Tôi cứ đọc đi đọc lại cái
phóng sự Chén rượu vĩnh biệt của Nguyễn Tuân viết cho cuộc phúng điếu ông Tản
Đà năm 1939. Mãi mà không thấy chán. Cái tình của hai vị nguyên soái trong làng
văn nước Việt. Nửa đầu thế kỷ trước. Chẳng biết thế nào mà đâm mê lối thân thiết
tặng nhau từng thanh đóm châm lửa hút thuốc lào, cùng sự vui vẻ ngang tàng đến
mức sang trọng ngay trong lúc túng quẫn tiền bạc của hai ông. Trước khi mê văn
của họ. Cuộc đời như một giấc mơ. Hai người hiệp khách trong chốn văn chương ấy
đã lần lượt bầu rượu túi thơ về với ông giời ở nơi trời cao mây trắng có nhẽ đã
vài chục năm rồi. Được tiếng thơm lây là người cùng quê xứ Đoài, nhiều lần cứ
thắc thỏm về thăm làng Khê Thượng, quê Tản Đà một phen mà chưa thực hiện được bởi
cách trở muôn nẻo đường trần trong cõi mưu sinh.
Ở giữa vùng châu thổ, ba
dòng chỉ xanh đậm Hồng Hà, Đà giang và Đáy ngoằn ngoèo vẽ nên địa đồ tỉnh Sơn
Tây cũ hình người ngồi như vị La Hán trong chùa. Hợp lưu của Hồng Hà và Đà
giang làm thành hình cái đầu. Tức là vùng Phủ Quảng. Mặt hướng về phía đông. Đoạn
Hồng Hà chảy từ thành Sơn Tây về Hà Nội đến Phùng giống như người bỏ xuôi tay
ngay ngắn trên đầu gối. Phía dưới cùng là Phủ Quốc. Hình thế sông Đáy với núi
Thày làm nên một nếp áo Phật dài buông từ đầu gối xuống, phủ qua thị trấn Phùng
trở xuôi, tựa như bức màn che kín cả hai chân. Sông Đà bắt đầu chảy vào đất Sơn
Tây ngay dưới chân núi Ba Vì, chỗ Đá Chông, lượn hai nửa vòng tròn đến Phủ Quảng
để gặp Hồng Hà, thành địa giới huyện Bát Bạt, trông như hình bả vai của cái người
ngồi đó. Làng Khê Thượng quê hương Tản Đà, nằm sát bờ sông quanh năm gió dồng
mây núi, ở chính giữa cái đường viền của bả vai ấy.
Có nhiều cách để đi lên Khê
Thượng. Tôi chọn hướng thẳng từ chân núi Ba Vì, vùng Tản Lĩnh. Qua Ba Trại những
nếp đồi thấp trung du xen lẫn với dăm thung lũng nhỏ e ấp đây đó vườn chè lá
xanh mướt như mắt ngọc đưa khách tới bờ sông Đà. Khê Thượng. Đi theo những lời
kể rầm rì trong dân gian. Đấy là con đường hàng năm đức thánh Tản Viên về quê
ngoại, ở núi Nghĩa Lĩnh. Phía xa bên kia sông. Lễ tết bố vợ đâu đâu ai cũng biết
là vua Hùng. Đúng vào trước một canh giờ thì giao thừa đêm 30 tết năm nào cũng
vậy. Ngài đến bến đò làng Khê Thượng để sang sông. Dân làng hối hả chuẩn bị cho
đại lễ con đò gỗ tươm tất. Cắt cử một trang nam tử khỏe mạnh. Có hạnh kiểm tốt.
Gia thế đề huề. Làm người lái đò đưa ngài và đoàn tùy tùng qua sông. Dứt khoát
phải chở ba chuyến mới hết khách. Cứ nghĩ trong cái đêm trừ tịch trời đất sắp bước
vào năm mới trên mặt nước Đà Giang ngăn ngắt thổi, đức thánh Tản lại đi thực hiện
cái nghĩa vụ ngàn đời ấy mà cảm khái tới tấm lòng nhân hậu của trần gian.
Khu lưu niệm thi sỹ Tản Đà ở
làng Khê Thượng nhìn ra cái bến sông Đà huyền thoại ấy. Cách không xa bờ đê.
Phía trước có hai hồ nước trong xanh. Xung quanh hồ xây tường bao. Cao độ ngang
thắt lưng. Chính giữa hai hồ nước, cây cầu xi măng thanh mảnh đi qua hồ thẳng
vào cửa chính. Một thủy đình nho nhỏ giữa cầu làm như đến đó khách bộ hành
thanh tịnh bỏ lại tất cả bụi trần gian thế, trước khi bước vào gặp mặt nhà thơ.
Ở chính giữa sân lát gạch là mộ Tản Đà. Trên mộ trồng một loài hoa dại đang dịp
nở vào độ giêng hai. Li ti như những hạt gạo nhỏ phớt hồng.
Trước mộ dựng một bia đá bốn
mặt. Mặt trước bia thấy có ghi mấy dòng chữ quốc ngữ. Nguyên văn như sau: “Tản
Đà - Nguyễn Khắc Hiếu. Thân phụ Nguyễn Danh Kế. Thân mẫu Nhữ thị Nghiêm. Quán:
làng Khê Thượng - xã Sơn Đà - Ba Vì - Hà Tây. Nhà thơ lớn. Danh nhân văn hóa.
Người mở đường thơ ca hiện đại. Bước ngoặt lịch sử văn học Việt Nam”. Giữa khoảng
sân rộng, hai bên là hai nhà ngói một tầng làm theo lối đình cổ phổ biến ở xứ
Đoài. Mái ngói bốn góc vểnh lên. Mặt tiền hai nhà nhìn vào nhau có chạm hai chữ
thọ ở hai bên. Còn lại toàn bộ là cửa gỗ. Nhà bên phải để thờ có ảnh Tản Đà
trên hương án. Nhà bên trái để bình thơ. Tôi bảo anh em cho sửa một cái lễ nhỏ
dâng lên bàn thờ. Thắp ba nén hương làm lễ. Thắp ba nén nữa cắm ngoài đầu mộ giữa
trời xuân tĩnh mịch chao đi chao lại nắng ấm. Sau 70 năm tạ thế và hai lần rời
mộ, thi sỹ Tản Đà đã về đến được quê hương nằm trên con đường huyền thoại của đức
thánh Tản hàng năm xuống núi làm nghĩa vụ trần thế. Một đời thi sỹ, một đời văn
chương “Còn non còn nước còn trăng gió” về đây đâu phải chỉ để tĩnh tại với chốn
ngàn năm mà như để nhắc nhở cuộc chơi văn chương của đời ông vẫn còn tiếp tục với
hậu thế như nhiều lần ông đã viết trong văn phẩm của mình. Còn chơi! Còn chơi!
“chơi văn” như chính chữ Tản Đà đã gọi.
Bây giờ, thời đại đã đủ một
trăm năm để nhìn lại rõ hơn vị trí của Tản Đà trong lịch sử thi ca thế kỷ hai mươi.
Thời gian đã cho phép gọi Tản Đà là ngôi sao sáng rực rỡ trên bầu trời thi ca nước
Việt 30 năm đầu của thi ca thế kỷ vừa qua.
Lịch sử văn học thành văn của
Việt Nam sau công nguyên mất đi 1000 năm không có thi ca bằng văn tự. Dùng từ
“đêm trường” để chỉ 1000 năm Bắc thuộc chưa đủ nói hết sự kéo dài man rợ của
bóng tối mà ở đó người Việt không có văn học viết. Một nghìn năm tiếp theo có một
sự phân chia kỳ lạ. 900 năm đầu vẫn dùng văn tự của nước ngoài - chữ Hán hoặc
dùng chữ Nôm, một thứ chữ ông bà ta dùng ký tự của chữ Hán để định nghĩa xác âm
làm công cụ đánh giặc, trị nước và sáng tác thi ca. Cái thứ chữ không gắn gì với
tiếng nói hàng ngày của nhân gian, ngọn nguồn sáng tạo của văn học. Khi sáng
tác thi ca còn thực hiện nghiêm cẩn các lối thơ theo niêm luật của người phương
Bắc. Mặc dầu vậy, nhờ sức sống của cốt cách và tâm hồn Việt, giai đoạn 9 thế kỷ
đó đã tạo nên vững chắc nền văn học đặc sắc của một quốc gia văn hiến mà Lê Quý
Đôn trong Kiến Văn Tiểu Lục cho rằng không thua kém gì văn chương của xứ đã tạo
ra thứ chữ đó.
Đến thế kỷ 20, giai đoạn này
chỉ trong vòng 100 năm, đã hình thành và phát triển nền văn học hoàn toàn mới,
văn học chữ quốc ngữ, với truyền thống sáng tạo mới mà Tản Đà là một trong những
người lính tiên phong thành công nhất ở giai đoạn đầu tiên của sự chuyển đổi kỳ
diệu ấy. 100 năm cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai, người Việt đã kịp sản
sinh ra một nền thi ca, nền thi ca Quốc Văn như Tản Đà nói, ngang tầm với bước
đi của lịch sử, một nền thi ca theo cốt cách và niêm luật của riêng mình. Không
phụ thuộc vào những khuôn mẫu có trước ở bên ngoài. Tản Đà là một trong số người
đầu tiên mở cánh cửa của thời đại mới trong thi ca.
Chữ quốc ngữ lúc đầu hình
thành bởi giáo sỹ dòng Tên cùng với giáo dân Việt Nam ê a đánh vần tiếng Việt
theo người Việt trong các giáo đường lợp cỏ tranh. Năm 1651, từ điển Việt-Bồ-La
tinh được xuất bản. 200 năm sau, Gia định báo, tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên được
phát hành. Năm 1865 ở Sài gòn. Và thế là tiếng đánh vần ê a của các con dân
chúa bất chấp mọi âm mưu của người nước ngòai dùng thứ chữ này làm mục đích gì
đã từ trong các giáo đường vang xa ra khỏi vòng tròn của tiếng chuông nhà thờ bước
vào cuộc sống trần thế của nó từ những năm cuối thế kỷ 19. Đến thế kỷ 20, người
Việt Nam chỉ mất có 30 năm (1900-1930) để tập dượt và chuẩn bị cho sự thử thách
sức chuyển tải văn chương và cảm xúc thi ca bằng chữ quốc ngữ. Thơ ca Việt Nam
bước vào kỷ nguyên phát triển mới, mà một trong số ít người mở đầu là Tản Đà, một
sự mở đầu cho những cuộc đi xa.
Thực ra, sự khai mở một nền
văn học mới ấy ở giai đoạn đầu không phải chỉ là vấn đề chữ viết mà còn dựa
trên nền tảng sự chuyển đổi nền kinh tế xã hội dẫn đến những thay đổi trong đời
sống tinh thần. Xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20 đã chịu sự tác động lớn của
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần 1 (1897-1914) và lần 2 (1919-1929
) với mục đích vơ vét tài nguyên bản xứ đã có một tác động vô thức tới tiến
trình kinh tế xã hội Việt Nam. Trong vòng 50 năm 1880-1930, hệ thống đường sắt
và đường bộ hiện đại cho những cỗ máy chạy không cần ăn cỏ ngang dọc trên mảnh
đất “dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo” của thế kỷ trước để lại. Những ngọn đèn
không có ngọn lửa chổng ngược thắp sáng các đô thị phố xưa vốn chỉ le lói những
ngọn lửa nến và tàn đèn dầu lạc. Cầu Long Biên 1901-1904 là một trong những cây
cầu sắt lớn nhất được bắc khi ấy. Nhà hát opera Hà Nội 1911 như là một thánh đường
nghệ thuật lộng lẫy v.v... Có một đời sống của tầng lớp thị dân hình thành ở
nhiều đô thị theo phong cách châu Âu “sớm rượu sâm banh tối sữa bò”. Vào thời
gian đó, có khoảng 30 nghìn người Việt Nam làm công nhân trong các xí nghiệp của
tư bản Pháp cùng nhiều nghìn người trong các xí nghiệp người Việt hình thành một
lực lượng lao động trong sản xuất công nghiệp. Điều mà các nhà kinh điển của
triết học Mác gọi là chủ nghĩa Tư bản tự đào mồ chôn nó. Các sỹ phu thoát thai
từ nho học ở điểm nối thời gian giữa hai thế kỷ. Họ đọc Tân thư của người Thái
Tây, nhận thức mới lý thuyết về cải biến xã hội, ráo riết tìm đường cho độc lập
và chấn hưng đất nước. Cuộc đời và sự nghiệp của nhiều người trong số họ để lại
cho hậu thế những trang huyền thoại đến bây giờ vẫn chưa hết nguôi ngoai. Có ai
đi qua sông Tiền Đường ở Triết Giang năm ấy để thấy bụi tro tàn hỏa thiêu Nguyễn
Thượng Hiền sau khi Quang Phục Hội thất bại. Có ai đi cùng Tăng Bạt Hổ làm người
lính chiến dũng cảm của hải quân hoàng gia Nhật trong trận thủy chiến 1905, người
sau này đưa cụ Phan sang Đông kinh làm quen với giới chức Nhật Bản. Tìm đường cứu
nước.v.v...
Thời đại đã đặt nền tảng cho
sự đổi mới thi ca của thi sỹ Tản Đà; và xem thế ông không hề đơn độc để bước
vào một thế kỷ canh tân giữa buổi “mưa Âu gió Á”.Cái đặc sắc trong văn nghiệp của
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ở chỗ ông là người am hiểu sâu sắc Hán học; Cậu ấm Hiếu
đã từng lều chõng đi thi vào năm 1912 với hy vọng đỗ đạt làm quan theo ước nguyện
của người đẹp bán hàng tạp hóa tại số nhà hơn hai mươi về dãy bên lẻ phố hàng Bồ
mà không đặng. Cứ xem 84 bài Đường Thi của các nhà thơ nổi tiếng nhất từ Vương
Bột, Trần Tử Ngang đến Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… cũng như việc
ông phiên âm, dịch và chú giải Kinh Thi đủ thấy con người ấy có khả năng lớn
lao như thế nào để viết tiếp những vần thơ hay uyên bác theo truyền thống 900
năm trước như các bậc tiền nhân Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Những người đã
nhìn thấy ánh sáng chói lòa của thế kỷ mới. Tản Đà đã không làm như vậy. Mặc dù
dấu ấn của Hồ Xuân Hương và Tú Xương thấp thoáng trong một số bài thơ khi Tản
Đà mới cầm bút được dăm năm như Vịnh cảnh hoa đào, Nhớ chị hàng cau, Hoa sen nở
trước nhất đầm, Xem cô chài đánh cá...
Sự nghiệp văn chương lớn nhất
Tản Đà để lại cho nền văn học chữ quốc ngữ là hồn thơ trong sáng bao la về nỗi
buồn man mác tình yêu nước nước non non, vừa xa xôi phiêu lãng vừa tha thiết mặn
nồng trong nhịp điệu dạt dào của thể thơ truyền thống lục bát (mà Thề non nước
là điển hình) cùng với việc sáng tạo ra lối thơ tự do phóng khoáng, nhịp điệu
uyển chuyển đầy mới lạ không chịu ràng buộc theo niêm luật của 900 năm trước.
Cảm thu tiễn thu. Tống biệt. Tâm sự nàng Mỵ Ê... là những ví dụ điển hình. Mặc dù số bài thơ làm theo thể Thơ tự do không phải là nhiều trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông nhưng cũng đủ để cho người đời xếp ông vào vị trí mở đầu của một thời đại thi ca không chỉ cho giai đoạn 1930-1945 mà cho cả thế kỷ 20. Chỉ trong vòng 30 năm đầu thi ca chữ quốc ngữ đã có một Tản Đà bước ra với dáng vẻ khác lạ, dù bộ dạng ông vẫn áo the khăn gõ.
Cảm thu tiễn thu. Tống biệt. Tâm sự nàng Mỵ Ê... là những ví dụ điển hình. Mặc dù số bài thơ làm theo thể Thơ tự do không phải là nhiều trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông nhưng cũng đủ để cho người đời xếp ông vào vị trí mở đầu của một thời đại thi ca không chỉ cho giai đoạn 1930-1945 mà cho cả thế kỷ 20. Chỉ trong vòng 30 năm đầu thi ca chữ quốc ngữ đã có một Tản Đà bước ra với dáng vẻ khác lạ, dù bộ dạng ông vẫn áo the khăn gõ.
Khi bước vào nghiệp cầm bút
làm thơ, Tản Đà lấy cảm hứng nước non và thể loại thơ lục bát truyền thống làm
chủ đạo. Viết nên những câu thơ huyền diệu, nhuần nhuyễn. Thuyết phục lòng người
đến mức thơ ông như có lần ông nói phổ cập rộn ràng theo nhịp tom chát ở chốn
bình khang. Để rồi đến năm 1916 trong tập Khối tình con 2, ông mới viết những
bài thơ tự do như Tâm sự nàng Mỵ Ê, Tống biệt... Đến tập Còn chơi (1920 - 1925)
mới có Cảm thu tiễn thu... Tản Đà trong bài Cùng các bạn làm thơ viết năm 1934
đã nhún nhường tự nhận mình “vì chút Hán học xin đứng về đám người cũ” nhưng dứt
khoát khẳng định lối thơ gọi là mới lúc này, cách đây gần 20 năm ông đã làm ra
“không theo niêm luật ở đâu hết, chỉ không gọi nó là thơ mới mà thôi”. Tản Đà với
tư cách là gạch nối của 2 thời đại thi ca đã đi từ truyền thống, nhuần nhuyễn
trong truyền thống để đến với cách tân. Thực hiện việc đổi mới thi ca không phải
bằng cách du nhập những lối cảm, lối nghĩ, cách nói hoặc những hình thức có sẵn
từ bên ngoài. Phải chăng đó là điều để cho hậu thế phải suy ngẫm?
Tháng 11 năm 1941 Hoài Thanh
công bố quyển Thi nhân Việt Nam, đã trân trọng Tản Đà đến mức có hẳn mục riêng:
Cung chiêu anh hồn Tản Đà (1888-1939) ngay ở đầu quyển sách, trước cả lời giới
thiệu, xếp ngồi chiếu trên tất cả 44 nhà thơ của phong trào Thơ Mới. Ông thật
có lý khi viết về Tản Đà: “Chỉ tiên sinh là người của hai thế kỷ. Tiên sinh đã
cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả
dối, cái khô khan của khuôn sáo... Tiên sinh đã dạo những bản nhạc mở đầu cho một
cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa”.
Có người hỏi Tản Đà, trong
khoảng 20 năm làm vận văn, bài thơ nào hay hơn hết? Tản Đà cho rằng bài làm cho
Dương Quý Phi, Tây Thi... ở Bồng lai trong tập văn xuôi Giấc mộng con:
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình
Non nước tan tành
Giọt lụy tràn năm canh...
Nhưng người đời chỉ đồng ý với
ông khi ông chọn đoạn mở đầu của Cảm Thu tiễn Thu như lời tuyên ngôn về nhịp điệu
thơ mới đặc biệt nhuần nhụy, uyển chuyển trong cái thế phóng túng mà kỳ diệu ở
chỗ nó vẫn sử dụng những hình tượng quen dùng của thơ cũ:
Từ vào Thu đến nay
Gió Thu hiu hắt
Sương Thu lạnh
Trăng Thu bạch
Khói Thu xây thành
Lá Thu rơi rụng đầu ghềnh
Sóng Thu đưa lá bao ngành biệt ly...
Tuy nhiên, nếu phải chọn một
đoạn thơ nào đó để khắc lên bia mộ Tản Đà, tôi không chọn thơ làm theo lối mới
của ông mà chọn câu lục bát phóng túng nghĩ sẽ phù hợp với thần thái và khí
phách nổi tiếng là phiêu bạt, mơ màng mà nặng lòng trong cốt cách của hồn thơ
thề non nước:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện ước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng trông
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Năm 1982 khi cùng Nguyễn Khắc
Xương làm tuyển tập Tản Đà, Xuân Diệu bảo nhà thơ xứ Đoài là cái nắp xả hơi cho
tâm hồn xã hội. Người tiêu biểu nhất đưa ra cái buồn, cái sầu của cái tôi lãng
mạn chủ nghĩa bằng những vần thơ buồn mơ màng, chơi vơi, vô định mà thi sỹ cùng
thời không ai bì nổi. Mặc dù mơ màng như Xuân Diệu nói, nhưng thiên hạ cho rằng
Tản Đà rất tỉnh. Bằng chứng ngay cả khi Tản Đà thích nói đến say, chưa say, còn
say, lại say về cá nhân mình mà dường như chưa lúc nào say được bởi “Cơn men dốc
cả giang hà chưa say”. Vì chưa say ông còn giấc mộng lớn, giấc mộng con... Và
ngay cả khi thơ ông lọt vào chốn bình khang nghẹn ngào trong giọng hát ả đào vẫn
ứa đầy cảm khái: “Gió hỡi gió phong trần ta đã chán. Cánh chim bằng chín vạn chờ
mong”. Có đọc những đoạn cắt đi của chế độ kiểm duyệt Pháp trong Giấc mộng lớn
của ông thời đó mới hiểu ông đau đớn như thế nào khi phải viết về tình yêu quê
hương, nỗi buồn non nước và sự chia ly chỉ được xa xôi và man mác thế thôi.
Càng thông cảm với ông phải mượn cảnh thăm thằng bù nhìn để giãi bày cơ sự:
“Lâu nay thiên hạ văn minh cả. Bác mấy ngàn năm vẫn thế ư!”. Vì vậy lọt lưới được
hai câu thơ dưới đây trong tập văn xuôi ấy là một dịp may hiếm có với ông để
bày tỏ nỗi lòng của thi sỹ với đồng bào mình:
Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Nhưng không ai trong chúng
ta lại ép thơ văn của Tản Đà theo những tư tưởng mà văn học công khai thời đó
người ta ngăn cấm không cho tồn tại. Hãy để ông còn non còn nước còn trăng gió
cho thỏa cái chí tang bồng của người thi sỹ mà việc làm thơ tuyệt nhiên không
phải chỉ vì bầu rượu gió trăng mà ngoảnh mặt với đời. Cũng như không bắt ông phải
đóng vai trò như các sỹ phu yêu nước cùng thời đại với ông.
Câu chuyện của Tản Đà và thời
đại của ông tưởng như đã khép lại từ 70 năm trước. Không ngờ đến những năm cuối
cùng của thế kỷ 20, các thi sỹ Việt Nam giống như Tản Đà lại cũng bắt đầu một
cuộc canh tân mới trên nền tảng của công cuộc đổi mới đất nước và nhất là xét về
khía cạnh sự đồng điệu của yêu cầu mở cửa đối với thế giới bên ngoài và sự thôi
thúc của chính sách Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước. Quy mô của cuộc
“mưa Âu gió Á” lần này có một sự khác biệt lớn về tính chất, tầm vóc, phạm vi
và sức mạnh gấp bội so với hồi đầu thế kỷ 20. Thế kỷ 20 không biết có nơi nào
trên thế giới như người Việt Nam phải cầm súng trong nhiều trận chiến lâu dài đến
thế, vinh quang và mất mát lớn lao đến thế. Nếu tính từ lúc hàng nghìn người Việt
Nam phải xuống tàu đi qua 3 đại dương sang tận châu Âu đánh trận hồi 1914 đến năm
1995, khi các cường quốc lần lượt phải bình thường hóa với Việt Nam là bao
nhiêu năm chiến tranh, bao vây cấm vận? Chỉ biết rằng thế kỷ 20 vỏn vẹn còn 5
năm nữa! Khát vọng hòa bình hỏi có nơi nào khẩn thiết và bi tráng như ở nơi
này? Những đám mây nhơ bẩn của cái ác, của kẻ xâm lược còn vần vũ trên bầu trời
mặt đất và biển cả. Nhưng tất cả đều không át được những hồi trống ngũ liên náo
nức cho sự đổi mới và chấn hưng đất nước. Các thi sỹ làm sao có thể đứng ngoài
cuộc được? Chỉ còn lại vài năm của thế kỷ, một đội ngũ thi sỹ trẻ tài năng đã
và đang xuất hiện. Ai là người trong số họ làm được như Tản Đà là mở ra một thời
đại mới của thi ca? Có lẽ đọc lại Tản Đà để đi tìm họ cũng là một điều cần thiết.
Dù rằng không lặp lại đúng như bậc tiền nhân ấy.
Trở về nhà số 71 đường Cầu Mới
nay là nhà số 47 đường Nguyễn Trãi. Một thế kỷ vui buồn tưởng đã ra đi mà vẫn
còn vương vấn đâu đây. Nơi Tản Đà sống, trước khi thở hơi cuối cùng thuở ấy. Nếu
từ gò Đống Đa đi vào, dãy số lẻ ở bên trái đường, ngay sát ngã tư. Con đường nhựa
nhỏ bé ngày xưa còn tồn tại đến cuối những năm năm 80. Có cả dường xe điện bánh
sắt quanh năm rồng rắn với mấy toa tàu sơn màu đỏ cũ kỹ leng keng chạy từ Bờ Hồ
vào thị xã Hà Đông. Cả tiếng leng keng ấy với những bãi cỏ bên kia đường bất chấp
thời gian cứ đêm đêm lại cần mẫn hiện về trong ký ức của ánh đèn điện nhạt nhòa
vàng nắng mưa.
Nhà số 47 ở mặt tiền giờ vẫn
một tầng còn đó. Chỉ khác sau khi Tản Đà chết, là cửa hàng bán thuốc phiện giờ
cho thuê bán đồ thiếp cưới, thiệp mời đỏ màu rực rỡ. Cách đấy không xa, bên kia
cầu Mới (gọi là cầu cho sang nhưng khách bộ hành đi qua 100 người chắc gì có
dăm ba người nhận ra cầu) cái sản phẩm vĩ đại của nền kinh tế bao cấp - nhà máy
Trung quy mô đã lặn đi rồi. Để lại cho khu đô thị cao tầng dáng vẻ hiện đại kiểu
châu Âu đang hoàn thiện. Ba con người trong vở diễn Chén rượu vĩnh biệt 1939 lại
tái hiện trong ngôi nhà 47. Tản Đà của chúng ta đang ngồi kia xem số tử vi hà lạc.
Chừng như vắng khách. Ông Nguyễn Tuân lững thững từ phía làng Mọc đi ra. Chú
Lai ngấp nghé đâu đây nơi góc tối phía trong. Lại nghe ông Tản Đà: “Này Lai,
con chạy ra đầu phố xem có cái gì mua về uống rượu, con tùy tiện lấy!” Đó là
câu nói cuối cùng của Tản Đà tôi nghe được trong văn chương. Chuyện, còn non
còn nước còn trăng gió mà. Tôi nhìn rõ nét cười tủm tỉm và cái ý nghĩ của ông
Nguyễn Tuân: “Nghe mà thấy sang quá. Ai dám bảo ông Tản Đà luôn luôn túng quẫn”.
Vâng, sự túng quẫn đâu còn nữa với người thiên cổ. Chuyện thế mà đã ngót 80 năm
rồi.
3/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét