Tôi xin bắt đầu bài viết
này từ một câu ca dao mà tôi bắt gặp năm 1988, tại Vũng Liêm, do một cô giáo
sinh đọc ngoài cửa phòng nghỉ của tôi, nhưng cố tình cho tôi nghe
được.
Rau răm đất cứng dễ bứng
khó trồng
Dẫu thương cho lắm cũng chồng
người ta
Câu ca dao bình thường
thôi, nhưng phải nghe đúng ngữ điệu của cô gái ấy, tình cảm của cô gái ấy, mới
thấm hết cái hay rất thật của nó. Bởi vậy ở Nam Bộ, bên cạnh đờn ca vọng cổ
và bản vắn, còn có một hình thức rất phổ biến là ca ra bộ- nghĩa
là người ca phải vừa hát vừa ra bộ bằng gương mặt, ánh mắt, thân hình, đôi
bàn tay, bàn chân… để diễn tả cho hết tình cảm của mình gởi trong câu hát.
Trong phạm vi bài này, tôi xin phép nhận xét về ca dao dân ca Nam Bộ dưới góc
độ ấy. Của một vùng văn hóa rộng lớn đã sản sinh ra nó.
Trước hết xin nói qua về sự
hình thành vùng văn hóa Nam Bộ
I - TỪ VÙNG VĂN HÓA CỔ
TRUYỀN NAM BỘ ĐẾN VÙNG VĂN HÓANAM BỘ HÔM NAY
Theo những khám phá của
các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ khá lâu đời. Nếu
căn cứ theo những di chỉ cư trú và di cốt của con người ở Óc Eo, Ba Thê, Núi
Nổi… thì từ cách đây 4000 đến 5000 năm, con người đã có mặt ở vùng đất
còn chứa nhiều nước mặn, sình lầy, cây dại và dã thú này; đồng thời họ cũng để
lại nhiều dấu ấn văn hóa khá đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực
nhất là ở vùng tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của
nền văn minh ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng khởi lên
khoảng vài trăm năm rồi bị chìm lấp trong lòng đất miền Tây, với những hình ảnh
hư ảo còn lại của một vương quốc Phù Nam, hay một "nước Chí Tôn"
trong sử sách, bia ký cổ.
Công cuộc mở đất phương
Nam, khẳng định vùng văn hóa phương Nam, chỉ thật sự định hình từ những cuộc
di dân lớn của người Việt ở TK XVI và đầu TK XVII. Đó là quá trình
di dân tự nhiên, quá trình di dân cơ chế và quá trình chuyển cư tại chỗ. Quá
trình di dân tự nhiên là quá trình di dân lẻ tẻ, chưa đủ để định hình bản sắc
văn hóa của vùng đất. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành những cuộc di dân cơ
chế lớn từ vùng ngũ Quảng vào, kết hợp với sự di dân cơ chế sau thất bại của
nhà Minh trước triều Mãn Thanh (do Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Củu
cầm đầu), cùng với việc di dân cơ chế trước TK XV của những lớp cư dân cổ
Khơme đến từ nhiều vùng trên đất nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông
Hậu để tránh họa diệt tộc của vua chúa Xiêm La, và sự di dân cơ chế của người
Chăm Hồi giáo đến vùng Châu Đốc, kết hợp với quá trình chuyển cư tại chỗ của
cộng đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn hóa mang bản sắc Nam
Bộ mới thật sự hình thành. Chính nhờ quá trình chuyển cư tại chỗ, mới có việc
thúc đẩy sự gần gũi giữa các nhóm dân cư, giữa các cộng đồng dân tộc, mới làm
xuất hiện những điều kiện khách quan, tạo nên những tiếp xúc văn hóa giữa các
cộng đồng người có những đặc trưng văn hóa khác nhau, làm nên tính chất địa
văn hóa, địa kinh tế của một vùng đất châu thổ phương Nam rộng lớn. Đó chính
là một vùng văn hóa trẻ, phong phú, đa dân tộc, đa tôn giáo và đa màu sắc (ở
đây chúng tôi không có ý định đi sâu tìm hiểu vấn đề này).
Muốn tìm hiểu đặc trưng
vùng văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con người làm trung tâm để
xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành động, tác động
sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc, hội họa, lễ hội
và phong tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc người cùng chung sống trên
nền địa địa lý tự nhiên của vùng phù sa cổ miền Đông và vùng phù sa mới miền
Tây Nam Bộ, mà tâm lý tính cách bị chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lý,
kinh tế - xã hội và quá trình phức hợp của nó theo từng bước phát triển của
vùng dân cư rộng lớn này. Tất nhiên, chúng ta không thể phân chia rạch ròi từng
vùng văn hóa trên cả nước, nhưng căn cứ vào những đặc điểm văn hóa khu biệt
nhất định, chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa Nam Bộ để làm tiêu chí xem
xét.
Theo đó, nhiều nhà nhân chủng
học, dân tộc học… đều có chung nhận định tương đối thống nhất về tính cách
người Nam Bộ, tựu trung gồm những nét chính sau đây: hào hiệp trong cuộc sống,
bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ.
Tính hào hiệp không phải
xuất phát từ máu "làm chơi ăn thiệt" trên vùng đất giàu tôm cá, phì
nhiêu màu mỡ, mưa thuận gió hòa… mà nó được thể hiện trong nhiều yếu tố tâm
lý cấu thành tính cách đó. Đó là thái độ mến khách, với tình yêu thương con
người, ý thức coi trọng nhân nghĩa hơn tiền tài, danh vọng. Bởi vì, cho dầu
là người Việt, người Khơme, người Hoa hay người Chăm, thì họ cũng phải thường
xuyên đối đầu với một vùng đất mới còn hoang hóa, với biết bao khó khăn về điều
kiện thiên nhiên và địa lý khắc nghiệt trong buổi đầu khai hoang lập ấp. Hơn
nữa, trước một thiên nhiên bao la kỳ bí, chằng chịt sông rạch, rậm rạp rừng
sâu, tràn ngập muỗi mòng, thú dữ… con người trở nên vô cùng nhỏ bé, tất nhiên
phải dựa vào nhau mà tôn tại. Trong hoàn cảnh ấy, họ không thể nghĩ đến những
thể chế từng ràng buộc của quan nha, triều đình; lại càng không thể câu nệ những
lề thói xa xưa của làng xã nơi họ bỏ ra đi. Trên thực tế, đồng bằng sông Cưu
Long trong buổi đầu khai phá, chưa hề có một khu vực hành chính ổn định; mãi
đến khi Gia Long lên ngôi mới thiết lập được bộ máy cai trị của mình. Vì lẽ
đó, con người trong buổi đầu mở đất, tất phải sống với nhau trong tình yêu
thương san sẻ, bình đẳng tương thân, tương trợ để đùm bọc nhau sống còn trong
nỗi nhớ thương nguồn cội cố xứ của mình.
Tôi chưa thấy ở đâu mà người
dân gọi người lãnh đạo của mình bằng "thằng" bằng "con"
như ở Nam Bộ. "Thằng Bảy Bí thơ", "Con Tám Chủ tịch"…
thân mật cứ như người trong nhà với nhau. Và cũng chẳng thấy nơi nào trẻ em lại
xưng "Con" với người lớn, đứa lớn hơn gọi đứa nhỏ hơn là
"Cưng", bằng trang phải lứa thì xưng "Qua" với "Bậu".
Lúc thân mật cũng "Qua" với "Bậu", lúc giận hờn cũng
"Bậu" với "Qua".
Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi
bậu ra.
Bậu ra cho khỏi tay qua
Cái xương bậu nát cái da bậu
mòn.
Ít bảo thủ là một đức tính
tốt của người Nam Bộ. Tôi cứ nghĩ mãi về câu thành ngữ "ăn Bắc mặc Nam".
Phải chăng người miền Bắc ăn uống rất cầu kỳ. Đến như rau sống mà cũng phải
chẻ, phải xắt, phải lựa, phải rửa bằng nước muối hay thuốc tím rồi rảy cho thật
khô. Dân miệt đồng Nam Bộ, bẻ rau ngoài đồng, rửa quấy quá vài nước, thẩy lên
mâm là xong. Rau muống cứ để nguyên cây, bắp chuối cứ để nguyên bắp. Cá chỉ cần
nướng lụi. Rắn chỉ cần nướng lèo. Ăn uống cốt miếng lớn cho no. Có phải nhà
hàng đâu mà cầu kỳ. Còn mặc thì phong phanh lắm. Cũng như ở vậy, chỉ cần cái
nhà đá, nhà đạp để che mưa che nắng, khi không cần nữa thì đá thì đạp, dứt áo
đi nơi khác dễ dàng. Trong những di cốt tìm được ở Nam Bộ, các nhà khảo cổ đều
nhận ra một điều, người Nam Bộ rất ít dùng đồ trang sức. Nghĩa là người dân xứ
này không coi trọng cái ăn, cái mặc lắm. Điều quan tâm của họ là những gì
đang ở phía trước. Quá khứ là cần thiết, nhưng không quan trọng bằng hiện thực
và tương lai. "Ra đi gặp vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng
tu". Đó là một câu ca dao hay về tính cách con người trên vùng đất từng
một thời đầy dẫy cá sấu và hổ báo. Hướng tới tương lai thì phải mạnh dạn vứt
bỏ quá khứ, nếu như xét thấy nó đã lỗi thời. Nếu nặng lòng với quá khứ thì
làm sao đủ sức dấn thân để khai phá những vùng đất mới, để tiếp cận những cái
mới. Có lẽ Nam Bộ là nơi tiên phong của báo chí viết bằng chữ quốc ngữ, là miền
đất tiếp xúc với công nghệ hiện đại sớm nhất, là xứ có đội bóng đá nữ đầu
tiên của cả nước, là nơi có người đàn bà dám lặn lội muôn vạn dặm đến quan
môn triều đình dóng trống kêu oan cho chồng… Đã đành gốc gác người Nam Bộ
cũng từ Bắc, từ Trung vào, nhưng trên chặng đưồng thiên lí, họ đã làm rơi rụng
dần những cái gì thuộc về tính cách của nơi đã sinh ra mình, để có thể nhanh
chóng hòa nhập với vùng đất mới mà họ đã chọn làm nơi "đất lành chim đậu".
Nhưng từ nền văn hóa cổ đến
nền văn hóa Nam Bộ đương đại là cả một tiến trình phát triển suốt 300 năm mở
đất, mà nhiều vấn đề vẫn cần phải tiếp tục đặt ra để nghiên cứu đến tận ngọn
nguồn của nó. Ngày nay, chúng ta vẫn phải tiếp tục nghiên cứu để khẳng định
đích thực chủ nhân của những tầng văn hóa chồng chất trên địa bàn đồng bằng
sông Cửu Long vào những thiên niên kỷ thứ nhất, trước và sau công nguyên. Tất
nhiên đây là một công việc rất khó, bởi tính năng động của một địa bàn rộng lớn,
có nhiều luồng tiếp xúc nên cũng có nhiều biến động về các tộc người; hơn nữa,
nó lại là vùng giao thoa của nhiều trung tâm chính trị khác nhau trong thời kỳ
cổ đại. Nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, cũng như nhiều văn bản của Nhà nước đô
hộ Pháp, vẫn thường nói đến những Nhà nước Đông Nam Á có cương vực rộng lớn,
với một thể chế rất chặt chẽ, thâu gồm những vùng đất rộng lớn, bao trùm lên
cương giới nhiều quốc gia hiện nay. Nhưng trên thực tế, dưới ánh sáng tiến bộ
của các ngành khoa học hiện đại, các quốc gia Đông Nam Á cổ đại chỉ là những
trung tâm chính trị rất lỏng lẻo, cơ cấu thành phần tộc người và biên giới
không rõ ràng và đầy biến động. Vì vậy không thể chỉ căn cứ vào các thư tịch
cổ mà quy chủ nhân của những vùng đất đai cụ thể là ai, rồi từ đó gán ép cho
các dân tộc khác tội chiếm đất. Lấy ví dụ như theo quan niệm của người Khơme,
chúng ta không thấy có sự đối lập giữa "Thủy Chân Lạp" và "Lục
Chân Lạp"; mà chỉ có sự phân biệt giữa ba vùng địa lý theo quan niệm
chung của cư dân Đông Nam Á. Đó là ba vùng: Khơme Lơ (Khơme vùng cao), Khơme
Kandal ( Khơme vùng giữa), và Khơme Crôm (Khơme vùng dưới). Người Pháp từng
gán cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng Khơme Crôm, với lý do
vùng đất này có người Khơme sinh sống, có nhiều địa danh mang tên các địa
danh Khơme. Rồi họ còn dựng lên cái gọi là đế chế Phù Nam có địa
bàn trải rộng qua cả Thái Lan, Lào, Việt Nam. Từ đó cho rằng, nếu không
có sự hiện diện của Pháp, các nước Lào và Campuchia đều sẽ bị Việt Nam thôn
tính. Với thái độ nghiên cứu văn hóa nghiêm túc và khoa học, chúng ta dễ dàng
nhận thấy rằng, ranh giới giữa các vùng Khơme Kandal và Khơme Crôm chính là
đôi bờ sông Niết Lương. Tại vùng Kandal hiện nay, ngươi Khơme lấy Chămka (bãi
sông), nuôi bò là chính; trái lại vùng Xoài Riêng (nam sông Niết Lương) lại
làm ruộng nước, nuôi trâu. Như vậy vùng vùng Khơme Crôm phải chăng chính là
vùng Xoài Riêng ngày nay. Xét theo tâm lý đặt tên địa danh, những tên đất như
Gò Công, Cà Mau… rất có thể là do cư dân Khơme đặt theo tên Kôkông, Takthmau
trong bước đường di cư của họ, khi mà các tộc người Việt và người Chăm chưa đến.
Tại các vùng Sóc Trăng, Trà Vinh, nơi có nhiều người Khơme cư trú lâu đời nhất,
chúng ta cũng không tìm thấy ngôi chùa nào có trên 300 năm tuổi. Theo tập
quán canh tác, người Khơme thích ở "giồng" còn người Việt thích ở gần
sông rạch. Đó là mối quan hệ tự nhiên trong bước đường khai phá đồng bằng
sông Cửu Long của hai tộc người Việt - Khơme. Như vậy, Nam Bộ chính là vùng
văn hóa đất mới, vùng ngoại biên của nhiều quốc gia cổ đại, mà sau này người
Khơme, người Việt và người Chăm đã chung lưng đấu cật cùng nhau khai phá. Chủ
nhân của nền văn hóa, văn minh này, chính là cộng đồng những tộc người đang sống
trên châu thổ của sông Tiền, sông Hậu. Trong đó chủ yếu là người Việt, người
Khơme, người Chăm và người Hoa, với chung một nền văn hóa hội nhập của các tộc
người trên một địa bàn rộng lớn của đồng bằng châu thổ 18 triệu người.
Tất cả những điều trên đây
vẫn là chưa đủ để nói về bản lĩnh và tính cách người Nam Bộ, nhưng chừng đó
cũng đủ góp phần hình thành bản sắc văn hóa của một vùng đất mới, nơi hội tụ
rất nhiều luồng văn hóa khác nhau của thế giới. Một trong những giá trị ấy là
phương ngữ Nam Bộ, bộ phận hình thành bản sắc độc đáo của ca dao dân ca Nam Bộ.
II - VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG CA DAO DÂN CA
Phương ngữ Nam Bộ được
hình thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển lịch sử 300 năm của
vùng đất, càng ngày càng được bổ sung theo sự giao lưu mạnh mẽ của nhiều luồng
văn hóa khác nhau; nó bắt đầu hình thành từ TK XVII, cùng lúc với những đoàn
người Việt đầu tiên vào định cư khai khẩn vùng đất Miền Đông Nam Bộ, rồi sau
đó phát triển mạnh xuống Miền Tây. Đến nay, phương ngữ Nam Bộ đã trải qua nhiều
chặng đường phát triển, gắn với những sự kiện chính trị - văn hóa. Chẳng hạn
như sự ra đời của chữ quốc ngữ vào nửa sau TK XIX. Nó là tiếng nói sinh động
của nhân dân lao động, được sử dụng và phổ biến thông qua con đường khẩu ngữ,
trong khuôn khổ một vùng văn hóa địa phương nhất định. Chúng ta cần phải công
nhận nó, coi nó như một công cụ chung để tư duy tại một vùng đất văn hóa đặc
thù; từng bước hòa nhập thành ngôn ngữ phổ biến chung, ngôn ngữ văn học của cả
nước. Trên thực tế, chúng ta rất khó chọn ngôn ngữ một vùng miền cá biệt nào
làm ngôn ngữ chuẩn cho tiếng Việt, mà chính tiếng Việt đang càng ngày càng
phát triển chính từ nền tảng ngôn ngữ vùng miền trong cả nước.
Từ khi đất nước thống nhất,
rõ ràng ngôn ngữ tiếng Việt đã trở nên phong phú hơn rất nhiều, bởi chính nhiều
phương ngữ vùng miền khác nhau trong cả nước vun bồi nên. Điều đó góp phần rất
to lớn trong việc hình thành tiếng Việt văn học chung của cả nước.
Xin dẫn ra đây một đoạn văn viết về chị Út Tịch mà nhà văn Nguyễn Thi đã viết
trong "Người mẹ cầm súng": "Thắng giặc trở về, chị Út sẵn cái
bụng bầu chang bang, bước ra làm ông địa. Trống đánh tùng tùng. Lân múa té
nghiêng té ngửa. Bà con lối xóm cười bể bụng". Thiết tưởng, nếu khôngsử
dụng phương ngữ Nam Bộ, khó mà dựng được một hình tượng sống động như vậy.
Riêng về phương ngữ Nam Bộ,
rõ ràng có sự giao lưu rất đậm nét với các phương ngữ khác trong khu vực, như
phương ngữ của đồng bào Khơme, đồng bào Chăm, đồng bào Hoa… và một số luồng
ngôn ngữ khác. Điều đó làm nên diện mạo và thần thái của phương ngữ Nam Bộ.
Nó hình thành chính từ ngôn ngữ nói của đồng bào. Ở đây, chúng tôi
xin phép không đi sâu vào lĩnh vực ngôn ngữ học, như từ vựng, tu từ và giá trị
ngữ pháp văn bản của nó.
Nếu trong ngôn ngữ nói,
người Nam Bộ thường có thói quen chỉ sử dụng 5 dấu thanh (không dùng thanh
ngã), thường nói sai phụ âm đầu (v-d, h-g), hay có sự biến đổi trong phát âm
(i-iê, ng-n), hay gộp âm trong xưng hô (bả, chả, ảnh, chỉ), trong chỉ địa
danh (ngoải, trỏng), hay dùng từ cổ (bể, bợ, bông, heo), thích dùng yếu tố phụ
để tạo từ có sắc thái ( dơ hầy, nhọn lểu, rẻ rề, vàng ngoách, đỏ hoét), thích
vay mượn ngôn ngữ khác (chạp phô, tàu hủ, khổ qua, bao tử, hột xoàn, hên xui,
cần xé, cù lao, giận lẫy, cúng dàng)… thì phương ngữ phương ngữ Nam Bộ chính
là được hình thành trên nền tảng ngôn ngữ nói hàng ngày của bà con.
Ví dụ:
Tèm hem, tầy huầy, trớt
nguớt, thoi loi, tùm lum, nháu nhó, hết ý, chịu chơi, xả láng, thả giàn, hết
ý, hết xảy, quá xá mấu, đẹt câm đẹt ngắt, cứng ngắt cứng còng, trẻ khô, già
cú đế, ngồi chò hỏ, ngồi chành bành, ngồi chèm bẹp, ớn xương sống, sợ thấy mụ
nụ, trời thần đất lở, thấy mồ tổ, chèng đéc ơi…
Chính từ nếp sống, cách
suy nghĩ và nói năng của người Nam Bộ, cũng như sự bộc trực, thẳng thắn, ít
thích văn chương rào đón, mà ngôn ngữ Nam Bộ thường có lối nói rút ngắn, giàu
hình tượng, thích ngoa dụ cho vui: bi dai, bi lớn, bi nhiêu, bi tuổi, bản mặt
chằn vằn, đồ chằng tinh hổ lửa, đồ ba trợn, con đỉ ngựa, cái quần què, đẹp thấy
ớn, xấu thấy sợ, ngon hết biết, say quắt cần câu, lười thối thây, làm ăn như
mòng đóc, cà rịch cà tang, tà tà ển ển, cà xích cà xẹo, bẹo dạng bẹo hình,
bình bình nước nhửng…
Và… cũng thường tình như vậy,
phương ngữ đi vào ca dao Nam Bộ một vẻ đẹp bình dân, mộc mạc, mà phải đọc nhiều
lần chúng ta mới nhận ra được nó.
- Trắng như bông
lòng anh hổng chuộng
Đen như cục than hầm biết
làm ruộng anh thương
- Muốn người ta người ta
không muốn
Xách cái dù đi xuống đi
lên
- Thương sao thương quá bất
nhơn
Bữa nay gặp mặt thương hơn
bữa nào
- Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giảng
hòa
- Dĩa bàng thang con tôm
càng dựng đứng
Bởi gia cảnh anh nghèo nên
cặc nứng nửa con
- Khen cho con nhỏ cả gan
Ghe không bánh lái dám
chèo ngang giữa dòng
- Bớ chiếc ghe sau chèo
mau anh đợi
Kẻo khúc sông này bờ bụi tối
tăm
- Thuyền chài thuyền lưới
thuyền câu
Biết thuyền nhơn ngãi nơi
đâu mà tìm
- Nước chảy liu riu lục
bình trôi quắn quíu
Anh mãng thương nàng lịu địu
xuống lên
- Mái dầm anh đong đưa
Cùng với em dạo mát
Đặt em ngồi đằng trước
Hay em ngồi đằng sau
Ôi em ngồi chỗ nào
Anh cũng không ưng bụng
Mái dầm anh lúng túng
Đặt em lên đùi anh
(Dân
ca Khơme)
- Chiều xuống anh đưa em
đi chơi
Xóm làng mình sông sâu nước
chảy
Để em ngồi trên thuyền sao
lòng anh áy náy
Sợ sóng đánh làm ướt đôi
chân em
Để em ngồi đằng trước thì
sợ trúng mái dầm
Ngồi ở giữa thuyền thì xa
lơ xa lắc
Em ngồi ở đâu thật khó
lòng tính được
Chỉ có cách là bồng em đặt
lên đùi anh
Và từ những câu ca dao dân
dã ấy, khi được lợp lên mình nó những tầng lớp gai điệu và tiết tấu, phương
ngữ Nam Bộ vụt hiện những vẻ đẹp bình dân tới lịm người.
- Đố ai kiếm được cái vẩy
con cá trê vàng
Cái gan con tép bạc mấy
vàng tôi cũng mua
Ô là ô áo vá quàng
(Lý
áo vá quang)
- Chim quyên ăn trái nhãn
lồng
Thia thia quen chậu vợ chồng
quen hơi
(Lý
chim quyên)
- Cây da trước miễu ai biểu
cây da tàn
Bao nhiêu lá rụng em
thương chàng bấy nhiêu
(Hát
đưa em)
- Ba xa kéo chỉ trên chòi
Xa kêu vòi vọi anh đòi
chuyện chi
(Lý
ba xa kéo chỉ)
- Chiều chiều gọt mướp nấu
canh
Thấy anh qua lợi bỏ hành
cho thơm
(Lý
trái mướp)
- Lỡ tay rớt bể bình vôi
Chủ gia bắt được đọa đày xứ
xa
(Lý
bình vôi)
- Chú chim sẻ ơi
Ơ ơ ớ hùi
Ăn lúa nhà người
Vừa thơm vừa ngọt
Đừng ăn lúa mót
Trên đồng nhà tao
Lúa của nhà nghèo
Vừa cay vừa đắng
(Choôlchap-
dân ca Khơme)
- Trên cành đơm boong vui
quá
Sáo con nhảy múa tối ngày
Cánh thì xòe ra bay bay
Chân thì lia thia nhảy nhảy
Ơi đàn sáo con bé tí
Chẳng biết nhờ ai đệm đàn
Đành lấy chiếc mỏ ra ràng
Mổ cành đơm boong khe khẽ
(Xarikakkeo-
dân ca Khơme)
- Đừng nhìn tao bớ chim ơi
Hai đứa tao yêu nhau rồi
Mà biết nói gì
Chỉ biết nhìn chim bay đi
(Chim
Môhôri- dân ca Khơme)
- Phiền muộn chi em làm
héo cánh hoa
Luyến tiếc chi em làm héo
nụ cười
Hay là em đã say đắm nơi
nào
Ta càng tha thiết mãi
không thôi
(Xaccrova
chhlơơi chhloong- dân ca Khơme)
- Chim cu kêu cúc cu
Nó đậu trên ngọn tre
Anh gặp rồi anh thương
Em đây còn nhỏ
Em ơi anh chờ em
Em đi lấy chồng
Sao đành bỏ anh
(dân
ca Chăm)
- Kiếp này lắm ngang trái
Để kiếp sau ta gặp nhau
Anh ơi số trời định ước
Anh đừng giận vô cớ
(dân
ca Chăm)
- Con chim trao trảo
Nó rất dạn
Đã bay khắp nơi
Được sống sung sướng
Sanh con đẻ cháu
Được ở khắp bụi bờ
(dân
ca Chăm)
- Con ơi
Ở với mẹ có áo mặc
Ra lấy vợ
Áo không kip cài nút.
Con ơi
Đừng buôn lá bài
Của cải của người ta
Đừng lừa gạt.
(dân
ca Chăm)
III - HÃY ĐẾN VỚI CUỘC SỐNG
ĐỂ TÌM VẺ ĐẸP CỦA CA DAO DÂN CA NAM BỘ
Ca dao dân ca Nam Bộ là bộ
phận hợp thành của một phần văn hóa các tộc người chung sống trong cộng đồng
cư dân Nam Bộ, nó có sự ảnh hưởng, giao lưu và hội nhập lẫn nhau rất lớn;
chính vì vậy, theo thời gian, nó càng ngày càng phát triển với một diện mạo đặc
trưng, tương đối khu biệt so với các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau
trong cả nước. Chẳng hạn: dân ca Tây Bắc thường có đường nét giai điệu mềm mại,
tiết tấu khoan thai, như các điệu hát Sli, hát lượn, hát xòe hoa;.. dân ca
Tây Nguyên thường có đường nét giai điệu mạnh mẽ, tiết tấu nhanh, dồn dập;..
dân ca Trung Bộ thường chậm, buồn, thiết tha, man mác với các điệu hò hụi, hò
khoan, lý hoài nam;.. dân ca Nam Bộ là tổng hòa của nhiều tính cách, tạo
thành những mới lạ trong giai điệu, tiết tấu cũng như trong ca từ- mà chỉ
riêng hát lý đã chứng tỏ sự giàu có đến vô cùng tận, từ lý con cóc, lý con
nhái, lý con cá trê, lý con chuột, lý con mèo, lý đương đệm, lý cái phảng, lý
cây ổi, lý cây bần, lý chim quyên, lý bình vôi, lý bờ đắp, lý hố mơi, lý bốn
cửa quyền, lý cá ông, lý con kiến, lý con cua, lý con khỉ, lý bánh
canh, lý bánh bò, lý ba xa kéo chỉ, lý trái mướp, lý lựu lê, lý con sáo, lý
con ngựa, lý lu là, lý tú lý tiên, lý úp lá khoai, lý cây khế, Lý kêu đò… và…
độc đáo tới mức… có luôn cả Lý chun mùng (lý cánh cửa). Rồi thì hò Nam Bộ. Có
hò trên cạn, hò dưới nước, hò đối đáp, hò huê tình. Rồi lại còn hát ru, hát
đưa linh… Cả một kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ đồ sộ đến choáng ngợp. Tất
cả vẫn đang tồn tại trong dân gian và tiếp tục phát triển mạnh mẽ
trong dân gian. Muốn đến được với kho tàng phong phú và đồ sộ ấy, chúng ta nhất
thiết phải đi sâu vào thâm nhập cuộc sống của nhân dân, của cộng đồng các tộc
người Nam Bộ. Và tất nhiên, chúng ta cũng cần phải có phương pháp nghiên cứu
văn hóa dân gian địa phương, tùy theo giác độ tiếp cận và lợi ích của từng
ngành khoa học. Theo đó, có thể coi khâu sưu tầm là cái bắt đầu của mọi cái bắt
đầu. Vì vậy chúng ta cần phải đề ra một số phương hướng như sau:
1. Phân vùng và tìm kiếm sự
hình thành các vùng văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian địa
phương là một hệ thống chặt chẽ, phát triển trong tiến trình lịch sử của dân
tộc, nhưng đồng thời nó cũng rất cụ thể, mang tính chất địa phương, tính chất
vùng và tộc người, in rõ dấu ấn các thời đại, giai đoạn lịch sử.
2. Tìm hiểu cơ cấu nội tại của
văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian không phải là một lĩnh vực
đơn nhất mà tồn tại ở những loại hình cụ thể, với những tác phẩm cụ thể của
nó. Loại hình và sự biểu hiện của loại hình qua những tác phẩm của nó là những
cấp độ cơ bản, đơn vị cơ bản, qua đó, ta nghiên cứu cơ cấu nội tại của văn
hóa dân gian địa phương.
3. Tìm hiểu đặc thù của từng
loại hình văn hóa dân gian ở địa phương. Những đặc thù của các loại hình
văn hóa dân gian ở địa phương thường được biểu hiện ở các dấu hiệu đề tài,
hình thức chức năng sinh hoạt. Các dấu hiệu này thường có sự liên quan chặt
chẽ với nhau.
4. Tìm hiểu sự giao lưu văn
hóa của các địa phương. Vì trong quá trình vận động trên hai trục không gian
và thời gian, văn hóa dân gian của các địa phương luôn tác động qua lại lẫn
nhau. Văn hóa dân gian ở địa phương này thu hút những tinh hoa của văn hóa
dân gian ở địa phương kia và ngược lại. Quá trình giao lưu văn hóa của các địa
phương chịu sự tác động của những quy luật lịch sử - xã hội cơ bản.
Xuất phát từ nền văn minh
sông nước, tìm hiểu văn hóa Nam Bộ, tất nhiên phải tìm hiểu nền văn minh nông
nghiệp theo kiểu "làm nương rẫy". Dấu ấn của nền văn minh này để lại
dấu ấn rất đậm nét trong ca dao dân ca.
- Gió đưa gió đẩy
Về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá
Về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê mẹ đỡ mua tốn
tiền
- Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường
nấu canh
- Trên đất giồng mình trồng
khoai lang
Trên đất giồng mình trồng
dưa gang
Hỡi cô gánh nước đường xa
Còn bao gánh nữa để qua
gánh giùm
- Hoa trong vườn nhà ai
Đưa làn hương ngược gió
Lẫn trong mùi cây cỏ
Anh biết tìm em đâu
(Phaka
Kroong- dân ca Khơme)
- Bên kia sông có một vườn
dâu
Em biết đâu chính tay anh
trồng
Đưa em đi con nước xuôi
dòng
Em biết không, lòng anh
xôn xao?
Anh cùng em qua sông hái
dâu
Em nuôi tằm cái áo viền
bâu
Áo em mặc kín đáo bít bòng
Mọi việc phải do mình yêu
nhau
Từ nền văn minh miệt vườn
này, ta thấy xuất hiện chiếc đòn gánh của đồng bào Khơme có hai mấu ở hai đầu.
Nó không chỉ để gánh, nó còn là thứ vũ khí để chống đỡ khi cần; và khi mệt mỏi
vì công việc, nó còn là chiếc ghế để ngồi rất đắc dụng. Chính cộng đồng các tộc
người cùng chung lưng mở đất, biến vùng đất phù sa mới trầm thủy thành nền
văn minh miệt vườn miệt ruộng, đã nổ lực mở rộng quan hệ ra phía biển, đã biến
cả một vùng đất hoang sơ thành nền văn minh bản địa phát triển rất cao- trên
cơ sở nền văn minh Ấn Độ giáo, có sự hội nhập với nhiều nền văn minh khác.
Thâm nhập thực tế, phải bắt
đầu từ việc tiếp xúc với cộng đồng dân cư. Bởi dân cư là lực lượng sản xuất
chủ yếu của xã hội, là lực lượng áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm
tiến hành những đổi mới trong tất cả các quá trình sản xuất, là lực lượng đấu
tranh xã hội và cải tạo thiên nhiên, là lực lượng xây dựng và hình thành những
tư tưởng và lối sống mới của thời đại ngày nay. Khi tiếp xúc với các cộng đồng
dân cư của khu vực, chúng ta cần phải ý thức rằng, chính dân cư là bộ phận chứa
đựng nhiều đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán, những thói
quen và đặc điểm về sản xuất, phụ thuộc vào những nhân tố xã hội, tộc người
và điều kiện thiên nhiên của các vùng sinh thái cụ thể.
Về góc độ dân cư, đồng bằng
châu thổ sông Cửu Long là một vùng dân cư hỗn hợp, với nhiều nguồn gốc địa
phương khác nhau, đa dạng về mặt tín ngưỡng và tôn giáo, chênh lệch cách xa
nhau về lối sống và phong tục tập quán, trình độ phát triển xã hội và văn
hóa, cũng như thói quen canh tác và phong cách làm ăn. Bốn yếu tố tộc người
Việt, Khơme, Chăm, Hoa là rất quan trọng đối với việc thâm nhập thực tế để
tìm vẻ đẹp của ca dao dân ca Nam Bộ, cũng như các loại hình nghệ thuật khác.
Yếu tố tộc người và văn hóa Chăm và Mã Lai- đa đảo, yếu tố Khơme là những yếu
tố văn hóa và tộc người cổ xưa nhất, đã hình thành ở đồng bằng sông Cửu Long
từ trước TK XVII. Từ TK XVII về sau, yếu tố tộc người Việt và văn hóa Việt đã
trở thành nhân tố phát triển cơ bản của cả khu vực châu thổ phù sa mới rộng lớn,
bên cạnh sự hòa hợp những yếu tố của tộc người vùng ven biển nam Trung Hoa.
Ngày nay, đứng về mặt toàn vùng châu thổ mà xét, thì tính chất bao trùm và phổ
cập, chính là sự hòa hợp và phát triển của những yếu tố văn hóa của các tộc
người, mà yếu tố văn hóa của tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng
văn hóa của các tộc người anh em khác, vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của
nhiều vùng- đặc biệt là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Vì vậy, châu thổ sông Cửu
Long, là một vùng đồng bằng duy nhất ở nước ta, về mặt dân cư và dân tộc, có
những đặc trưng nổi bật, mà chúng ta cần phải lưu ý trong quá trình cải cách
nói chung, và quá trình cải cách văn hóa nói riêng.
Tính chất hỗn hợp và đa dạng
về mặt dân cư và quá trình xích lại gần nhau, hòa hợp giữa các dân
tộc trong khu vực, là một hiện tượng lịch sử có tính quy luật, bắt nguồn từ lịch
sử di dân và sự hình thành những vùng sinh thái nhân văn của cả khu vực châu
thổ phù sa mới rộng lớn. Nó góp phần hình thành các loại hình dân cư, mà dân
cư nông nghiệp là lại hình dân cư có số dân đông nhất; bao gồm những
nhóm dân cư chuyên canh ruộng nuớc, chuyên canh lúa nổi và chuyên canh về rẫy.
Bên cạnh đó, còn có loại hình dân cư thứ hai là dân cư phi nông nghiệp, bao gồm
dân cư thành phố, thị tứ và nhóm dân cư buôn bán nông sản ở nông thôn (ở đây
chúng ta cũng cần kể tới nhóm dân cư làng nổi sống bằng nghề cá bè, buôn bán
thương hồ để xác định loại hình dân cư của họ). Loại hình dân cư
thứ ba là cộng đồng dân cư, dân tộc và tôn giáo, là một đặc điểm lớn khó có
vùng nào ở nước ta tồn tại trong thực tế và lịch sử. Ở Nam Bộ, dân số Khơme
chiếm tuyệt đại đa số ở huyện Trà Cú- Trà Vinh và một số huyện Khác ở Sóc
Trăng, Hậu Giang; người Hoa có số dân đa số tuyệt đối trong một số xã ấp ở ở
Kiên Giang, Hậu Giang và cà Mau; người Chăm có dân số tuyệt đối ở một số xã
thuộc vùng Châu Đốc- An Giang.
Về góc độ tôn giáo, đạo Phật
tiểu thừa hầu như là tôn giáo toàn dân của người Khơme; Hồi Giáo là tôn giáo
của toàn thể người Chăm ở Châu Đốc; đạo Hòa Hảo chiếm khoảng 78% tổng số dân
tỉnh An Giang; đạo Cao Đài thì phát triển mạnh ở Bến Tre, LongAn và Tiền
Giang.
Phân loại dân cư và dân tộc
là hai đối tượng tổng hòa của nhiều hiện tượng xã hội, là đối tượng của nhiều
ngành khoa học xã hội, mà khi thâm nhập thực tế, chúng ta cần phải hướng tới,
để có thái độ và cách thức tiếp cận tốt nhất. Điều cần xác định là việc nhìn
nhận vị trí đặc biệt của cả vùng châu thổ phù sa mới rộng lớn, nơi gặp gỡ của
những nền văn hóa cổ rực rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc người
trong lịch sử. Đó là nơi mà các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa đã cùng cư trú
bên nhau, khai thác đất đai, xây dựng cộng đồng và phát triển bản sắc văn hóa
của dân tộc mình. Đây cũng chính là những nét văn hóa chung của các cư dân
Nam Á tập trung rõ nét ở châu thổ sông Cửu Long, chứng minh một cội nguồn
chung và một xuất nguyên giống nhau, phản ánh trên tư duy thần thoại và truyện
cổ dân gian, ca dao dân ca dân gian của các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa
trên nền quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ, hay thuyết vật chất nhị nguyên
tương phản; trong đó đất, nước, núi và đồng bằng, lục địa và biển, loài có
cánh và và loài thủy sinh tương phản nhau. Bên cạnh đó là các tục thờ đá
trong các miếu thổ thần của người Việt, miếu Ông Bổn của người Hoa và miếu
Néak- Tà của người Khơme; những ngày hội nước với những tục đua ghe và những
lễ nghi trong nông nghiệp vào mùa khô của người Khơme, người Chăm… Đó là dấu
vết nhà sàn trong các Sala chùa Khơme, nhà người Việt vùng Đồng Tháp, An
Giang. Đó là phương thức thủy lợi cổ đào ao chứa nước, như ao Bà Omcủa
người Khơme ở Trà Vinh, ao chứa nước trong rẫy của người Hoa Ở Vĩnh Châu- Bạc
Liêu, cách xẻ mương, lên liếp ở các miệt vườn.
Ngoài ra, châu thổ sông Cửu
Long còn là một vùng bán đảo chịu ảnh hưởng nặng của thủy triều và các sông rạch,
con nước lớn ròng, do đó yếu tố văn hóa biển và văn hóa Mã Lai, Inđônôdiên
khá rõ nét. Cho nên người Việt vùng Cà Mau, Rạch Gá rất giỏi nghề đóng ghe xuồng
và làm đồ thủ công, người Chăm giỏi nghề đánh cá trên sông… Các miếu Ông Bổn
Đầu Sông và miếu Bà Thiên Hậu rải rác khắp cả vùng châu thổ đã minh chứng cho
nền văn hóa biển của cả vùng đất. Bên cạnh nền văn hóa chung, mỗi dân tộc
trong cộng đồng vẫn có những đặc thù văn hóa truyền thống của dân tộc mình,
phản ánh bản sắc văn hóa riêng. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể
mà tổ tiên là những người nông dân từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ Quảng di cư
vào khai thác đất đai, xây dựng làng xóm, đình chùa, để lại dấu ấn của nền
văn minh cây lúa nước, bằng việc đào đắp kinh mương, làm sống dậy sự trú phú
của cả vùng châu thổ phù sa mới. Người Việt với những nổ lực của mình trước
thiên nhiên đầy những tiềm ẩn, thử thách, đã sáng tạo nên những cá tính và đặc
điểm văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật chá6t phong phú. Như bưởi năm roi
Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, cam Cái Bè, vú sữa Lò Rèn, thuốc rê Cao Lãnh, mắm
Châu Đốc, dừa Bến Tre, sầu riêng Chợ Lách, gạo nàng Loan Long An, mắm tôm
chua, mắm tôm chà Gò Công, nem Lai Vung… Đó còn là kỹ thuật dùng phảng phát cỏ,
đốt rồi cấy lúa rất hợp với thiên nhiên ngập tràn cỏ năng của vùng đất. Cũng
chính người Việt đã du nhập ca nhạc cung đình Huế, chế ra loại hình văn nghệ
dân gian quý báu là cải lương; rồi lại còn các loại hình nói thơ Lục Vân
Tiên, thơ Thầy Thông Chánh, nói tuồng, nói vè, hô lô tô, ca ra bộ, hò đối
đáp, hát huê tình… Người Việt ở đây còn có chiếc áo bà ba, chiếc khăn rằn và
các loại mắm rất đặc trưng. Đây là những nét văn hóa Việt đã được đổi mới một
phần cho thích nghi với cách ứng xử trước thiên nhiên kỳ bí của vùng đất mơi.
Bên cạnh người Việt, cư
trú xem kẽ trong các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tri Tôn là đồng bào
Khơme anh em. Người Khơme quần tụ trong các phum sóc được thiết lập lâu đời,
trên các giồng đất cao, bao quanh các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa, giữa những
hàng cây sao, cây dầu cao vút. Theo truyền thuyết, khởi nguyên người Khơme là
con cháu của chim thần Garuda, có sức điều động lửa, sấm sét, có khả năng thống
lãnh nước, mưa, sông rạch của giòng dõi cá thần và rắn thần Nagar. Họ có một
lịch sử văn hóa, nhân chủng, tổ chức xã hội và chữ viết Pali, mang ảnh hưởng
sâu sắc của nền văn hóa Ấn Độ, cũng như sức sáng tạo phong phú của bản thân
dân tộc mình.
Từ thế giới quan Phật
giáo tiểu thừa, và từ tư duy lưỡng nguyên, người Khơme đã tạo nên một nền văn
hóa cá biệt với những kiến trúc chùa nguy nga, với mô típ Rìa hu, tượng tròn,
tượng bốn mặt, chim thần, rắn thần, với các dạng thức phù điêu mang cá tính
và phong cách riêng.
Vốn là một dân tộc có truyền
thống văn nghệ, người Khơme đã sáng tạo ra nhiều loại hình ca vũ độc đáo, từ
điệu múa trống Xà zăm, múa vui Krap, múa gáo dừa Tro jok, múa Chằng khum-
rông, đến các điệu hát A- yay trữ tình, hát đối đáp Prop- kay, Chằm riêng-
chàpay, ca đàn kể truyện cổ, và vươn tới những hình thức sân khấu hoàn chỉnh
như kịch múa Robăm và kịch hát Yu- kê.
Người Hoa Nam Bộ trong quá
trình di trú đã giản dị hóa phong tục và tín ngưỡng của mình, chỉ giữ lại tục
thờ thần và lệ chiêm bái. Người Hoa còn mang đến những nghề nghiệp thủ công
truyền thống, nghề làm vườn trên giồng cát, và làm thông thương xích gần các
cộng đồng địa phương lại với nhau, bằng việc cung cấp các dịch vụ bán lẻ hàng
hóa nông sản. Ngoài ra họ còn mang đến đồng bằng châu thổ tục thờ Quan Công,
Quan Âm, các tuồng Tàu, các điệu hát Tiều, hát Quảng… cùng chuẩn mực đạo đức,
cách sống là những âm hưởng tàn dư những giáo điều Khổng Mạnh.
Người Chăm xuất phát từ một
bộ phận người Chăm ở miền Trung di cư đến, theo chương trình "tận dân vi
binh" lập đồn điền của triều đình nhà Nguyễn. Do những quan hệ nhiều đời
với người Khơme bên cạnh người Java mà người Chăm Nam Bộ có những nét văn hóa
riêng, tuy vẫn giữ lại truyền thống xây gạch, tổ chức xã hội theo Hồi giáo với
ông HaKim (như xã trưởng), thánh đường, tháng ăn chay Ramadan và đọc kinh
Coran.
Người Chăm sống ở Châu Đốc
theo đạo Islam. Đạo Islam chi phối toàn bộ sinh hoạt, phong tục, cho đến cách
phân bố phòng ở, cách trang phục. Trang phục của người Chăm Châu Đốc rất kín
đáo, hầu như che phủ, giấu kín cơ thể càng nhiều càng tốt. Với truyền thống
văn hóa lâu đời của mình, người Chăm đã sáng tạo nên một kho tàng văn nghệ rất
phong phú về nội dung, về cấu trúc, hình tượng. Đó là ca dao (Pa
nược - Pa dít), hát giao duyên (Ađtọh Atăm, Tàrà), hát trữ tình ân ái (Ađtọh
Mưzút), hát ống (Ađtọh Đing), hát đố (Ađtọh Padao), vè (Ariya),gia huấn ca
(Ariya Patoa Pakay), ngâm (Harí Ariya), xướng trường ca, anh hùng ca (Ămpăm),
các điệu hò xay lúa, giã gạo (Ađtọh Raxunxa), hò đám ma (Ađtọh Tămmưtờri- Ađtọh
Kamưrơ), hát ru em (Ađtọh Ru Anứk), đồng dao (Ađtọh Raneh)… Tuy nhiên, theo
giáo lý kinh Coran, người Chăm vẫn cho rằng âm nhạc và lời ca tiếng hát làm
mê hoặc tâm linh con người, làm con người sa ngã theo dục vọng, không còn đủ
trí sáng suốt để suy gẫm lời kinh. Bởi vậy họ ngăn cấm hát xướng, nhất là các
loại hát hò huê tình của nam nữ. Vì giới luật của Hồi giáo ngăn cấm, nên sinh
hoạt văn nghệ dân gian của người Chăm Châu Đốc không phát triển hơn được nữa.
Để bù đắp vào chỗ sinh hoạt văn nghệ bị gò bó, người Chăm ở Châu Đốc đã cố
công xây dựng một hệ thống văn học dân gian với đủ loại truyện kể. Đây là
công đóng góp của người Chăm Châu Đốc vào kho tàng văn học dân gian của châu
thổ phù sa mới Nam Bộ.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét