Nhân kỷ niệm 100 năm ngày
sinh Nhà văn,
Giáo sư Trương Tửu (18/11/1913 - 18/11/2013)
Sáng nay Hội Nhà
văn Việt Nam và một số cơ quan hữu quan cùng gia đình, bạn bè tổ chức trang
trọng Lễ Tưởng niệm Nhà văn, Giáo sư Trương Tửu tại Trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam,
số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội. Nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu bài của
PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn tới bạn đọc để cùng chia sẻ.
I/ Nhà văn, nhà nghiên cứu,
nhà báo, nhà giáo Trương Tửu (1913-1999), còn có các bút danh Nguyễn Bách
Khoa, Hoàng Canh, Mai Viên, T.T...; nguyên quán làng Bồ Đề, xã Phú Viên, huyện
Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội). Cuộc
đời Trương Tửu là một chuỗi những thăng trầm, những cuộc dấn thân trên tinh
thần trung thực, tranh đấu vì học thuật và lẽ phải. Vào năm 1927, ngay khi mới
15 tuổi, ông đã bị bắt, bị đuổi học vì tham gia bãi khóa ở Hà Nội để đòi thực
dân Pháp thả tác giả Chiêu hồn nước(Phạm Tất Đắc, 1910-1935). Ba năm
sau, khi đang học Trường Kỹ nghệ thực hành Hải Phòng, ông vận động học sinh
bãi khóa, phản đối ban giám đốc bỏ các môn lý thuyết về kỹ thuật nên lại bị
đuổi học. Năm 1937, ông làm chủ bút Quốc gia khuynh tả, vì đả
kích Bảo Đại, triều đình Huế và Nghị viện nên bị truy tố trước Tòa án Hà Nội
và bị xử phạt. Năm 1938, tác phẩm Một chiến sĩ của Trương Tửu được
những người Cộng sản giới thiệu nhiều kỳ trên báo Tin tức. Năm
1940, ông viết Kinh thi Việt Nam nhưng bị cấm, viết truyện Thằng
Hóm bị tịch thu ngay ở nhà in. Từ 1941-1946, ông chủ trì Nhà xuất bản
Hàn Thuyên và tập san Văn mới, chủ trương in sách của mọi tác giả,
mọi xu hướng (cộng sản, dân tộc, dân chủ, quốc gia và các tác giả tự chịu
trách nhiệm...). Bút danh Trương Tửu bị cấm, ông phải lấy bút danh Nguyễn
Bách Khoa tiếp tục viết sách. Tháng 5-1945, ông bị hiến binh Nhật lùng bắt phải
bỏ trốn và tập san Văn mới bị tịch thu. Sau chín năm tham gia kháng
chiến chống Pháp, ông tiếp tục giảng dạy lý luận và lịch sử văn học Việt Nam
tại Trường Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Hà Nội. Năm 1956, ông tham gia
phái đoàn giáo dục đại học tham quan nghiệp vụ ở Trung Quốc, khi trở về viết
bài trên tập san Giai phẩm của Nhà xuất bản Minh Đức, kiến nghị một
số chủ trương, chính sách mới về văn hóa, văn nghệ, giáo dục và kinh tế với Đảng
và Nhà nước. Năm 1957, ông được phong Giáo sư cùng đợt với các học giả Đào
Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường... Đầu năm 1958, ông
bị “thi hành kỷ luật”, buộc thôi công tác, không dạy đại học nữa vì tham gia
viết trên Giai phẩm mùa thu và Giai phẩm mùa đông (không
viết báo Nhân văn). Từ sau đó ông chuyển sang nghiên cứu, viết sách,
hành nghề Đông y cho đến khi mất (16.12.1999)…
Từ giai đoạn Đổi mới
(1986) đến nay, tên tuổi Trương Tửu được ghi nhận (xin xem Văn Tâm:Trương Tửu,
trong sách Từ điển văn học (Bộ mới). NXB Thế giới, H., 2004,
tr.1864-1865), các tác phẩm hầu hết được tái bản trở lại (không kể bài viết Bệnh
sùng bái cá nhân trong lãnh đạo văn nghệ, 1956). Ngày 31/5/2010, BCH Hội Nhà
văn Việt Nam chính thức có quyết định số 346/QĐ-HV “Công nhận nhà văn Trương
Tửu là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam”…
II/ Đến nay không mấy ai còn
nhớ những trang văn xuôi (bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn) in đậm
tính luận đề và chất dã sử của Trương Tửu thời những năm ba mươi, bốn mươi của
thế kỷ XX. Sự lãng quên này có lý do bởi các tác phẩm văn xuôi Trương Tửu đều
chưa được tái bản, hơn nữa còn chịu búa rìu của những quan niệm phê bình cực
đoan, “bắt vít” một chiều, cơ hội chủ nghĩa, cố ý tạo nên luồng dư luận không
đúng và không tốt. Trên thực tế, Trương Tửu sáng tác khá nhiều và được coi là
một trong những cây bút có phong cách trong làng tiểu thuyết giai đoạn trước
Cách mạng tháng Tám.
Nói về số lượng, Trương Tửu
sáng tác khá sung sức. Theo các nguồn tư liệu đã tập hợp được, trong khoảng
năm năm (1937-1942) ông đã viết tới 11 tác phẩm văn xuôi (không kể tập Múa
kiếm giữa chợ chỉ mới thấy quảng cáo khi xuất bản sách Năm chàng hiệp
sĩ). Hiện chúng tôi đã sưu tập được 10 tập tiểu thuyết và truyện: Thanh
niên S.O.S... (Minh Phương Xb, H., 1937; In lần thứ hai, 1937, 154
trang); Một chiến sĩ (Minh Phương Xb, H., 1938, 165 trang); Khi
chiếc yếm rơi xuống (Minh Phương Xb, H., 1939, 44 trang); Trái tim
nổi loạn (Văn Thanh Xb, H., 1940, 165 trang), Một cổ đôi ba tròng (Tân
Việt Xb, H., 1940, 74 trang), Đục nước béo cò (Minh Phương Xb, H., 1940,
41 trang), Khi người ta đói (Phổ thông bán nguyệt san, số 59, tháng
5-1940, 140 trang), Một kiếp đọa đầy (Tập truyện. Hàn Thuyên Xb,
H., 1941, 159 trang), Tráng sĩ Bồ Đề (Ký bút danh Mai Viên. Tiểu
thuyết dã sử. Hàn Thuyên Xb, H., 1942, 264 trang), Năm chàng hiệp sĩ (Ký
bút danh Mai Viên. Truyện dã sử. Hàn Thuyên Xb, H., 1942, 237 trang); riêng
tác phẩm Thằng Hóm (in 16 kỳ trên tuần báo Tin mới Văn chương, từ
15/9/1940 - 29/12/1940) mới vừa tìm lại được... Xin nói thêm, khi xuất bản Năm
chàng hiệp sĩ, tại trang phụ đầu sách có ghi: “Đang soạn: Múa kiếm giữa
chợ - Truyện dã sử” và đến trang phụ cuối sách dành trọng cả trang quảng
cáo chi tiết: “Đón xem Múa kiếm giữa chợ - Truyện phiêu lưu dã sử của
Mai Viên - Tác giả dắt các bạn đi qua những khu rừng bí mật, qua những hang động
đầy hùm beo ma quỷ, qua những ngọn tháp rùng rợn của xứ Hời! Các bạn sẽ có
cái cảm giác kỳ quái của một người đang sống một giấc mơ ghê ghớm, phút chốc
lại rùng mình hoảng hốt về những cảnh oanh liệt, những hành vi lỗi lạc, những
tình trạng nguy hiểm của các vai trò. Đọc những trang dã sử tả trong truyện,
các bạn sẽ thấy rõ cái công lao của cha ông ta bầy mưu lập kế để tràn xuống đất
đai của giống Hời!”… Đến nay, các tác phẩm của ông đã được tập hợp trong sách Trương
Tửu - Tuyển tập văn xuôi(NXB Lao động, H., 2009, 888 trang)…
Điều đáng chú ý là trong một
số tác phẩm, nhà văn Trương Tửu thường có thêm những đề tựa bằng cách mượn lời
các văn nhân nổi tiếng khác hoặc bằng chính ý kiến của mình. Mở đầu tiểu
thuyết Thanh niên S.O.S, Trương Tửu bày tỏ ý nguyện hướng tới lớp độc giả
quan trọng trong xã hội: “Tặng tất cả những ai có tâm huyết, thường lưu ý đến
vấn đề thanh niên hiện thời” và viết lời Tựa nhằm thể hiện rõ quan
điểm cá nhân:
“Không lúc nào bằng lúc này,
thanh niên nhắm mắt mà sống, nghiến răng mà sống, rút rít mà sống, rẫy rụa mà
sống - sống với những lới nguyền rủa trên môi và những ưu phiền não nuột
trong lòng.
Không lúc nào bằng lúc
này, thanh niên đem cả thông minh tiêu phí vào khói thuốc phiện, đem cả danh
dự ném vào chiếc đệm bông, đem cả tương lai vứt vào một bài tăng gô, đem cả
cuộc đời quẳng vào một hộp đêm.
Không lúc nào bằng lúc
này, thanh niên hoài nghi tất cả trừ khoái lạc, chán nản tất cả trừ tiền tài,
công kích tất cả trừ tội ác, làm tất cả trừ bổn phận, không tin vào một tôn
giáo nào, không nhận một luân lý nào, không thờ một lí tưởng nào, không trọng
một quyền thế nào.
- Chỉ tại xã hội
Trong một xã hội mà giàu
áp chế nghèo, nghèo căm ghét giàu; mà công lý nhân đạo, lẽ phải đều bị dẫm bẹp
dưới gót sắt của tiền bạc, quyền thế, sức mạnh; trong một xã hội mà kẻ ăn thừa
mứa đổ đi, người nằm chết đói ở vỉa đường, kẻ vung vãi bạc trăm bạc ngàn để
ăn chơi, người đổi mồ hôi nước mắt lấy bát gạo; trong một xã hội mà đặt chân
vào só tối nào cũng gặp một gái đĩ, dạo chơi hè phố nào cũng chạm trán một
tên ma cô; trong một xã hội mà rạp chiếu bóng là buồng đợ của nhục dục, công
viên là cung điện của dâm thần...
Trong một xã hội như thế,
thanh niên tránh thế nào được sự truỵ lạc? Kết án họ là ngu độn.
- Chỉ nên kết án xã hội
Kết án xã hội vì nó gây dựng
trên một nền tảng kinh tế không tổ chức.
Kết án xã hội vì nó dung
túng các sự bóc lột, áp chế, bất công, chênh lệch.
Kết án xã hội vì nó đầu độc
cá nhân.
Kết án xã hội để chứng thực
cho sự phá sản gần đến của nó.
Kết án xã hội để phá đổ nó
đi.
- Phải làm lại xã hội
Làm lại nó theo một quan
niệm khác về sự tổ chức kinh tế và chính trị.
Làm lại nó theo chủ nghĩa
xã hội.
Chỉ có thế mới giải quyết
được vấn đề thanh niên truỵ lạc.
Quyển THANH NIÊN
S.O.S này, bằng sự nghiên cứu lịch sử truỵ lạc của một tâm hồn, vạch một
con đường đi tới sự giải quyết ấy. Nó bầy ra một thực trạng xã hội. Nó toát
ra một khẩu hiệu tranh đấu.
Tác giả nó mong rằng các bạn
đọc thân yêu sẽ hiểu nó theo quan điểm ấy”...
Trong tiểu thuyết Khi
chiếc yếm rơi xuống, Trương Tửu mượn lời Victor Hugo chuyển thành lời đề từ
cho tác phẩm của mình. Có thể thấy tự những câu chữ này đã bộc lộ rõ ràng
quan điểm và mục đích của người tác giả:
Truyện này là chuyện gì?
Truyện xã hội mua một kẻ
nô lệ.
Mua của ai? Của nghèo đói…
Người ta bảo chế độ nô lệ
mất rồi.
Nhầm.
Nó vẫn còn, và tên là MÃI
DÂM.
Nó đè chĩu trên số kiếp
người đàn bà, nghĩa là đè chĩu trên duyên thắm,
trên nhan sắc, trên tình mẫu tử.
(Những kẻ khốn nạn)
Đến tiểu thuyết Một
chiến sĩ, Trương Tửu nêu rõ chủ kiến sáng tác bằng cả bài viết TỪ THANH
NIÊN S.O.S ĐẾN MỘT CHIẾN SĨ, trong đó ông nhấn mạnh tính hệ thống và mối liên
hệ chặt chẽ giữa hai tác phẩm:
“THANH NIÊN S.O.S được
quan niệm và xếp đặt theo một định luật xã hội học: cá nhân không là gì hết,
hoàn cảnh là tất cả. Những điều kiện sinh hoạt của một hoàn cảnh đẻ ra những
tâm trạng, tư tưởng, pháp luật tương đương. Tất cả họp thành một sức mạnh lôi
cuốn người ta một cách tàn nhẫn. Người ta không đủ thời giờ và nghị lực dừng
bước hay rẽ tạt sang bên cạnh. Người ta mất hết tự chủ. Người ta chỉ còn là
cánh bèo trên dòng thác, một bánh xe trong bộ máy. Đối với cá nhân, hoàn cảnh
tác động như một số mệnh.
Căn cứ vào định luật ấy,
tác giả THANH NIÊN S.O.S cắt nghĩa hiện tượng truỵ lạc của thanh
niên. Với những con số xác thực, tác giả đặt lên thảm một bài toán. Thanh
niên sống thế nào, nghĩ thế nào, tác giả đem phô bầy trên mặt giấy, y nguyên,
linh hoạt. Tác giả không tố cáo, không biện hộ. Tác giả chỉ ghi dấu vết một
hoàn cảnh của thời đại.
Hoàn cảnh trong THANH
NIÊN S.O.S là một hoàn cảnh truỵ lạc. Văn, Liêu, Hà, Sâm chỉ là những nạn
nhân của hoàn cảnh ấy. Trên đường oan trái, người đi trước dắt kẻ đi sau rồi
cùng bị xô đẩy xuống vực thẳm đầy xương máu.
Đọc hết THANH NIÊN
S.O.S người cạn nghĩ sẽ phải bi quan và chán ngán. Nhưng ai đã hiểu biết
trình tự biến hoá của xã hội tất nhiên phải liên tưởng đến một hoàn cảnh trái
hẳn hoàn cảnh tả trong THANH NIÊN S.O.S...
Thực thể mục nát của xã hội
hiện thời đã chế tạo ra một hoàn cảnh truỵ lạc. Nó cũng phải phát sinh ra một
hoàn cảnh phản động lại. Hoàn cảnh này là hủy thể của tình trạng mục nát kia.
Nó lấy phá hoại làm lẽ sống, lấy tranh đấu làm điều kiện tấn công, lấy chiến
sĩ làm phần tử.
Những thanh niên nào được
thấm nhuần tim óc trong hoàn cảnh tranh đấu ấy sẽ trở nên những chiến sĩ tận
tuỵ chống lại cái thực thể mục nát của xã hội cho đến khi kiến thiết được những
chế độ hợp lý và nhân đạo hơn.
Một lần nữa, ảnh hưởng
mãnh liệt của hoàn cảnh đối với cá nhân lại được minh chứng trong thiểu thuyết MỘT
CHIẾN SĨ này.
Tác giả không chủ ý vẽ ra
một chương trình hành động. Tác giả chỉ ghi chép một thí nghiệm tranh đấu của
người chiến sĩ để làm sáng tỏ một nhân sinh quan, khả dĩ giúp các bạn thanh
niên có chỗ đặt chân mà hoạt động giữa lúc này, trong xã hội Việt Nam, những
giá trị tinh thần cũ đương nhường chỗ cho những tư tưởng hỗn độn và đồi bại”...
Các nhà Cộng sản đương thời
đã đánh giá cao tác phẩm này. (Xem mục quảng cáo: “Đã có bán Một chiến
sĩ, tiểu thuyết của Trương Tửu. Một quan niệm mới về luân lý của người chiến
riêng tặng các bạn nam nữ thanh niên. Dày ngót hai trăm trang. Bìa in hai
màu, giá 0$35. Minh Phương xuất bản, 15A Cité Văn Tân - Hà Nội”. Tin tức,
số 5, ra tuần 4-11/5/1938, tr.3; số 6, ra tuần 14-21/5/1938, tr.3… Xem thêm Hải
Khách [Trần Huy Liệu]: Phê bình sách Một chiến sĩ. Tin tức, in ba kì, số
9, ra tuần 4-11/6/1938, tr.4; số 10, ra tuần 11-18/7/1938, tr.3+4; số 11, ra
tuần 18-25/7/1938, tr.3+4)...
Các tác phẩm văn xuôi
Trương Tửu bao quát một hệ thống chủ đề và phạm vi nội dung hiện thực rộng lớn:
đương đại, lịch sử và dã sử; đấu tranh xã hội, gia đình và cá nhân; đấu tranh
giai cấp, tình yêu và phong tục; thành thị, ven đô và nông thôn; trí thức,
công chức và nông dân… Tác giả cũng sử dụng nhiều phong cách, bút pháp, giọng
điệu khác nhau: đối thoại, độc thoại, dòng ý thức, ghi chép tư liệu, phóng sự,
luận đề, sử liệu, thư từ… Trương Tửu có những tác phẩm đi sâu khai thác cuộc
cải biến xã hội đương thời, những cuộc va chạm quyết liệt giữa cái mới và cái
cũ, đặc biệt phản ánh sâu sắc những đổ vỡ, hoang mang, ngỡ ngàng của lớp người
trẻ tuổi trước thực tại xã hội thời thực dân hóa cùng mặt trái của thời kỳ đô
thị hóa, hiện đại hóa (Thanh niên S.O.S, Một chiến sĩ, Khi người ta đói…).
Thông qua những tấn bi kịch tình yêu và gia đình, nhà văn đi sâu phân tích bi
kịch con người cá nhân, con đương bần cùng hóa, bế tắc và không còn khả năng
thích nghi với cuộc sống đang biến đổi mau chóng (Khi chiếc yếm rơi xuống,
Đục nước béo cò…). Phần nào bắt nhịp và tiếp xúc đồng đại với văn học phương
Tây đương đại, Trương Tửu chú trọng phân tích tâm lý con người cá nhân theo
dòng ý thức, theo những ẩn ức thân phận và cả khía cạnh tính dục (Trái tim nổi
loạn, Một cổ đôi ba tròng, Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy, Một kiếp đọa đầy…).
Đến chặng cuối thời kỳ sáng tác văn xuôi, Trương Tửu hướng đến thể tài dã sử,
thường được gọi là “truyện dã sử” hay “tiểu thuyết dã sử”. Trong thực chất, cả
hai tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề vàNăm chàng hiệp sĩ đều thuộc
loại tiểu thuyết lịch sử, có thời gian, bối cảnh, sự kiện, có mối liên hệ với
nhân vật thuộc thời trung đại và được ghi chép trong chính sử. Tiểu thuyết Tráng
sĩ Bồ Đề (2 quyển, 14 chương) nương theo sự kiện Thập đạo tướng quân Lê
Hoàn thay thế nhà Đinh vào giai đoạn cuối thế kỷ X. Tuy nhiên, hoạt động của
các tráng sĩ Bồ Đề, Bạch Hạc và các cô Minh Tâm, Kim Chi trong đảng Từ Bi đối
lập với đảng Thập Đạo nơi kinh thành cho thấy màu sắc hiện đại hóa và dấu ấn ảnh
hưởng không khí xã hội đương thời. Tiểu thuyết Năm chàng hiệp sĩ (2
quyển, 14 chương) lại lấy bối cảnh lịch sử xã hội thời Lý Anh Tông
(1138-1175), xây dựng nhiều nhân vật đảng viên trung kiên của đảng Quần Anh
đan xen những mối tình lãng mạn, những hoạt động do thám, thủ tiêu, lật đổ.
Điều này khiến thiên tiểu thuyết gia tăng chất truyện trinh thám, cốt truyện
vụ án, đường rừng, đưa lại sự hấp dẫn, ly kỳ, hồi hộp cho người đọc. Nhìn
chung, cả hai thiên tiểu thuyết lịch sử này đều được “tiểu thuyết hóa” ở mức
độ cao, hư cấu thêm nhiều nhân vật, sự kiện, chi tiết, tình tiết. Đây cũng
chính là điều sở đắc của loại tiểu thuyết lịch sử (dã sử) của Trương Tửu
trong dòng tiểu thuyết lịch sử nói chung.
Rõ ràng phần lớn các sáng
tác của Trương Tửu đều có mối liên hệ chặt chẽ với dự đồ sáng tạo, với chủ
đích luận đề đấu tranh xã hội, với tính tư tưởng mà tác giả suy tôn, tin tưởng.
Những lời tựa, đề từ, trữ tình ngoại đề có sự tương hợp chặt chẽ với toàn bộ
nội dung tư tưởng tác phẩm. Đây chính là một đặc điểm quan trọng, góp phần định
hướng, chi phối toàn bộ các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu giai đoạn trước
Cách mạng tháng Tám 1945.
Ngay từ trước Cánh mạng
tháng Tám 1945 đã có một số ý kiến bàn về sáng tác của Trương Tửu. Có thể nói
những ý kiến của người đương thời - tức những người sống đồng thời với giai
đoạn các tiểu thuyết Trương Tửu vừa mới ra đời - thực sự là những cảm nhận trực
tiếp, cụ thể, tươi mới về các sáng tác của họ Trương với tư cách là tiếng nói
của người trong cuộc, người cùng thời, chưa bị pha tạp bởi mọi thiên kiến và
ràng buộc qui phạm. Ngay sau khi tiểu thuyết Thanh niên S.O.S vừa
ra đời, nhà phê bình xuất sắc Kiều Thanh Quế ở miền Nam đã đặt tác phẩm này
bên cạnh Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Người đàn bà trần truồngcủa
Nguyễn Vỹ đều cùng thuộc dòng văn chương "phóng túng tình dục". Trước
biến thiên của một thời đại đang trong quá trình Âu hoá và đặc biệt sự vận động
trong đời sống tinh thần xã hội đã tạo nên những quan niệm đạo đức, thẩm mĩ
và lối sống mới mẻ, nhiều khác biệt. Một trong những nội dung có ảnh hưởng và
tác động mạnh mẽ trong đời sống văn chương là vấn đề tình dục - tính dục. Kiều
Thanh Quế đã lựa chọn ba tác phẩm của ba cây bút tiêu biểu Vũ Trọng Phụng -
Trương Tửu - Nguyễn Vỹ để lý giải hiện tượng này:
"Văn chương Việt Nam
tiến bộ. Nhà văn không còn sợ luân lý Khổng - Mạnh nữa. Họ nói: "Văn học
muốn tiến hoá phải thoát ly tinh thần luân lý phong kiến" (Hồ Xanh). Rồi
họ mạnh dạn mang quan niệm tình dục vào văn chương. Một vài nhà văn đương thời
tiêu biểu cho xu hướng này: Vũ Trọng Phụng, Trương Tửu, Nguyễn Vỹ. Tôi muốn lấy
3 tác phẩm: Làm đĩ, Thanh niên S.O.S, Người đàn bà trần truồng của
họ làm trụ điểm cho cuộc lập luận này.
Họ Vũ, họ Trương, họ Nguyễn,
cả ba đều có ý muốn phóng túng tình dục văn chương họ tố cáo họ!
Tình dục, giai cấp phú hào
đang thi vị hoá nó để hành lạc. Người ta dựa vào học thuyết Freud mà dâm đãng
hoá tình dục. Freud thật là đắc tội mà tạo ra một cái thuyết để cho muôn người
hiểu sai" (Kiều Thanh Quế: “Làm đĩ”, “Thanh niên S.O.S”, “Người
đàn bà trần truồng” và quan niệm tình dục trong văn chương Việt Nam. Báo Mai, Sài
Gòn, số 108, ra ngày 27-10-1938, tr.9)…
Sau khi diễn giải thuyết
Phân tâm học của S. Freud, Kiều Thanh Quế xác định: "Viết Thanh
niên S.O.S, ngoài việc lấy tình dục cắt nghĩa ái tình, Trương Tửu còn
dùng nó "nghiên cứu lịch sử trụy lạc của một tâm hồn (trong truyện là
Liêu), vạch một con đường đi tới sự giải quyết vấn đề thanh niên, bày ra một
thực trạng xã hội, toát ra một khẩu hiệu tranh đấu" (Rút trong bài tựa Thanh
niên S.O.S - KTQ chú)..., Trương Tửu đưa ra một chàng thanh niên hư đốn,
trụy lạc, chạy theo tình dục: Liêu. Liêu của ông nằm mộng, tơ tưởng đến một
người con gái, vào tiệm hút, vào nhà chớp bóng thọc tay vào chỗ tối kỵ của
đàn bà, phá hư danh tiết một người con gái, chết vì hành lạc thái quá... Kết
cuộc Trương Tửu đội lốt một vị đốc - tờ kết tội thanh niên, kết án Dục
tình"...
Minh chứng cho điều này,
Kiều Thanh Quế dẫn lời đốc - tờ nói với chị Quế Hương về bệnh tình của Liêu
trong phần cuối tiểu thuyết Thanh niên S.O.S: “Nếu tôi không nhầm thì cậu
Liêu nhà ta hay lui tới những chốn ăn chơi. Vì trác táng lâu ngày, tạng phủ
trong người mòn yếu. Hôm nay chắc bị xúc cảm về một việc gì nên máu ở tim ngừng
chảy, mới ngất đi lâu như thế. Tôi làm nghề thuốc đã năm sáu năm nay. Những bệnh
nhân trẻ tuổi đến tĩnh dưỡng ở bệnh viện của tôi như cậu Liêu kể có non nghìn
người. Thôi thì loạn óc, đau màng óc, đau tim, đau cuống phổi, ho lao, nào thần
kinh,… đủ các chứng bệnh tinh thần. Mà tôi xét ra không phải họ làm việc thái
quá bằng tâm trí mà sinh ra thế. Tất cả đều đã hoặc đang mắc bệnh hoa liễu. Họ
say đắm nhiều quá những thú vui dâm dục. Họ thức đêm này qua đêm khác để uống
rượu, hút thuốc phiện. Họ nuôi trong óc luôn luôn những ý nghĩ bất chánh. Họ
sống thuần bằng những mộng dâm đãng, những mưu cơ lừa dối. Bởi vậy nên thân
thể và tinh thần họ suy vi rất mau chóng. Tôi chắc cậu Liêu cũng ở vào ca ấy”...
Mấy năm sau, trong chuyên
khảo Ba mươi năm văn học, với bút hiệu Mộc Khuê, Kiều Thanh Quế tiếp
tục nhấn mạnh: "Cùng một chủ trương với họ Lê (Lê Văn Trương - NHS chú)
về xã hội tiểu thuyết, Trương Tửu viết Thanh niên S.O.S, Trái tim nổi loạn,
Một chiến sĩ, Một cổ đôi ba tròng" (Mộc Khuê: Ba mươi năm văn học.
NXB Tân Việt, H., 1942, tr.52)… Nhìn chung, các sáng tác của Trương Tửu thường
tỏ rõ ý thức bênh vực người nghèo khó, hướng đến đấu tranh nhưng các nhân vật
lại có phần thiên về tiếng nói triết lý, luận đề, ngoại đề (Hảo trong tiểu
thuyết Một chiến sĩ, Thiện trong Khi người ta đói...). Có thể
chính lối tư duy luận lý mạnh về khảo cứu và phân tích đã chi phối tư duy
hình tượng và cảm xúc khiến cho ngòi bút Trương Tửu in đậm phong cách tiểu
thuyết - ký sự, nghiêng hẳn về "Sinle hóa"... Xin dẫn một đoạn văn
Trương Tửu tỉnh táo cắt nghĩa, diễn giải chuyện ái tình của nam nữ thanh
niên ở tuổi dậy thì trong tiểu thuyết Thanh niên S.O.S: "Phàm một
người con gái phải trải qua một thời kỳ mà cơ thể kêu gào một khoái cảm, khoa
học gọi là thời kỳ động tình. Trong thời kỳ đó, không gì làm người con gái hoạt
bát, có duyên, tươi tỉnh, lẳng lơ bằng đứng trước mặt một người con trai (…).
Sự có mặt của người con trai làm thức tỉnh cái tinh lực tiềm tàng trong cơ thể
người con gái. Người ta gọi nó là tinh lực dâm đãng. Hiện tượng này đã được
khoa học chứng nhận bằng nhân điện, cho rằng ở mỗi cơ thể người con trai ngời
ra những âm ba điện lực có đủ sức mạnh chiếu vào cơ thể người con gái, khua động
cái bản chất điện lực nằm tản mạn trong đó" (Thanh niên S.O.S. In lần
thứ hai. Minh Phương Xb, H., 1937, tr.72-73)… Điều này cũng thể hiện rõ nét
trong tập truyện vừa Một kiếp đọa đầy gồm một thiên truyện cùng tên
và truyện Cái tôi của ai. Truyện thứ nhất kể về hai chị em gái. Người
chị tên Liễu xấu xí lại bị mọi người xung quanh ghẻ lạnh đã rắp tâm ghen ghét
và trả thù cô em. Khi em Nguyệt có cậu Tú Duyên đến hỏi cưới thì Liễu giả làm
người khác viết thư gây chia rẽ, gây sự đánh Liễu rồi bỏ đi. Đến truyện Cái
tôi của ai hầu như là lời kể về những chiêm nghiệm, những suy tư suy tưởng
về cuộc sống, về con người cá nhân trong mối quan hệ với xã hội, về ý thức muốn
hoàn thiện nhân cách nhưng rồi vẫn bị cuộc sống đời thường chi phối, níu kéo
và nhấn chìm trong những mưu mô, thủ đoạn, hành động thấp hèn... Nhận diện nội
dung các sáng tác văn xuôi Trương Tửu, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại(1942)
đã xếp tác phẩm của ông mở đầu cho mục "Tiểu thuyết xã hội" (cùng với
Nguyên Hồng, Thạch Lam, Đỗ Đức Thu, Nhượng Tống, Thanh Tịnh, Thụy An, Nguyễn
Xuân Huy, Ngọc Giao, Nguyễn Vỹ) và nêu mấy ý kiến khái quát: “Những tiểu thuyết
đầu tay của ông đều là tiểu thuyết tranh đấu, nghĩa là những tiểu thuyết có
tính cách cải tạo và bênh vực một vài ý kiến của mình (…). Từ tiểu thuyết
tranh đấu đến tiểu thuyết xã hội, tác giả chỉ cần đi một bước”... Về phong
cách Trương Tửu, Vũ Ngọc Phan nhận diện qua một thiên tiểu thuyết thuộc dòng
“đấu tranh xã hội” tiêu biểu: “Đọc Một chiến sĩ, người ta nhận thấy
Trương Tửu là một nhà văn lời lẽ hùng hồn, thống thiết. Những lời ấy nó đánh
vào tình cảm người ta hơn vào lý trí người ta, mà người đời thường vị tình
hơn theo lý. Trong tiểu thuyết của ông, nhiều chỗ văn ông trác luyện, sáng suốt,
lối văn thích hợp cho người muốn bênh vực thuyết của mình. Những đoạn Hiền
bày tỏ sự hoài bão của mình cho Như Lan nghe để nàng hiểu mình, đừng có sầu
não quá độ là những đoạn thấm thía, dễ cảm người đọc. Song đến cách dựng việc
trong Một chiến sĩ thì lại có nhiều điều khuyết điểm”… Với loại
sách “có tính cách xã hội”, Vũ Ngọc Phan khảo sát và đánh giá từng tác phẩm cụ
thể: “Quyển Khi chiếc yếm rơi xuống tuy mang cái nhan đề khơi gợi
nhưng cả tập tiểu thuyết tuyệt nhiên không có chỗ nào gợi tình cả. Nó gần là
tập phỏng vấn một gái giang hồ để tìm nguyên nhân trụy lạc của phần đông gái
nhà chứa. Cái nguyên nhân ấy là sự đói khát (…). Tập tiểu thuyết xã hội Khi
người ta đói của Trương Tửu là một tập ông viết một giọng thô bạo và hằn
học bội phần nếu người ta đem so với các tiểu thuyết khác của ông. Đọc cả
truyện, người ta chỉ thấy rặt một màu đen tối, không có lấy một tia hy vọng ở
kẻ nghèo (…). Viết tập Khi người ta đói Trương Tửu cũng nương tựa
vào nhiều thành kiến như trong khi phê bình nên nhiều khi ông thiên vị và tạo
nên những việc buồn thảm quá đáng. Người ta thấy Trương Tửu phải chăng hơn
khi viết tập ái tình tiểu thuyết Trái tim nổi loạn (…). Đoạn kết rất
là đột ngột và thê thảm. Một truyện ái tình bi đát, tả bằng những nét hơi đậm
một chút nhưng tỉ mỉ, kỹ càng. Chỉ phải vài ba đoạn nghị luận hơi dài, nhắc
đi nhắc lại một ý kiến về ái tình và hôn nhân, làm cho những đoạn ấy kém phần
thú vị. Tuy vậy, Trái tim nổi loạn của Trương Tửu cũng đáng kể là một
tiểu thuyết xây dựng vững vàng… Viết tập Một kiếp đọa đầy và Cái
tôi của ai (in chung trong một tập), Trương Tửu đã dài giòng quá”… Sau
khi phân tích các tập truyện và tiểu thuyết Một chiến sĩ, Khi chiếc yếm
rơi xuống, Khi người ta đói, Một kiếp đọa đầy, Vũ Ngọc Phan xác định: “Trương
Tửu tỏ cho người ta thấy ông là một nhà tiểu thuyết xã hội. Ngay trong tập ái
tình tiểu thuyết Trái tim nổi loạn, ông cũng có cái ý phân giai cấp mỗi
khi nói đến sự giàu nghèo của Thúy và Thông. Còn ở hầu hết các tiểu thuyết
khác của ông, ông bênh vực người nghèo rõ rệt… Về mặt phê bình, Trương Tửu là
một nhà văn thiên vị, chỉ biết theo khuynh hướng chính trị của mình; còn về
tiểu thuyết xã hội, ông là một nhà văn có những ý kiến chưa lấy gì làm chín
chắn và sâu rộng” (Vũ Ngọc Phan: Nhà văn Việt Nam hiện đại. Tái bản.
Nxb Thăng Long, Sài Gòn, 1960, tr.1123-1136)... Đặt trong mặt bằng chung của
nền văn xuôi và tiểu thuyết đương thời, có thể nói Vũ Ngọc Phan đã thẳng thắn
chỉ rõ những điểm hạn chế và khả thủ ở sáng tác Trương Tửu, trong đó nhấn mạnh
ưu điểm về lối văn “trác luyện, sáng suốt”, “tỉ mỉ, kỹ càng”, “đáng kể là một
tiểu thuyết xây dựng vững vàng”…
Xét trong tương quan
chung, khi tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được tái bản,
Kiều Thanh Quế đã đi sâu phân tích, dẫn giải cả về nội dung và chiều sâu hình
thức nghệ thuật, qua đó nhận diện sự khác biệt với phong cách Trương Tửu - Lê
Văn Trương: "Thời xưa! Một thời xưa của nước Việt Nam cổ. Những cái vang,
cái bóng của cổ thời ấy, Nguyễn Tuân trịnh trọng ghi chép lại như một
nhà lịch sử ký sự, bằng ngọn bút tỉ mỉ của một nhà tiểu thuyết chơi văn. Vang
bóng một thời là một toàn khối đựng đủ "mùi tiêu sái" của người
xưa trong các quan niệm "chơi", "nhàn", v.v... Văn Tự lực
văn đoàn mềm mại dịu dàng. Văn Trương Tửu, Lê Văn Trương mạnh mẽ, đột khởi.
Văn Nguyễn Tuân thì dí dỏm như một cô gái làm nũng, có khi lại "đỏng đảnh"
như một người đàn bà khó chiều. Trong hai thuộc tính ấy, văn Nguyễn Tuân mạnh
bạo đi đi đến nhiều tiểu xảo văn thuật có khi cũng ý nhị mà lắm lúc
cũng ngô nghê! (Sự quá quắc bao giờ cũng cụng nhằm những viên đá tảng đánh vỡ
gò trán!). Tiểu xảo văn thuật của Nguyễn Tuân luôn luôn nhu dụng đến các phép ẩn
dụ(métaphore), hình tượng (imagination), nhân cách hóa (personn
fication)" (Kiều Thanh Quế:Nhân quyển "Vang bóng một thời tục
bản" - Tập truyện ngắn của Nguyễn Tuân. Tri Tân, số 145, tháng 6-1944;
tr.10-11+15)… Ghi nhớ và cảm nhận về Trương Tửu trước Cách mạng tháng Tám,
Nguyễn Vỹ hồi tưởng: "Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lý luận. Lời nói của
anh là một sản phẩm của máy móc, lý luận của anh là một dây truyền ngôn ngữ
phối trí chặt chẽ, liên kết mạch lạc và rèn rũa với một nghệ thuật tinh vi, tế
nhị. Anh là một nhà hùng biện bẩm sinh. Không do một học đường nào đào tạo cả
(...). Ngoài những khảo cứu văn học và triết học, Tửu cũng viết truyện. Truyện
dài đầu tiên của Trương Tửu nhan đề Thanh niên S.O.S (1938) là tiếng
kêu cứu của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì phong trào lãng mạn. Kế tiếp
là Một chiến sĩ và Khi chiếc yếm rơi xuống (1939). Cả ba
đều do nhà Minh Phương 15 A, cư xá Văn Tân, phố Hàng Đãy xuất bản... Bắt đầu
đệ nhị thế chiến, ba quyển này đều bị Nha Thông tin và báo chí Pháp (I.P.P) cấm,
vì đả kích xã hội An Nam thối nát dưới chế độ thực dân (...). Từ học thuyết
này qua học thuyết khác, Tửu rơi vào triết lý macxit nhưng không thiên hẳn về
chủ nghĩa quốc tế nào vì nguyên tắc của Tửu là chống giáo lý. Tửu không phải
là người trung kiên với một điều tín. Đúng hơn, anh là một người tự do tư tưởng,
và, trước hết là một người hùng biện hoàn toàn độc lập" (Nguyễn Vỹ: Văn
thi sĩ tiền chiến. Khai Trí Xb, Sài Gòn, 1969)...
Đến gần đây, trong công
trình Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (Từ cuối thế kỷ XIX đến 1945),
phần Thư mục tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945 đã
thống kê Trương Tửu có 7 tác phẩm văn xuôi (Khi chiếc yếm rơi xuống, Khi người
ta đói, Một cổ đôi ba tròng, Trái tim nổi loạn, Thanh niên S.O.S, Một chiến
sĩ, Một kiếp đoạ đầy” (Vũ Tuấn Anh - Bích Thu chủ biên: Từ điển tác
phẩm văn xuôi Việt Nam -Từ cuối thế kỷ XIX đến 1945. Nxb Văn học, H., 2001,
tr.1135)... Tuy nhiên, trong phần giới thiệu tóm tắt nội dung và nghệ thuật
tác phẩm, công trình chỉ chọn phân tích duy nhất mục từ tác phẩm Một kiếp
đoạ đầy. Mục từ do nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh thực hiện:
“[Một kiếp đoạ đầy] Gồm
hai truyện: Một kiếp đọa đầy và Cái tôi của ai.
Một kiếp đọa đầy kẻ về
một cô gái xấu xí, sống trong đau khổ, mặc cảm, uất ức và cuối cùng đã có những
hành vi bột phát trả hận với cuộc đời. Liễu hỏng một mắt và bị méo mồm do di
chứng của bệnh đậu mùa. Cô bị mẹ ghét bỏ, em gái khinh nhờn, họ hàng chế giễu,
bầu bạn lảng tránh. Tuổi xuân của cô chỉ là một chuỗi ngày buồn thảm, nhục
nhã. Nguyệt, em Liễu, là cô gái có nhan sắc nhưng tâm địa ích kỷ, luôn đối xử
độc ác với Liễu khiến Liễu vốn là một người hiền lành cũng nảy ý định trả
thù.
Khi Nguyệt được mai mối lấy
cậu Tú Duyên và mọi việc đang êm đẹp thì Tú Duyên nhận được một lá thư của một
người giấu tên sỉ vả chàng cướp người yêu của anh ta. Tú Duyên muốn ngãng ra
nhưng Nguyệt thanh minh, thuyết phục Tú Duyên, nên hai người lại hòa hợp trở
lại. Chính Liễu là người đã viết lá thư đó. Thấy mình đã thất bại trong việc
phá hạnh phúc của Nguyệt, Liễu tìm cách phá hoại nhan sắc của Nguyệt. Một
hôm, vô tình Nguyệt nhìn vào tờ giấy thấm trên bàn Liễu và nhận ra đó chính
là những chữ viết của bức thư nặc danh. Nguyệt căm tức lao vào đánh Liễu.
Trong lúc xô xát, Liễu đã cắn đứt môi Nguyệt, sau đó bỏ nhà trốn đi.
Cái tôi của ai (Tâm sự) gần
với tùy bút - triết lý hơn là một truyện vừa. Một con người tự phân tích cái
tôi của mình để thấy rõ hơn bản chất, thế giới nội tâm cũng như những hành vi
ứng xử của mình. Cái tôi con người như phân tích của tác giả, là một phức thể:
có cái tôi bên ngoài (tức là cái tôi xã hội), có cái tôi bên trong, và cả cái
tôi đạo đức nữa. “Trong con người tôi, hình như đã có sẵn một cái tôi bên
ngoài, có thể gọi là cái tôi xã hội sống cạnh nách với cái tôi bên trong. Có
khi nó làm xong, cái tôi bên trong mới can thiệp vào để tán thành hay phản đối.
Nhưng có một điều này tôi cho là rất lạ, là bao giờ cũng như bao giờ, cái tôi
xã hội cũng chỉ làm lợi cho cái tôi bên trong”. Một vài câu chuyện được kể lại
chứng minh cho những xét đoán của tác giả. Với đồng lương của một thày ký còm
tháng hai ba chục, tôi phải bảo vợ bớt tiền chợ. Nhưng rồi cô em đến
chơi, chứng kiến bữa cơm đạm bạc. Tôi xấu hổ, mắng vợ và khi thấy vợ
tức tưởi khóc, tôi lại thấy hối hận. Vậy là, hôm qua tôi là cái đầy tớ của
cái tôi bên trong, hôm nay lại là cái đầy tớ của cái tôi xã hội. Và khi tôi hối
hận vì đã mắng vợ vô lý, thì lại có cái tôi thứ ba nữa: cái tôi đạo đức, đóng
vai quan tòa của lương tâm mình”...
Tác giả cũng đề cập tới sự
ích kỷ của cái tôi. Cái tôi ích kỷ ấy khiến cho tôi đã có lần tham
một gói kẹo của ai đó để quên trên xe điện. Nhưng rồi cái tôi ích kỷ ấy cũng
có lần nhận được bài học quý báu. Có lần tôi bị ốm mà không còn đồng
xu dính túi, lại chẳng có ai thân thuộc giữa đất Hà Nội. Gia đình bán hàng nước
dưới nhà - gia đình bác Nhỡ đã tận tình chăm sóc, khiến tôi cảm thấy
ân hận vì trước đây mình vẫn luôn nghi ngờ lòng tốt của mọi người. Gia đình bác
Nhỡ sau cũng gặp hoạn nạn, ly tán càng để lại cho tôi những suy
nghĩ thấm thía, khiến cho tôi thấy muốn làm những việc tốt đẹp, vô
tư cho mọi người. “Đã sa vào kiếp người, tôi chỉ biết có con người, chỉ sợ có
sự trừng phạt của lương tâm tôi thôi, anh ạ”.
Nhưng cố dứt cái tôi ích kỷ
của mình là chuyện không dễ dàng. Sống trong sự bon chen của cuộc đời, vì tiền
bạc, vì hãnh diện, con người không dễ thắng cái tôi ích kỷ. “Muốn sống còn,
tôi cũng phải ích kỷ như mọi người”. Tác giả kể một câu chuyện để minh họa
cho triết lý ấy. Một lần, các đồng nghiệp ở sở vận động nhau ký vào đơn đòi
chủ tăng lương. Tôi không ký, nhưng vì người cầm đầu là Thiệp ráo
riết vận động, lại sợ bản tính liều lĩnh, du côn của Thiệp, nên tôi đành
ký. Hôm sau, chủ hứa hẹn trấn an các nhân viên. Tôi được gọi vào gặp
chủ; ông chủ đưa cho xem những lá đơn xin việc đang chờ với số lương yêu cầu
chỉ bằng hai phần ba số lương tôi đang lĩnh. Tôi sợ hãi, xin rút ý
kiến đòi tăng lương. Ông chủ vẫn hăm dọa đuổi việc và hỏi tên chủ mưu. Tôi đành
khai ra Thiệp. Thiệp bị đuổi việc. Trước ánh mắt hằn học của Thiệp khi rời sở, tôi luôn
sống trong sự sợ hãi và ám ảnh về sự đê hèn của mình: chỉ vì giữ một chỗ làm
mà tố cáo, làm hại đồng nghiệp. “Thì ra, cái tính ích kỷ mà tôi khinh, tôi
ghét, tôi cố tìm diệt, nó vẫn ở trong máu tôi”…
Kết thúc tác phẩm là sự
sám hối và tiếng kêu tuyệt vọng của một người ý thức về nhân phẩm nhưng không
thắng nổi sự ích kỷ xấu xa của con người mình: “Tôi chán tôi đến cực điểm rồi.
Tôi không muốn là tôi nữa. Tôi sợ cuộc đời tôi sẽ mãi mãi chỉ là một chuỗi
dài những cái ích kỷ bẩn thỉu và tội lỗi. Trời hỡi trời! Không biết tôi còn bị
giam trong sự ích kỷ đến ngày nào? Đến lúc nào?”…
Truyện của Trương Tửu có
xu hướng đi vào phân tích những éo le, uẩn khúc trong các trạng thái đời sống
cũng như trong lòng người và đưa ra những triết lý về nhân thế. Truyện Một
kiếp đọa đầy gò bó, thiếu sự linh hoạt tự nhiên và có phần cường điệu. Cái
tôi của ai tuy lan man, có tính chất tùy bút nhưng đã thể hiện được khả
năng phân tích tâm lý cùng lối văn sắc sảo, khúc chiết trong việc diễn đạt những
ý tưởng và triết lý của tác giả” (Vũ Tuấn Anh: Một kiếp đọa đầy,
trong sách Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam - Từ cuối thế kỷ XIX đến
1945. Sđd, tr.771-774)...
Độc giả ngày nay đọc lại
văn xuôi Trương Tửu cần đặt các sáng tác của ông trong bối cảnh đương thời mới
có thể nhận thức rõ hơn dấu ấn một phong cách riêng cũng như những đóng góp
nhiều mặt với đời sống văn chương nước nhà. Hơn nữa, chính lối văn luận đề,
giàu chi tiết hiện thực đời thường khiến cho tác phẩm của ông còn có thể trở
thành điểm tựa của nhiều bộ môn liên ngành như lịch sử, báo chí, ngôn ngữ học,
văn hóa học, xã hội học…
III/ Nhập cuộc đời sống phê
bình, Trương Tửu từng viết trên Đông Tây tuần báo, Loa, Quốc gia, Tin mới
văn chương, Văn mới, Mùa gặt mới, Sáng tạo với nhiều mục bài tiêu biểu,
có tiếng vang sâu rộng trên văn đàn (Một quan niệm về văn chương, Văn chương
Việt Nam hiện đại, Văn học Việt Nam hiện đại, Những cái hay của thơ Tản Đà, Địa
vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận đại, Luân lý tư sản và ảnh hưởng
của nó trong văn chương Việt Nam hiện đại, Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên,
Tôi thắp hương chờ đợi một thế hệ nhà văn mới...). Về các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về văn học truyền thống dân tộc, ông có: Kinh thi Việt Nam, (1940), Nguyễn
Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ(1943), Văn
chương Truyện Kiều, Tương lai văn nghệ Việt Nam (1945), Văn nghệ
bình dân Việt Nam (1949), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956), Mấy
vấn đề văn học sử Việt Nam (1958). Nói riêng Mấy vấn đề văn học
sử Việt Nam là một nỗ lực quan trọng của Trương Tửu trong việc tự ý thức
về tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Tính cho đến tận hôm nay, đây vẫn là
công trình chuyên sâu duy nhất bàn về quan niệm và phương pháp văn học sử, những
thành phần cấu tạo và việc phân kỳ các giai đoạn văn học sử Việt Nam... Các
tác phẩm này hầu hết đã được in trong sách Trương Tửu - Tuyển tập nghiên
cứu, phê bình (NXB Lao động, H., 2007, 1088 trang).
Tiếp theo hai tập sách sưu
tập tác phẩm của Trương Tửu (Tuyển tập nghiên cứu, phê bình, 2007 và Tuyển
tập văn xuôi, 2009), sau thời gian dài chuẩn bị, tập sách thứ ba có nhan đềTrương
Tửu - Tuyển tập nghiên cứu văn hóa vừa hoàn thành (NXB Văn học, H.,
2013, 1270 trang)… Tự thân các công trình nghiên cứu, bình luận, trao đổi
liên quan đến văn hóa của học giả Trương Tửu làm thành hai giai đoạn rõ nét:
trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Trước Cách mạng tháng Tám,
sau thời gian dài viết phê bình và sáng tác văn xuôi, kể từ năm 1943 chuyển
hướng sang khảo cứu về văn hóa và nhấn mạnh một số vấn đề đấu tranh xã hội (sự
chuyển hướng đồng thời với năm xuất hiện Đề cương Văn hóa Việt Nam do
Trường Chinh khởi thảo). Tuy nhiên, do sự quản lý, áp đặt của chế độ thực dân
đương thời, Trương Tửu đều phải ký bút danh Nguyễn Bách Khoa. Theo mục đích
khoa học riêng, Trương Tửu dự kiến sẽ xuất bản bộ sách trường thiên đặt dưới
một nhan đề chung Nhân loại tiến hóa sử, có thể nối dài đến 32 tập, mỗi
tập đề cập đến một phạm vi, đối tượng văn hóa - văn minh cụ thể. Ông cũng từng
nêu dự định và thông báo sẽ viết các tập Văn minh khảo luận, Kỹ thuật
sinh sản, Xã hội học nhập môn, Nhân tính luận,… nhưng đều chưa thực hiện được.
Trên thực tế Trương Tửu mới in được ba tập đầu của bộ Nhân loại tiến hóa
sử, gồm: Tiến hóa luận (NXB Hàn Thuyên, H., 1943, 206 trang), Nguồn
gốc văn minh (NXB Hàn Thuyên, H., 1943, 192 trang), Văn minh sử (NXB
Hàn Thuyên, H., 1944, 184 trang)… Đặc điểm chung của cả ba công trình này trước
hết là thái độ tác giả đề cao tinh thần khách quan, trung thực, khoa học
trong tường giải mỗi vấn đề và cách trích dẫn tư liệu. Trong phầnKết luận sách Tiến
hóa luận, quyển đầu trong bộ Nhân loại tiến hóa sử, ông viết:
“Chúng ta đã thấy quan niệm
tiến hóa thành tựu cách nào chung quanh vấn đề do lai của vũ trụ và loài người.
Chúng ta đã được biết: quan niệm ấy đem áp dụng vào giải thích lịch sử nhân
loại, đã gặp những trở lực gì (tôn giáo, chính trị, triết học, hoài nghi và
bi quan) và sau cùng cũng đã thắng thế ra sao. Chúng ta lại đã theo dõi các
phái tư tưởng trái nghịch nhau về vấn đề động lực của sự tiến hóa. Từ thuyết
thiên mệnh, qua thuyết sức mạnh tinh thần, thuyết anh hùng tạo thời thế đến
thuyết kinh tế quyết định, chúng ta đã kiểm điểm ý kiến phiền tạp của rất nhiều
học phái trứ danh trong tư tưởng giới. Đoạn cuối, chúng ta đã xét đến then
máy của sự tiến hóa, phân tích đại cương của chủ nghĩa tiệm tiến và chủ nghĩa
sậu tiến hiện đang xung đột nhau ở hai địa hạt: Triết học và chính trị.
Bao nhiêu tài liệu sử học,
triết học, khoa học, xã hội học mà tác giả đã dẫn ra trong sách này, hoặc để
phê phán một học thuyết, hoặc để giải thích một tin tưởng, hoặc để chứng minh
một chân lí, đều được lựa chọn cân nhắc kĩ lưỡng, theo một phương pháp khoa học
rất khách quan. Những tài liệu ấy tự chúng cũng toát ra một kết luận, tác giả
không dám đem ý kiến riêng thêm thắt vào nữa.
Kết luận này là một lòng
tin không bờ bến ở năng lực sinh tồn của nhân loại, ở cuộc tiến hóa và ở
tương lai của xã hội. Nó là sự chiến thắng chậm chạp nhưng càng ngày càng quyết
định và rực rỡ của phương pháp duy vật biện chứng trong công việc nhận thức:
hiểu biết, suy nghĩ, phán đoán. Nó là sự lạc quan vô điều kiện trong giai đoạn
hiện tại của lịch sử loài người. Nó cũng là sự nhu cầu biến cải hiện trạng xã
hội để đi tới một hình thức sống tốt đẹp hơn, hợp lí hơn, nhân đạo hơn.
Những điều kết luận xác
đáng ấy, tác giả sẽ luôn luôn gặp gỡ trong những cuốn sách sau của bộ Nhân
loại tiến hóa sử này” (Sđd, tr.111-112)...
Điểm thứ hai, Trương Tửu
luôn thể hiện bản lĩnh, nhiệt huyết và niềm tin vào sức mạnh của chân lý khoa
học, khả năng nhận thức và cải biến xã hội, ý thức hướng đến một ngày mai
tươi sáng hơn. Trong lời Tựa sách Nguồn gốc văn minh, ông nhấn
mạnh:
“Quyển luận nhỏ này cũng
được biên khảo theo cách thức cuốn đầu bộ Nhân loại tiến hóa sử, nghĩa
là có đầy đủ ba đặc tính: 1) Phổ thông; 2) Tổng hiệp; 3) Phê bình…
… Với ba đặc tính ấy, những
tác phẩm trong bộ Nhân loại tiến hóa sử này sẽ có một công dụng quí
giá vô cùng: gây dựng một hệ thống tư tưởng kiên cố và xác đáng. Đó là một
khuyết điểm lớn của phần đông người Việt Nam - kể cả những người có học mới…
Bộ Nhân loại tiến hóa
sử này, ngoài dụng ý gây dựng một hệ thống tư tưởng còn có hoài bão làm
thắng phương pháp khoa học trong giới trí thức Việt Nam. Ngày nào mà chúng ta
biết nhận xét và phán đoán theo đúng phương pháp khoa học, ngày ấy chúng ta mới
có thể giải phóng tinh thần khỏi những gông cùm tư tưởng mà di truyền, tập tục
và trăm nghìn lực lượng xã hội khác úp chụp vào trí óc chúng ta từ thuở nào đến
hiện giờ.
Có giải phóng được tinh thần
mới giải phóng được sự hành động khỏi những xu hướng sai lạc, mơ hồ, thoái
hóa. Có giải phóng được sự hành động mới biết sống và chiến đấu thích hợp với
trào lưu đi tới của loài người.
Chúng tôi thành thực mong
rằng cái ngày tốt đẹp kia sẽ không xa chúng ta lắm. Và trong lúc đợi chờ,
chúng tôi xin gắng sức làm nó chóng nảy nở trên giải đất Việt Nam này. Công
việc xuất bản bộ Nhân loại tiến hóa sử mới chỉ là một bằng chứng nhỏ
mọn của sự gắng sức ấy” (Sđd, tr.113-116)...
Điểm thứ ba, sống trong chế
độ thực dân nhưng Trương Tửu đã biết cách cập nhật, tận dụng những ưu thế của
nền khoa học xã hội Pháp và phương Tây trong việc tiếp nhận, giới thiệu và vận
dụng các nguồn lý thuyết hiện đại vào nghiên cứu lịch sử văn hóa, văn minh thế
giới và Việt Nam. Chí ít cũng thấy ông nhắc đến và trích dẫn các công trình
khảo cứu chuyên sâu của các nhà hoạt động xã hội và Macxit như Anti
Dubringt - Chống Đuyrrinh (1878) của F. Engels, Những vấn đề cơ bản
của chủ nghĩa Mã Khắc Tư [Marx] (1908) của G.V. Plékhanof, Mahatma
Gandhi (1924) của Romain Rolland, L’esprit humain en fonction de
l’avenir - Về tương lai trí tuệ con người của Lahy Hollebeque trong sách Evolution
humaine - Sự tiến hóa của loài người (1934) và các bộ sách đại thành như Bách
khoa toàn thư của Diderot, bộ Thế giới sử của J. Bousset; gần
cận hơn là các bộ sách tiêu biểu cùng lĩnh vực, cùng hệ vấn đề của các học giả
người Việt xuất sắc đương thời như Văn minh luận (1927) của Phạm Quỳnh, Nho
giáo (1930) của Trần Trọng Kim, Việt Nam văn hóa sử cương (1938),Khổng
giáo phê bình tiểu luận (1943) của Đào Duy Anh, Đời sống thái cổ (1942), Gốc
tích loài người, Ai Cập cổ sử, Cận Đông cổ sử (1943) của Nguyễn Đức Quỳnh,
v.v… Chỉ nói riêng chuyện biện giải các khái niệm văn hóa - văn minh, Trương
Tửu đã dành nhiều trang, trích dẫn từ nhiều nguồn sách để thấy rõ được lịch sử
định hình khái niệm, ý nghĩa gốc từ và quá trình dịch chuyển nghĩa để trở
thành một khái niệm khoa học (các chữ poli, policé, courtois, civil,
civiliser, civilisé, civilité và đi đến civilisation…). Thời ấy người
ta chưa biết kỵ húy, kiêng sợ, chưa biết bắt vít, chưa nghĩ đến chuyện “trói”
hay “cởi trói” các khái niệm học thuật. Chính trên tinh thần ấy mà Trương Tửu
trong sách Tiến hóa luận, - sau khi xác định sự lỗi thời, phiến diện của
các thuyết Thiên mệnh, Sức mạnh tinh thần, Thời thế tạo anh hùng trong quá khứ
- đã đi sâu phân tích, diễn giải bản chất ba học thuyết chính trị nổi bật
đương thời, trong đó tập trung phê phán các phái Địa - Chính trị của
Friedrich Razel (1844-1904), phái Xã hội vạn năng của Esmile Durkheim
(1895-1917) và đi đến khẳng định: “Khoa xã hội học hiện đại đã dần tìm ra được
phép tắc và then máy thần diệu của hiện tượng “kinh tế quyết định” ấy. Người
đầu tiên xướng ra một sử quan căn cứ vào hiện tượng này là nhà xã hội học
kiêm kinh tế học Đức Karl Marx (1818-1883). Với kinh tế sử quan, sự nghiên cứu
động lực tiến hóa của xã hội bước hẳn sang một giai đoạn mới: giai đoạn khoa
học” (Sđd, tr.100)...
Đồng thời Trương Tửu đi
sâu phân tích và nhấn mạnh:
“Một số trí thức gia
nghiên cứu kinh tế học và xã hội học, theo quan điểm kinh tế quyết địnhđã
bổ khuyết được những chỗ thiên vị của hai phái trên kia. Nghiên cứu vấn đề tiến
hóa xã hội một cách khoa học, các nhà trí thức ấy đã khám phá ra được nhiều định
luật, nhiều nguyên tắc làm chấn động cả thế giới bác học. Họ lập thuyết theo
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Họ cho rằng nguyên động lực của sự tiến hóa là
nền tảng kinh tế. Nền tảng này gồm có những lực lượng sinh sản, và những
tương quan sinh sản. Lực lượng sinh sản (forces productives) đẻ ra những
tương quan sinh sản (rapports de production) phù hợp với nó. Những tương quan
sinh sản này hợp thành cái kiến trúc kinh tế (structure économique) của xã hội.
Trên cái kiến trúc kinh tế ấy mọc ra những chế độ chính trị và xã hội thích ứng
với nó. Tâm lí con người, phần thì bị nhào nặn theo sức khuôn đúc trực tiếp của
nền kiến trúc kinh tế, phần thì bị chi phối bởi chế độ chính trị và xã hội dựng
trên đó, phản chiếu vào ý tưởng giới của đoàn thể, tạo ra những thống hệ trí
thức đồng màu sắc với nó. Tất cả hòa hợp với nhau làm ra cái ý thức xã hội
(conscience sociale) của thời đại.
Khi những lực lượng sinh sản
biến thể thì tương quan sinh sản cũng biến thể theo. Những tương quan sinh sản
này mà chưa chịu biến thể theo thì những lực lượng sinh sản kia xung đột ngay
với chúng. Sự xung đột ấy, phản chiếu lên phần ý thức của xã hội, đẻ ra những
ý tưởng hệ cấp tiến, phá hoại - những xu hướng biến cải. Rút cục, những tương
quan sinh sản kia, chiếu tỏa sáng địa hạt pháp luật thì đó là những tương
quan tài sản (rapports de propriété), phải biến hóa theo cho phù hợp với sự
đòi hỏi của những lực lượng sinh sản mới. Và tức thời, bao nhiêu chế độ chính
trị, pháp luật cùng bao nhiêu tín ngưỡng, triết lí, văn nghệ đều biến đổi cho
thích ứng với những điều kiện kinh tế mới đó. Tâm lí con người trong xã hội
cũng do đó mà biến đổi hẳn đi…
… Xét kỹ thì chỉ có thuyết
kinh tế quyết định này là giải thích được đúng nhất sự tiến hóa của loài người.
Bởi nó căn cứ vào chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, là hai yếu tố nền tảng
của sự sinh hóa trong thiên nhiên cũng như trong xã hội” (Sđd, tr.105-106)...
Như vậy, có thể nói trên
phương diện tư tưởng chính trị, cơ bản Trương Tửu đã thuộc về hệ phái Macxit,
vừa khẳng định, cổ vũ nhiệt tình cho phái Kinh tế quyết định vừa trực
tiếp lên tiếng tuyên truyền, đấu tranh cho các quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và sự thắng thế của thuyết kinh tế quyết định.
Vào giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám, Trương Tửu còn có một số tiểu luận quan trọng trực diện khảo sát,
bàn luận, nhận diện, tổng kết và đề xuất các phương hướng xây dựng liên quan
đến văn hóa - văn nghệ Việt Nam đương thời (Những xu hướng chính trị hiện thời
ở xứ ta: nhóm Tia Sáng, Chung quanh sự chia rẽ Đệ tam và Đệ tứ, Bốm mươi năm
văn hóa Việt Nam (1905-1945), Những đặc tính của tân văn hóa Việt Nam, Tương
lai văn nghệ Việt Nam…).
Bước sang giai đoạn sau
Cách mạng tháng Tám, đặc biệt từ sau hòa bình lập lại (1954), Trương Tửu tiếp
tục thể hiện mối quan tâm đến nhiều vấn đề hệ trọng của nền văn hóa mới.
Chính ở giai đoạn này, những biến động trên thế giới và nội tại trong phe xã
hội chủ nghĩa cũng như thực tiễn tình hình đất nước thời hậu chiến đã đặt ra
nhiều câu hỏi và dội vào trang viết của nhà văn, nhà giáo Trương Tửu vốn giàu
suy tư, trăn trở. Chỉ trong vài ba năm, ông chuyển hóa và bị dồn đẩy từ cực
này đến cựa kia, qua hết mọi thăng trầm, ái ố hỷ nộ của cuộc đời. Từ một người
kháng chiến trở về với tất cả niềm tin tưởng, hăng hái nhập cuộc xã hội mới,
ông lại trở thành người ở phía đối lập, ra rìa, bị nghi kỵ, phê phán, cấm
đoán (trong đó có nhiều người một thời từng cùng chiến tuyến và cả những học
trò của ông); rồi từ vị thế một giáo sư hàng đầu, tham gia Đại hội thành lập
và là Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông bị thi hành kỷ luật, không
dạy đại học nữa và bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn. Lý giải vấn đề này cần nhìn
sâu vào thời cuộc, cần một cái nhìn lịch sử cụ thể, trong đó cần thừa nhận cả
những sự cực đoan, đơn giản, qui chụp một chiều, bao biếm chân lý, cá nhân
duy ý chí ảnh hưởng trong lãnh đạo, quản lý văn nghệ ở một thời khắc đặc biệt
nhạy cảm. Qua thời gian, đặc biệt với tinh thần Đổi mới, chúng ta có điều kiện
nhìn nhận sự việc một cách khách quan, công bằng hơn, đánh giá chân xác hơn
những đóng góp và hạn chế của cả một thế hệ, bên cạnh Trương Tửu còn có những
Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Đào Duy Anh, Phan Khôi,
Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán…
Trên thực tế, bản thân
Trương Tửu cũng có những sở trường sở đoản và sự phóng chiếu tài năng đôi khi
đến thành nồng nhiệt, khuynh tả theo một lối riêng. Vừa khi hòa bình lập lại,
ông viết liền hai tác phẩm Chỉnh huấn là gì? (NXB Minh Đức - Thời đại,
H., 1955), Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ (NXB Minh Đức -
Thời đại, H., 1956) và còn dự định viết tiếp các sách tuyên truyền (Thế nào
là văn hóa nô dịch? Thế nào là văn hóa tiến bộ? Sáng tác tân văn nghệ, Cách mạng
luận, Văn hóa tiến bộ của Liên Xô và Mặt trận hòa bình dân chủ…). Trong Chỉnh
huấn là gì? ông thể hiện là người dẫn đường chỉ lối, thông thuộc bài học
chỉnh huấn, nắm bắt từ cội nguồn yêu cầu nhiệm vụ đến cách thức triển khai, tổng
kết, đặt niềm tin tuyệt đối vào tác dụng, mục đích, ý nghĩa công tác chỉnh huấn:
“1) Chỉnh huấn làm cho ta nhận rõ chân lí của quá trình phát triển xã hội; 2)
Chỉnh huấn chỉ vạch cho ta một nhân sinh quan cách mạng cần phải theo để tham
dự đắc lực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, tiến tới xã hội chủ nghĩa; 3) Chỉnh huấn đã giúp ta làm chủ cuộc đời
ta” (Sđd, tr.402-403)... Trong Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ,
ông thể hiện là nhà tuyên huấn thuần thành của một thời còn nhiều ấu trĩ,
truy nguyên từ nguồn gốc lịch sử và xã hội của kiểu văn hóa nô dịch đến phác
họa “bảy độc tố tinh thần”, thấy rõ mâu thuẫn hai phe “như nước với lửa”,
trình diễn một cách lớp lang, chi tiết những sự băng hoại, phản động và các
loại âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và phe lũ đối với phe ta và xứ ta. Trên
đà nhiệt tình cách mạng và ý thức giai cấp có phần quá tả, ông đã phê phán
không ít các phương diện văn hóa - văn nghệ vốn không có lỗi, thậm chí còn
khơi nguồn và đồng hành với bước tiến của văn hóa nhân loại (cộng đồng châu
Âu, cách thức quản lý các trường đại học, nghệ thuật trong cơ chế thị trường,
các đánh giá một số phương pháp, trào lưu, tác giả - tác phẩm văn nghệ…). Điều
này cho thấy cần có cái nhìn lịch sử không chỉ với thời thế, hoàn cảnh, cơ chế
xã hội, trình độ nhận thức, quản lý văn hóa ở từng giai đoạn mà cũng cần có
thái độ đánh giá thận trọng, đúng mức, có lý có tình ngay cả với cách nhìn và
tầm nhìn ở từng tác giả, tác phẩm cụ thể.
Hơn nửa thế kỷ đã qua đi.
Đất nước đã Đổi mới. Những chủ nhân của đất nước Đổi mới ấy đã trưởng thành,
đủ năng lực nhận thức, đủ sức mạnh, bản lĩnh và niềm tin trong việc thau chua
rửa mặn, đánh giá lại nhiều hiện tượng, sự kiện, nhân vật trong quá khứ. Việc
cung cấp các tư liệu liên quan đến con người và tư tưởng nhà văn, nhà giáo
Trương Tửu chính là nằm trong xu thế và yêu cầu khách quan ấy. Đến thăm các
trường đại học lớn ở Trung Quốc đầu năm 1956, ông hoan hỷ với những chủ
trương mang đầy tính ảo tưởng, khoa trương hình thức “Tiến quân vào thành trì
khoa học”, “Bách hoa tề phóng”, “Bách gia tranh minh”, “Chính phủ… đã đề ra
cho giới trí thức một nhiệm vụ nặng nề và vinh quang là: cuối kế hoạch 12
năm, về khoa học… phải đạt tới một trình độ ngang bằng với trình độ thế giới,
ở những môn quan trọng” (Tập san Đại học Sư phạm, 1956), nhưng ngay
khi về nước ông lại lên tiếng cảnh tỉnh Bệnh sùng bái cá nhân trong lãnh
đạo văn nghệ (Giai phẩm mùa Thu,Tập II. Minh Đức xuất bản, H.,
30-9-1956) và tin tưởng, nhiệt thành, trung thực xác định: “Thẳng thắn phê
bình những sai lầm thiếu sót của lãnh đạo, của chính sách, của cán bộ là thiết
thực góp sức vào sự nghiệp hoàn thành Cách mạng tháng Tám, giữ vững hòa bình,
củng cố miền Bắc, thực hiện thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ thực sự.
Lúc này hơn lúc nào hết, nói thực, nói thẳng, nói hết là cái thước đo
lòng trung thành của người trí thức đối với chế độ dân chủ nhân dân. Không
mạnh bạo phát hiện khuyết điểm và đề nghị sửa chữa là không tin chế độ, không
tin Đảng, là tự mình tước bỏ cái nhân cách trí thức của mình, là phụ cái lòng
kỳ vọng của nhân dân và chính phủ vẫn đặt vào giới mình”... Về nguyên tắc,
Trương Tửu không sai: “Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là
phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì
không có cái kia được”... Với chứng cứ và lập luận chặt chẽ, Trương Tửu thẳng
thắn chỉ ra một cách thuyết phục những biểu hiện “bảo hoàng hơn cả nhà vua”,
quan liêu, lệch lạc trong quản lí văn nghệ, phê phán quyết liệt một thiểu số
“ngã vào tay bọn thầy bùa biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục
lợi” và khẳng định vị thế các nhà văn nghệ sĩ chân chính: “Họ đấu tranh vì họ
yêu chế độ, yêu Đảng, yêu nghệ thuật, yêu con người. Họ đấu tranh là để cho
chế độ tươi đẹp hơn, Đảng vững mạnh hơn, nghệ thuật phục vụ Cách mạng đắc lực
hơn, con người có nhân cách cao quý hơn”... Ngay sau đó, Trương Tửu tiếp tục
khai thác, lý giải sâu sắc các vấn đề thuộc về nguyên tắc tính Đảng trong bài Tự
do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bônsêvich (Giai
phẩm mùa Đông, Tập I. Minh Đức xuất bản, H., 28-11-1956) và nhấn mạnh: “Người
văn nghệ sĩ nhân đạo chủ nghĩa thoải mái và phấn khởi dấn bước theo ngọn cờ
vinh quang của Đảng Cộng sản Lênin chủ nghĩa, vững tâm như dấn bước vào thế
giới bản chất của nghệ thuật, của tự do tư tưởng, của sáng tạo. Bên mình họ,
Đảng hiện ra như sứ giả của chân lí, của quy luật lịch sử, của sự thực toàn
diện. Và họ cũng nỗ lực sáng tác để giúp Đảng ngày một gần chân lí hơn nữa,
ngày càng nắm vững sự thực chắc chắn hơn nữa. Gorki, Maiakovski, Ostrovski,
Cholokov, Lỗ Tấn, v.v... đã chứng minh hùng hồn rằng văn nghệ sĩ có thể làm
tròn được thiên chức khó khăn ấy... Ý nghĩa lịch sử và tinh thần nội dung bài Tổ
chức Đảng và văn học Đảng của Lênin là như vậy. Đường lối lãnh đạo văn
nghệ của Đảng Cộng sản Lênin nghĩa là như vậy”... Hai bài báo của Trương Tửu
đã dẫn đến việc hai ông Văn Tân - Nguyễn Hồng Phong chấp bút viết Chống
quan điểm phi vô sản về văn nghệ và chính trị (Nhân những ý kiến của ông
Trương Tửu về văn nghệ và chính trị đã đăng trên báo Nhân văn và Giai
phẩm mùa Thu và mùa Đông) (NXB Sự thật, H., 1957) và rồi Trương Tửu
đã có dịp “giải trình” một cách đầy tự tin, quyết đoán ngay từ những dòng mở
đầu:
“Tôi đã được đọc tập Chống
quan điểm phi vô sản về văn nghệ và chính trị của hai ông mới
cho xuất bản ở nhà Sự thật. Trong tập văn ấy, hai ông đã “phê phán”
những ý kiến của tôi phát biểu hồi năm ngoái trong Giai phẩm
mùa Thu, mùa Đông giữa lúc Đảng Lao động Việt Nam phát động tự
do, dân chủ để nhân dân xây dựng lãnh đạo. Tôi thành thực cảm ơn hai
ông và nhà xuất bản Sự thật đã đặc biệt lưu ý đến những
bài viết của tôi và đã cung cấp cho tôi một cơ hội để tôi suy nghĩ
về vấn đề mà tôi chưa kịp nói đến đầy đủ trong ba bài báo nhỏ
đăng trong Giai phẩm. Để đáp lại tấm thịnh tình và thiện chí
của các ông tôi thấy có bổn phận phải viết và cho in bức thư ngỏ
này mong bộc bạch được một đôi điều có thể có ích phần nào cho
sự đấu tranh tư tưởng hiện nay trong giới văn nghệ nước nhà.
Trước hết, tôi cũng
cần đính chính một điều. Ngoài bìa sách, hai ông có chữ “Nhân
những ý kiến của ông Trương Tửu viết trong NHÂN VĂN, GIAI PHẨM...”.
Tôi không hiểu hai ông có đọc Nhân văn không, tôi không hề
viết một dòng nào trên báo Nhân văn cả. Không biết hai ông
vì thiếu thận trọng hay vì động cơ gì khó nói ra mà lại chữa như
vậy. Tôi thiết nghĩ tranh luận tư tưởng cần lấy trung thực làm thái
độ căn bản. Nếu không trung thực thì độc giả chỉ mới thoạt nhìn
dòng chữa ở bì sách đã hoài nghi nội dung của sách rồi, làm sao
mà thuyết phục được ai nữa. Mong lần sau hai ông nên tránh sự sơ
xuất bất lợi ấy.
Tôi xin thú thực ngay
rằng: với tất cả lòng thành khẩn tiếp thu phê bình, tôi cũng vẫn
chưa làm thế nào để thừa nhận được những quan điểm của hai ông. Vì
rằng, nhiều quan điểm của hai ông không giống với những
điều MARX, ENGELS, LENINE đã viết mà tôi đã được học tập. Tôi không
dám nghĩ rằng hai ông chưa đọc MARX, ENGELS, LENINE. Tôi chỉ thắc mắc
có một điều là: MARX, ENGELS, LENINE nói khác hẳn hai ông. Vậy
không biết hai ông đúng hay MARX, ENGELS, LENINE đúng?” (Trương Tửu - Tuyển
tập nghiên cứu văn hóa. NXB Văn học, H., 2013, tr.523.)...
Từ đây Trương Tửu sôi nổi,
hào hứng nêu những thắc mắc, phân tích, lý giải, chất vấn đến cả mười điều với
hai ông Văn Tân - Nguyễn Hồng Phong, “đặc biệt là những điều mà riêng
tôi nhận thấy trái với những văn kiện kinh điển của MARX, ENGELS, LENINE
mà tôi đã được học tập” và đi đến lời kết hóa giải nhẹ nhàng: “Đó là
quan điểm của tôi về vấn đề quan hệ giữa Đảng và văn nghệ sĩ,
chuyên môn và chính trị. Hai ông (và một số người khác) đã gán cho
tôi những chủ trương: đòi tách chuyên môn khỏi chính trị, Đảng không
lãnh đạo được chuyên môn, văn nghệ phải thoát ly sự lãnh đạo của
Đảng, tổ chức, của mọi đường lối chính sách, v.v... là bởi hiểu
lầm những ý kiến của tôi đã phát biểu” (Sđd, tr.597)...
Sau khi viết Bức thư
ngỏ gửi hai ông Văn Tân và Nguyễn Hồng Phong nêu trên (văn bản do ông
Trương Tùng, con trai Nhà văn, Giáo sư Trương Tửu cung cấp), tác giả lui về
hành nghề Đông y, viết mấy mục bài Suy nghĩ về Tam tài luận, Cái nghiệp
trong thuyết nhân quả và soạn chuyên đề châm cứu Tý ngọ lưu trú
pháp… sinh thời chưa in, nay mới hiện diện trong sáchTrương Tửu - Tuyển tập
nghiên cứu văn hóa nói trên.
Gần 40 năm rời bỏ nghiệp
văn và dạy học (từ năm 1960 đến cuối đời, năm 1999), sau cái hình ảnh bẻ gãy
bút lúc rời giảng đường đại học năm 1958, cũng vẫn bằng một nghị lực lớn lao,
một cuộc sống cam go nhưng không bao giờ mất lòng tin và sự dũng cảm, Trương
Tửu bước vào những lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ nhưng với ông vô cùng hấp dẫn.
Đó là nghiên cứu và hành nghề châm cứu Đông y, tìm hiểu triết học Đông
phương, Phật giáo, Nho giáo, khí công, yoga, dưỡng sinh và cả tử vi, tướng số...
Trên giá sách hàng ngàn cuốn, trong các sổ tay ghi chép về châm cứu, Phật giáo,
tử vi, dưỡng sinh,... của ông có ghi lại những điều chiêm nghiệm rút ra từ
các tác phẩm kim cổ Đông Tây của Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Nga, Ấn
Độ… Trong các trang viết và cả thực hành Đông y, châm cứu, dưỡng sinh... đều
thấy toát lên sự ngưỡng mộ và năng lực tiếp nhận nhạy bén, sâu sắc của ông về
thuyết âm dương ngũ hành, về tính chỉnh thể của tự nhiên, xã hội và con người.
Tác phẩm Tý ngọ lưu trú pháp và Đề cương chi tiết của bộ sách Đạo
dưỡng sinh định viết cuối đời cùng nhiều bài viết, nói chuyện khác đã
minh chứng điều ấy. Như không ít lời nhận xét của các bậc thức giả, cả trong
những lĩnh vực chuyên sâu mênh mông ấy, ông cũng là người uyên bác.
Độc giả ngày nay đọc tác
phẩm Trương Tửu cần đặt các công trình nghiên cứu, phê bình, sáng tác của ông
trong bối cảnh đương thời mới có thể nhận thức rõ hơn dấu ấn một phong cách
riêng cũng như những đóng góp nhiều mặt với đời sống văn hóa - văn học nước
nhà. Một quan điểm khách quan, khoa học, lịch sử cụ thể sẽ là điểm tựa để hậu
thế đánh giá chân xác hơn tình yêu nước, yêu nhân dân và phẩm chất của nhà
trí thức chân chính, suốt đời phấn đấu cho lẽ phải và tiến bộ xã hội.
Nguồn: vanhocquenha.vn
Theo http://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét