Xét cho cùng thì cái mà một tác phẩm nghệ thuật nhận được chỉ
là khen và chê. Có bao nhiêu kiểu khen thì cũng có ngần ấy lối chê. Khen thành
thật, do tự đáy lòng mình thấy tác phẩm đó hay, khiến mình xúc động, thổi vào
tâm hồn mình khát vọng về cái đẹp. Khen xã giao do nể nhau, do nhờ lời khen mà
mình được lợi hoặc đơn giản chỉ là do không đọc, không xem. Loại khen này đang
tràn ngập hiện nay, như nước lã, cho không bao nhiêu cũng được.
Thường các lời khen ấy hiện hình dưới dạng một bài ngắn.
Nhưng dù ngắn bao nhiêu cũng không thể thiếu câu “Tác phẩm x, y, z... thực sự
là một đóng góp. v.v...” Khen lấy được. Nghĩa là biết nó dở, nó bèo bọt, nó vô
tích sự nhưng vì động cơ nào đó (chẳng hạn vì cần phải nịnh tác giả, chẳng hạn
vì khen nó là gián tiếp khen tác phẩm của mình...) mà khen vống lên. Đây là loại
khen “muối mặt”. Nó làm rối loạn thẩm mỹ, đánh tráo các giá trị thật giả. Một lần,
trong cuộc rượu một đồng nghiệp của tôi bảo: “Thằng F vừa có cuốn tiểu thuyết.
Tao phải khen cho nó chết mới được”. Thế là lại thêm một kiểu khen mới, khen vì
coi đó như một trò đùa ác. Ngoài ra có khen a dua, không khen sợ mình thiếu cập
nhập v.v...
Các lối chê đang được ưa thích hiện nay bao gồm: Chê vì không
hiểu cái ý tứ sâu xa của người viết, hoặc do người viết không tuân thủ những
quy tắc quen thuộc. Chê vì không thích; chê để chứng tỏ mình ở cái tầm không ai
qua mặt được. Chê vì ghét tác giả. Chê vì không chê thì chả hóa thừa nhận mình
kém cạnh người khác. Chê vì biết ai đó rất quan trọng với mình cũng chê. Chê vì
đố tài. Chê để thỏa mãn cơn nghiền (quả là có loại người nghiện cái món chê người
khác)... Đôi khi người bị chê cười khẩy còn người chê thì lồng lộn vì thấy mình
ném đá lên trời. Cũng có người bị chê thì tịt ngòi luôn khiến người chê cười ha
hả...
Tất cả dường như chỉ quên có một điều này thôi: Kẻ thích
khen, khom lưng xuống cầu một lời ban khen thì chẳng đáng nhọc sức mài bút viết
hàng trang báo, quyển này sang quyển khác, nếu không muốn thành kẻ dỗi hơi, vô
công rồi nghề, vô tích sự. Còn người có thực tài, đáng cho ai đó vắt óc, kể cả
bò ra mà trích dẫn để làm cái việc khen chê, thì lại chỉ có một thứ thực cần
cho họ, ấy là chê đúng. Chê đúng đáng làm thầy. Còn lại chỉ tốn giấy học trò.
Làm thầy, ai chả muốn, sao khó lắm thay! Đa phần chỉ là thợ,
thợ phụ. Xưa nay làm thầy đáng được mấy người. Ngoảnh trông văn đàn muốn thở
dài: Đâu tá?
CÒN VÀ MẤT
Có tới cả năm trời tôi chỉ cứ loanh quanh bởi câu hỏi: Viết nữa
hay không viết nữa? Không viết hay là viết? Viết hay thôi? Thôi hay viết?... Cứ
thế tôi chỉ làm mỗi một việc cầm bút lên lại đặt xuống. Đặt xuống lại cầm lên vẫn
cái bút ấy. Cầm lên ngắm nghía chán lại đặt xuống, đúng cái chỗ ấy... đến nỗi
có lần bắt gặp, vợ tôi tỏ ra thông cảm bảo: “Không viết thì đứng lên, việc gì cứ
phải ngồi như tù tội vậy?”. Thế là tôi đứng lên để cuối cùng lại ngồi xuống. Ngồi
xuống chán lại đứng lên. Đứng lâu lâu lại ngồi, vẫn cái chỗ ấy. Từ đúng chỗ ấy
lại đứng lên.
Viết thì khổ, không viết còn khổ hơn. Nhưng viết ra liệu có
ai đọc. Có người, sách in chưa ráo mực, đã chẳng còn ai biết. Có người chưa hết
hoan hỉ sau khi kính cẩn tặng bạn bè, ông nọ bà kia để rồi vài hôm đã thấy sách
của mình ở quầy bán giấy vụn. Có người lần nào đặt bút cũng hy vọng cuốn này phải
biết, phải biết. Nhưng kể cả nhờ hàng trăm cuộc rượu, người tung, kẻ hứng cuối
cùng sách của anh ta chỉ tốt ở chỗ dùng để tự vệ!... Một hôm bèn cùng vợ, chọn
ngày trời trong, trăng thanh, gió mát như quạt hầu, dọn rượu ra đầu hiên rồi cứ
thế uống say bí tỉ. Rượu vào thấy vợ đẹp như tiên, lời tuôn ra như ném bạc xuống
mâm vàng, mới hỏi:
- Mình thấy văn chương của tớ thế nào?
- Lạy giời! Em mà đọc một câu em chết.
- Thế cả ngần ấy cuốn sách tôi viết...?
- Nhưng mà nếu em không đọc thì có phải vì thế mà em kém yêu
mình đâu. Chẳng qua cứ nghĩ mình sinh ra làm người là phải bôi bôi, xóa xóa, mặt
rách như bị cũ, lưng còng như đeo gông...nên em để mặc mình. Chứ nhìn mình những
lúc ấy em hãi lắm. Em lạy mình đừng có lôi kéo em vào những trò vô bổ ấy.
- Trời ơi... Vậy thì tôi viết cho ai đây.
Vợ rót thêm rượu, cười ngặt nghẽo:
- Các ông viết thì các ông khắc đọc.
Hôm đó tôi say rượu, nhìn vợ cứ tưởng người dưng nhưng chưa
bao giờ tình nàng nồng nàn đến thế. Sáng hôm sau tỉnh dậy tưởng chuyện hôm qua
chỉ là chiêm bao, tưởng từ kiếp trước. Nhìn ra thấy vợ đang chăm chú đọc sách của
chồng, bèn kiễng chân nhón gót lại gần thì thấy nàng đang đọc tập ghi chép. Máu
lộn ngược lên mặt, tôi bèn quát:
- Cô tư tình với ai, khai mau!
Nàng quay lại, rồi cứ thế vít cổ tôi hôn tới tấp:
- Hay lắm! Có thế chứ! Em không ngờ đấy...
- Cô lảm nhảm cái gì?
- Thế không phải do mình viết ư?
- Cái gì? - Tôi lật lật cuốn vở - Cô lấy ở đâu cái của nợ
này.
Đúng là cuốn vở tôi viết, bị bỏ đi từ lâu. Thoạt đầu xếp để
vào một chỗ, rồi quên mất, tưởng giấy loại mới ném vào sọt. May có vợ ít chữ mà
không mất. Thế là cái định vứt đi thì còn. Rõ ràng do mình cực khổ viết ra mà cứ
như may vớ được. Cả đống gom lại, bọc giấy bóng cứng, giữ khư khư mà ngay vợ
cũng không muốn đọc. Cũng là do mình bóp đầu nặn trán mới có mà cứ tưởng của nợ
án ngữ ở nhà mình. Rồi cũng tĩnh tâm lại để tự bảo mình: Cái gì còn ắt còn, ném
đi, giầy xéo lên, kể cả đem đi... vệ sinh cũng không mất. Ngược lại, có đem xếp
ngay ngắn lên bàn thờ, cũng chỉ tốn hương khói mà thôi.
Văn chương là thế. Nghệ thuật là thế. Tất cả đều thế.
Lại cặm cụi viết. Thây kệ!
NGẮN VÀ DÀI
Mặc dù cả tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc... truyện ngắn
đều được giải thích một cách không cần bàn cãi là một truyện viết ngắn nhưng
người ta vẫn có chỗ để thắc mắc: Ngắn đến mức nào để được coi là ngắn? Chưa đầy
trăm chữ là ngắn nhưng cả vạn chữ cũng vẫn là ngắn. Rồi từ đó nổ ra một cuộc
cãi vã: Viết ngắn khó hay viết dài khó? Người không viết được dài thì bảo: “Viết
được ngắn mới là cao thủ”. Người không viết được ngắn thì bảo viết ngắn không
thể hay, không thể lớn và do đó không thể nhớ được. Rằng tâm lý người An Nam
quen với diễn giải hơn là khái quát? Kết quả là anh nọ đố anh kia làm cái không
phải sở trường của mình.
Như để tìm một vị trí an toàn, những cây bút trẻ đồng loạt
cho ra đời loại truyện ngắn một nghìn chữ, hay còn gọi là truyện ba trang (đánh
máy). Loại truyện này, về dung lượng thì “yên tâm đi” là truyện ngắn trăm phần
trăm. Trừ một vài tác giả chứng tỏ được trong cái sự ngắn đó nhịp điệu sống, tốc
độ tư duy, hành động... hiện đại, còn lại đa số có nội dung nghèo nàn, tình tiết
mùi mẫn, vấn đề quanh quẩn (chuyện tình mới lớn, tình tay ba, tay tư, tình bến
xe, ký túc xá, tình dưới bóng tre, chuyện gia đình tan vỡ v.v... và v.v...).
Tuy chỉ ba trang nhưng đọc phải, thấy mệt hơn là đi cày! Nhưng mà xuất xứ của
cái giới hạn ba trang một ngàn chữ này mới đáng lạ. Truy ra thì thấy nó là quy
định của một loạt tờ báo, nơi các tác giả này được chào mời, trước hết vì nó an
toàn như nước chanh vậy. Để được in, tiêu chí hàng đầu là phải không quá một
ngàn chữ (có nơi Hán hóa là ký tự cho thêm phần bác học?). Quá một ngàn chữ, khỏi
phải đọc, cứ việc quẳng đi! (Hình như Sê Khốp viết ngắn cũng vì lý do này). Thế
là cái giầy quyết định kích cỡ của cái bàn chân. Và khi các ba trang ấy gộp lại
thành tập, nó cũng được các cao niên ban cho một cái bao diêm trên báo khen
xinh xắn về hình thức thế là hoàn tất sự nghiệp! Bởi vì vấn đề chỉ là ngắn hay
dài mà ba trang một ngàn chữ thì chắc chắn ngắn rồi!
Khi tôi thở than điều này với một độc giả thì anh cũng chẳng
biết làm gì hơn là thở dài.
- Tôi chẳng biết các ông quan niệm thế nào là ngắn, thế nào
là dài chứ người đọc thì đơn giản lắm: Cả một cuốn sách 500 trang lại ngắn chuyện
hơn một cái truyện mini thì chúng tôi gọi nó là càng dài càng ngắn! Trong khi
đó một đoản thiên tiểu thuyết vài ngàn chữ có khi lại dài chuyện hơn cả một
truyện dài thì chúng tôi gọi nó là càng ngắn càng dài! Với chúng tôi không có
truyện ngắn, truyện dài mà chỉ có ngắn chuyện hay dài chuyện mà thôi.
- Hay lắm! -
Tôi reo lên. Nhưng ngay sau đó tôi thấy ngay mình hớ: “Làm thế nào để diễn đạt
sự dài, ngắn của anh bạn tôi bây giờ?”.
Thường nó hiện hình dưới dạng một bài ngắn. Nhưng dù ngắn bao
nhiêu cũng không thể thiếu câu “Tác phẩm x, y, z... thực sự là một đóng góp.
v.v...” Khen lấy được. Nghĩa là biết nó dở, nó bèo bọt, nó vô tích sự nhưng vì
động cơ nào đó (chẳng hạn vì cần phải nịnh tác giả, chẳng hạn vì khen nó là
gián tiếp khen tác phẩm của mình...) mà khen vống lên. Đây là loại khen “muối mặt”.
Nó làm rối loạn thẩm mỹ, đánh tráo các giá trị thật giả. Một lần, trong cuộc rượu
một đồng nghiệp của tôi bảo: “Thằng F vừa có cuốn tiểu thuyết. Tao phải khen
cho nó chết mới được”. Thế là lại thêm một kiểu khen mới, khen vì coi đó như một
trò đùa ác. Ngoài ra có khen a dua, không khen sợ mình thiếu cập nhập v.v...
Các lối chê đang được ưa thích hiện nay bao gồm: Chê vì không
hiểu cái ý tứ sâu xa của người viết, hoặc do người viết không tuân thủ những
quy tắc quen thuộc. Chê vì không thích; chê để chứng tỏ mình ở cái tầm không ai
qua mặt được. Chê vì ghét tác giả. Chê vì không chê thì chả hóa thừa nhận mình
kém cạnh người khác. Chê vì biết ai đó rất quan trọng với mình cũng chê. Chê vì
đố tài. Chê để thỏa mãn cơn nghiền (quả là có loại người nghiện cái món chê người
khác)... Đôi khi người bị chê cười khẩy còn người chê thì lồng lộn vì thấy mình
ném đá lên trời. Cũng có người bị chê thì tịt ngòi luôn khiến người chê cười ha
hả...
Tất cả dường như chỉ quên có một điều này thôi: Kẻ thích
khen, khom lưng xuống cầu một lời ban khen thì chẳng đáng nhọc sức mài bút viết
hàng trang báo, quyển này sang quyển khác, nếu không muốn thành kẻ dỗi hơi, vô
công rồi nghề, vô tích sự. Còn người có thực tài, đáng cho ai đó vắt óc, kể cả
bò ra mà trích dẫn để làm cái việc khen chê, thì lại chỉ có một thứ thực cần
cho họ, ấy là chê đúng. Chê đúng đáng làm thầy. Còn lại chỉ tốn giấy học trò.
Làm thầy, ai chả muốn, sao khó lắm thay! Đa phần chỉ là thợ,
thợ phụ. Xưa nay làm thầy đáng được mấy người. Ngoảnh trông văn đàn muốn thở
dài: Đâu tá?.
Tạ Duy Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét