câu
mà sáu chục năm nay không có ai biết lắng nghe một cách đàng hoàng cho đến độ
phải quăng ném tất cả thi ca Việt Nam hiện đại và hiện kim vào cầu tiêu công
cộng:
Người thơ là khách lạ đi
giữa nguồn trong trẻo
Tại sao là khách lạ? Tại
sao đi giữa?
Tại sao “nguồn trong trẻo”?
Có cần đọc Trakl và
Hölderlin mới hiểu thế nào là “khách lạ”? Đó là chưa nói đến Camus hay chưa
nói đến Sophocles? Có cần đọc Kant mới hiểu thế nào là “đi giữa”, đó là chưa
nói đến Hegel và Schelling? Có cần đọc Hölderlin và những gì Heidegger viết về
những con sông Đức trong thơ của Hölderlin mới biết được thế nào là “nguồn”
và thế nào là “trong trẻo”? Tại sao phải đọc?
Đọc Thơ cũng giống như đọc
kinh. Phải thọ, trì, đọc, tụng.
Đọc không phải để hiểu mà
để biết.
Biết cái thâm mật của một
giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam
thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và
ngoài kia không gian phiêu dật. Mà lòng ta là tất cả không gian phiêu dật.
Tại sao Nguyễn Du thường sử
dụng chữ biết trong Thơ và ít khi dùng chữ hiểu? Đây là một sự việc quảng mật
cần nên biết trong tương lai của văn hoá Việt Nam.
Thơ là cái gì mà chỉ nên
biết, chứ không thể hiểu.
May ra thì chúng ta có thể
biết được cái thâm mật, cái quảng mật và cái thâm quảng mật, có thể biết được
sơ sơ qua loa, chứ không thể nào hiểu được. Đó là diệu nghĩa vô lượng của tam
mật tam muội trong Thơ Văn của những thiên tài vĩ đại ở thế giới.
Mười điều chính yếu sau
đây về Hàn Mặc Tử được thoát ra từ giữa nguồn trong trẻo của tam mật tam muội
(quảng mật, thâm mật, thâm quảng mật); mười điều sau đây có thể được coi như
là một thứ “Giải Thâm Mật” của cái gọi là Thi Văn Nhân Loại, và nhất là của
cái gọi là “sự nghiệp thi văn” của thiên tài Hàn Mặc Tử.
Tất cả lịch sử văn học và
tất cả phê bình văn nghệ đều chuyên trang điểm cho cái không bao giờ cần được
hay bị trang điểm; đứng sau nguồn hay đứng bên bờ nguồn bên đây hay bờ nguồn
bên kia để ba hoa lải nhải một cách buồn cười, thảm hại cho chính bản thân sử
gia và cho bản thân của phê bình gia; không có sử gia văn học và không có phê
bình gia văn học ở khắp thế giới từ cổ đến kim biết được tư tưởng và tơ tưởng
(chữ của Hàn Mặc Tử) và sử linh tư tưởng (chữ của Hàn Mặc Tử) là cái gì.
Tư tưởng, tơ tưởng và sử
linh tư tưởng, đối với sử gia và phê bình gia, chỉ là tiền tượng, hiện tưởng,
tiền hiện tưởng, tiền tượng tưởng (Anh Mỹ gọi là Representation, Tây Pháp gọi
là Représentation, Đức gọi là Vorstellung hay Vor-stellung), chính tất cả thể
điệu tiền tượng, nhãn tiền tượng, đối diện tượng, hiện tưởng, hiện tượng, tiền
hiện tượng, tiền hình tượng, hiện diện tưởng, đối diện tưởng, tưởng tượng, hiện
tưởng tượng, nhãn tiền tưởng, đối diện tưởng, vân vân (tóm lại trong một chữ
Đức: Vorstellung) đã đưa loài người đảo lộn đầu nguồn với cuối nguồn; đảo ngược
tất cả mọi giá trị, đảo lộn trí tưởng tượng sáng tạo thành ra một hệ thống lý
luận chặt chẽ; đảo ngược tư tưởng và đảo ngược sử linh tư tưởng thành ra khoa
học lịch sử, khoa học tôn giáo, khoa học về lịch sử văn học, khoa học về phê
bình văn nghệ, vân vân.
Chỉ có tư tưởng, tơ tưởng
và sử linh tư tưởng là xuất phát từ Hố Thẳm (Tây gọi là Abîme, Tàu gọi là
Thâm Uyên, Anh Mỹ gọi là Abyss, Đức gọi là Abgrund; anh bạn ngày xưa ở Việt
Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã cho rằng tôi lấy chữ Hố Thẳm từ Nietzsche, điều
này đúng, nhưng chưa đúng đắn hẳn, chính Eckhart, Kant, Hegel, Schelling,
Hölderlin và Jacob Boehme mới là những người đầu tiên đã tặng cho tôi hai chữ
Abgrund và Ungrund mà tôi đã nhắc trong quyển Im Lặng Hố Thẳm).
Tư tưởng, Tơ tưởng và Sử
linh Tư tưởng trú ngụ nơi Hố Thẳm Không Đáy mới mở ra tất cả chân trời cho
Triết Học, Khoa Học, Toán Học và Tôn Giáo.
Tất cả nền tảng đều sụp đổ,
ngay đến Hố Thẳm Không Đáy cũng sụp đổ, và cả đến Hố Thẳm của Hố Thẳm cũng phải
sụp đổ, tất cả mọi sự sụp đổ đều phải sụp đổ ngay lập tức, còn nói chi nữa đến
những cái gọi là những kiến trúc ý niệm, những xây dựng lý tưởng, những hệ thống
ý thức và những tập đại thành của ý tưởng, tất cả những thứ này chỉ là những
trò hý luận của những tên hề tài tử, những tên hề tập sự không còn có khả
năng để làm cho nhân loại cười to tiếng hay cười nhỏ tiếng.
Một người hề duy nhất thơ
mộng làm cho mình mỉm cười sầu mộng mênh mông siêu việt, một người hề đùa giỡn
với Hố Thẳm, nhập một với Hố Thẳm, đó là người hề của truyện Smile at the
Foot of the Ladder của Henry Miller, nhưng đây là chuyện khác.
II. Điều thứ hai:
Chỉ là lặp lại điều thứ nhất
trên một bình diện bất ngờ khác.
Phải viết lại toàn thể lịch
sử văn học thế giới và toàn thể văn học thế giới và toàn thể văn học Việt Nam
từ khởi thuỷ cho đến hiện nay và cho cả tương lai.
Viết như thế nào? Viết về
cái không thể viết được, nói về cái không thể nói được, tư tưởng và tơ tưởng
về cái gọi tạm là “Bất Khả Tư Nghị.”
Từ cái “bất khả tư nghị” của
Hố Thẳm mới xuất hiện ra những hợp thể phức tạp được gọi tên là “thiên tài”,
“văn hào”, “thi hào”, và tất cả những gì gọi “tác phẩm”, “nghệ thuật”, “kỹ
thuật” là sự “thành tựu”, “hoàn thành”, “toàn thiện”, “toàn chân”, “toàn mỹ”,
“nhất thiết chân pháp”, “nhất thiết thiện pháp”, “nhất thiết mỹ pháp”.
Sự im lặng rùng rợn của
Thi Ca và Văn Chương là cái “bất khả tư nghị” của tất cả những đỉnh cao nhất
của Thi Ca và Văn Nghệ Nhân Loại.
Im Lặng là gì? Là sự Lặng
Im của tất cả câu hỏi, của tất cả nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, của tất cả sắc
thanh hương vị xúc pháp, của tất cả nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức và ý thức. Đó là sự Lặng Im tinh mật của tất cả hình sắc, tất cả
hình tượng, của tất cả màu sắc, của tất cả tình cảm, của tất cả cảm giác, của
tất cả xúc động, của tất cả ba động giác quan, của tất cả ba động cực vi tế của
một ý tưởng, của bất cứ một sự phân biệt nào đó, của tất cả mọi sự tri nhận
và trực nhận; sự Lặng Im của tất cả ý muốn và ý chí, sự im lặng của tất cả ý
thức, linh thức, thần thức và vô thức.
Còn lại cái gì?
Hölderlin, một nhà thơ đã
điên trong ba bốn chục năm còn lại của đời mình, đã tuyên bố lặng lẽ cho toàn
thể loài người rằng:
Nhà thơ phôi dựng những
gì còn lại...
Hölderlin là tiêu chuẩn để
viết lại toàn thể lịch sử văn học Đức và toàn thể lịch sử văn học Tây phương,
cũng như Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử là tiêu chuẩn để viết lại toàn thể lịch sử
văn học Việt Nam và toàn thể lịch sử văn học Á Đông.
Tất cả triết học và thẩm mỹ
học Tây phương từ Plato cho đến Hegel đều trở thành sai lầm, nếu mình sống được
trên nền tảng không nền tảng của Hố Thẳm Không Đáy mà không rơi lọt vào chủ
nghĩa hư vô vũ trụ. Tôi nói gì? Muốn nói một cái gì thì đã kẹt vào những “phạm
trù” của logos. Như thế nào? Như vầy: không có một triết gia, một tư tưởng
gia, một lý thuyết gia, một con người hành động tích cực hay một phê bình gia
vĩ đại nào mà không dính kẹt vào những cái này.
a/ Nói hay viết, viết để
nói hay nói để viết để nói hay viết về một cái gì đó; (nói theo điệu Triết Học
Hy Lạp là: logos như là logos tinos)
b/ Chính cái được nói hay
được viết, chính câu nói hay câu viết lại chính là một cái gì đó;(nói theo điệu
Triết Học Hy Lạp là: cái legomenon là một cái ti, tức là một cái hiện thể,
cái chữ Triết Hy Lạp: on);
c/ Người nói hay người viết
là một cái gì đó.
Con người là một cái gì
đó, lời nói hay câu viết là một cái gì đó, cái được viết hay được nói là một
cái gì đó: như thế, chúng ta có ba cái.
Thơ có nghĩa là phá vỡ ba
cái trên; Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả; Thơ chỉ
là Thơ và Thơ tự nói về Thơ từ trong Thơ đến trong Thơ: cả cao và thấp, cả
trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là Thơ.
Thơ là Nguồn Trong Trẻo
nuôi dưỡng tất cả “thượng thanh khí” của tất cả mọi sự và của cả Hư vô, vì Hư
vô không phải chỉ có nghĩa rằng chẳng có gì hết.
Nếu quan niệm Thơ là một
cái gì đó, nhà thơ (thi sĩ) là một cái gì đó, bài thơ là một cái gì đó, tác
phẩm thi ca là một cái gì đó, người thưởng ngoạn thi ca là một cái gì đó, người
làm nghề phê bình văn học là một cái gì đó, ngôn ngữ là một cái gì đó, âm nhạc
là một cái gì đó, màu sắc là một cái gì đó, sự im lặng là một cái gì đó. Nếu
quan niệm như thế, thế thì quan niệm cái gì?
Vậy cái gì đó là cái gì?
Một hữu thể? Một vật thể?
Một sự thể? Một hiện thể? Một tánh thể? Hay vô thể? Hay “cái không có gì cả”
cũng là một cái gì?
Còn cái gì của cái gì ấy
là cái gì?
Phải chăng đây chỉ là những
câu hỏi trừu tượng?
Hàn Mặc Tử đã từng nói:
Triết Lý và Văn Thơ là những danh từ chết.
Những chữ đáng lưu ý ở
trên là ”những danh từ” và những danh từ, tất cả những danh từ đều đã chết,
đang chết và sẽ chết.
Tất cả những trận chiến
tranh tàn khốc của nhân loại đã bùng nổ vì những danh từ. Bao nhiêu thế hệ
người Việt Nam đã chết vì “những danh từ đã chết.”
Triết
Lý và Văn Thơ là những danh từ
chết.
Khi Hàn Mặc Tử nói như
trên thì chỉ có nghĩa là Triết Lý và Văn Thơ không phải chỉ là “những danh từ”.
Triết Lý và Văn Thơ thì khác hẳn, một cái gì không hẳn là một cái gì, cái gì
khác hẳn hoàn toàn tất cả mọi sự vật, mọi sự việc, mọi hữu thể và mọi vật thể.
Hàn Mặc Tử: “Tôi không cần
ai giảng triết lý.”
Giảng Triết Lý là trói buộc
Triết Lý vào những danh từ đã chết.
Hàn Mặc Tử: “Triết Lý là
vun trồng, nuôi nấng thi văn, mà Thi Văn là để cắt nghĩa ra Triết Lý.”
Hố Thẳm vun trồng và nuôi
nấng thi văn. Phải chăng cái (nghĩa xưa của chữ Mẹ, Má) đã từng “vun trồng
nuôi nấng” tất cả thi văn Việt Nam? Không phải Triết Lý cắt nghĩa ra thi văn,
như tất cả những lý thuyết gia phê bình văn nghệ lầm tưởng (tất cả lý thuyết
gia phê bình văn nghệ đều là những kẻ tập tành hành nghề suy tư qua những ý
niệm triết học chưa học hành được đàng hoàng). Hàn Mặc Tử xác nhận rõ ràng:
“thi văn là để cắt nghĩa ra triết lý.” Như thế chỉ có nghĩa rằng Thi Văn cắt
nghĩa ra tất cả mọi sự việc, vì Triết Lý chính là: Một là Tất cả, và Tất cả
là Một (từ Heraclitus đến Kant, Hegel, Nietzsche và tất cả Triết Học Tây
Phương chỉ là thế, nếu không muốn nói đến cái gì khác mà cái gì khác cũng vẫn
là một cái gì trong nghĩa Triết Học Hy Lạp to on của ta onta).
Văn chỉ là văn vì có Mẹ là
Thi.
Chính Thi Ca xây dựng tất
cả linh thoại, thần thoại, sử thoại của toàn thể nhân loại. Không có Thi Ca
thì chẳng có Lịch Sử; không có THƠ thì loài người đã bị tiêu diệt từ lâu. Thi
Ca phôi dựng tất cả Sử Linh Tư Tưởng.
IV. Điều thứ tư:
Thơ là cái gì?
Tất cả sự nghiệp thi văn của
Hàn Mặc Tử là đã sống trọn vẹn với câu hỏi trên. Cả một cuộc đời hai mươi tám
năm của Hàn Mặc Tử là sống hoàn toàn hết mình, xoáy tròn vào cơn bão tố rùng
rợn của Thơ và chỉ nhìn thấy Thơ trên trời, Thơ ở dưới đất, Thơ trong tim,
Thơ trong óc não, Thơ trong mạch máu, Thơ trong hơi thở, Thơ trong đời sống,
Thơ trong cái chết, Thơ trong hiện thể, Thơ trong vô thể, Thơ trong Hư Vô.
Hàn Mặc Tử: “Tôi đã sống
mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn.
Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến
gần đứt sự sống.”
Chúng ta phải nhập tâm, phải
để năm tiếng của Hàn Mặc Tử in dấu sâu thẳm vào tận lòng mình:
“Đến
Gần Đứt Sự Sống”
Khi nào “đến gần đứt sự sống”
rồi mới biết Thơ là cái gì, mới biết làm thơ, mới biết đọc thơ. Khi mình chưa
“đến gần đứt sự sống” rồi thì không được quyền nói bất cứ điều gì về Thơ, về
Thi Ca, về Thi Nhân, về Điên Loạn, về Tình Yêu, về Hồn, về Nguyễn Du, về Hàn
Mặc Tử hay về bất cứ “một con sông này đã đi qua” trong đời mình.
Hàn Mặc Tử đã sử dụng mấy
chữ “cụ tượng” và “trừu tượng” và nhất là câu tuyệt vời: “Cái Thơ Trên Cái
Thơ Khác Nữa”.
Thế nào là cụ thể? Hai chữ
“cụ tượng” của Hàn Mặc Tử thực là tinh mật, hai chữ “cụ tượng” nói lên tinh
tuý rực ngời của tất cả những gì chúng ta vẫn gọi là “cụ thể.” Ở đây, chính
Thi Văn đã cắt nghĩa ra Triết Lý; Hàn Mặc Tử chỉ là một nhà thơ mà còn triết
lý hơn tất cả các triết gia nhà trường và các triết gia nhà nghề. Không có gì
thực sự là “cụ thể” mà chỉ có “cụ tượng”. Dẫu không đọc Kant, nhưng Hàn Mặc Tử
đã nhảy vào trung tâm điểm của Triết Học Kant ở đây. (Trước khi chết Hàn Mặc
tử thường đọc đi đọc lại Rousseau, một người đã từng ảnh hưởng mãnh liệt đến
Kant).
Hàn Mặc Tử đã cho dân tộc
Việt Nam một “định nghĩa” phi thường nhất và tuyệt vời nhất về Thể Tính của
Thơ: “Màu sắc cụ tượng rất dễ tìm, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất
khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mắt của thi nhân, của
một kẻ siêu phàm thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng, phép tắc ấy,
và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó.”
Và sau đây là định nghĩa về
Thiên Tài của Thiên Tài Hàn Mặc Tử: “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến
cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa. Đấy là tất cả nghệ
thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân, nếu thi nhân là một thiên
tài!”
Cái cụ tượng của Thi Ca,
ai cũng hiểu, nhưng cái Trừu Tượng của Thơ thì chỉ có Thiên Tài mới biết được
Thiên Tài.
Cái Trừu Tượng ở đây “vượt
khỏi ra ngoài hư linh” (Hàn Mặc Tử). Tính Thể và Thể Tính của Trừu Tượng Tính
là gì?
Chính là cái gì mình gọi
là “cụ thể”, “cụ tượng” lại là “trừu tượng” nhất và cái gì mình gọi là “trừu
tượng” lại là “cụ thể”, “cụ tượng” nhất. Nhà thơ, nói một cách khác, là con
người thực tế nhất; và tất cả con người khác, những kẻ gọi là thành công nhất
trong xã hội, đều là những loài súc sinh biết nói mà không hề biết thế nào là
“cụ thể”, thế nào là “cụ tượng”, huống chi đề cập đến bất cứ điều gì liên hệ
đến “trừu tượng” .
Thơ là trừu tượng trong cụ
tượng, và cụ tượng trong trừu tượng; Thơ vừa cụ vừa trừu để rồi chỉ còn tượng.
Sau cùng, tinh tuý của Thơ là chuyển hoá tất cả tượng thành ra vô tượng:
chính vô tượng mới đánh thức dậy Vô Tướng của tất cả hình tượng màu sắc. Đây
là Vô Tướng của Thực Tướng Thơ Mộng trong tất cả sự “rung rinh một làn ánh
sáng” (Hàn Mặc Tử).
Có biết được như trên,
chúng ta mới biết được tại sao một người công giáo thuần thành ngoan đạo như
Hàn Mặc Tử mà vẫn tư tưởng và tơ tưởng được sử linh tư tưởng như câu nói sau
đây của Hàn Mặc Tử:
“Và tôi sẽ ký thuyết minh
một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không, chết cũng như sống, gần cũng như
xa và hư cũng như thực... Những điều phản trái ấy dầu thế nào, cũng có liên lạc
mật thiết và thông cảm với nhau.”
Loài người, hạng người
phàm phu tục tử, thường bị trói buộc vào cái có và cái không suốt một đời này
và vô số kiếp sau nữa; họ điên mà không biết rằng mình điên. Chỉ có thi nhân
là tự biết rằng mình điên và được điên thực sự, vì nhà thơ đã trừu tượng hoá
tất cả mọi sự: “Tôi vừa thoát ly ra khỏi cực lạc giới, toàn thân tôi rung động
như một sợi đường tơ” (Hàn Mặc Tử). Đó cũng là lý do cắt nghĩa tại sao “Thi
sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng. Không có lấy một người hiểu
mình” (Hàn Mặc Tử)
Vì không có lấy một người
hiểu mình, cho nên thi sĩ mới còn được là thi sĩ.
V. Điều thứ năm:
Hàn Mặc Tử đã sử dụng ít
nhất hai lần trong toàn thể thi văn của mình: “một đêm siêu hình” (Chơi giữa
mùa trăng: Nghĩa là trăng rằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng
trưng của một nguồn khoái lạc chê chán...)
Cái đêm siêu hình ở đây
không có dính líu gì với Siêu Hình Học cả mà lại có nghĩa ngược lại tất cả
Siêu Hình Học và Siêu Thể Học Tây Phương, vì Siêu Hình Học Tây Phương vẫn chỉ
đặt nền tảng trong một căn bản tối thượng và tối hậu: Hiện Thể (hay hiện hữu)
có tính cách hiện thể nhất, Hiện Thể trong Toàn Thể, Hiện Thể như là Hiện Thể,
Hiện Thể như là Hiện Thể cao nhất, hiện thể đầu tiên, hoặc Siêu Việt Thể.
“Bắt cái vô hình trở nên hữu
hình”, đây là ý nghĩa cụ tượng hoá trừu tượng của Hàn Mặc Tử trong mấy chữ “một
đêm...” (nếu nhấn mạnh vào mấy chữ “hữu hình” trong câu “bắt cái vô hình trở
nên hữu hình”, hoặc nhấn mạnh mấy chữ “một đêm” trong
“một đêm siêu hình”), ngược
lại “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình”, đây là ý nghĩa trừu tượng hoá cụ tượng
của Hàn Mặc Tử trong mấy chữ “siêu hình” (nếu nhấn mạnh vào mấy chữ “vô hình”
trong câu “bắt cái vô hình trở nên hữu hình” hoặc nhấn mạnh mấy chữ “siêu
hình” trong “một đêm siêu hình”).
Thực ra, tất cả đêm tối đều
là siêu hình, và tất cả ngày đều hữu hình mà vô hình hoặc đều vô hình mà hữu
hình. Nói một cách triết lý thơ mộng như triết gia Đức Kant thì “Đêm tối thì
cao siêu, ban ngày thì tuyệt đẹp” (Die Nacht ist erhaben, der Tag is schoen).
Đây là câu nói tuyệt đẹp nhất và cao siêu nhất được thốt ra từ miệng của một
triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một người suốt đời sống thường trực bên bờ Hố Thẳm,
bên cạnh cơn điên loạn lúc nào cũng rình rập bùng vỡ trong ý thức, chỉ có một
người như thế, như Kant và ngay chính cả Hegel, mới hiểu thế nào là sức mạnh
hữu hình của “nguyên lý về lý do tự tại, nguyên lý về lý trí tự túc”, mới hiểu
thế nào:
Đêm
cao siêu
Và
Ngày tuyệt sắc.
(Kant)
Hay dí dỏm hơn như Hegel:
Ban
đêm thì tất cả bò nghé đều đen thui.
Tuy nhiên, có một màu đen
khác mà Hegel chưa biết tới hay không chịu biết đến, đó là màu đen sáng ngời
lóng lánh của Hölderlin, người bạn thân nhất “tự mùa đầu tiên” của Hegel.
Hölderlin đã viết sầu mộng như sau trong cơn loạn: “Phải giải quyết tất cả những
mâu thuẫn, những lạc điệu, những lệch lạc, những bất hoà bằng cách khác”.
Không thể giải quyết những vấn đề bằng trật tự phân hai hoặc phân ba (bằng
Tri Thức Tuyệt Đối, hoặc bằng Kỹ Thuật Cơ Khí Vạn Năng). Nói một cách khác, một
cách mơ mộng như Hölderlin:
Những
ai hãy đưa cho tôi
Tràn
trề ánh sáng đen tối,
Cái ánh sáng đầy đen tối,
cái hào quang tối tăm ấy, chính là cái “đêm siêu hình” của Hàn Mặc Tử. Cái tối
là cái thâm mật của cái sáng, cái tối “vun trồng nuôi duỡng” cái sáng, và cái
sáng “cắt nghĩa ra” cái tối. “Đó là lý do tại sao cái tối có được cái sáng
chính yếu của chính nó”
(Heidegger, “Những Nguyên Lý của Tư Tưởng” đăng trong Jahrbuch für Psychologie
und Psychotherapie, tập 1/3, năm 1958, Verlag Karl Alber, Freiburg và
Munich).
“Một đêm siêu hình” của
Hàn Mặc Tử chính là một đêm “tràn trề ánh sáng đen tối” của Hölderlin.
Có một thứ ánh sáng rực
chiếu một cách tối tăm, cũng như có một đêm tối lóng lánh ánh sáng rực ngời,
có một màu đen óng lên ánh sáng lộng lẫy, cũng như có một thứ ánh sáng tràn
trề đen tối thâm mật.
VI. Điều thứ sáu:
Tất cả ý nghĩa cụ tượng mà
trừu tượng, hữu hình mà vô hình, thơ mộng mà triết lý, của tất cả thi nghiệp,
tất cả sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử được thu gọn lại trong bốn chữ:
Một
đêm siêu hình
Phải nhìn hai chữ siêu
hình này trong một chớp mắt thu gọn lại thiên thu vĩnh c ưửu, thu tóm lại tam
thiên đại thiên thế giới, phải nhìn hai chữ siêu hình này ngoài tất cả siêu
hình học, ngoài tất cả thần học và ngoài tất cả hữu tượng và vô tượng.
VII. Điều thứ bảy:
Có đi vào một đêm siêu
hình với Hàn Mặc Tử thì mới biết rằng những bài thơ tình yêu và những bài thơ
tôn giáo của Hàn Mặc Tử không phải chỉ là những bài thơ lãng mạn về tình yêu
và những bài thơ xuất thần về tôn giáo, vì ở đây những bài thơ chỉ là Thơ, có
nghĩa là thơ Thuần Tuý mà Thơ vốn là Nguồn Trong Trẻo cho Tình Yêu và cho Tôn
Giáo. Vì Thơ là Nguồn Trong Trẻo cho tất cả, cho nên Hàn Mặc Tử mới có thể
nói:
Bay
từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất
VIII. Điều thứ tám:
Nếu nói Hàn Mặc Tử là nhà
thơ của Lãng Mạn, của Tình Yêu, của Sầu Mộng, của Điên Loạn, của Huyền Bí, của
Tôn Giáo, của Triết Học, vân vân, thì chúng ta vẫn có thể ung dung nói và viết
một cách tầm thường và bình thường như vậy. Bất cứ nhà thơ nhà nghề nào hiện
nay cũng đều là những thi sĩ nhà nghề về Lãng Mạn, Tình Yêu, Sầu Mộng, Điên
Loạn, Huyền Bí, Đạo Giáo (kể cả thơ Chúa và thơ Thiền), nhưng chỉ có Hàn Mặc
Tử là thi sĩ; tất cả Hàn Mặc Tử đều là thi sĩ, nhưng tất cả thi sĩ không thể
nào là Hàn Mặc Tử. Tất cả những thi sĩ thiên tài đều là người điên, nhưng tất
cả những người điên không thể nào và không thể là thi sĩ; tất cả những thi sĩ
thiên tài đều là người cùi, người hủi, người phung (trong mọi ý nghĩa đen,
bóng, xám, trắng) nhưng tất cả những người cùi không thể là thi sĩ được (tất
cả mà vẫn có ngoại lệ như thế tất cả mới có ý nghĩa là tất cả; tuy nhiên người
bệnh hủi mà thành thi sĩ thì bệnh hủi ấy đã mất ý nghĩa và không còn là bệnh
nữa, mà là ơn phúc hay phúc đức nghịch hành của đêm thiêng liêng, đêm vô lượng,
đêm siêu hình).
Chính cái đêm siêu hình đã
làm cho Hàn Mặc Tử làm thơ tình mà không phải là thơ tình, làm thơ ly biệt mà
không phải ly biệt, làm thơ trăng mà không phải là trăng, làm thơ đạo mà
không phải chỉ là đạo, làm thơ về hồn mà không phải là hồn, về Chúa mà không
phải Chúa, về Đức Mẹ mà không phải Đức Mẹ, về Phật mà không phải Phật, về tất
cả những người con gái đẹp mà không phải chỉ là những người con gái đẹp.
Tất cả đều là cụ tượng cho
Tính Thể Trừu Tượng Hoá của Thể Tính Thi ca: “Tất cả trong thế gian này, hay
cả một cõi xuất thế gian nào nữa, những thứ gì đã trụ trong hai thế gian ấy
(cõi hữu hình và cõi vô vi) đều là hình ảnh của Thơ cả” (Hàn Mặc Tử).
Nói tóm lại, Thơ là nguyên
lý chuyển động tất cả mọi sự, nguyên lý của nguyên lý này lại chuyển động cả
Thượng Đế, chuyển động cả cái gì vượt lên trên Thượng Đế, chuyển động cả “đường
ngạ quỷ phơi nhiều trang gấm vóc”: Thơ là nguyên lý chuyển động cả trời và đất,
chuyển động cả những gì “vượt khỏi ra ngoài hư linh” (Hàn Mặc Tử).
Nói một cách dễ hiểu theo
điệu triết học của Aristotle (Aristote) thì, đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là cái
arkhé kinéseos hay arché kinéseos, tức là cái arkhé (arché) cho kinesis (động
tính) của tất cả vạn hữu và vạn đại, cho tất cả phusis (physis); cái gọi là
“thơ” (poiesis) không còn ý nghĩa “việc làm” “cái làm”, “tác tính”, “tạo
tính” hay “kỹ thuật tạo tác” mà “poiesis” lại trở thành “phusis” và không còn
đối kháng lại “phusis” (chữ Hy Lạp phusis còn có ý nghĩa sâu rộng hơn cả chữ
“nature” của La Tinh, hơn chữ “nature” của Anh, Pháp, và hơn cả “thiên nhiên”
của Việt và Tàu; “phusis” có nghĩa: tất cả những gì chuyển động, tất cả những
gì mọc lên, tất cả những gì trưởng thành và thành tựu, ngay đến Thượng Đế và
tất cả những Thần linh đều lệ thuộc vào “phusis” của Triết Học Hy Lạp tiền
thượng cổ. Như vậy, cái gọi là Thơ (poiesis) được thiên tài Việt Nam Hàn Mặc
Tử chuyển hoá toàn triệt thành ra phusis; poiesis thường tách biệt ra khỏi
phusis, nhưng ở đây poiesis nâng đỡ phusis và trở thành chính phusis (phusis
= poiesis). Thơ là nguyên uyên hay uyên nguyên của tất cả động tính (uyên
nguyên: arkhé, arché; động tính, chuyển tính, chuyển động tính: kinésis).
Arché kinéseos (arkhé kinéseos) có nghĩa là “uyên nguyên của tất cả chuyển động
tính”. Đó là ý nghĩa thâm diệu của mấy chữ “Nguồn Trong Trẻo” của Hàn Mặc Tử,
nhà thơ được Thơ đưa trở về làm “khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”.
Chỉ cần một chữ thôi cũng
nói lên được “một đêm siêu hình” là gì, chỉ cần một chữ thôi cũng nói hết tất
cả ý nghĩa thâm mật của Thi Ca và Văn Chương của Hàn Mặc Tử.
Đó là chữ Tây: diaphane
(xuyên minh, xuyên quang, thấu minh, thấu quang).
Chữ diaphane đã được Hàn Mặc
Tử sử dụng trong một bài văn cuối cùng viết thẳng bằng tiếng Pháp La Pureté
de l’Âme (Hồn Trong Veo), bài được viết vào đêm 24 tháng 10 năm 1940 (Hàn Mặc
Tử mất vào ngày 11 tháng 11 năm 1940, sống được 28 tuổi trong veo trên đời.)
Trần Thanh Mại dịch
“diaphane” là “trong mờ” (lueur diaphane: “ánh sáng trong mờ”, theo cách dịch
lờ mờ của Trần Thanh Mại). Trần Thanh Mại dịch đúng theo tự điển Tây và tự điển
Tây Việt, nhưng diaphane không phải chỉ có nghĩa tự điển là “trong mờ” mà
thôi mà còn mang một ý nghĩa xuyên ngữ, và cái nghĩa tuyệt vời thơ mộng là
“xuyên qua ánh sáng, thấu qua ánh sáng, đâm qua ánh sáng, xuyên qua cái hiện,
xuyên qua cái chiếu, xuyên qua cái hiện chiếu, thấu qua cái chiếu hiện” (Chữ
Hy Lạp: diaphanés: xuyên minh, đâm qua, thấu qua, xuyên qua: dia; phaínein:
hiện, chiếu, chiếu hiện; diaphaínein: xuyên qua, thấu qua, đâm qua cái hiện,
cái chiếu, cái chiếu hiện; chữ phaínein có liên hệ trực tiếp với gốc chữ Hy Lạp
là phós: ánh sáng). Dịch theo tinh thần Hàn Mặc Tử thì diaphane có nghĩa là
“trong trẻo”; có thể dịch lại “Nguồn Trong Trẻo” của Hàn Mặc Tử ra chữ Pháp
là source diaphane hay origine diaphane.
Tất cả Thi Ca Á Đông đều
là Hồi Quang, Phản Quang, Phản Chiếu Quang, Tương Phản Quang, Tương Chiếu
Quang, Tương Phản Quang Chiếu, Viên Dung Phản Chiếu Quang… Tất cả Thi Ca Tây
phương đều là Đăng Quang, cái ánh sáng của bó đuốc hay của cái đèn dầu hay
đèn điện, đúng hơn nên gọi là: cốc đăng quang, tức là cái ánh sáng của cái bó
đuốc hay của cái đèn dầu trong hang, như cái hang trong triết học của Plato
chỉ có Homer, Pindar, và Sophocles là ở ngoài hang. Cái hồi quang, phản quang
và phản chiếu quang, và tương phản quang chiếu của Thi Ca Đông phương là cái
“phản ảnh” và cái “phục chiếu” của mặt trời và mặt trăng. Nói theo ngôn ngữ của
Hölderlin, Tây phương là chốn mặt trời chìm lặn, do đó, Hölderlin réo gọi trở
về “Nguồn Trong Trẻo” là Đông phương (Ấn Độ với dòng sông Indus), sông Indus
chảy từ vùng núi miền Tây của Tây Tạng; Hy Mã Lạp Sơn, núi cao nhất của Tây Tạng,
sông Cửu Long cũng chảy từ Tây Tạng đến Hố Thẳm không đáy là miền Nam Việt
Nam và miền Nam của Đông Nam Á Châu. Hố Thẳm và Núi Cao là một; ánh sáng từ
thượng thanh khí đâm thấu xuyên qua từ đỉnh núi cao im lặng đến âm hưởng rì
rào bất tận của tất cả con sông Á Đông, tính cách xuyên quang của Núi Cao đã
chuyển thành hồi quang, phản chiếu quang của tất cả dòng sông của Thơ ở Hố Thẳm.
Con
sông này đã đi qua
Suốt
đời ta thề không trở lại
Hàn Mặc Tử đã muốn nói khác
đi: cái đã đi qua thì đã đi qua rồi và cái không trở lại thì không bao giờ trở
lại nữa. Tất cả hồi quang, phản quang, phản chiếu quang, phục chiếu quang, tất
cả xuyên quang, thấu quang đều xảy ra chỉ một lần duy nhất. Một lần,
chỉ một lần thôi, một lần
duy nhất thôi (R.M.Rilke) Tuy nhiên, tất cả thơ nằm trong hai chữ “tuy nhiên,
tuy thế, thế mà”. Tất cả đều đã đi mất, tất cả không bao giờ trở lại, tất cả
đều chỉ xảy ra một lần. Dẫu thế, tuy thế, tuy nhiên, dù thế, thế thì… Et
pourtant / And yet... Thơ bắt đầu chuyển động sau ba chấm lửng lơ…
X. Điều thứ mười:
Tất cả những bài thơ nào của
Hàn Mặc Tử cũng vẫn đều là thơ hay, dù bài nào mà thiên hạ cho rằng dở nhất của
Hàn Mặc Tử cũng vẫn là thơ hay mà ít người thấy được tính cách “xuyên quang”
và “phản chiếu quang” của một thiên tài vĩ đại của Việt Nam trải qua “một đêm
siêu hình” ở dương thế. Bây giờ chúng ta hãy xoá đi chín điều trên, và chỉ
còn lại điều thứ mười; tất cả những gì đã nói hay đã viết về Hàn Mặc Tử đều
sai lầm, kể cả chín đều trên. Chỉ còn lại tiếng thơ của Hàn Mặc Tử, không cần
dẫn chứng dài dòng, và không cần phải chọn nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử,
chỉ cần thọ, trì, đọc, tụng một bài thơ duy nhất này của Hàn Mặc Tử thì đủ thấy
“cái thơ trên cái thơ khác nữa”:
I.
Chửa
gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn
anh theo dõi bóng em đi
Hồn
anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu
luyến bên em chẳng nói gì
II.
Thơ
em cũng giống lòng em vậy
Là
nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm
mại như lời tơ liễu rủ
Âm
thầm trong áng gió băn khoăn
III.
Anh
đã ngâm và đã thuộc làu
Cả
người rung động bởi thương đau
Bởi
vì mê mẩn vì khoan khoái
Anh
cắn lời thơ để máu trào
IV.
Lời
thơ ngậm cứng không rền rĩ
Mà
máu tim anh vọt láng lai
Thơ
ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng
vang tha thiết dội khắp nơi
V.
Em
đã nghe qua em đã hay
Tình
anh sao phải chứng mê say
Anh
điên anh nói như người dại
Vạn
lạy không gian xoá những ngày
VI.
Những
ngày đau khổ nhuộm buồn thiu
Những
áng mây lam cuốn dập dìu
Những
mảnh nhạc vàng rơi lả tả
Những
niềm run rẩy của đêm yêu
VII.
Anh
đứng cách xa hàng thế giới
Lặng
nhìn trong mộng miệng em cười
Em
cười anh cũng cười theo nữa
Để
nhắn hồn em đã tới nơi
(Hàn
Mặc Tử, Lưu Luyến)
Ở phần đầu, tôi đã trích dẫn
câu của Hàn Mặc Tử:
Con
sông này đã đi qua
Suốt
đời ta thề không trở lại
Đoạn văn của Hàn Mặc Tử
trước hai câu trên là: “Nhà nghệ sĩ bao giờ cũng điên. Tài năng thì có giới hạn.
Dám đem tài mọn làm rộn nước mây. Sẽ bị mạng trời đánh ngã. Than ôi! Tài hoa
là một điều tai hại!” Hàn Mặc Tử gặp lại Nguyễn Du: “Trăm năm trong cõi người
ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, những điều
trông thấy mà đau đớn lòng.” Hồi quang của Thơ là thế, nhưng xuyên quang vẫn
là Nguyễn Du: “Tưởng bây giờ là bao giờ, rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao”
hay thấu quang qua “nguồn trong trẻo” (source diaphane) như Hàn Mặc Tử: “Anh
đứng cách xa hàng thế giới, lặng nhìn trong mộng miệng em cười”.
Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử
hai người “khách lạ” chỉ cần để lại đời hai câu thơ giản dị như trên thôi thì
chúng ta cũng sẵn sàng van lạy thời gian xoá hết tất cả những bài thơ khác
trên mặt đất.
Long Beach, California,
ngày 9 tháng 8 năm 2000
Nguồn: Phần thứ Nhất trong
cuốn sách của Phạm Công Thiện: Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử và Một Ngày
Vô Hình Với Henry Miller, William Carlos Williams và Joseph Brodsky (Nhà
Xuất Bản Viên Thông, Long Beach, California U.S.A, 2000).
MỘT ĐỊNH MỆNH TÀN KHỐC
THEO RIẾT BÊN MÌNH: HÀN MẶC TỬ
Trong tất cả những thi hào
văn sĩ lừng danh của toàn thể văn chương Việt Nam từ mấy ngàn năm nay, tôi
không tìm được một người nào đã tác động một mảy may nào đến tâm hồn tôi cả -
trừ ra Hàn Mặc Tử. Nguyễn Du là một thi hào vĩ đại, tôi đã đọc đi đọc lại
Nguyễn Du và nhìn nhận Nguyễn Du là thiên tài vĩ đại, nhưng tôi không muốn nhớ
đến thứ vĩ đại ấy vì dân tộc Việt Nam gần như đã quên hết tất cả những gì
Nguyễn Du đã bỏ trọn đời thể hiện thành tựu một cách thơ mộng siêu việt trong
sự nghiệp thi ca của mình. Chúng ta chưa có khả năng tối thiểu để biết được tất
cả sự vĩ đại thơ mộng của tư tưởng tinh thần Nguyễn Du (xin đọc Nguyễn Du, Đại
Thi Hào Dân Tộc của Phạm Công Thiện). Quách Tấn cũng vĩ đại, tôi kính trọng sự
vĩ đại ấy, nhưng sự vĩ đại ấy làm lịch sử, vì đi ngược lại lịch sử, đạp trên
đầu lịch sử hiện đại. Tôi chẳng bận tâm đến lịch sử. Thỉnh thoảng cũng bận
tâm để chợt nhớ rằng mình là người Việt Nam. Vì tin chắc rằng dân tộc Việt
Nam sẽ thắng, sẽ tiêu diệt tất cả những gì không phải là Việt Nam, dân tộc Việt
Nam sẽ thắng, cho nên tôi không cần bận tâm đến vận mệnh của Việt Nam. Tôi có
vận mệnh của riêng tôi. Người nào muốn lo đến vận mệnh của Việt Nam, thì cứ
lo đến vận mệnh của Việt Nam. Tôi không hề biết ái quốc là cái gì. Tôi chỉ biết
đến tôi và chỉ có tôi mới hiểu thế nào là con đường của Việt Nam. Trong tôi
ngưng tụ lại tất cả tàn khốc của Việt Nam, tất cả mâu thuẫn, ích kỷ, tàn phá,
kiêu hãnh, ngang tàng, kiêu ngạo, từ tốn, khoan dung, khôn ngoan, yếu đuối,
mãnh liệt, mạnh khoẻ, và cô độc. Dù trận chiến tranh ở Việt Nam có chấm dứt
đi nữa thì trận chiến tranh trong tôi vẫn tiếp tục. Giống như nó vẫn tiếp tục
trong tâm hồn của những thanh niên Việt Nam ra đời lúc chiến tranh Việt Nam vừa
khởi phát và được ba mươi tuổi lúc chiến tranh bùng phát dữ dội lan rộng từ
Việt Nam đến Hạ Lào. Chỉ có thanh niên Việt Nam nào từ ba mươi tuổi trở xuống
mới hiểu nổi thơ của Hàn Mặc Tử. Trận chiến tranh Việt Nam hiện nay chính là
sự phóng đại của cơn bệnh hủi của Hàn Mặc Tử. Chỉ có thi sĩ mới sống trước tận
bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của vận
mệnh dân tộc mình. Vận mệnh của Hàn Mặc Tử đã báo trước vận mệnh của Việt
Nam. Thơ của Hàn Mặc Tử đã báo động cái gì rạn vỡ trong không khí quê hương.
Không phải chỉ làm thơ với những danh từ và động từ chính trị là mới nói được
con đường đi của dân tộc. Nhiều khi nói ngược lại hay nói những cái gì khác,
như dùng những tiếng kỳ cục như thượng thanh khí, vỡ lỡ, trăng, châu lệ, đê
mê, hoa bắp lay, cứng tợ si, chưa bưa, dại khờ, gánh máu đi trong tuyết, bời
bời ruột gan, ớn lạnh, vân vân. Nhiều khi ăn nói thê thảm điên dại như Hàn Mặc
Tử mà lại trỏ ngón tay vào đúng trái tim đen của vận mệnh Việt Nam và mở ra một
hướng đi khác cho “sử linh tư tưởng” (chữ của Hàn Mặc Tử). Người hiểu được
thì hiểu ngay lập tức, không hiểu được thì vẫn không hiểu được. Định mệnh tàn
khốc, nhưng không có thực, giống như cơn bệnh hủi chỉ là cơn bệnh tưởng tượng
của mặt trời, do mặt trăng lường gạ .
Viết tại ngoại ô Paris,
mùa đông năm 1971, và có viết thêm nhiều đoạn văn cần thiết, sau khi đọc lại
tại Long Beach, California, Mỹ Châu, ngày 17 tháng 8, năm 2000.
Nguồn: Phần thứ Hai trong
cuốn sách của Phạm Công Thiện: Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử và Một
Ngày Vô Hình Với Henry Miller, William Carlos Williams và Joseph Brodsky (Nhà
Xuất Bản Viên Thông, Long Beach, California U.S.A, 2000). tienve.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét