1/ Giới thiệu chung:
Concerto là một thể loại
âm nhạc với đặc trưng gồm có 3 chương, cho 1 hay nhiều loại nhạc cụ độc tấu với
dàn nhạc. Cái tên “Concerto” lần đầu tiên được sử dụng ở Ý vào cuối thế kỷ 16
nhưng mãi đến khoảng năm 1600 vào đầu thời kì Baroque ở Ý, nó mới trở nên phổ
biến. Đầu tiên Concerto và Concertato là sự pha trộn của các loại nhạc cụ giàu
màu sắc hoặc các giọng hát hoặc cả hai được áp dung rộng rãi ở những bản nhạc
mang màu sắc thần thánh hoặc trần tục, đuợc gọi là một nhóm các nhạc cụ hoặc ca
sỹ kết hợp với nhau hoặc cả hai. Một nhóm có thể được xem như một thể thống nhất
nhưng pha trộn toàn bộ những âm thanh tương phản nhau được đặt ở vị trí này hoặc
ở vị trí khác. “Phong cách Concerto” này được phát triển bởi nhà soạn nhạc người
Ý Claudio Monteverdi (1567 – 1643), đặc biệt trong tập thứ 5 của 8 tập nhạc
Madrigal (1605 – 1638). Chịu ảnh hưởng một phần từ Monteverdi, nhà soạn nhạc
người Đức Heirich Schülz cũng áp dụng phong cách mới này cho các tác phẩm nhạc
tôn giáo Đức. Ý nghĩa của Concerto được tiếp tục sử dụng vào thế kỷ 18 khi nhiều
bản cantata tôn giáo của Johann Sebastian Bach cũng được đề là Concerto.
Thể loại Concerto được hồi
sinh lần đầu tiên vào khoảng cuối thế kỷ thứ 17. Arcangelo Corelli (1653 –
1713), nghệ sỹ violin chính và là nhạc sỹ của trường dạy violin nổi tiếng miền
bắc nước Ý đã sử dụng tên gọi mới Concerto Grosso cho 12 bản nhạc trong Opus 6
của ông (có lẽ được viết vào khoảng 1680 – 1685 và được xuất bản sau khi ông mất
vào năm 1714). Những sáng tác này sử dụng dàn dây – goi là Concerto Grosso
hay Ripieno (đầy đủ) hoặc Tutti (tất cả) – được chơi với một nhóm độc tấu
nhỏ, goi là Concertino, ở đó trong các bản nhạc của Corelli gồm chỉ có 3 người
chơi. Các bản Concerto của ông bao gồm một chuỗi các bản nhạc ngắn tương
phản nhau về nhịp và tốc độ, gần giống với phong cách và hình thức của thể loại
âm nhạc chủ đạo thời đó là Trio Sonata. Loại Concerto Grosso mới đó đã được viết
nên bởi nhiều nhà soạn nhạc khác như nhạc sỹ người Ý Giuseppe Torelli (1658 –
1709) và không lâu sau đó nó phát triển và có phong cách đặc trưng riêng bởi sự
quyết định chủ đề của nó dựa trên những hợp âm rải chạy đuổi nhau, những nhịp
điệu lặp đi lặp lại và phong cách hoà âm điển hình quy định âm chủ đạo. Nó tiếp
tục phổ biến suốt thời kỳ Baroque, đặc biệt nhất là bản Concerto Brandenburg số
6 của Bach. Tính đặc trưng riêng biệt đó vẫn còn được sử dụng cho dàn dây khi
phân loại nhạc cụ độc tấu – bộ dây, bộ hơi và hỗn hợp.Một Concerto
Grosso có một tiểu mục, một đoạn độc tấu trong đó 1 Concertino được thay thế bằng
một đoạn độc tấu của một nhạc cụ do đó làm tăng sự đối thoại của nhạc cụ độc tấu
với dàn nhạc. Các Concerto đầu tiên dành cho nhạc cụ độc tấu là của các nhạc sỹ
Ý như Torelli và Tomaso Albinoni (1671 – 1750) viết cho violin, trumpet hoặc
oboe. Chẳng bao lâu sau họ đã soạn cho nhiều nhạc cụ độc tấu hơn, trong số đó
đáng lưu ý nhất là những bản Concerto độc tấu của nhà soạn nhạc nổi tiếng người
Ý Antonio Vivaldi (1678 – 1741). Một số lượng lớn các nghệ sỹ độc tấu
có trình độ bậc thầy đặc biệt là các nghệ sỹ Violin đã khai thác các Concerto độc
tấu như là một công cụ để thể hiện khả năng của mình, cả ở trong nhà thờ lẫn
các buổi biểu diễn cá nhân hoặc bán công cộng
Những tác phẩm đầu tiên đã
thiết lập nên một khối lượng quy định lớn làm tiêu chuẩn cho các bản Concerto độc
tấu sau này cho đến tận những năm 1900. Một chuỗi gồm 3 chương: nhanh – chậm –
nhanh với chương giữa là một chủ âm khác với chủ âm của phần đầu và phần cuối.
Trong những phần nhanh, một đoạn độc tấu sẽ được phát triển thành một phần dài
thường trội hơn bởi sự trang trí bằng các hình tượng nhanh, những phần này được
đan xen nhau giữa 4 hoặc 5 phần lặp đi lặp lại dành cho đầy đủ cả dàn nhạc được
goi là Ritonello (sự kết hợp các phần với nhau được goi là Ritonello). Trước
khi kết thúc phần Ritonello ở cuối mỗi đoạn, nghệ sỹ độc tấu sẽ phô diễn kỹ thuật
và kỹ năng chơi nhạc ngẫu hững bằng một đoạn nhạc gọi là Cadenza. Mỗi đoạn
Cadenza vẫn nằm trong bản Concerto chính suốt cả thời Cổ điển và Lãng mạn sau
này mặc dù các nhà soạn nhạc thường viết nó ra ngoài bản Concerto dựa vào sự cảm
nhận và khả năng riêng của từng người trình diễn.
3/ Thời kỳ Cổ điển:
Sự thay đổi của nền âm nhạc vào giữa thế kỷ thứ 18, chuyển từ phong cách Baroque sang Cổ điển không thể không ảnh hưởng đến thể loại Concerto. Bên cạnh thời hoàng kim ngắn ngủi của nhánh âm nhạc Pháp được goi là thể loại Concertante Symphonie, thể loại Concerto Grosso bị diệt vong đã tạo thuận lợi cho thể loại Giao hưởng – đã hấp thu được rất nhiều nét đặc trưng của nó. Tuy nhiên Concerto vẫn là một thể loại đòi hỏi kỹ thuật cao không thể bỏ qua đặc biệt đối với các nhà soạn nhạc và nghệ sỹ biểu diễn. Sự nổi lên của cây đàn Piano đầy mới mẻ đã thay thế cây đàn Violin truyền thống làm nhạc cụ độc tấu. Đây là một nhạc cụ yêu thích của cả Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791) (người đã viết rất nhiều bản Concerto vĩ đại – chủ yếu dành cho đàn Piano) và Ludwig van Beethoven (1770 – 1827) (người viết 5 bản Concerto cho Piano và 1 bản Piano Concerto cho Violin (1801 – 1811)) đã đưa thể loại này đạt tới đỉnh cao của nó.Suốt thời kỳ Cổ điển, một Concerto đã dài hơn trước. Hình thức của nó thể hiện sự dung hoà giữa thể loại Ritonello truyền thống (đòi hỏi trình độ biểu diễn bậc thầy) và phong cách mới thiên về giao hưởng. Những phần đầu khác với hình thức Ritonello trong đó cách trình diễn cả đoạn Ritonello thứ nhất và phần độc tấu đầu tiên giống như phần đầu trong bản giao hưởng, phần còn lại cũng tương tự thế nhưng nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc cùng chơi hoặc chơi luân phiên nhau. Đoạn kết thúc luôn là một Rondo mà nhạc cụ độc tấu chơi một đoạn điệp khúc lặp đi lặp lại. Các phần chậm vẫn còn sót lại một ít các qui định ngặt nghèo trong dạng thức. Giống như các bản giao hưởng, các Concerto đã trở nên lớn hơn, có những tác phẩm đặc biệt dành để trình diễn trong phòng hoà nhạc trước một lượng lớn khán giả.
Sự thay đổi của nền âm nhạc vào giữa thế kỷ thứ 18, chuyển từ phong cách Baroque sang Cổ điển không thể không ảnh hưởng đến thể loại Concerto. Bên cạnh thời hoàng kim ngắn ngủi của nhánh âm nhạc Pháp được goi là thể loại Concertante Symphonie, thể loại Concerto Grosso bị diệt vong đã tạo thuận lợi cho thể loại Giao hưởng – đã hấp thu được rất nhiều nét đặc trưng của nó. Tuy nhiên Concerto vẫn là một thể loại đòi hỏi kỹ thuật cao không thể bỏ qua đặc biệt đối với các nhà soạn nhạc và nghệ sỹ biểu diễn. Sự nổi lên của cây đàn Piano đầy mới mẻ đã thay thế cây đàn Violin truyền thống làm nhạc cụ độc tấu. Đây là một nhạc cụ yêu thích của cả Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791) (người đã viết rất nhiều bản Concerto vĩ đại – chủ yếu dành cho đàn Piano) và Ludwig van Beethoven (1770 – 1827) (người viết 5 bản Concerto cho Piano và 1 bản Piano Concerto cho Violin (1801 – 1811)) đã đưa thể loại này đạt tới đỉnh cao của nó.Suốt thời kỳ Cổ điển, một Concerto đã dài hơn trước. Hình thức của nó thể hiện sự dung hoà giữa thể loại Ritonello truyền thống (đòi hỏi trình độ biểu diễn bậc thầy) và phong cách mới thiên về giao hưởng. Những phần đầu khác với hình thức Ritonello trong đó cách trình diễn cả đoạn Ritonello thứ nhất và phần độc tấu đầu tiên giống như phần đầu trong bản giao hưởng, phần còn lại cũng tương tự thế nhưng nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc cùng chơi hoặc chơi luân phiên nhau. Đoạn kết thúc luôn là một Rondo mà nhạc cụ độc tấu chơi một đoạn điệp khúc lặp đi lặp lại. Các phần chậm vẫn còn sót lại một ít các qui định ngặt nghèo trong dạng thức. Giống như các bản giao hưởng, các Concerto đã trở nên lớn hơn, có những tác phẩm đặc biệt dành để trình diễn trong phòng hoà nhạc trước một lượng lớn khán giả.
4/ Thời kỳ Lãng mạn:
Sau năm 1820 có một vài nhà soạn nhạc đã viết hơn 2 hoặc 3 bản Concerto mà mỗi bản đặc biệt dành riêng cho một nghệ sỹ bậc thầy trình diễn. Khả năng chơi Violin siêu phàm của Nicolo Paganini (1782 -1820) đã sớm được nối tiếp bằng Franz Liszt (1811 – 1886) – nhà soạn nhạc, nghệ sỹ Piano bậc thầy người Hungary. Ông đã tạo nên một bức màn bí ẩn về một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các Concerto quan trọng được viết cho Piano và Violin, được ra đời bởi Liszt và các nhà soạn nhạc người Đức như: Carl Maria von Weber, Felix Mendelssohn, Robert Schumann và Johannes Brahms; nhà soạn nhạc Ba Lan Frederic Chopin và nhạc sỹ người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky. Họ có những thử nghiệm ở cả thể loại lớn với 3 chương và cả thể loại của riêng họ. Tuy nhiên các tác phẩm vẫn giữ được nền tảng giao hưởng như ban đầu. Các nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc thì luôn luôn đối thoại với nhau trong sự đối lập đầy tính kịch nhưng lại thường dẫn đến một sự thống nhất ngẫu nhiên.
Sau năm 1820 có một vài nhà soạn nhạc đã viết hơn 2 hoặc 3 bản Concerto mà mỗi bản đặc biệt dành riêng cho một nghệ sỹ bậc thầy trình diễn. Khả năng chơi Violin siêu phàm của Nicolo Paganini (1782 -1820) đã sớm được nối tiếp bằng Franz Liszt (1811 – 1886) – nhà soạn nhạc, nghệ sỹ Piano bậc thầy người Hungary. Ông đã tạo nên một bức màn bí ẩn về một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các Concerto quan trọng được viết cho Piano và Violin, được ra đời bởi Liszt và các nhà soạn nhạc người Đức như: Carl Maria von Weber, Felix Mendelssohn, Robert Schumann và Johannes Brahms; nhà soạn nhạc Ba Lan Frederic Chopin và nhạc sỹ người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky. Họ có những thử nghiệm ở cả thể loại lớn với 3 chương và cả thể loại của riêng họ. Tuy nhiên các tác phẩm vẫn giữ được nền tảng giao hưởng như ban đầu. Các nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc thì luôn luôn đối thoại với nhau trong sự đối lập đầy tính kịch nhưng lại thường dẫn đến một sự thống nhất ngẫu nhiên.
5/ Thế kỷ 20:
Về căn bản, phương thức của âm nhạc hiện đại đầu thế kỷ 20 gây được hứng thú là giao hưởng. Một Concerto dường như không còn phù hợp với nhiều nhà soạn nhạc, mặc dù vậy các nghệ sỹ độc tấu tài năng (thường là nghệ sỹ Piano hoặc Violin) vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho các nhà soạn nhạc. Ví dụ như Arnold Shoenberg, Alban Berg, Anton Webern – người Áo; Paul Hindemith – người Đức; Bela Bartok – người Hungary và Igor Stravinsky – người Nga. Tuy nhiên mỗi bản nhạc lại dường như ảnh hưởng bởi phong cách của các nhà soạn nhạc thời trước nhưng hiếm khi bị chi phối bởi chúng. Một sự thay thế mới mẻ trong cảm nhận âm nhạc rất rõ ràng, các âm thanh tương phản cùng kết cấu đối âm dẫn tới sự phục hồi của thể loại Concerto Grosso cũ. Những nhà soạn nhạc này đã viết được một số lượng đồ sộ các tác phẩm, sử dụng rất nhiều các âm sắc tương phản ở cả giao hưởng và thính phòng.
Về căn bản, phương thức của âm nhạc hiện đại đầu thế kỷ 20 gây được hứng thú là giao hưởng. Một Concerto dường như không còn phù hợp với nhiều nhà soạn nhạc, mặc dù vậy các nghệ sỹ độc tấu tài năng (thường là nghệ sỹ Piano hoặc Violin) vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho các nhà soạn nhạc. Ví dụ như Arnold Shoenberg, Alban Berg, Anton Webern – người Áo; Paul Hindemith – người Đức; Bela Bartok – người Hungary và Igor Stravinsky – người Nga. Tuy nhiên mỗi bản nhạc lại dường như ảnh hưởng bởi phong cách của các nhà soạn nhạc thời trước nhưng hiếm khi bị chi phối bởi chúng. Một sự thay thế mới mẻ trong cảm nhận âm nhạc rất rõ ràng, các âm thanh tương phản cùng kết cấu đối âm dẫn tới sự phục hồi của thể loại Concerto Grosso cũ. Những nhà soạn nhạc này đã viết được một số lượng đồ sộ các tác phẩm, sử dụng rất nhiều các âm sắc tương phản ở cả giao hưởng và thính phòng.
Lê Thanh Huyền dịch
Nguồn: Encarta.msn.com/nhaccodien
Theo https://nghiemluongthanh.wordpress.com/
Sonata
I. Giới thiệu
Sonata (sonare trong
tiếng Ý với nghĩa đen là “phát ra âm thanh”) là một thể loại tác phẩm âm
nhạc cổ điển viết cho một hay nhiều nhạc cụ. Thuật ngữ sonata cũng chỉ
hình thức âm nhạc đặc trưng của chương nhạc thứ nhất trong các sonata thế kỉ 18
và các thể loại có liên quan. Từ giữa thế kỉ 18, thuật ngữ sonata thường
được sử dụng cho các tác phẩm có khuôn mẫu ba hoặc bốn chương viết cho một hoặc
hai nhạc cụ, như trong piano sonata (cho piano độc tấu) hoặc violin
sonata (cho violin với bè đệm đàn phím). Có các thuật ngữ khác
ngoài sonata được sử dụng cho các tác phẩm bố trí theo khuôn mẫu
sonata nhưng được soạn cho những kiểu kết hợp nhạc cụ khác; chẳng hạn như
sonata cho dàn nhạc được gọi là giao hưởng, sonata cho nhạc cụ độc tấu
cùng dàn nhạc được gọi là concerto và sonata cho tứ tấu đàn dây được
gọi là tứ tấu đàn dây.
II. Lịch sử
Vào thế kỉ 16 và 17, thuật
ngữ sonata, xuất hiện ngày càng thường xuyên ở tiêu đề các tác phẩm
khí nhạc, chỉ có nghĩa là một “tác phẩm khí nhạc” để phân biệt với một tác phẩm
thanh nhạc. Thuật ngữ không ngụ ý bất cứ một khuôn mẫu cụ thể hay phong cách
sáng tác nào. Một khuôn mẫu và phong cách đã phát triển ở Ý vào cuối thể kỉ
16 và đầu thế kỉ 17, khi âm nhạc cho nhạc cụ được khai thác trên một quy mô lớn.
Khuôn mẫu bao gồm một số phần được phác họa rõ ràng theo các tốc độ và bố cục
tương phản, chẳng hạn như một phần kiểu vũ khúc được tiếp tục bằng một giai điệu
chậm với bè đệm rồi được tiếp tục bằng một phần nhanh theo hình thức fugue. Những
tác phẩm như vậy không nhất thiết phải được gọi là sonata ; các thuật ngữ ricercare và canzone được
sử dụng thường xuyên hơn. Trong những năm 1630 số phần trong một tác phẩm có xu
hướng giảm xuống còn 3 hoặc 4, độ dài của các phần còn lại có xu hướng tăng lên
và cấu trúc hình thức của chúng có xu hướng trở nên phức tạp hơn, kết hợp chặt
chẽ các mối liên hệ tầm xa gồm nhịp điệu, hòa âm, giai điệu và những đặc trưng
âm nhạc khác.
Đến cuối thể kỉ 17,
hai loại sonata đã nổi lên : sonata da chiesa hay sonata nhà thờ, một
loại tác phẩm nghiêm túc có 4 chương theo khuôn chậm – nhanh – chậm – nhanh và
phản ánh tính phức tạp về âm nhạc của các hình thức cũ hơn làricercare và canzone;
và sonata da camera hay sonata thính phòng, một chuỗi các chương nhạc
ngắn có nguồn gốc vũ khúc, là tiền thân của tổ khúc. Kiểu kết hợp nhạc cụ
điển hình nhất cho sonata trong thời Trung cổ và cuối thời
Baroquelà trio sonata : 2 nhạc cụ chơi giai điệu cùng bè đệm basso continuo (nhạc
cụ chơi giai điệu trầm được hỗ trợ bằng nhạc cụ chơi hòa âm). Bậc thầy đáng chú
ý của thế kỉ 17 của thể loại trio sonata là nghệ sĩ violin Ý Arcangelo Corelli.
Các sonata cũng được viết cho những hòa tấu nhạc cụ nhỏ (gồm cả nhiều sonata của
Corelli) và cho các nhạc cụ độc tấu, như trong các sonata cho solo violin và
solo cello của J. S. Bach và sonata cho đàn phím solo của tác giả người
Đức Johann Kuhnau. Các sonata cho một nhạc cụ giai điệu và bè đệm basso
continuo cũng được sáng tác, trong số đó có các bản violin sonata của tác giả
Áo Heinrich von Biber.
Trong những thời kỳ sơ
khởi và đầu cổ điển, sonata da chiesa, chịu ảnh hưởng của sonata
da camera, đã tiến triển thành một hình thức được định tính rõ ràng hơn gồm
3 hay 4 chương. Chương thứ nhất thường theo hình thức sonata và ở tốc độ nhanh
vừa phải ; chương thứ hai sử dụng một trong một vài hình thức và ở tốc độ chậm
; chương cuối cùng cũng theo một trong một vài hình thức và ở tốc độ nhanh. Nếu
tác phẩm có chương thứ tư thì một minuet được chèn vào trước chương cuối cùng.
Thuật ngữ sonata chỉ được sử dụng khi phương tiện thể hiện là một nhạc
cụ đàn phím solo hoặc một số nhạc cụ khác solo được đệm bằng đàn phím. Khuôn mẫu
của một sonata, cùng với những nguyên tắc của hình thức sonata, đã lan khắp nghệ
thuật âm nhạc của thời đại, không chỉ trong các sonata cho nhạc cụ mà còn trong
các giao hưởng, concerto và tứ tấu đàn dây cùng những tác phẩm âm nhạc thính
phòng khác. W. A. Mozart, Joseph Haydn và Ludwig van
Beethoven đã minh họa cho sonata cổ điển một cách hết sức đặc biệt. Giống
như hầu hết các nhà soạn nhạc thế kỉ 19, Beethoven đã viết các sonata 4 chương
nhưng trong những năm cuối cùng thì đôi khi ông loại bỏ khuôn mẫu này vì thích
ít hoặc nhiều chương hơn thế.
Trong thế kỉ 19, truyền
thống sonata cổ điển được các nhà soạn nhạc Áo và Đức như Franz
Schubert, Robert Schumann và Johannes Brahms duy trì. Nhiều
nhà soạn nhạc trong đó có nghệ sĩ piano Ba Lan Frédéric Chopin đã nới
lỏng bằng các tác phẩm ngắn hơn là bằng các tác phẩm quy mô lớn ; khi viết
sonata họ có xu hướng coi nhẹ các mối liên hệ âm nhạc quy mô lớn bằng cách viết
các chương được phân biệt một cách nổi bật, cấu trúc bên trong là cái nhấn mạnh
các đoạn được phân biệt tương ứng. Những người khác như nghệ sĩ
piano Hungary Franz Liszt đã loại bỏ nhiều khuôn mẫu sonata. Bản
Sonata giọng Si thứ của ông là một tác phẩm dài chỉ có một chương, gợi nhắc
hình thức thơ giao hưởng.
Những nhà soạn nhạc thế
kỉ 20 đã đi theo muôn nẻo đường khác nhau trong các bản sonata của họ. Một số
người, như nhà soạn nhạc Mĩ Samuel Barber, đã viết những tác phẩm lớn đòi hỏi
kĩ thuật bậc thầy theo truyền thống thế kỉ 19. Một số người, như nhà soạn nhạc
gốc Nga Stravinsky, thì lại quay trở về với những nguyên tắc cổ điển gò bó
và sáng sủa về hình thức. Những người khác, như nhà cải cách Charles Ives, đã sử
dụng thuật ngữ sonata có lẽ để gợi nhắc trong tâm trí thính giả những
truyền thống lớn lao của quá khứ, song khuôn mẫu và tính chất âm nhạc của họ có
xu hướng mang tính chất chủ nghĩa cá nhân rất cao. Ý nghĩa của thuật ngữ sonata vì
thế chầm chậm quay về với định nghĩa có phần nhập nhằng ban đầu của nó như là một
tác phẩm cho nhạc cụ được soạn ra với sự vắng bóng của những đặc trưng định trước.
III. Hình thức sonata
Vào giữa thế kỉ 18, các nhà
soạn nhạc bắt đầu tổ chức âm nhạc của mình theo một lối phối hợp những mối liên
hệ được biết đến như là hình thức sonata. Lối phối hợp này có thể được phân tích
hoặc theo hình thức hai bè hoặc theo hình thức ba bè. Ban đầu, thời sơ khai của
hình thức (1720-60) có xu hướng ủng hộ phép phân tích hai bè. Theo phép phân
tích này, bè thứ nhất thiết lập một bộ phận trung tâm chính yếu, được gọi là chủ
âm, và rồi chuyển dịch sang trung tâm thứ hai, thường là âm át. Bè thứ hai bắt
đầu trên âm át, lạc vào những âm khác và kết thúc ở chủ âm. Chất liệu giai điệu
bao gồm một hay nhiều motive hay chủ đề được bố trí theo các giọng khác nhau ;
đôi khi mỗi chủ âm và các âm át đều có các chủ đề riêng. Những mối liên hệ về
giọng trong quan niệm của hình thức sonata hai bè đã phổ biến trong cả khí nhạc
và thanh nhạc cuối thế kỉ 17. Cách tân lớn của thế kỉ 18 là việc gia tăng phối
hợp giữa các giai điệu và giọng.
Phép phân tích hình thức
sonata theo lối phối hợp ba bè được ủng hộ bằng những sửa đổi theo lối phối hợp
diễn ra trong thời cổ điển (cuối thế kỉ 18). Lối phối hợp giọng vẫn như trước
đây nhưng sự nhấn mạnh tăng thêm được dựa vào tính chất của chất liệu giai điệu
và vào sự phối hợp nhất quán hơn giữa các giai điệu và giọng. Thay vào một chủ
đề hay bộ chủ đề trong phần thứ nhất, hai nhóm chủ đề riêng biệt đã nổi bật
lên, một ở giọng chủ âm và một ở giọng âm át. Những chủ đề chủ âm có xu hướng
năng động về tính chất, có thể bằng những nhịp điệu nhanh và mạnh mẽ; những chủ
đề âm át có xu hướng trữ tình hơn. Hơn nữa, phần thứ nhất của nhiều chương nhạc
hình thức sonata cổ điển bắt đầu bằng một introduction chậm và và kết thúc bằng
một coda ngắn. Bè thứ hai và ba của hình thức sonata cổ điển đều phát triển từ
phần thứ hai của hình thức sonata sơ khởi trước đó.
Phần thứ hai mới mẻ này đã kéo dài đoạn mở đầu của phần thứ hai cũ, cái chứa đựng những đoạn lạc giọng ngắn. Những đoạn lạc giọng này trở nên dài hơn và nhiều hơn về số lượng, chất liệu giai điệu từ phần thứ nhất bắt đầu được phát triển mở rộng qua sự phân mảnh, biến đổi, tái kết hợp và các phương tiện khác. Phần thứ ba bao gồm sự trình bày lại những chủ đề thứ nhất và thứ hai, cả hai đều ở giọng chủ âm. Vào giữa thế kỉ 19, ba phần đã được đặt tên tương ứng với các chức năng của chúng là : phần trình bày (exposition), phần phát triển (development) và phần tóm tắt (recapitulation). Lối phối hợp hình thức sonata đã tiếp tục được các nhà soạn nhạc sử dụng cho đến thời hiện tại mặc dù ngày càng ít thường xuyên hơn.
Phần thứ hai mới mẻ này đã kéo dài đoạn mở đầu của phần thứ hai cũ, cái chứa đựng những đoạn lạc giọng ngắn. Những đoạn lạc giọng này trở nên dài hơn và nhiều hơn về số lượng, chất liệu giai điệu từ phần thứ nhất bắt đầu được phát triển mở rộng qua sự phân mảnh, biến đổi, tái kết hợp và các phương tiện khác. Phần thứ ba bao gồm sự trình bày lại những chủ đề thứ nhất và thứ hai, cả hai đều ở giọng chủ âm. Vào giữa thế kỉ 19, ba phần đã được đặt tên tương ứng với các chức năng của chúng là : phần trình bày (exposition), phần phát triển (development) và phần tóm tắt (recapitulation). Lối phối hợp hình thức sonata đã tiếp tục được các nhà soạn nhạc sử dụng cho đến thời hiện tại mặc dù ngày càng ít thường xuyên hơn.
Ngọc Anh dịch
Nguồn: The Grove
Concise
Dictionary of Music/nhaccodien
Theo https://nghiemluongthanh.wordpress.com/
Các thể loại Nhạc
thính phòng
(Chamber music)
Nhạc thính phòng là nhạc viết
cho nhạc cụ hòa tấu, thường dao động từ 2 đến 10 người chơi, mỗi người chơi một
bè và mọi bè đều có tầm quan trọng ngang bằng. Nhạc thính phòng từ khoảng năm
1750 phần lớn dành cho tứ tấu đàn dây (2 violin, viola và cello), mặc dù các
ngũ tấu đàn dây cũng như các tam tấu và các ngũ tấu cho 4 đàn dây cùng với 1
piano hay 1 nhạc cụ hơi cũng đã phổ biến. Gọi là nhạc thính phòng là
bởi vì ban đầu nó ngụ ý là nhạc dành cho biểu diễn riêng, điển hình là trong một
sảnh nhỏ hoặc các phòng riêng của cá nhân. Các buổi hòa nhạc các tác phẩm thính
phòng trước công chúng chỉ bắt đầu vào thế kỉ 19.
Nhạc thế tục ở thời Trung cổ
và Phục hưng (khoảng năm 1450 đến khoảng năm 1600) được soạn với đặc thù dành
cho hòa tấu khí nhạc và thanh nhạc. Hầu hết sáng tác là các tác phẩm thanh nhạc
có 3, 4 và 5 bè. Những nhóm khí nhạc chơi loại nhạc thính phòng này một cách
đơn giản, sử dụng bất cứ loại nhạc cụ nào họ muốn hay sẵn có vào thời kỳ đó.
Vào thời Baroque (khoảng năm
1600 đến khoảng năm 1750), cấu trúc âm nhạc có mặt khắp nơi là cấu trúc có những
tuyến giai điệu bè cao được bè giai điệu trầm phụ trợ – basso continuo – do
cello hay bassoon, với những hòa âm do lute, harpsichord hoặc organ lấp đầy.
Hai thể loại khí nhạc trở nên quan trọng trong thời kỳ này là sonata da
chiesa hay sonata nhà thờ và sonata da camera hay sonata thính
phòng. Mặc dù sonata da chiesa không thể được xem là nhạc thính phòng theo
nghĩa chặt chẽ nhất của nó, nhưng từ khi nó được dự tính để biểu diễn trước
công chúng, từ khoảng năm 1700, sự khác biệt giữa sonata da chiesa và sonata da
camera đã bị lu mờ vì nhiều tác phẩm của mỗi thể loại đó đều được chơi trước
công chúng lẫn biểu diễn riêng tư. Những thể loại nhạc thính phòng cơ bản
là trio sonata – các bản sonata da chiesa hay da camera được viết cho
hai nhạc cụ chơi giai điệu (thường do violin, flute hay oboe đảm nhiệm) và bè
continuo -và solo sonata, thường cho violin và bè continuo. Tuy nhiên nếu
muốn, các trio sonata cũng có thể được chơi bằng các nhóm hòa tấu lớn hơn gồm 6
hay 8 nhạc cụ. Thêm vào đó, người ta cũng viết các cantata thính phòng dành cho
giọng hát solo cùng bè continuo cũng như cho duet hai giọng hát cùng bè
continuo mà thực tế đã tạo hình mẫu cho trio sonata.
Những nhà soạn nhạc nổi bật
nhất của thể loại trio và solo sonata trong thế kỉ 17 là nhà soạn nhạc Ý
Arcangelo Corelli, người mà các tác phẩm ảnh hưởng đến nhạc thính phòng của nhà
soạn nhạc Anh Henry Purcell và về sau là nhạc thính phòng của nhà soạn nhạc
Pháp François Couperin, nhà soạn nhạc Đức – Anh George Frideric Handel và nhà
soạn nhạc Đức Johann Sebastian Bach.
Trong kỷ nguyên Cổ điển (khoảng
năm 1750 đến khoảng năm 1820), nhà soạn nhạc Áo Josept Haydn đã phát triển nhạc
thính phòng thành một phong cách khác biệt với nhạc hòa tấu khác. Quan trọng
ngang với những tiền thân của phong cách mới là các thể loại nhạc nhẹ Vienna,
chẳng hạn như divertimento và serenade. Được các nhóm đàn dây và nhạc cụ hơi
chơi ngoài trời, những sáng tác này loại đi bè continuo, sử dụng những nhạc cụ
giọng trung để điền đầy hòa âm. Haydn đã thiết lập tứ tấu đàn dây thành thể loại
hòa tấu thính phòng thông dụng nhất. Những tứ tấu của ông thường được viết theo
cấu trúc sonata 4 chương (1 chương nhanh, 1 chương chậm, 1 minuet và 1 chương
nhanh khác), một hình thức chiếm ưu thế trong kỉ nguyên Cổ điển. Nhạc thính
phòng trong thời Cổ điển, như Haydn và đồng hương của ông là Mozart đã phát triển,
cũng đã được phân biệt bằng cách viết tinh tế, tác động phức tạp và gần gũi giữa
4 nhạc cụ. Nhà soạn nhạc Đức Ludwig van Beethoven đã mở rộng tầm cỡ của các tứ
tấu đàn dây trong khi vẫn duy trì đặc tính riêng của nó.
Nhạc thính phòng trong kỉ
nguyên Lãng mạn (khoảng năm 1820 đến khoảng năm 1900) có xu hướng tuân theo các
truyền thống cổ điển. Các nhà soạn nhạc thường sử dụng cấu trúc sonata 4 chương
và tứ tấu đàn dây tiếp tục là một lối kết hợp nhạc cụ được ưa thích. Khi các
nhà soạn nhạc tìm cách thể hiện cảm xúc mãnh liệt trong tác phẩm của mình, các
tác phẩm đề cao piano, chẳng hạn như Trout Quintet (1819) của nhà soạn
nhạc Áo Franz Schubert và Ngũ tấu Piano giọng Pha thứ (1864) của nhà soạn nhạc
Đức Johannes Brahms, trở nên phổ biến. Bởi vì piano sở hữu một phạm vi cường độ
và sắc thái lớn hơn các nhạc cụ thính phòng khác. Những buổi biểu diễn nhạc
thính phòng trước công chúng cũng trở nên phổ biến và các nhà soạn nhạc thường
sáng tác nhạc thính phòng với dự tính để biểu diễn trước công chúng, vì vậy làm
thay đổi chức năng ban đầu của nhạc thính phòng.
Một số xu hướng đã xuất hiện
trong nhạc thính phòng thế kỉ 20. Các thể loại cổ điển như tứ tấu đàn dây được
truyền thêm các cách biểu đạt và kỹ thuật đương đại trong các tác phẩm của các
nhà soạn nhạc Pháp Claude Debussy và Maurice Ravel, nhà soạn nhạc Hungary Béla
Bartók, các nhà soạn nhạc Áo Arnold Schoenberg và Anton Webern, nhà soạn nhạc
Nga Dmitri Shostakovich và nhà soạn nhạc Mỹ Elliott Carter. Hòa tấu thính phòng
rất đa dạng trong sáng tác – thường gồm các giọng hát, đàn harp, guitar và các
nhạc cụ bộ hơi, bộ gõ – trở thành phương tiện chủ yếu cho âm nhạc mới của các
nhà soạn nhạc như Schoenberg, Webern, nhà soạn nhạc Mỹ gốc Nga Igor Stravinsky
và nhà soạn nhạc Pháp Pierre Boulez. Nhạc thính phòng, từng thuộc phạm vi của
những người nghiệp dư và được chơi theo sở thích của họ, đã trở nên ngày càng
phổ biến với các thính giả của phòng hòa nhạc. Nhiều nhóm hòa tấu thính phòng
chuyên nghiệp nở rộ ở Mỹ và nhiều nơi khác.
Ngọc Anh
Dịch từ The
Grove Concise Dictionary of Music
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét