Hùng vừa căng mắt quan sát
con chim xanh trên chót vót ngọn cây, vừa xách súng lom khom bước về phía lùm
cây nhỏ gần đó. Anh chưa bao giờ thấy con chim nào đẹp như vậy. Màu lông nó
biếc xanh màu men ngọc mà anh đã thấy từ một cái bình cổ đời Minh Mạng. Kể ra
bắn chết nó cũng uổng. Nhưng anh cần bổ sung nó vào bộ sưu tập chim nhồi bông
của mình, anh cần phải bắn trúng nó ngay phát đầu tiên. Bởi lẽ, nếu bắn trật,
anh sẽ khó mà tìm được con chim nào lạ như vậy. Hình như hồi còn nhỏ anh đã một
lần nhìn thấy loài chim này thì phải. Đó là một buổi trưa. Không, hơi qúa
trưa một chút. Con chim xanh ở đâu bay về, đậu ngay ngoài cửa sổ. Nó nghiêng
đầu nhìn anh. Tia nhìn của nó có vẻ như thách thức anh đem giàn thun ra bắn.
Mà cũng có thể nó không phải là con chim có màu xanh. Lâu qúa rồi, anh không
dám khẳng định nó là màu gì. Còn hôm nay thì rõ ràng là con chim màu xanh
đang hót vô tư ở trên kia. Chỉ cần nó không nhìn thấy anh, anh sẽ bắn hạ nó một
cách dễ dàng. Xưa nay, anh chưa bao giờ bắn trật một con chim nào dưới khoảng
cách bảy mươi mét.
Đang mãi miết suy nghĩ, bỗng
Hùng giật nảy người vì có ai đó đập mạnh vào vai anh.
- Này, con chim của em đấy!
Không được bắn nó!
A, một nàng tiên. Hùng nhe
răng cười.
- Nó là của cô thật à? Vậy
tôi sẽ trả tiền để mua nó. Tôi còn trong túi mấy ngàn đây.
Cô gái cũng cười. Nụ cười
trắng lấp lóa.
- Mấy ngàn làm sao mua nổi.
Anh cất súng đi mà sống hòa bình với thiên nhiên. Nó sẽ biết ơn anh, ban ơn
cho anh.
Vậy là Hùng quen với cô
gái. Cô tên Trâm, nhà ở gò Mỏ Qụa. Cô mời anh lúc nào rảnh ghé chơi.
Ba hôm sau, Hùng rủ một
người bạn lội đồng vô thăm cô gái. Gò Mỏ Qụa không lớn như anh tưởng. Trên gò
chỉ có ba gia đình sống bằng nghề nuôi cá đìa. Thằng em trai của Trâm đen như
củ súng. Thấy chị giới thiệu Hùng là khách, nó nói tỉnh queo:
- Chị Hai bắc nước sẵn đi,
nhổ sả sẵn đi. Em chạy ù đi xôm con rắn về nhậu chơi. Hồi mơi này đi đổ ống
trúm, em nhìn thấy mấy lỗ mà hổ hành. Đã lắm!
Nó nói như giỡn chơi, vậy
mà không đầy nửa tiếng đồng hồ đã thấy xách đem về con hổ hành to bằng cầm
tay. Còn nhỏ tuổi mà nó nhậu như uống nước. Chừng đã ngà ngà, nó rủ:
- Mấy anh ở chơi tới mơi
đi, tối tui đãi chuột khìa. Món này cũng mức lắm.
Vốn giang hồ lưu linh
phiêu bạt từ nhỏ, Hùng và người bạn đồng ý ở lại. Lai rai tới chiều thì ba má
Trâm về tới. Ông già thấy có khách, mừng ra mặt, biểu vợ đập đầu con cá lóc
nướng trui. Trận nhậu lại kéo dài dài.
Cảm thấy đã chuếnh choáng
hơi men, Hùng đứng dậy, ra sạp nước rửa mặt. Lạ thiệt! Ngay mút trên đọt cây
me keo là con chim xanh. Tia nhìn của nó như thách thức: “Anh dám bắn tôi
không?”. Tự nhiên Hùng tỉnh rượu như chưa từng uống giọt nào. Quay lại, anh
thấy Trâm đang nhìn anh cười cười. Hùng hất đầu chỉ lên ngọn cây.
- Ưà, con chim của em
đó (Trâm nói)! Cứ vài ngày nó lại bay về thăm em.
Đêm đó, Hùng đang ngủ bỗng
giật mình thức giấc. Con chim xanh đậu ngay trên bàn thờ, kế ngọn đèn dầu hôi
đang cháy tù mù. Bóng tối làm lông nó đen xạm lại. Nhưng đúng là nó. Nó đứng
im như đẻo bằng đá, chỉ có đôi mắt là ánh lên vẻ khiêu khích. “Anh đến đây sẽ
không về được đâu! Chừng nào tôi chết tôi mới buông tha cho anh!”. Hùng dụi mắt
mấy cái. Đúng là mình còn thức. Vậy đúng là con chim có thật. Hùng xùy một tiếng
để đuổi nó, nhưng nó không hề tỏ ra sợ sệt. Nó vẫn nghiêng đầu nhìn anh. “Tôi
báo cho anh biết là tôi sẽ không buông tha cho anh chừng nào tôi chưa chết”.
Tự nhiên Hùng thấy gai gai trong cột sống. Mồ hôi rịn ra ướt rượt. Mình cần
phải giết nó. Nhất định phải giết nó. Không phải để bổ sung cho bộ sưu tập
chim nhồi bông, mà chỉ đơn giản là để tiêu diệt. Anh không thể nào chịu đựng
được ánh nhìn xấc xược đó. Kéo gập nòng súng xuống nạp đạn, Hùng nhắm thẳng
vào con chim. Bụp. Con chim té nhào xuống đất. Máu đỏ của nó trào ra như suối.
Nhưng từ giữa vũng máu đầm đìa, con mắt của nó vẫn nhìn anh. “Mày là đồ khốn
nạn!”. Hùng hoảng sợ rên lên thành tiếng.
- Anh Hùng! Anh say qúa phải
không? Có nước chanh nóng nè!
À, té ra là mình nằm mơ.
Hùng tung mền ngồi dậy. Coi đồng hồ thấy đã bốn giờ sáng. Trâm đang nấu cái
gì đó sôi lục bục dưới bếp.
- Tía biểu em nấu cháo cóc
ăn cho tỉnh. Thể nào ổng cũng bắt mấy anh lấy ngót sớm. Tánh ổng ngộ lắm, hễ
có khách là ngồi nhà nhậu miết. Còn không ai tới chơi, một giọt ổng cũng
không rớ tới.
Vừa bửng mặt trời đã thấy
con chim xanh bay về đậu trên cây me keo. Vẫn cái màu men ngọc óng biếc. Vẫn
đôi mắt hằn học. Nhưng sao tiếng hót của nó lại trong trẻo vậy không biết.
Hùng khều anh bạn ra coi. Anh ta bình phẩm:
- Đúng là tớ cũng mới thấy
nó lần đầu. Nhìn sắc lông thì có thể coi nó thuộc loài bói cá. Nhưng nghe nó
hót thì rõ là không phải. Đích thị nó phải là thứ chim qúy hiếm, thứ chim còn
sót lại cuối cùng của thế kỷ. Giá như bẩy được nó thì hay qúa!
Lúc trở về, lội tới giữa đồng,
anh bạn nói với Hùng:
- Nè, thú thiệt đi! Mầy mê
con nhỏ không? Hễ không là tao bập liền xì.
Hùng thấy xốn xốn trong
lòng. Công bằng mà nói thì Trâm đẹp hơn vợ anh nhiều. Trẻ trung, tươi tắn.
Gương mặt ngời óng lên vẻ duyên quê, hồn hậu và cởi mở. Đó là thế mạnh của
cô. Ngược lại, vợ anh lúc nào cũng cảu nhảu càu nhàu anh đủ thứ chuyện trên đời.
Nhất là chuyện anh say sưa sưu tập chim nhồi bông. “bắn giết trong chiến
tranh chưa đã, giờ còn đi bắn chim chóc. Con chim nó hại gì anh?”. Hùng bước
khỏi nhà thì như chim sổ lồng, bước trở vô nhà thì cứ như chui vô địa ngục. Từ
hôm gặp Trâm, lúc nào Hùng cũng thấy tê rần chỗ vai, nơi bàn tay của Trâm đã
đập mạnh.
- Ở đời nó vậy(bạn anh
nói). Bao nhiêu thằng có vợ rồi cũng thấy sai lầm. Thiên hạ còn có biết bao
nhiêu những cô gái dễ thương. Vậy mà có vợ rồi thì bị cấm. Vớ vẩn. Mấy bả đẻ
ra luật hôn nhân là để cột chân tụi mình chứ con mẹ họ gì! Yêu mà xấu à? Yêu
là bản chất thật nhất của con người. Nếu không phải là mầy quen cô ấy trước
thì dứt khoát tao nhào vô. Phải tìm cách đưa cô ấy ra thành. Nhan sắc như vầy
mà để giữa đồng nước thì uổng của trời lắm nghen mậy!
Hai người đón đò về tới phố
thì trời đã tối.
Đêm ấy, Hùng chui xuống bếp
bật đèn làm thơ.
Ta gom hết nắng trời để viết
tên em
Ta đặt dưới chân em trái
tim ta rướm máu
Ta trụi trần như tên lính
không nơi ẩn náu
Bị em bắn gục…
Viết tới đó, Hùng bí,
không còn rặn ra được chữ nào. Anh như nhìn thấy con mắt con chim xanh hiện
lên chòng chọc nhìn anh trong từng chữ. Hùng bực dọc tắt đèn leo lên giường nằm
ngủ. Vợ anh càu nhàu: “Ông chỉ giỏi lục đục cả đêm, không để cho ai ngủ yên
giấc bao giờ. Sớm mơi nhớ kêu tiền cao vào mà hốt hụi. Vàng đang xuống đấy”.
Hùng cố dỗ giấc ngủ bằng mấy
tiếng, “Trâm ơi chim xanh. Chim xanh Trâm ơi”. Cứ như vậy anh nhẩm đi nhẩm lại
mãi. Thốt nhiên anh thấy con chim xanh bay lách vào nhà qua cửa sổ để ngõ. “Ta
đã bảo là anh không bỏ đi được, chừng nào ta chưa chết”. Con chim đứng im như
tượng đá ngay đầu giường anh. Hùng biết là mình đang mơ, nhưng anh lại cố qủa
quyết trong đầu là con chim đang có thật ở trong nhà. Sắc lông màu men ngọc của
nó đen xẩm như bị màu của bóng đêm quét lên. Đôi mắt của nó trừng trừng nhìn
anh một cách ma quái, đầy khiêu khích. Anh xùy to một tiếng đuổi nó, nhưng nó
vẫn đứng im bất động. Hùng nghiến răng bẻ gập nòng súng nạp đạn, nhắm thẳng
vào nó. Bụp. Con chim té nhào xuống đất. Máu đỏ của nó trào ra như suối.
Nhưng từ giữa vũng máu đầm đìa, con mắt của nó vẫn nhìn anh chòng chọc. “Mày
là đồ khốn nạn!”. Hùng hoảng sợ rên lên thành tiếng.
- Nốc cho lắm vào rồi ngủ
không được. Báo hại người ta chịu trận cả đêm mùi bợm nhậu.
Nghe tiếng vợ càu nhàu,
Hùng tức mình ngồi dậy. Coi đồng hồ thấy đã bốn giờ sáng. Dưới bếp tối om om
như nhà mồ.
Sáng ngày, Hùng đạp xe tới
nhà anh bạn rủ uống cà phê. Vừa nhấm nháp từng giọt đắng Hùng vừa kể cho bạn
nghe về hai lần nằm mơ của mình. Bạn anh cười khà khà.
- Tao hiểu rồi. nó là con
chim định mệnh. Cái con chim xanh ấy, nó là con chim định mệnh. Mầy đố thoát
vòng tay con nhỏ. Để rồi coi.
Lần này Hùng lại một mình
xách súng vào đồng. Đáng lẽ phải lùng chim bổ sung cho bộ sưu tập chim nhồi
bông của mình, Hùng lại nhảo thẳng tới gò Mỏ Qụa. Cả nhà đi vắng, chỉ còn mỗi
mình Trâm ở nhà.
- Trâm à! Cái con chim
xanh ấy, nó không về à?
- Nó bỏ đi đâu cả hơn
tháng nay. Chim trời cá nước, làm sao em biết được nó ở đâu.
Hùng rủ Trâm ra bờ bao có
cây sao già mà lần đầu tiên anh đã bắt gặp con chim xanh ở đó. Qủa nhiên có
con chim thật. Bộ lông màu men ngọc của nó óng biếc lên như thoa dầu
bóng.
- Nó đẹp thiệt! Phải không
anh?
- Ừ! Nhưng nó không có hồn.
Nó khác em.
Hùng kể cho Trâm nghe về
hai lần mơ của mình. Trâm cười hồn nhiên.
- Anh Thiệp, ảnh nói đúng
đó. Nó là con chim định mệnh, nó hốt hồn anh rồi.
- Có em hốt hồn thì có.
Hùng nói và nhìn thẳng vào
mắt Trâm. Giây phút đó Hùng chỉ muốn ôm chầm lấy Trâm mà ghì xiết cô vào ngực
mình. Nhưng anh không dám. Anh nói thác qua chuyện khác.
- Mùa cá này chắc nhà em
thu bộn? Dám bao anh đi Vũng Tàu một chuyến không?
- Dám à nghen! Chỉ sợ anh
không dám đi.
Con chim xanh vụt bay đi. Ỉa
rớt một cục phân nửa đen nửa trắng trúng cổ áo Hùng.
Hai người về tới gò Mỏ Qụa
một lúc thì ba má và em trai của Trâm cũng về tới. Thằng em trai Trâm lại sốt
sắng xắn tay áo làm mồi.
- Kỳ này cho anh Hai nhậu
bứt gân luôn. Hồi hổm tía bắt được con trăn bảy ký. Nhậu bá phát nghen!
Trong khi chờ làm thịt con
trăn, ông già Trâm nướng hai con tôm càng xanh to bằng cườm tay con nít, ngồi
rấp riu đợi. Ông nói với Hùng:
- Thằng Thiệp nó kẹt gì mà
không vô chơi? Tánh thằng đó vui vẻ, vô sống trong đồng hạp lắm.
Tiệc rượu có thêm mấy người
ở hai nhà hàng xóm. Người nào cũng thuộc loại mạnh đạn, không biết say là gì.
Họ uống và tào lao thiên địa vui vẻ tới khuya. Và đêm đó, bật ngật trong men
rượu, Hùng lại thấy con chim xanh bay về, đậu im như tượng đá trên bàn thờ.
Và Hùng lại nạp đạn bắn tiêu diệt nó. Hoảng sợ bởi đôi mắt con chim nhìn
chòng chọc từ vũng máu, Hùng giật mình thức giấc. Coi đồng hồ thấy đã bốn giờ.
Trâm đang lúi húi nấu nồi gì sôi lục bục dưới bếp.
- Để em quậy cho anh ly
chanh nóng.
Trâm bưng lên cho Hùng chậu
nước nóng để rửa mặt. Cô nhắc anh, nếu nước qúa nóng thì vắt bớt nước trong
khăn đi mà lau cho tỉnh rượu.
Sáng ngày, nhìn lên cây me
keo lại thấy con chim xanh bay về, đậu chót vót trên đó. Hùng gọi Trâm ra
coi. Trâm nói:
- Thấy chưa! Nó đúng là
con chim định mệnh của anh đó nghe!
Hai tháng sau, Hùng lại rủ
Thiệp vô đồng. Bấy giờ đang giữa mùa khô. Đêm đêm, lửa đốt đồng cháy rưng rức.
Không gian thơm sực mùi mật cỏ ngòn ngọt. Thằng em Trâm rủ hai người đi thổi
gà nước với nó.
Đồng rộng mênh mông. Gió
đông nam thổi rao rao, mát lạnh. Tiếng tu huýt kiên nhẩn thổi vào đêm từng tiếng
túc túc buồn não nuột. Từng con gà nước tức tiếng kêu sà xuống, bị dính chân
trong lưới, đành chịu phép cho tay người thộp lấy.
Quá nữa đêm, thằng em Trâm
không biết nghĩ sao, vuột miệng:
- Chị Hai tui ca mùi lắm.
Phải chỉ ở ngoài thành, nhắm chừng dám thành ca sĩ lắm nhen!
Nghe nó nói, Hùng thấy nôn
nao trong lòng. Giá Trâm chịu ra thành kiếm việc gì đó làm thì hay biết mấy.
Anh gối đầu lên bờ đìa ngắm trời sao lồng lộng. Thốt nhiên một ngôi sao đang
nhấp nháy đột ngột biến thành con mắt con chim xanh. “Mày là thằng khốn nạn!”.
Giáp Tết, vợ Hùng sanh
thai bọc phải nằm viện cấp cứu. Mẹ anh từ dưới quê lên săn sóc cho con dâu.
Hùng ở nhà một mình với cái máy đánh chữ, loay hoay chỉnh sửa tập bản thảo viết
về các loài chim ở đồng bằng châu thổ. Đúng lúc đó thì Trâm xuất hiện. Cô đi sắm
đồ tết cho cả nhà. Hùng không thể không mời Trâm nghỉ lại ở nhà mình. Nhưng mời
cô ở lại thì biết ăn nói thế nào với thiên hạ. “Sa chân bước xuống ruộng dưa,
dẫu ngay cho lắn cũng ngờ rằng gian”. Miệng thế sẽ bàn tán về anh thế nào. Nhất
là khu tập thể của cơ quan, vốn từ lâu đã có truyền thống dòm dỏ cuộc sống của
nhau, dèm pha lẫn nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Thấy khó xử, sau bửa
cơm chiều, anh lấy xe chở Trâm tới nhà Thiệp. Định bụng sẽ để Trâm nghỉ lại ở
đấy. Nhưng khi tới nơi mới biết cả nhà Thiệp vừa về thăm quê hồi chiều. Không
còn cách nào khác, Hùng đành phải đưa Trâm về lại nhà mình.
Đó là một đêm cực kỳ khủng
hoảng. Con chim xanh đã lẻn vào nhà từ lúc nào. Nó đậu ngay trên nóc chiếc tủ
ly, đôi mắt nhìn xoáy thẳng vào Hùng. Hùng lôi chai dầu gió xanh Trung Quốc
thoa lên thái dương, thoa lên trán, lên cổ. Hơi dầu cay xé khiến Hùng trào nước
mắt. Nhưng con chim xanh vẫn cứ hiện lên nhìn anh chòng chọc một cách đầy ngạo
mạn và khiêu khích. Nó thiêu đốt anh tới từng giọt máu, từng đường gân thớ thịt.
Trâm hỏi anh:
- Anh làm như trúng gió phải
không? Coi mặt sao tái mét như trúng gió vậy.
Hùng không trả lời mà hỏi
lại:
- Con chim xanh của em còn
về nữa thôi?
- Nó chết rồi. Chết hồi
sáng hôm qua. Không biết bị ai bắn gãy cánh, bay về tới nhà em thì kiệt
sức, rớt ngay trước cửa. Mà anh để em cạo gió cho. Chắc hồi chiều anh uống rượu
bị lặm gió chớ gì.
Ngoan như đứa em vâng lời
chị, Hùng ngồi xuống chiếc ghế tựa, day lưng lại cho Trâm cạo gió.
- Chèng ơi, gió qúa trời!
Tấm thẻ bài chạy nóng rực
như vuốt con chim xanh cào trên da thịt. Hùng ngó lên nóc tủ. Con chim xanh vẫn
còn đó. Im lặng và hằn học. Cái màu men ngọc ấy anh không thể nào quên được.
Hùng đã lôi cây nạng giàn thun nhắm thẳng vào con chim. Hòn đạn nắn tròn bằng
đất sét lao vào con chim với tất cả sự háo hức chiến thắng của tuổi thơ. Con
chim té nhào xuống đất, nhưng khi Hùng chạy tới thì nó gượng dậy, lảo đảo bay
đi mất hút. Bây giờ thì Hùng đoan chắc con chim thuở ấy cũng có màu men ngọc
xanh như chiếc bình cổ thời Minh Mạng. Đó là màu của vua chúa khi hoan lạc.
Chưa hẳn. Đó là màu của trẻ con tinh khiết chất ngây thơ. Hay là
màu của thiếu nữ trinh nguyên? Hay là?.. Hùng vòng một tay ra phía sau, nắm
bàn tay Trâm.
- Em cạo nhẹ thôi. Rát
quá!
Chiếc thẻ bài chạy nhẹ
hơn. Nó không còn rát bỏng như vuốt con chim xanh cào trên da thịt nữa. Nó
như hơi ấm nhẹ phả xuống. Ấm nóng và đê mê. Con chim xanh không còn trên nóc
tủ nữa. Có lẽ nó đã bỏ đi biệt tích từ lúc nào. Hùng nói như thở ra từng tiếng:
- Thôi, được rồi Trâm à! Để
anh còn xếp chỗ cho em ngủ. Mà này! Anh Thiệp xin được việc cho em, em có chịu
ra ngoài này không?
Trâm kéo ghế ngồi xuống
bên kia bàn, suy nghĩ một lúc mới trả lời:
- Em không làm được việc
Nhà nước đâu. Rối lắm. Với lại, cái số em là sống ở trong đồng.
- Vậy mà thằng Út nó biết
chắc em sẽ thành ca sĩ nếu em chịu ra thành đấy.
Trâm cười hồn nhiên. Nụ cười
trắng lấp lóa.
- Là nó tưởng vậy thôi, em
mà hát hỏng cái gì. Cũng như con chim xanh ấy, nghe nó hót mắc chán.
Nghe Trâm so sánh, Hùng bật
cười thành tiếng. Anh vừa cười vừa đứng dậy, vào buồng mở tủ lấy bộ đồ ngủ của
vợ đưa cho Trâm.
- Em vào buồng tắm, tắm
cho mát rồi thay đỡ bộ đồ của chị. Cứ tự nhiên như ở nhà vậy. Phải anh Thiệp
không về quê, chắc ảnh mừng lắm.
Lúc Trâm đang dội nước ào
ào trong buồng tắm, nhìn lên nóc tủ, Hùng lại thấy con chim xanh đã đứng đó tự
hồi nào. “Mày biết là tao chết rồi chứ gì! Nhưng đừng hòng tao trở
thành đồ sưu tập của mày!”. Đôi mắt nó nhìn xoáy hút vào Hùng với tất cả mức
độ yêu quái mà Hùng có thể tưởng tượng ra được. Anh căm thù nó tới mức chỉ muốn
chạy ngay vào buồng lôi cây súng ra nạp đạn, bắn tiêu diệt nó ngay tức khắc.
Đúng lúc đó thì Trâm tươi cười bước ra.
- Bận đồ ngủ của chị, em
thấy ngộ qúa trời. Rộng rinh hà anh Hai.
Trái lại, Hùng thấy Trâm
mơn mỡn như trái xoài thanh ca, chỉ muốn vập vào cắn ngay một miếng cho đã
thèm. Dưới ánh đèn nê ông, gương mặt Trâm sáng lên ngời ngợi.
Để dồn nén cảm xúc của
mình, Hùng nói:
- Chắc là anh phải lai rai
thêm chút đỉnh cho dễ ngủ. Trâm cứ vô buồng ngủ trước đi. Anh quen thức về
đêm như con cò con vạc.
Hùng lôi trong tủ ra chai
Brandy và mấy con khô mực. Anh chế cồn ra dĩa, bật lửa đốt, rồi trở nướng từng
con một.
Anh hỏi Trâm:
- Em nhấp chút xíu cho vui
nghen!
Không ngờ Trâm lại uống được.
Có hơi rượu, gương mặt Trâm trở nên hồng hào, lừng lựng sáng. Hàm răng lấp
lóa. Đôi mắt lấp lánh. Làn tóc óng ả như bừng cháy từng sợi lấp lay. Hùng chỉ
muốn cô cứ như vậy mà thức với anh cho tới sáng. Anh thèm khát. Anh sợ cô
đơn. Bởi vì anh đang trống vắng. Anh đã từng trống vắng bên người vợ hay cảu
nhảu càu nhàu. Bởi vì anh biết chắc, nếu cô đi ngủ, thể
nào con chim xanh định mệnh cũng trở lại ám ảnh anh, hằn học chửi bới anh.
Còn như Trâm vẫn ngồi với anh, anh sẽ có cô để chiêm ngưỡng, để trò chuyện. Sự
hồn nhiên trong trắng của cô sẽ xua tan những khát vọng cháy bỏng trong anh.
Nhưng càng uống anh càng
thấy Trâm đẹp ngời ngợi, càng bị thiêu đốt bởi khát vọng bỏng cháy. Ngọn lửa
đàn ông cuồn cuộn dâng lên, ập xuống; dày vò anh, đốt cháy anh. Nó xúi anh
nói thành lời:
- Trâm à, chưa bao giờ anh
thấy em đẹp như hôm nay.
- Chắc mặt em đỏ lắm chứ
gì? Thôi, em hổng uống nữa à nghen!
- Không, không phải vậy!
Rượu đánh thức vẻ đẹp trong em thức dậy. Để rồi anh làm mai cho em thằng bạn
cùng cơ quan.
Nâng ly rượu lên, bất giác
Hùng nhìn thấy con mắt con chim xanh trong đó. “Mày là thằng khốn nạn!”. Hùng
tự dưng thấy chờn chợn, không dám uống. Người anh rịn mồ hôi ướt rượt. Có
đúng mình là thằng khốn nạn không nhỉ. Mình đã nói với Trâm câu gì rồi. Có
đúng là mình muốn làm mai cho Trâm thằng bạn cùng cơ quan thật không? Cơ quan
anh còn anh quái nào độc thân đâu cơ chứ. Như thằng Thiệp, vợ con dình huỳnh
rồi mà còn nói: “Mầy không nhào vô là tao bập liền xì, cổ đẹp như bông súng.
Chẳng lẽ yêu một bông hoa đẹp là xấu sao”. “Mày là thằng khốn nạn!”. Con mắt
con chim xanh lại trừng lên nhìn anh. “Mày là thằng khốn nạn!”. Vợ anh giờ
này không biết có khá hơn không? Anh đã làm gì để chị để chị phải sanh thai bọc,
phải băng huyết? Hay là tại anh suốt ngày xách súng lùng sục tiêu diệt những
con chim tự do của thiên nhiên. Hay là tại anh dồn hết công vệc kiếm tiền lên
đôi vai người vợ hay cảu nhảu càu nhàu về muôn sự đời lo toan ngập mặt? Hồi
chiều đưa Trâm vô viện thăm vợ, chị vẫn còn thiêm thiếp trên giường bệnh.
Bấy giờ Hùng nghe mẹ nói với
Trâm:
- Nó còn ra nhiều máu qúa!
Vậy mà giờ này anh có thể
ngồi uống rượu cùng Trâm với nỗi thèm khát cồn cào bỏng cháy sao. Nhưng mà qủa
thật là Trâm vẫn lung liêng ngời ngợi trước mặt anh. Càng lúc anh càng thấy vẻ
đẹp ở Trâm thức dậy lồ lộ. Dưới làn áo mỏng ấy, bờ vai Trâm tròn lẳn, lồng ngực
Trâm vồng căng. Đôi môi chín mọng. Đôi mắt lấp lay. Nụ cười trắng lấp lóa.
Chao ôi! Trâm đúng là trái xoài thanh ca! ngọt lịm và thơm tho làm sao! Hùng
nhắm mắt uống ực hết ly rượu. Anh tưởng như con mắt của con chim xanh mắc nghẹn
lại trong cuống họng. Lành lạnh. Rờn rợn. Hùng lại rót ly nữa. Trâm phải nắm
tay anh kéo lại.
- Anh uống từ từ thôi. Để
em quậy cho anh ly chanh nóng nghen!
Trâm vừa rời khỏi bàn thì
con chim xanh đã nhảy ngay từ trên nóc tủ xuống. Lần này nó mổ lia lịa vào đầu
vào mắt Hùng, khiến Hùng choáng váng, phải ngồi gục xuống mặt bàn. Tai anh
văng vẳng tiếng con chim rít lên. “Mày là thằng khốn nạn!”. Nhưng
Hùng vẫn cảm nhận được sự chăm sóc của Trâm. Cô lau mặt cho anh bằng chiếc
khăn bông nóng ấm, cô dìu anh lên giường và buông mùng cho anh. Thôi, vậy
cũng được. Mình cứ say lịm đi mà lại hay. Nhưng con chim xanh vẫn không cho
anh ngủ. Nó đậu ngay vào trong đầu anh. Từ trong đó, nó trừng mắt nhìn tim
gan anh, rỉa từng thớ tim gan anh. Anh lôi phắt cây súng ra, bẻ gập nòng nạp
đạn. Anh nhắm thẳng vào nó bóp cò. Ở khoảng cách dưới bảy mươi mét anh chưa hề
bắn trượt bao giờ. Cái thằng lính lú đầu lên khỏi bờ công sự năm ấy, sao mà
nó trẻ qúa. Vậy mà Hùng đã bắn thẳng vào trán nó. Trời ơi, sao mà nó trẻ vậy
không biết! Từng viên, từng viên. Hết viên chì này đến viên chì khác,
Hùng tức giận nhả đạn vào con chim. Nhưng mà con chim không chết. À. Phải rồi,
nó đã chết từ sáng hôm qua cơ mà. Trâm chẳng đã nói với anh như vậy là gì. À,
mà Trâm đã đi ngủ hay vẫn còn thức. Mới lúc nãy Trâm vẫn còn ngồi đối diện với
anh. Ngọt lịm và thơm tho như trái xoài thanh ca. Mình không nhào vô là thằng
thiệp nó bập liền tức khắc. Ai chứ thằng đó thì nó không tha đâu. Đã mấy lần
đi bia ôm với nó, có bao giờ Hùng thấy nó tha cô nào đâu. Vậy mà nó đã có đủ
mặt hai đứa con với vợ. Còn mình, ai đời vợ lại sanh thai bọc. Nhưng mà
qủa tình là Trâm đẹp thật sự. Ngọt lịm và thơm tho như trái xoài thanh ca.
Hình như Trâm đã ngủ say trong buồng thì phải. Ngọt lịm và thơm tho như trái
xoài thanh ca. Hùng khạc mạnh, ráng nhổ con chim xanh ra khỏi đầu. Con chim định
mệnh vẫn còn ở trong đó. Nó đang rỉa từng thớ tim gan anh. Chỉ có Trâm mới đuổi
được nó đi mà thôi. Hùng nhoài người ngồi dậy, rón rén đi chân đất vào buồng.
Thiên thần của anh đang ngủ. Từng đường cong mềm mại hiện lên sáng rực. Ngọt
lịm và thơm tho như trái xoài thanh ca. Nàng có phải là trái cấm đâu. Mình
không nhào vào thì thằng Thiệp nó bập mất. Hùng nhắm nghiền mắt, ráng khạc mạnh
lần nữa để nhổ con chim ra khỏi đầu. Con chim văng long lóc vào tận góc buồng.
Hai cánh nó xõa xượi. Màu men ngọc xanh biếc như cháy lên ở góc buồng. Vậy là
nó hết kiếp, nó không còn ám ảnh mình được nữa. Chỉ Trâm là còn lại. Nàng
đang ngủ. Ngọt lịm và thơm tho như trái xoài thanh ca. Hùng vừa vén mùng
định chun vào thì có tiếng kẹt cửa. Vợ anh ôm túi vải đựng cái thai bọc trở về.
Chị gầy đét và xanh xao. Nhìn anh một cách tức tối, chị càu nhàu: “Tại anh cả.
Tại anh mà tôi phải tội thế này đây!”. Nói xong, chị xổ túi vải đựng cái thai
bọc lăn long lóc giữa nền nhà. Cái thai bọc lăn ngay tới chân anh. Rồi tự
nhiên nó phình ra một cách gớm ghiếc. Hùng hoảng sợ định hét lên, nhưng anh kịp
trấn tỉnh. Không! Chẳng qua là mình mơ thấy vợ mà thôi. Tại mình sợ mình mới
mơ thấy vợ. Anh căng mắt nhìn ra cửa. Rõ ràng là cửa vẫn còn khép kín. Anh
nhìn xuống góc buồng. Rõ ràng là con chim xanh vẫn nằm chết xõa xượi ở đó.
Còn Trâm, Trâm vẫn ngời ngợi những đường cong mềm mại. Nàng quay lưng lại
phía anh, tấm lưng thon thả óng muốt; nhưng anh vẫn cảm nhận được gương mặt hồng
tươi men rượu của nàng.
Như một tên trộm trứng,
Hùng leo phắt lên giường, lùng sục hai bàn tay trộm cắp khắp mọi chỗ trên tấm
thân mềm mại và nóng ấm của nàng. Đúng lúc sục vào chỗ ấy thì nàng giáng cho
anh một bạt tai đau điếng. “Mày là thằng khốn nạn!”. Tiếng con chim xanh rít
lên.
- Anh Hai! Uống miếng
chanh nóng cho tỉnh nè anh Hai!
Mở mắt ra, Hùng thấy
Trâm đang cúi xuống lay vai anh.
- Anh mớ thấy gì mà quờ quạng
chân tay qúa trời.
Hùng phải lắc đầu mấy cái
mới tỉnh ngủ. Đầu anh nhức như búa bổ. Từ từ ngồi dậy, đỡ ly nước trên tay
Trâm, Hùng bịa chuyện:
- Anh mơ thấy mình bắn chết
con chim.
Coi đồng hồ thấy đã bốn giờ.
Lạ thật, bao giờ gần bên Trâm anh cũng thức đúng vào lúc bốn giờ. Giờ này
ngoài phố tiếng xe lam đã rộ lên phành phạch.
Không dám nhìn Trâm, Hùng
đi thẳng xuống bếp rửa mặt. Anh cảm thấy hình như Trâm đang nhìn theo với đôi
mắt của người bắt gặp qủa tang đứa ăn cắp trứng gà. Chân tay anh trở nên lúng
túng, ngượng nghịu, cứ như thừa ra, không biết dùng để làm gì.
Khi đứng trước la va bô,
soi vào tấm kiếng, Hùng giật mình nhìn thấy trên nắp túi áo có vướng một sợi
tóc đen dài. Không biết lúc say rượu mình có chui vào buồng không nhỉ? Anh vừa
thầm nguyền rủa mình vừa kéo sợi tóc ra nhét nhanh vào túi áo. Mặc kệ, dù sao
nó cũng là một phần của Trâm. Còn con chim xanh định mệnh, chẳng qua nó chỉ
là trò đùa của tạo hóa.
Nhưng mà nó đã chết rồi.
Chết thật rồi!
Một khoảng không cuộc đời
(Tặng thầy Hoàng Dân CĐSP
Hà Nội và bè bạn)
1.
Đêm mưa gió ấy, hình như Hồ
Đại Lải không ngủ thì phải. Tiếng sóng cứ cồn cào- cồn cào. Tiếng rừng cứ nấc
lên- nấc lên. Day dứt và thao thiết. Sấm rền rỉ ở bên kia đồi. Mưa rỉ rắc. Những
cây thông lá nhọn sũng ướt, mềm lả ra. Mặt đất cũng mềm. Mềm như thịt da người
đàn bà sau cơn hoan lạc, được vùi trong chăn ấm.
Thầy Tuấn nói:
- Tớ 59 tuổi. Chinh chiến ở
Trường Sơn và Nam Lào mấy năm. Trong người ba vết sẹo, dạ dày cắt bỏ một nửa.
Nhìn còn được không?
Tôi nhớ bài “Thị trường”
trong tập thơ “Khoảng không” của thầy. Điệp khúc “những cô bé khỏa thân” cứ
chờn vờn trước mắt. Tất cả là bốn lần. Bốn lần khỏa thân nhảy múa. “Ngây dại”.
“Vật vờ”. “Hoang sơ”. “Quay quắt”. Bốn lần khỏa thân như loài vật. “Uốn éo”.
“Oằn mình”. “Quay cuồng”. “Tơi tả”. Tôi không hiểu được nền “văn minh” mại
dâm của Thái. Tôi chỉ biết, trời vẫn mưa, vẫn gió. Đêm đen đặc. Cắt cứa đến tận
cùng thổn thức.
- Tớ vẫn đọc thơ mình ngay
trong giờ dạy. Tại sao không? Tớ làm thơ đã mấy chục năm. Tớ vác cả chiến trường
vào thơ, vác cả đời tớ vào thơ. Thơ tớ thật lắm, tại sao không đọc! “Thời
gian không màu, nỗi nhớ cũng không màu; nhưng chiếc lá thì cứ xanh rời rợi”.
Chẳng biết thơ tớ cỡ nào, nhưng sinh viên của tớ thì thích lắm!
Đêm vẫn mưa. Vẫn mưa. Rừng
cây càng ướt sũng ra. Mặt đất càng mềm nhão ra. Sóng hồ Đại Lải càng cồn cào
thao thiết.
- Cô bé ấy cứ nhất thiết
vòi tớ đi cà phê. Cà phê ở một quán cà phê mà chính tớ cũng không ngờ. Nó
hoang sơ đến cháy bùng cảm xúc. “Ai biết chăng thật giả buồn vui, chỉ tình
yêu là muôn đời vụng dại”. Đúng vào lúc cô bé ấy nghiêng sang ôm choàng lấy tớ,
chợt cất lên tiếng nói nhẹ như hơi sương: “Anh chị dùng gì ạ?”. Trước mặt tớ
là một cô bé, non nõn những phần da thịt lộ ra trong ánh sáng mơ mờ, huyễn hoặc
và hư ảo. “Ôi! Em chào thầy! Thầy dùng gì ạ?”. Mặt đất dưới chân tớ như tụt
xuống- tụt xuống. Vòng tay của cô bé như nhão ra nỗi bẻ bàng. Cả hai đều là
sinh viên của tớ, cùng đang học một lớp với nhau. Năm ấy tớ đã 54. Từng trải
và đầy kinh nghiệm sống.
2.
Mùa đông bên bờ sông Công
thon thót gọi mời một vòng tay xiết. Tôi với cô bé của tôi ngồi trong góc khuất
trần thế. Cả hai lạc giữa thời gian vô cùng vô tận. Màn đêm phủ xuống tấm
khăn voan của mộng mơ và khát vọng. Sông Công ơ hờ, chập chờn, vô cảm. Bầu
tinh vân lạnh lẻo như sắp rơi òa xuống.
Năm ấy tôi cũng 54 tuổi. Độc
thân với cây đàn ghi ta, trong một ngôi nhà thèo lảnh dưới chân ngọn đồi bát
úp. Người đàn bà của tôi đã phiêu dạt nơi nào. Đứa con gái bé bỏng của tôi
cũng phiêu dạt nơi nào. Họ bỏ tôi ra đi đã mười năm. Mười năm của trống vắng.
Mười năm của đớn đau vật vả. Tất cả là vì tôi. Vì cây đàn của tôi. Vì những
giờ lên lớp bằng thơ và nhạc của tôi. Ngoài tất cả những thứ đó, tôi không biết
làm gì. Oái oăm thế. Người đàn bà của tôi đã đến với tôi vì tất cả những thứ
đó, rồi giũ áo bỏ đi cũng vì tất cả những thứ đó. Nàng đã quá thừa mứa những cung
bậc của vòng tay xiết. Nàng đã quá thừa mứa những giai điệu thăng trầm của
đói khổ. Ngọt ngào hát ư? Hát thì vạt đâu ra đồ đạc trong nhà. Ngọt ngào ru
ư? Ru thì làm gì ra tiền ra gạo. “Con cò gánh gạo bờ sông”. Dưới chân ruộng
trước nhà tôi có con cò mồ côi. Chẳng biết trống mái, cái đực ra sao; chỉ biết
nó đơn côi như một dấu chấm, trắng toát nỗi đau đời. Càng đau hơn khi nó ủ rủ
gục đầu trong mưa rào tháng hạ. Ngày qua ngày, tháng cũng theo nhau, đi ngang
qua sự trống vắng lạnh lùng của con cò đơn độc ấy. Tôi với nó hợp thành hai dấu
chấm song song. Tôi là dấu chấm ở trên. Nó là dấu chấm ở dưới. Chúng tôi mở
ra những dòng chảy của ngôn từ và giai điệu. “Ta ở trong nhau suốt cuộc đời
chẳng biết, nụ hôn nồng nàn rướm máu buồn vui”.
Thế rồi con cò ấy lạc đi
đâu, hay mất đi đâu. Hay đã rục xương bởi một viên đạn chì bắn vào đơn độc.
Nó bỏ lại mình tôi với nỗi đau giằng xé. “Phải chi tình yêu có thể sống thay
cuộc đời, đánh đổi niềm vui cho nỗi buồn dằng dặc”. Người đàn bà của tôi đã
không chịu nổi tiếng đàn của tôi. Tiếng đànThạch Sanh giành lại nàng công
chúa hóa câm vì thằng Lý Thông đểu giả. Tiếng đàn của tôi thì xua đi một tình
yêu đói cơm, thiếu áo. Còn con cò ấy! Vì sao nó đơn côi!? Vì sao!? Vì sao!?..
Nhưng giờ thì rõ ràng nó không còn nữa, không còn hợp với tôi thành hai dấu
chấm song song, mở vào đời nỗi niềm đơn độc. Chỉ còn cô bé với tôi bên bờ
sông Công, trong góc khuất, trong cuộc chơi trốn tìm mà không ai trốn được.
Chúng tôi sẽ thuộc về nhau đến tận cùng máu thịt, nếu như tôi không vụt nhớ ra
gương mặt xanh lướt của người đàn bà của tôi, trong cơn oằn mình đớn đau vượt
cạn.
Bấy giớ là hai giờ sáng.
Trời đất Bắc Giang chìm
trong mưa xối xả. Tôi trùm vợ tôi bằng tấm ni lông của lính. Nàng ngồi sau
gác ba ga, người mềm oặt ra vì những cơn đau hành hạ. Tôi đầu trần, chân dép
lốp, gò lưng đẩy chiếc xe phượng hoàng giữa mưa tuôn chớp giật. Mưa Bắc Giang
như nghiêng trời trút nước. Những lưỡi tầm sét bủa thẳng từ trời cao xuống gò
đồi. Sấm gầm như bom pháo trận chống càn ở phía đông thành Cổ. Cứ sau mỗi lần
bom pháo điên cuồng bão táp, thủy quân lục chiến từ biển lại trào lên, quạt đại
liên và AR15 ràn rạt. Tiểu đoàn tôi đã kiệt cùng sức lực, đạn dược và vũ khí.
Lê tuốt trần dưới chiến hào, chúng tôi vẫn kiên cường bám trụ. Từng người. Từng
người. Cứ từng người thay nhau ngã xuống. Thủy quân lục chiến vẫn trào lên.
Chúng tôi vẫn trụ lại. Cho đến lúc được phép mở đường máu thoát ra. Cả đời
tôi, không bao giờ tôi quên được, trận bom pháo như sấm rền chớp giật ở phía
đông thành Cổ. Còn bây giờ. Sấm sét cứ lồng lên, xé toạc màn đêm thành trăm
ngàn mảnh vụn. Vợ tôi đã không thể chịu đựng được hơn vì quặn đau và sợ hãi.
Đúng lúc ấy thì thòi ra cái chòi tre quán nước bên đường. Tôi đã từng uống
chè, ăn kẹo dồi chó, hút thuốc Nhị Thanh ở đây. Tôi đã từng hầu chuyện bà cụ
tám mươi có hai người con chết trận ở phố Lu thời chín năm chống Pháp. Bà cụ
mỗi ngày vẫn từ làng ra bán nước chè xanh trong cái quán tùm hụp bên đường
này. Họa vô đơn chí ư! Phúc bất trùng lai ư! Chỉ cái quán của cụ bà, xiêu vẹo
trong gió mưa là có thật.
Vợ tôi nằm trên tấm ni
lông của lính. Thân hình nàng co giật. Bụng cồn lên từng cơn cuồn cuộn. Nước ối
túa ra thành vũng. Sền sệt. Nhừa nhựa. Rồi thì máu. Chao ôi, biết bao nhiêu
là máu. Mắt tôi mờ đi. Lòa đi. Đầu tôi căng nhức. Tôi đã từng chứng kiến biết
bao nhiêu là máu, phún ra từ thân thể bạn bè, nhưng đây là máu của người sẽ
sanh hạ cho tôi, một phần những giọt máu của tôi. Đổ hết máu ra ngoài trái
tim thì làm sao mà sống! Lồng ngực tôi thình thình như đang nện trống. Ong
ong niềm kinh hãi.
Mưa vẫn tuôn.
Gió vẫn giật.
Sét vẫn bổ.
Sấm vẫn gầm.
Trong cuồng loạn của đất
trời đen đặc, tôi đã móc được công chúa của tôi ra, từ máu và nước vàng sền sệt.
Nó nhẽo nhợt, nhăn nhúm, vấy đầy máu và nước ối. Hoảng loạn đến cùng cực,
nhưng tôi vẫn nhớ ra thiên chức đàn ông của “thằng chồng” có học. Nằm xoài xuống
đất, tôi dùng hàm răng của mình cắn rốn cho con. Tôi lột tấm áo lính của
mình, quấn lấy đứa con hon hỏn. Vợ tôi lả ra trên máu của mình và nước của trời
rưới xuống. Nàng sẽ chết mất. Chết mất. Nếu cơn mưa của trời không đột ngột
chấm hết, như một dấu chấm than dập tắt đi tất cả. Nếu bình minh không vụt hiện
như một dấu chấm than thúc gọi mặt trời.
Nâng đứa con trên đôi tay
lính của mình, tôi vùng chạy ra ngoài, hướng nó về phía chân trời đang ửng đỏ,
gào lên: Con ơi! Con là Ánh Dương! Hồ Ánh Dương!
Bỗng hực một cái, mặt trời
bật dậy từ dưới một quầng mây nào đó. Xoay người lại túp lều, tôi thấy rỡ
ràng chiếc cầu vồng cong vun vút. Một cánh cò lẻ loi từ đó bay chếch về
phương Nam.
Kể tất cả điều đó cho thầy
Tuấn nghe trong đêm mưa bên hồ Đại Lải, nhưng tôi không dám chắc rằng, ông bạn
giáo từng đi lính, từng viết văn của tôi, sẽ tin tất cả. Cánh văn chương vẫn
bịa ra những chuyện lãng mạn nhất, khủng khiếp nhất. Cánh phê bình gọi đó là
bịa nghệ thuật. Cánh giáo viên thì phẩy tay, thật hay bịa gì cũng là hình tượng
trong văn học, cứ phải có trong giáo trình hướng dẫn giảng dạy mới dạy được.
Riêng với tôi, đó là nỗi đau và tình yêu có thật. “Có một ngày ngỡ như trời đẹp
hơn, dù gió mưa có dập vùi tơi tả, dù ngày ấy ta đã từng gục ngã, trong cơn
mê mang bảy sắc cầu vồng”.
Tình yêu của tôi đốn gục
tôi có thể từ ngày ấy.
Và… nếu điều ấy không có
thật, làm sao tôi có thể trốn chạy khỏi vòng tay của cô bé đang run lên thổn
thức. Cô bé ấy còn trẻ lắm. Cô là sinh viên của tôi. Vầng trăng mùa đông của
tôi. Nỗi đau thắt của tôi, “… đã thành hoài niệm, nguyên sơ như khát vọng thuở
ban đầu”.
3.
Tôi đọc to lên “Khoảng
không” của thầy Tuấn.
Nước mắt người anh hùng
Nghẹn lại rưng rưng
Ở trang cuối cùng
Giữa những năm đớn đau và
cao cả
Tại nhà sáng tác Vũng Tàu,
tôi gặp người bạn giáo viết văn từ Sài Gòn xuống. Cô ta phì nhiêu, màu mỡ đến
mát rượi thịt da của người còn sung sức. Cô rủ tôi xuống biển tắm đêm. Sóng cồn
lên. Biển vồng lên. Ngực biển căng phồng thổn thức. Hai chúng tôi và biển
sóng. Chúng tôi vùi mình trong biển mặn. vầng trăng mỏng như lá thép, uốn nhẹ
dáng thuyền tình mỏng mảnh, bồng bềnh trôi trên cánh đồng mây nhẹ hẩng. Im lặng
như trời mà rùng rùng như sóng. Sóng biển va đập, khiến da thịt chúng tôi lúc
lúc lại chạm vào nhau. Sóng dội từ trong lòng, khiến tôi nhớ về người đàn bà
đã bỏ tôi ra đi cùng đứa con bé bỏng. Hai thứ sóng ấy hành hạ tôi đến tận
cùng nỗi đau nhân thế
Chúng tôi trở về tiền sảnh
phòng lễ tân khi trăng non đã lặn. Ở đó, người bạn giáo viết văn, nắm lấy tay
tôi và nói: “Tôi gặp Thủy ở Gò Vấp. Cô ấy mở quán cà phê. Vẫn mỏng mảnh như
cây thủy liễu của anh ngày nào. Ánh Dương đang là sinh viên năm thứ hai ngành
kiến trúc. Nó đẹp lắm. Nhưng nói thật nhé!.. Nhìn hai mẹ con côi cút, cứ ứa cả
nước mắt vào lòng. Số cầm tay của Thủy đây!”.
091… Những con số vô hồn
dày vò tôi đã bao năm nay. Theo lối ký âm số của người Hoa, tôi từng hằng đêm
bấm rung lên thành giai điệu cút côi của đứa con bé bỏng. Những con số ấy, mỗi
ngày mỗi mưa xuống đời tôi từng giọt đắng. Một là Đô. Hai là Rê. Ba là Mi. Bốn
là Fa. Năm là Sol… Con ơi!.. Ánh Dương của cha mọc từ cái quán tre của bà cụ
tám mươi đơn chiếc. Ngày bà cụ qua đời, cha ẳm con đưa tiễn. Con học cha thả
vào huyệt mộ nắm đất. Nắm đất nhỏ nhoi của con, cùng với đất đá Phổ Yên, đã
phún trên mộ cụ bà những bông cỏ may, may vào tâm thức của cha, giai điệu của
chia ly đầm đẫm nỗi buồn nhân thế.
Trong từng tiết dạy, tôi vẫn
thường bấm rung lên giai điệu 091… và hát lên rười rượi:
Lẫn trong thời gian chia
ly, gặp gỡ
Nước mắt rơi vào giữa tiếng
cười
Ai biết chăng thật giả buồn
vui
Chỉ tình yêu là muôn đời vụng
dại
Cô bé ấy, cô bé ngồi trong
cùng của dãy bàn cuối cùng ấy. Dường như cô đã khóc rất nhiều, rất nhiều, mỗi
khi nghe giai điệu ấy. Thẳm sâu đến hun hút một nỗi buồn xẻ chia, tâm cảm. Đã
một đôi lần tôi bắt gặp những ngón tay thon thả của cô, chạy rã rời trên bàn
phím, giai điệu 091… của tôi. Thế rồi một hôm tôi đã nghe cô hát: “Ai bết
chăng thật giả buồn vui, chỉ tình yêu là muôn đời vụng dại”. Để chạy trốn sự
yếu đuối của mình, tôi đưa cô bé ra sông Công, nơi con sông sắp òa đổ vào hồ
núi Cốc, dệt nên huyền thoại chàng Cốc nàng Công.
Khi vòng tay đã lịm chín,
khi ngọn lửa linh thiêng sắp không cầm lại được, tôi bàng hoàng nhớ lại đêm
mưa gió điên cuồng chớp giật. Giai điệu đã giết tôi bằng “khoảng không” đầy
ngờ vực, của bờ vực tâm linh một người thầy, một người đàn ông trống vắng đã
mười năm. Trong tôi âm âm đến nhói lòng, giai điệu vô vi Trịnh Công Sơn đã
hát:
Đường xa mỏng mộng vô thường
Trái tim chợt tỉnh tôi nhường
nhịn tôi
4.
Đêm mưa gió ấy, hình như hồ
Đại Lải không ngủ thì phải. Tiếng sóng cứ cồn cào- cồn cào. Tiếng rừng cứ nấc
lên- nấc lên. Day dứt và thao thiết.
Thầy Tuấn nói:
- Khi bức xúc nửa chừng
trang viết, tớ ngồi nhắm mắt lại, hồi tưởng dòng chảy của thời gian, cho đến
bao giờ vụt hiện một tứ gì đó, mà truyện ngắn không chở nổi, tớ chép vào sổ
tay để neo lại. “Lẫn trong thơi gian phấp phỏng tình cờ, như cơn gió lành ngơ
ngác trong
Tôi nắm lấy hai câu thơ ấy,
bước ra khỏi phòng nhà biệt thự D4. Hai cây xoài xõa lá, hứng rủ rượi mưa trời.
Hai cây mít chít chiu trái mọng đầy gai, tựa vào nhau chịu từng trận gió.
Nhói trong lòng câu thơ của Huy Cận: Gỗ mít đỏ tươi như thân người xẻ dọc.
Phải chăng người đàn bà của
tôi đã xẻ dọc đời tôi làm hai mảnh. Mảnh đớn đau của ông thầy đói nghèo thời
bao cấp. Mảnh tự ái đến lồng lên của anh chàng nghệ sĩ nửa mùa, dại dột chui
đầu vào thòng lọng của nghề dạy học.
Ngày ấy, người đàn bà của
tôi là sinh viên của tôi. Cô sinh viên nghèo, đến từ một đồi chè tuyết Hà
Giang. Ngay bài giảng đầu tiên về thế giới của âm thanh thành giai điệu, đôi
mắt mở to hoài vọng của nàng đã đốt cháy tim tôi
Tôi. Chàng sinh viên Khoa
Trắc đạc – Bản đồ, vào chiến trường từ mùa hè 72 đỏ lửa. Tôi. Chàng lãng tử
cuối cùng của “Bài ca Trường Sơn” thành giáo viên dạy nhạc. Tôi. Người đốt
cháy trái tim xuân thì của nàng suốt ba năm để biến nàng thành vợ. Chúng tôi
đã có những năm tháng ngọt ngào hạnh phúc, những năm tháng nếm trải gian nan
thời bao cấp; chúng tôi đã có những năm tháng dằn vặt lẫn nhau, vì tính lãng
tử đời trăng của tôi, tính bốc đồng thiên về thực dụng quá thể của nàng. Và…
cuối cùng là sự ra đi của người đàn bà của tôi, chỉ vì chúng tôi không thể
nào chia xẻ được với nhau về một vài quan niệm sống.
091… dãy số đã hóa thành
giai điệu, đang tồn tại trong máy của tôi. Trong cơn mưa Đại Lải đêm nay, những
con số bỏng cháy ấy, đã thắp lên chuyện xưa, xui khiến không thể nào chợp mắt.
Giữa lúc chúng tôi đang hết
tiền, hết gạo, bỗng lù lù ở đâu hiện ra thằng bạn thời chiến trường lửa máu.
Đó là Hoàng Quân, tay súng B40 lì lợm nhất tiểu đoàn. Gương mặt anh ta đẹp một
cách đáng sợ, bởi hai bên má, sâu hoắm vào hai lúm đồng tiền, to như đầu ngón
tay. Một viên AR15 bay xuyên qua miệng, khi anh ta nhào lên hét xung phong,
đã làm nên kiệt tác kỳ diệu ấy. Trong cơn bấn bí không có gì đãi bạn, tôi đã
vặt lông con gà mái duy nhất, đang nằm ổ trong chuồng. Nó cũng là con gà kỳ
diệu, từng sống qua bốn mùa dịch cúm, từng xù lông đá lại diều hâu. Giết nó
là dập tắt niềm hy vọng bầy gà con sắp sửa ra đời. Nhưng không giết, biết lấy
gì đãi bạn. Nó đã vượt hàng trăm cây số, tìm thăm tôi. Nó đã từng băng bó cho
tôi, cõng tôi thoát chạy ra khỏi vòng tử chiến, dìu tôi vượt qua dòng Thạch
Hãn rộng mênh mông. Khổ nỗi, dù đã hầm cả tiếng, thịt vẫn dai nhanh nhách, nhai
tới sái quai hàm, vẫn cứ lì ra, không thể nào nuốt được. Bạn tôi phá ra cười.
“Đằng nào cũng thế, luộc luôn ổ trứng cho rồi. Trứng gà lộn. Ha ha! Gà lộn! Hết
thứ này có thứ khác. Cứ tin thế đi! Đời mà! Khổ quá, tớ đang định tung hê hết
để đi buôn đây. Buôn bán thì có gì là xấu. Mình đem về cho người ta cái người
ta cần, xấu chỗ nào nào!”.
Hôm ấy, tôi hú mấy anh bạn
cùng trường qua chơi. Rượu cắm quán thêm hai lít. Tam Thanh cắm quán thêm hai
bao. Nửa tháng sau lĩnh lương tháng ấy, thủ quỹ trường trừ lại hơn phân nửa.
Ngươi đàn bà thực dụng của tôi, nghi ngờ tôi có bồ có bịch. Vết rạn nứt bắt đầu
toác ra từ đó. Và… theo đường rày vay nợ, tháng nào lương tôi cũng bị trừ hơn
một nửa trở lên. Những đồng tiền còm cõi đem về, không cứu nổi cuộc tình thời
bao cấp. Cô sinh viên từng si mê giai điệu của tôi, người đàn bà từng dâng hiến
cho tôi đứa con nhỏ nhoi trong mưa gào chớp giật, đã giũ áo ra đi trong đầm đầm
nước mắt.
091… những con số hằng đêm
dằn vặt, dày vò tôi đến lao tâm khổ tứ. Tìm lại ngày xưa ư? Không đời nào!
Người đàn bà của tôi đã lạnh lùng như băng giá bỏ đi. Đã cướp mất đứa con nhỏ
nhoi của tôi mà tôi yêu biết mấy. Nhưng con ơi! Ánh Dương của cha ơi! Làm sao
cha có thể quên đêm mưa gió con ra đời. Nếu bà cụ tám mươi không ra sớm, ai sẽ
giúp cha đưa hai mẹ con vào làng? Nếu dân xóm không cưu mang, ai sẽ giúp hai
mẹ con qua cơn nguy kịch? Vậy mà mẹ nỡ lòng bỏ qua tất cả! Nỡ lòng dứt con ra
khỏi đời cha!
Không mẹ phải tự tìm về!
Còn cha?.. Ánh Dương ơi! Con ơi!..
5.
Thầy Tuấn sửa dáng ngồi,
khoát tay, dim mắt đọc:
Gió ơi, mi sinh ra làm gì?
Ta sinh ra để thổi cho
vui!
Sông ơi, mi sinh ra làm
chi?
Ta sinh ra để chảy, thế
thôi!
Hoa ơi, mi sinh ra làm gì?
Lửa ơi, mi sinh ra làm
chi?…
Người ơi, mi sinh ra làm
gì?
Những câu thơ khoan xoáy
vào đêm mưa hồ Đại Lải. Những câu thơ càng lúc càng khoan xoáy vào tim tôi đến
rướm máu. Mười năm người đàn bà bỏ tôi đi. Mười năm biết bao cô sinh viên si
tình giai điệu của tôi. Những cô gái đến từ đồng thấp đồng cao. Những cô gái
đến từ non xanh núi thẳm. Có cô hoài vọng vào tương lai được dứt bỏ tháng
ngày cơ cực, chân lấm tay bùn. Có cô muốn giúp tôi lấp đầy khoảng trống. Có
cô chỉ vì chút đam mê cháy lửa tình lãng mạn. Còn cô bé ấy, cô bé ngồi trong
cùng ở dãy bàn cuối cùng ấy, cô chỉ muốn dâng hiến cùng tôi. Gọi là gì nhỉ? Sự
dâng hiến trắng trong của trinh nguyên ý tưởng? Tôi hoàn toàn độc thân! Tôi
hoàn toàn vô tội! Nhưng?.. Nhưng! Cô bé ấy trẻ quá, lại còn đang đi học! Học
Nhạc, một môn học đầy “tinh thần” lãng mạn. Vậy thì cô mới hoàn toàn vô tội.
Còn tôi, tôi đã 54 tuổi. Đã từng trải và đầy kinh nghiệm sống. Tội lỗi nhất định
thuộc về tôi. Năm tháng sẽ trôi qua, sẽ đến lúc cô bé ấy lớn lên, sẽ đến lúc
cô bé ấy nhìn ra sự thật. Tòa án lương tâm hành xử tôi thế nào, nếu như cô bé
ấy trở thành đàn bà, lại bồng con giũ áo ra đi, dở dang cả một đời con gái?
Người đàn bà của tôi đã dứt bỏ tôi đi, là minh chứng. Chỉ còn tôi với cây đàn
ghi ta, với mười năm đơn độc. Nhưng… tôi và cây đàn của tôi có tội tình gì? Tội
tình gì?..
Con cò đơn côi cũng bỏ tôi
mà đi. Giờ này nó ở đâu? Ở đâu? Chắc là nó đã tìm được một nửa của đời mình.
Còn một nửa của đời tôi? Còn con gái bé bỏng của tôi? Còn tình yêu của tôi?
Còn phẩm giá người thầy của tôi? Còn bao nhiêu năm tôi vùi mình trong lửa
máu? Lẽ nào tôi đánh mất! Lẽ nào tôi vứt bỏ! Lẽ nào! Lẽ nào!
Bị nung cháy bởi những
dòng ý tưởng ngạt thở ấy, tôi đứng dậy, kéo tay dẫn cô sinh viên trẻ trung về
lại ngôi nhà dưới chân ngọn đồi bát úp. Biến nồi cơm nguội thành nồi cháo thịt
bằm, với thật nhiều hành và tiêu, tôi dọn lên bàn cho cô sinh viên của mình.
Còn tôi, tôi lôi cây đàn treo trên tuờng xuống, lục trong đống tài liệu lưu
trữ mốc meo và bụi bặm, cuốn đọc tấu ghi ta, những bản nhạc tôi chép tay từ
thời mới ra quân, chuyển ngành đi học. Cuốn nhạc này tôi đã từng chép một
cách hăm hở, khi tôi mới từ rừng sâu về thành phố. Bấy giờ tôi chỉ biết cả
ngày tha thẩn ở các hiệu sách tư nhân để lục lọi, mượn mọc, và ngồi lì một
góc để chép. Tôi chép say mê đến quên cả cơm trưa, quên cả cơm chiều, đến phải
mua bánh mì không ngồi ăn tại chỗ. Nhiều chủ tiệm sách đã thông cảm, đem cho
tôi ca trà đá, hay một dĩa trái cây, hay một dĩa bánh gì đó. Nó là nỗi đam mê
một thời trai trẻ của tôi, tình yêu một thời trai trẻ của tôi. Vậy mà tôi đã
quên bẵng suốt mười năm.
Khi dốc ngược cuốn sách để
giũ bụi, một tờ giấy học trò đã rơi ra. Nhặt lên, tôi nhận ra nét chữ của vợ
tôi, của người đàn bà của tôi. Nhiều dòng chữ bị nhòe loang nét bút. Có lẽ
nàng đã khóc khi viết những dòng này. “Em giải phóng cho anh, để anh tha hồ
bay bổng suốt ngày cùng giai điệu, tha hồ ôm đàn ca hát suốt ngày suốt đêm với
bạn bè. Cuộc sống sẽ không có sự lựa chọn, nếu chúng ta và con cái chúng ta
không đủ ăn, đủ mặc hàng ngày. Em không muốn là chiếc bóng cản trở niềm đam
mê của anh. Em sẽ đi xa. Đi thật xa để nuôi con và để giải phóng cho anh. Hãy
tin rằng, em và con…”. Tôi không thể tin được vào đôi mắt của mình. Mặt đất
dưới chân như sụp xuống. Sụp xuống. Đất trời như quay cuồng chóng mặt. Đêm
đen đặc, như dồn nén cả màn đêm mà ép xuống- ép xuống tôi đến thóp thoi, dằn
vặt. Quẳng lá thư lên mặt bàn, tôi để mặc cô sinh viên trẻ trung muốn làm gì
thì làm, muốn ngủ đâu thì ngủ. Còn tôi, tôi dốc ngược chai Nàng hương, tu một
hơi tới ngạt thở, rồi ôm cây đàn, đập cả bàn tay lên sáu sợi thép, cào cả năm
ngón tay lên sáu sợi thép, nấc lên giai điệu.
Giữa cuộc đời như gió thổi,
sông trôi
Sẽ còn lại muôn đời
Những câu thơ
Và những lời ca thấm đầy
nước mắt
Khi hàng âm cuối cùng vừa
tắt, tôi giáng cả bàn tay xuống gần ngựa đàn. Sáu sợi dây đàn đứt phựt.
Cô sinh viên trẻ trung ngồi
thả chân trên giường, ấp cả hai bàn tay lên mặt, khóc nấc lên.
Lá thư của vợ tôi rung bần
bật trong đôi bàn tay nhỏ nhắn, đang ấp trên gương mặt trắng nhợt, đầm nước mắt.
Nhà sáng tác Đại Lải,
2.7.06 - Vĩnh Long, 16.8.06.
Bên hồ sen trắng
|
|
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn
vậy, vẫn quạnh quẻ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả
làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi dạt đến, cách nay đã ba mươi năm. Hồi
mới đến cư ngụ tại làng, bà Chín ba lăm tuổi. Nghe nói cũng có vài đám đánh tiếng
mai mối, nhưng đám nào bà cũng lắc đầu. Riết rồi bà Chín héo hắt đi vì tuổi
tác, chẳng ai nhòm nhỏ gì nữa.
Cái ao sen rộng khoảng một
công đất. Cấp trước bà Chín cắt lá đem bán cùng với ngó sen, củ sen, gương
sen. Nhưng tới giờ lá sen không bán được nữa, bà chỉ sống nhờ vào ngó sen, củ
sen và gương sen. Ông từ chùa làng thỉnh thoảng có đến hỏi mua hoa sen về chưng
trên điện thờ, nhưng bà Chín chỉ cho chứ không bán. Đổi lại, ông từ thường
đem trái cây hái trong chùa biếu cho bà. Nhờ vậy, bà Chín với ông từ thành chỗ
thân thiết. Có điều, bà Chín không mấy khi lên chùa; dường như bà không mấy mặn
mà với thần phật. Cứ nhìn cái chòi lá của bà cũng biết, chẳng có bàn thờ, chẳng
có tranh Phật, tượng Phật, chẳng có gì cả. Đến ông địa, ông thần tài bà cũng
không có. Trống trếnh trong chòi chỉ có cái chỏng tre, dùng để ngã lưng nằm
ngủ và để ngồi ăn cơm mỗi bữa.
Không ai biết chút gì về
lai lịch bà Chín, thành ra người ta thêu dệt về cuộc đời bí ẩn của bà đủ chuyện.
Có lần tôi đem chuyện ấy nói với bà. Bà Chín nghe xong chỉ chép miệng nói: Mô
Phật! Tôi lại hỏi: Bà sống mình ên vầy, lỡ đêm hôm ngã bịnh thì sao? Bà cũng
lại mô Phật. Hình như với bà, bệnh tật ở đâu xa lăng lắc, không thể ghé thăm
bà được. Nếu cứ như tôi biết, bà Chín từ hồi nào tới giờ, chưa bao giờ phải uống
một viên thuốc. Hàng ngày, bà hay lụm cụm ngồi bên vệ đường đào rễ cây bông nổ
để đem về nấu nước. Rễ cây bông nổ màu vàng nhạt, nấu lên rất thơm, có vị
ngòn ngọt, dân quê tôi gọi là sâm Nam. Bất cứ lúc nào ghé thăm, bà cũng
rót cho tôi một chén. Và bao giờ tôi cũng chỉ uống một chén, bởi tôi thấy cái
ấm nhôm của bà không lớn lắm.
Hàng ngày bà Chín chỉ ăn
cơm có một buổi. Buổi còn lại bà thường ăn một hai trái bắp, hoặc hai ba củ
khoai lang, khoai mì. Hàng qùa của bà là chè do bà nấu lấy. Lúc thì mươi hột
sen nấu với đường, lúc thì lá nha đam nấu với đường. Bà nói: Con ạ, nhớ ăn
rau sống thiệt nhiều vào! Nhất là chịu khó đâm lá nha đam uống với đường mà
ngừa bịnh gan. Gan khỏe mạnh mới không bịnh tật. Qua hồi nào tới giờ vẫn xài
các thứ thuốc nam kiếm lòng vòng trong xóm, nhiều nhất là xài lá nha đam. Nhớ
xài cả vỏ mới tốt. Hồi đó ông từ trên chùa bị bệnh xơ gan, mỗi ngày qua đâm
cho ông một chén nước lá nha đam. Chỉ có vậy mà ông khỏe mạnh tới giờ.
Tôi nghe lời bà Chín, thường
ngày vẫn kiếm đọt nhãn lồng luộc ăn, kiếm lá đinh lăng ăn sống cặp với cá
kho. Ăn riết mắc ghiền, bữa cơm nào không có rau sống thì không biết ngon. Vợ
con tôi cũng theo tôi mà thích ăn các thứ rau dại mọc hoang trong vườn, hay
ngoài gò, ngoài bãi. Có lẽ nhờ vậy mà cả nhà tôi không thấy ai bệnh hoạn bao
giờ.
Vợ tôi cũng rất qúy bà
Chín. Lâu lâu có thức gì ngon cũng đem qua biếu bà một ít. Mỗi lần qua chơi,
vợ tôi lại học được bà Chín một điều gì đó. Còn như có chuyện gì hay, bao giờ
vợ tôi cũng kể lại với tôi. Cứ như vậy, dần dà tôi cũng hiểu được ít nhiều về
bà Chín. Là hiểu về tính cách của bà, chứ cũng không hiểu gì về qúa khứ của
bà. Bởi lẽ ngay cả với vợ tôi, được bà coi như con cái, bà cũng không bao giờ
kể về cuộc đời của bà.
Một lần tôi đem cái máy
đánh chữ ra ngồi gỏ trước hàng hiên, bỗng cảm giác như có ai ở sau lưng.
Ngoái lại, thấy có thằng bé lủn củn, đội trên đầu một xề bánh cam. Nó toét miệng
cười với tôi, rồi hỏi: Chú viết truyện à? Tôi gật đầu. Nó lại nói: Hồi nẳm
con cũng biết đọc, nhưng giờ quên rồi. Con học chưa hết lớp một, mà con học dốt
lắm. Cô con chê hoài. Mẹ thì nói con là thằng tối dạ. Tôi hỏi nhà nó ở đâu.
Nó toét miệng cười: Con làm gì có nhà. Ba mẹ con lật xuồng chết trong đồng.
Năm đó nước lớn, làng con có mấy người cũng lật xuồng chết. Vậy là con bỏ
làng đi. Giờ con sống với ông từ trong chùa. Bà Tám Quắn thương, biểu con tới
lấy bánh cam đem bán. Lúc nào đủ tiền đóng học phí, con xin ông từ đi học.
Con cũng thích viết truyện như chú. Con biết nhiều chuyện hay lắm, nhưng con
không biết viết.
Nghe nó nói, tôi giật mình
nghĩ: Ừ nhỉ, cái thằng lủn củn này, nó đến làng lúc nào mà mình không biết.
Khi tôi kể chuyện này cho bà Chín nghe, bà Chín ngồi trầm ngâm, rồi nói: Con
xin cho nó vô học được không? Tiền trường để qua đóng cho. Qua chắt mót bi
nhiêu năm, giờ cũng được một mớ. Chỗ quen biết với ông hiệu trưởng trường
làng, tôi xin được cho thằng nhỏ đi học.
Nó học được gần hai tháng
thì tới ở luôn với bà Chín. Nhìn hai bà cháu ngồi ăn cơm trên cái chỏng tre,
thấy cái chòi cũng ấm cúng được phần nào. Do chuyện này mà bà Chín kê thêm
trong chòi một cái giường, mua thêm một cái bàn, một cái tủ gỗ, và cái ra dô
nhỏ cho thằng bé nghe đài.
Té ra thằng bé không tối dạ
như nó nói. Cô giáo nó nói với tôi, thằng bé học khá lắm, chữ viết rất đẹp;
hơn nữa nó lại rất ngoan, giao việc gì cũng làm đến nơi đến chốn. Tôi cũng cảm
thấy như vậy. Bởi lẽ từ khi về ở với bà Chín, thằng bé thường thay bà đi cắt
gương sen, ngồi bó lại thành từng chục một. Thấy sau nhà còn vạt đất trống,
nó biết đi xin cây chuối con về trồng. Biết bà Chín hay ăn các thứ cây cỏ có
vị thuốc, nó biết đi tìm cây con về trồng cặp theo mép hồ sen. Thỉnh thoảng
nó vẫn ra đồng mò cua bắt ốc. Có khi bắt được nhiều, hai bà cháu ăn không hết,
nó vẫn đem sang cho vợ tôi. Vợ tôi qúy nó như con trong nhà.
Từ khi có thằng bé đến sống
chung, bà Chín đổi sang ăn ngày hai buổi. Trước đây bà chỉ ăn cá kho với rau
sống, giờ thỉnh thoảng bà cũng mua thịt về nhà. Trước đây bà chỉ ăn chè, giờ
thỉnh thoảng bà cũng cặm cụi ngồi đổ bánh xèo, ngồi gói bánh ú, bánh ít. Ở tuổi
tám mươi mà bà vẫn lẹ chân lẹ tay, làm việc gì cũng gọn bân đâu vào đó. Nhờ vậy,
thằng bé từ khi đến ở với bà Chín, cứ mỗi ngày mỗi mởn ra; trông có da có thịt
như con nhà khá giả. Những lúc đi học, nhìn nó mặc đồng phục, coi cũng sáng sủa,
bắt con mắt.
Vào một buổi chiều, lúc trời
đang mưa tầm tả, có chiếc xe ôm chạy vào sân nhà tôi. Rồi một ông già quắc
thước bước vào. Ông hỏi tôi, bên kia hồ sen có phải nhà bà Chín không? Nghe
tôi nói phải, ông lão nói: Tui từ Bảy Núi xuống, muốn ở nhờ nhà chú vài ngày
được không? Nhà tôi tuy là nhà tre lá, nhưng rộng rinh, nên tôi gật đầu đồng
ý.
Khi đã cất bọc đồ vào góc
giường, ông lão cho tôi biết, ông xuống đây để tìm bà Chín. Có người làng ông
từ đây về, cho ông biết bà Chín sống ở làng này. Bà Chín bỏ xứ ra đi đã hơn
ba chục năm. Trong ba chục năm ấy, ông đã dọ hỏi khắp nơi mà không thể nào
tìm ra tung tích. Tưởng bà đã mất, nào dè bà con sống tới giờ. Ông muốn nhờ
tôi chuyển giúp cho bà Chín một ít tiền để đỡ đần bà khi tuổi tác. Nghe ông
lão nói, tôi giật mình nghĩ, có lẽ ông lão là chồng bà Chín, vì lý do nào đó
mà họ chia tay. Tôi tỏ ý sẽ dẫn ông lão qua nhà bà Chín, nhưng ông lão lắc đầu
nói: Gượm gượm vài hôm rồi tính. Ông cần dò hỏi coi tánh ý bà Chín ra sao đã,
xa nhau suốt ba chục năm, nay đường đột xuất hiện, e không được tiện cho lắm.
Ngay cả chuyện gởi tiền, ông cũng sợ bị bà từ chối, nên mới có ý nhờ tôi.
Đêm đó vợ tôi nấu nồi cháo
cá đãi khách. Tôi nướng thêm mấy con khô bống kèo, mời ông lão uống rượu. Khi
đêm đã khuya, ông lão mới cho tôi biết, ông là em ruột của chồng chưa cưới của
bà Chín. Chồng chưa cưới của bà Chín mất cách nay đã bốn năm. Những
ngày cuối đời, ông thường nằm sảng nhắc tên bà Chín. Khi gần khuất núi, ông
biểu người nhà lôi trong hộc tủ thờ ra cái hộp gỗ, bên trong có cái bọc ni
lông. Mở ra thấy có hai tấm hình chụp bà Chín lúc còn trẻ. Ông cho gọi người
nhà đến, rồi nói: Hai tấm hình này, một tấm chôn xuống mộ theo ông, một tấm
đem truyền thần, rồi chưng lên bàn thờ cùng với tấm hình của ông.
Ông lão lôi trong giỏ xách
ra tấm hình bà Chín. Đó là tấm hình chụp trên giấy lụa, đã ngã màu nâu vàng
theo năm tháng, nhưng coi vẫn còn rõ nét. Trong ảnh, bà Chín rất đẹp, rất
tươi, tóc chải bồng ra phía sau, hệt như hình tài tử. Cứ như tấm hình ấy, thì
con gái làng tôi không ai đẹp được như vậy.
Thế rồi ông lão kể cho tôi
nghe chuyện qúa khứ của một đời người.
Thuở ấy bà Chín là đào
chính của một gánh hát. Gánh hát ấy có lần lên hát tại Lương Phi Bảy Núi.
Ngay đêm hát đầu tiên, Tấn Hưng, con trai ông Hội đồng, đã bết cô đào Chín mê
mết. Rồi thì từ đó, đêm nào Tấn Hưng cũng đeo dính theo gánh hát, cũng mua
cho bằng được chỗ ngồi tốt nhất ở hàng ghế đầu. Gánh hát rong ruổi lưu diễn cả
tháng ở Bảy Núi. Ròng rả cả tháng Tấn Hưng đeo theo gánh hát. Ông bầu gánh
hát biết tình ý của Tấn Hưng, đem chuyện kể lại cho đào Chín. Đào Chín lúc đó
có tên là Quế Hường. Quế Hường là cô đào bốc lửa cả dưới ánh đèn, cả dưới ánh
mặt trời. Khi biết chuyện, Quế Hường lại càng bốc lửa, khiến con trai ông Hội
đồng càng thêm ngơ ngẩn, lúc nào cũng như người mất hồn.
Càng mất hồn, Tấn Hưng
càng đeo dính theo Quế Hường từng bước. Đeo riết rồi cũng dính. Quế Hường đã
một vài lần nhận lời ra ngồi chơi bên gốc cây còng dưới bến sông với Tấn
Hưng. Ánh trăng rưới sữa lồng lộng, Quế Hường càng trở nên bốc lửa ngùn ngụt,
thiêu đốt Tấn Hưng tới mụ mẩm. Nhưng họ cũng chỉ ngồi với nhau vậy thôi. Bởi
vì mỗi lúc Tấn Hưng muốn tấn tới, bao giờ cũng bị Quế Hường khôn khéo tìm
cách chặn lại. Và càng bị chặn lại, Tấn Hưng càng trở nên mụ mẩm.
Tấn Hưng mụ mẩm tới mức, một
lần bắt gặp người bạn trai của Quế Hường tại phòng trọ của cô, anh đã không
kìm được mình, đã kiếm cớ gây sự với người ta. Trong cơn nóng giận vì say rượu,
Tấn Hưng đã chụp lấy con dao mà Quế Hường vẫn thường dùng để gọt cam, đâm
liên tiếp mấy nhát, khiến bạn trai của Quế Hường gục xuống bất tỉnh.
Khi ấy, Quế Hường dùng cả
hai tay nắm chặt hai vai Tấn Hưng, vừa lắc như điên như dại, vừa hét lên: Anh
khùng rồi! Anh điên rồi! Làm sao em cấm được người ta đến thăm mình! Tại sao
anh lại giết người! Tại sao anh lại tồi như vậy! Anh khùng rồi! Nói xong cô vụt
chạy ra ngoài. Và cô chạy luôn từ đó, không bao giờ còn trở lại vùng Bảy Núi.
Ra tù nhờ chạy tội bằng tiền,
Tấn Hưng nhớ người yêu, lang thang đi tìm hết tháng này tháng khác. Nhưng biển
khơi tăm cá, biết đâu mà tìm. Nỗi nhớ quay quắt nhấn chìm Tấn Hưng vào rượu
trắng. Rượu đốt gan ruột Tấn Hưng tới cháy mủn ra, tới phải đi mổ vì xơ gan.
Năm này sang năm khác, Tấn Hưng sống vất vưởng trong nỗi nhớ như người chán đời.
Và bởi ám ảnh về tội lỗi, càng lúc Tấn Hưng càng héo hắt, càng vất vưởng như
người tâm thần. Ông Hội đồng Hà thương con, nhờ người mai mối cho Tấn Hưng một
người vợ. Nhưng có vợ cũng như không, Tấn Hưng không thể ngủ chung cùng buồng,
cùng giường với vợ. Vò võ hai năm trời, vợ ông chán nản bỏ chồng về với mẹ. Rồi
bà đâm đơn ra Tòa xin ly dị để đi bước nữa với người khác. Tấn Hưng sống thui
thủi như vậy cho đến già, cho đến chết.
Khi tôi kể chuyện này cho
bà Chín nghe, bà chắp tay nói: Mô Phật! Nhưng từ đó, bà càng trở nên trầm lặng
hơn hẳn. Chìm trong nỗi trầm lặng u ẩn của cuộc đời, bà héo hắt dần như chiếc
bóng bên hồ sen trắng. Thường cứ vào lúc chiều buông lãng đãng, bao giờ bà
cũng bắc ghế ra ngồi trầm ngâm sát bên hồ sen. Thằng bé tên Tuấn cũng ra ngồi
với bà. Hai bà cháu đều im lặng như hai cái dấu chấm, chấm vào trời chiều
bầm đỏ.
Một hôm bà Chín cho thằng
Tuấn qua mời tôi tới nhà. Khi đã sai thằng bé đi mua dầu hôi, bà Chín nói với
tôi: Nếu muốn cất cái nhà gạch bằng khung sắt tiền chế, rộng chừng năm chục
mét vuông thì hết bao nhiêu tiền. Nghe tôi nói khoảng hai lăm triệu, bà Chín
nói: Qua nhờ con kêu thợ cất giùm qua cái nhà.
Ngôi nhà cất xong thì bà
Chín ngã bệnh. Bà nhờ tôi nhắn tin lên Bảy Núi cho em ruột ông Tấn Hưng. Khi
hai vợ chồng em ông Tấn Hưng xuống, bà mới chỉ chỗ cho tôi đào xuống góc nhà,
lấy lên cái thùng sắt đựng đạn đại liên của Mỹ. Không hiểu vì sao cái thùng sắt
vẫn còn rất mới. Mở ra thì thấy một bọc ni lông màu đen, bên trong có sợi dây
chuyền mặt ngọc, hai cái lắc vàng, một chuỗi cườm ngọc trai, một cái nhẫn cầu
hôn. Đó là tất cả những gì bà Chín dành dụm được trong quãng đời đi hát. Bà
Chín cầm cái nhẫn lên, nói: Cái nhẫn này là của Tấn Hưng gởi cho bà, nay bà
xin đeo nó để tỏ lời hứa hôn với ông lúc trước. Khi nào bà mất thì tháo ra,
giữ lại với tất cả những gì bà có cho thằng Tuấn. Trời đã đem thằng Tuấn đến
cho bà, bà nhờ tôi trông nom giúp đỡ để thằng Tuấn nên người.
Tối đó, vào lúc nửa đêm,
trời nổi giông rất mạnh, nhưng lại không mưa. Phía vườn chùa, không hiểu sao
cò nổi lên kêu qùa qùa suốt cả tiếng đồng hồ. Tôi thấy chờn chợn như linh
tính đang mách bảo một điều gì, liền chạy qua nhà bà Chín. Thằng Tuấn thức dậy
mở cửa cho tôi. Nó nói: Bà cháu ngủ trong buồng từ chập tối. Bán tin bán
nghi, tôi biểu thằng Tuấn vào buồng xem bà nó có còn nóng sốt không. Thằng Tuấn
vào buồng chưa đầy một phút đã thốt lên khóc hù hụ. Bà ơi! Bà đừng bỏ cháu mà
đi bà ơi! Thức dậy đi bà ơi!
Tôi chạy vào buồng, thấy
thằng Tuấn đang gục đầu trên ngực bà Chín, khóc nấc lên tức tưởi. Tôi vừa dợm
chân tính chạy về nhà gọi vợ, đã thấy vợ tôi cùng vợ chồng em ông Tấn Hưng
qua tới. Tôi chạy đi nhờ hàng xóm kéo điện từ nhà tôi sang nhà bà Chín để thắp
mấy ngọn đèn điện. Không biết từ đâu, khi mấy bóng đèn bật sáng, thì nhiều bà
con lòng vòng lối xóm cũng lần lần kéo đến. Cả ông từ giữ chùa cũng đến.
Sáng ngày, khi tôi đã lo
xong cỗ hậu sự cho bà Chín, em ông Tấn Hưng đến gặp ông Chủ tịch xã, xin phép
cho vợ chồng ông đưa bà Chín về Bảy Núi chôn cất. Mới đầu ông Chủ tịch xã còn
lưỡng lự, nhưng khi nghe tôi kể lại chuyện ông Tấn Hưng, ông Chủ tịch đã bàn
lại với ông bí thư xã, và cả hai đều đồng ý. Em ông Tấn Hưng nói với tôi: Qua
cũng đoán trước có chuyện, nên có đem theo ít tiền, nhờ vợ chồng chú kéo điện
về nhà cho thằng Tuấn.
Chúng tôi mướn trọn gói một
chiếc xe lam để đưa bà Chín về Bảy Núi. Do con đường từ lộ xã vào ngôi nhà của
bà Chín quá nhỏ, chúng tôi phải khiêng chiếc quan tài đi vòng qua ao sen. Nắng
đổ rười rượi, mượt như lụa. Cả hồ sen hoa nở trắng tới không tưởng nổi. Hương
sen thơm ngào ngạt, quyện cùng hương khói nhang đèn, đưa bãng lãng đến nao cả
lòng dạ.
Trời trong văn vắt, không
vẩn một gợn mây. Phía vườn chùa, những cánh cò cứ liên tục bay lên bay xuống,
chớp nắng lấp lánh lấp lánh.
Người của một thời
Tùng, Quân cùng mấy người
dân Vân Kiều dừng lại đầu cánh rừng le. Ngày ấy Tùng một mình đào huyệt, gởi
Dũng nằm lại nơi này, nhưng cụ thể ở đâu thì anh không nhớ. Bấy giờ nơi đây chỉ
bầm bầm một màu đất đỏ. Tiến lên nữa về bên phải hay bên trái đây. Rừng le bạt
ngàn, biết nơi nào mà cắm lưỡi xẻng đào xuống. Anh lấy di động gọi về cho ông
Quyết. Giọng ông Quyết khàn khàn: “Đốt một điếu thuốc rồi đi chếch lên về bên
trái. Tàn hết điếu thuốc thì dừng lại, nhìn thấy cây săng máu, nhắm mắt lại, đi
đúng mười bước sẽ gặp tảng đá. Mở mắt ra, đào cách tảng đá hai mét bên phải sẽ
gặp”.
|
|
Làm theo lời dặn của ông
Quyết, quả nhiên Tùng thấy cây săng máu mồ côi, tảng đá mồ côi. Anh đặt ba lô
xuống, lôi ra mấy quả trứng luộc, nải chuối, nén hương và gói thuốc. Khói
hương bốc lên rồi sà ngay xuống, tỏa là là trên mặt đất thành một vũng trắng
đục. Mấy người Vân Kiều bắt đầu dùng xẻng đào bới ngay vũng khói ấy. Hết lớp
đất chằng chịt rễ cây, tới lớp đất thịt, dẻo và mịn. Cả tùng và Quân đều căng
mắt chờ đợi, mồ hôi rịn ra, chảy giọt giọt nóng bỏng.
Một người Vân Kiều dùng
tay moi lên được cái lưỡi lê ba cạnh, bị gãy ở chỗ gắn vào nòng súng. Tùng
khóc nấc lên thổn thức. Vậy là đúng mày rồi Dũng ơi. Mày tha thứ cho sự chậm
trễ của tao. Vậy là từ nay mày thôi lạnh lẽo một mình giữa rừng le quạnh vắng.
Dưới kia, dòng Đắc Krông vẫn ào ào cuộn chảy. Dưới kia, thị trấn Khe Sanh vẫn
tưng bừng nhộn nhịp. Gió Lào vẫn thổi từ bấy đến giờ. Tha thứ cho tao, Dũng
ơi!
2.
Tiểu đoàn chốt chặn trên
ngọn đồi A6 tới ngay thứ năm, quân số chỉ còn lại gần trung đội. Lệnh của
trung đoàn: phải giữ cho bằng được cao điểm. Pháo nả xuống dồn dập. Hết pháo
tới bom. Ngọn đồi rung chuyển rần rần như động đất. Dũng bị hơi bom rách cả
hai màng nhỉ, gương mặt ngơ ngác như thằng ngốc. Lâu lâu anh ta lại gào lên:
Còn ai không? Tùng cũng không biết nữa. Chỉ nghe tiếng AK, tiếng RPĐ mà đoán
là vẫn còn.
Tới chiều ngày thứ bảy, trận
địa đang rền rền tiếng súng, bỗng im bặt. Có thể tụi nó tập trung quân, chuẩn
bị cho trận quyết tử vào sáng mai. Sự im lặng trên chiến trường cũng như con
mắt bão. Tùng biết phải tranh thủ lúc này, bò đi tìm đồng đội, tìm thêm súng
và đạn; nhất là phải tìm gom thêm nước uống. Cả ngày nay, anh và Dũng chỉ
chia nhau nửa bi đông nước, cổ họng khô rát, mồm miệng đắng nghét.
Công sự đầu tiên mà anh gặp,
người lính vô tuyến điện ngồi dựa lưng vào thành đất, tay phải vẫn cầm cái tổ
hợp máy PRC25, đầu gục xuống, tóc tai rũ rượi, ngực áo ươt đẫm máu. Cầm tổ hợp
lên, bóp mạnh vào phím nhấn, Tùng nghe tiếng gọi: “Sông Hương gọi Hồng Hà,
nghe rõ trả lời!”. Tùng áp sát tổ hợp vào miệng, nói hào hển: “Hồng Hà đây!
Tôi là Trần Mạnh Tùng C6. Đinh Văn Thiết thông tin hy sinh rồi. A lô, sông
Hương nghe rõ không?” “Sông Hương nghe rõ. Lệnh cho Hồng Hà rời trận địa. Tập
kết ở N. sông Hương gọi Hồng Hà, nghe rõ trả lời!”. “Sông Hương, sông Hương,
Hồng Hà nhận lệnh”. Tiếng nói trong tổ hợp tắt phụt.
Tùng leo lên khỏi công sự,
tiếp tục trườn về phía trước. Tất cả chỉ còn lại tám người. Một người bị
thương ở đầu, băng che kín nửa mặt. Hai người bị thương ở tay trái. Một người
bị thuơng phần mềm ở bắp đùi chân phải. Dũng là C trưởng, hai tai đã điếc đặc,
Tùng chỉ là B trưởng, nhưng phải đứng ra chỉ huy cả tiểu đoàn nát vụn sau mấy
ngày bám trụ trên cao điểm.
Khoảng chín giờ tối, tám
người lần lượt rút xuống phía tây sườn đồi. Lặng lẽ đến cay nghiệt. Khó mà
tin được thươngvong lại lớn như vậy. Hơn hai trăm tay súng, sau mấy ngày, chỉ
còn lại một dúm người xơ xác vì đói và khát. Họ băng qua suối, xuyên sâu vào
một cánh rừng, dừng lại chăm sóc cho những người bị thương, gần như đã lả ra
vì kiệt sức.
Hừng đông, từng đàn phản lực
chúi xuống cắt bom xăng lên cao điểm. Lửa bốc bùng bùng. Như vậy là tụi chủ lực
Sài Gòn đã bỏ cao điểm. Cần phải rút nhanh về N. Cả đoàn người lại lên đường.
Gần trưa, họ tới được cánh rừng le loang lỗ hố bom hố pháo. Đang đi, Tùng chợt
nhận ra mùi thuốc bastos. Vậy là đụng biệt kích, anh ra hiệu cho tất cả nằm
xuống, ém nhẹm để quan sát. Đúng lúc ấy, người lính bị thương ở đầu bỗng la
lên chói lói: Bắn! Bắn! Vậy là tiếng súng lập tức rộ lên. Cuộc tao ngộ chiến
không hề cân sức. Cả một đại đội lính rằn ri thi nhau xả súng vào đội hình tiểu
đoàn chỉ còn có tám người. Trong tình huống ấy, phương án tác chiến tốt nhất
là vừa đánh vừa rút.
Tùng và Dũng trườn sát bên
nhau, dìu theo người lính quấn băng trắng trên đầu. Không hiểu sao lúc này
anh ta rất tỉnh, hai mắt rực lên như có lửa. Khi đã thoát ra khỏi vùng đạn, cả
ba chạy lúp xúp thành hàng ngang. Đang chạy, người thương binh vấp phải một gốc
cây, ngã lăn quay. Không biết từ đâu, một thằng lính gù gù như con gấu, nhảy
xồ ra, bổ nhào vào người lính. Hắn không bắn mà rút phắt dao găm từ thắt
lưng. Chỉ có lính chiến mới táo gan như vậy. Tùng nhìn thấy Dũng tuốt lê xông
tới, nhảy bổ vào thằng lính. Ánh thép lóe lên, lạnh như sao băng. Thằng lính
nhanh hơn, nó nghiêng mình về bên trái. Dũng mất đà, lao chúi xuống đất. Lưỡi
lê đâm trúng một phiến đá, gãy nghe băng một tiếng khô khốc. Một tiếng nổ
vang lên đanh chát. Dũng bị hất văng lên, rồi đổ sập xuống. Tùng quạt gần nửa
băng đạn vào thằng lính. Nó lăn lộn dưới đất, toàn thân giật giật như cá bị đập
đầu.
Nhưng đổi lại, chỉ một cú
vấp ngã, mà không hiểu vì sao, người thương binh lại nhắm mắt từ giã cả cánh
rừng đang rộ tiếng súng tao ngộ. Còn Dũng thì dùng cả hai tay ôm bụng, máu
phún ra ướt rượt, đen bầm cả vạt áo. Viên đạn chỉ xuyên qua phần mềm vùng bụng,
vậy mà máu lại túa ra quá nhiều. Không còn băng cá nhân, Tùng phải xé áo lót
băng cho Dũng, rồi tiếp tục dìu anh chạy bươn về phía trước.
Càng chạy Dũng càng lả ra.
Lối thoát duy nhất lúc này là án binh bất động, nằm im nghe ngóng chờ cơ hội.
Biết Dũng khát nước vì mất máu, Tùng mò đi tìm được một dây chạc chìu to như
bắp tay, chặt khúc, hứng được gần nửa bi đông nước. Đưa bi đông cho Dũng
xong, Tùng lại bươn bả đi tìm quả rừng làm thức ăn cho bạn. Anh lò dò đi một
cách thận trọng. Cánh rừng đã im ắng trở lại. Loanh quanh một lúc, Tùng chợt
nhận ra mình bị lạc đường, khi anh nhìn thấy người đồng đội nằm chết gần xác
tên lính to lớn. Anh lượm lại cái lưỡi lê của Dũng, dùng nó moi một hỏm đất,
vùi người đồng đội xuống, cùng với khẩu súng của anh ta.
Khi Tùng tìm được Dũng,
Dũng đã ngồi dựa vào gốc cây mà ngủ. Máu đã ngưng chảy, nhưng mặt Dũng thì bợt
ra vì kiệt sức. Kiểu này thì Dũng không thể đi được nữa. N còn xa lắm. Muốn
đưa Dũng về tới nơi, cần phải dừng lại tìm cách hồi phục sức khỏe cho anh.
3.
Mãi cuối năm 1975 Tùng mới
được ra quân, sau khi đã có trong tay tấm giấy chứng nhận thương binh hạng
năm. Anh trở về làm bảo vệ nhà máy điện Yên Phụ. Không ai còn nhận ra Tùng là
người lính ở chiến trường Quảng Trị. Anh gầy vêu vao và già khọm đi trông thấy.
Người yêu đã hy sinh trong trong trận đánh đêm 19 tháng 12 năm 72, trên trận
địa làng Bưởi. Anh và cô ta từng yêu nhau như thế, bây giờ cô ta không còn,
Tùng thấy mình đã mất tất cả. Vậy thì còn cần gì nữa. Lương bảo vệ, cọc cạch
tem phiếu cũng đủ ăn. Sức khỏe không còn, lấy vợ chỉ làm khổ cho người ta.
Thời gian bò qua đời anh một
cách nặng nhọc và chậm chạp. Cơ quan cấp cho cái phiếu mua cung cấp chiếc xe
đạp thống nhất. Với con ngựa sắt này, thỉnh thoảng Tùng vẫn đạp đi thăm thú bạn
bè. Uống với nhau chén rượu, vại bia. Lâu lâu hùn nhau kéo lên đê sông Hồng
làm bữa thịt chó. Chiến tranh chìm dần trong đầu anh, trở thành dĩ vãng nặng
nề về sự mất mát quá lớn của con người.
Tùng sống thu mình một
cách lặng lẽ. Mọi người trong cơ quan nhìn anh như nhìn một người kém năng lực.
Họ làm việc cùng anh, nhưng cứ từng ngày, họ quên dần mất rằng, anh đang sống
cùng với họ. Chỉ khi nào gặp lại đồng đội cũ, anh mới nhận ra, cuộc đời vẫn
tuôn chảy đầy ý nghĩa. “Mày dở hơi vừa thôi! Kiếm con mái nào mà bù khú, mà
hưởng lạc với nó. Sống khắc kỉ như vậy, rồi chết héo”. Có con mái nào để ý đến
Tùng đâu. Giống đực mà ốm nhom như anh, ai người ta thèm để mắt.
Vào một chiều mùa đông,
Tùng cùng bạn bè lên đê sông Hồng uống rượu thịt chó. Không biết ai đó dẫn đến
một cô gái hăm sáu tuổi, người tròn, mặt tròn, ngực và mông cũng tròn. Cô ta
cười với tất cả mọi người, uống với tất cả mọi người. Tan tiệc thì cô ta say
khướt. Bạn bè giao cho Tùng đèo cô ta về nhà. Mới ngồi lên xe, cô ta đã vòng
tay ông bụng Tùng, rồi gục đầu vào lưng anh mà ngủ. Lúc đó Tùng mới hoảng hồn.
Chở cô ta về đâu cơ chứ. Có ai nói số nhà của cô ta đâu. Anh dừng xe lại, vỗ
vai cô gái, hỏi: “Em ơi! Em về đâu?”. Cô gái chỉ ú ớ gục gặc đầu.
Màn đêm đã buông sậm sịt.
Heo may thổi buốt như như kim châm. Đành phải chở cô ta về căn phòng mười hai
mét vuông của mình. Chỉ có cái giường một. Tùng dìu cô nằm lên đó, lấy tấm
chăn bông hai cân đắp cho cô. Còn anh lấy tấm ni lông trải xuống nền
nhà, lót mấy tờ báo lên, rồi cuộn mình trong tấm bông xô của lính dù. Hơi đất
phả lên thon thót. Giá lạnh luồn vào thon thót. Lạnh tới đánh đàn răng cầm cập,
không tài nào nhắm được mắt. Nhưng rồi say quá, cuối cùng Tùng cũng chìm được
vào giấc ngủ nặng nề, thảng thốt. Anh mơ thấy mình cùng tiểu đoàn vượt sông
Thạch Hãn, đánh tốc vào thành Cổ. Toàn thân ướt mèm như chuột lột. Xung quanh
khói lửa rừng rực, thế mà quần áo vẫn không khô được, cứ dính bết vào da thịt,
lạnh tới thót ruột, tới cóng tay, không xiết nổi cò súng. Thấy người đồng đội
nằm gục bên cạnh, Tùng nghĩ đằng nào anh ta cũng đã hy sinh, liền cởi phăng
áo của anh ta mặc thêm vào người. Vẫn cứ rét, cứ lạnh tới thắt ruột. Tùng nhớ
chuyện “Không gia đình” của Héc To Ma Lô, liền kéo anh ta lại, ôm ghì vào
lòng. Quả là có ấm lên thật. Càng lúc càng ấm. Bàn tay đã mềm trở lại, đã có
cảm giác đang sờ trên báng súng. Bây giờ thì tha hồ mà nả đạn. Nả hàng loạt mới
sướng. Cánh quân lực chu đáo không tưởng được. Đạn tiếp tế nườm nượp. Cứ tha
hồ mà bắn. Bắn cho chúng mày chết. Ông là lính chủ lực. Ông bắn cho chúng mày
chết. Tùng xiết chặt tay vào cò súng.
Trời ạ!
Cô gái đang nằm trong vòng
tay của anh. Anh xiết tới mức cô gái ngạt thở thức dậy. Cả hai chìm trong tấm
chăn bông. Tùng hoảng hốt ngồi bật dậy. “Sao cô lại tụt xuống đây?”. “Em sợ
anh chết rét. Trời lạnh tới tám độ. Em định đưa anh lên giường, nhưng say quá
bồng không nổi”. “Mấy giờ rồi?”. “Chắc cũng gần năm giờ sáng”. “Nhà cô ở đâu?
Nếu xa thì tôi chở cô về”. “Việc gì phải khổ thế nhỉ. Hay là để em nấu nồi
cháo. Trong rỗ của anh còn mấy quả trứng gà đấy thôi”.
Vậy là họ thức với nhau.
3.
Ba ngày sau cô gái lại đến,
cùng với một cân thịt bò và nửa cân hoa thiên lí, một chai làng Vân. Tùng há
hốc miệng, ngạc nhiên tới đớ cả lưỡi. “Anh cứ coi em như em gái được không.
Tiền thưởng đấy”. “Cô không biết tôi còn độc thân à?”. “Biết chứ. Nhưng hôm
nay em mượn con bạn chiếc xe đạp, anh đừng sợ phải chở em về nhà”.
Ba ngày sau nữa cô gái lại
đến. Lần này không phải thịt bò, hoa thiên lí, mà là thịt chó, dồi chó, với
ngọn bí ngô và quốc lủi. “Anh tin không? Em lại có tiền thưởng nữa đấy. Bọn
em móc cả đoạn cống dài gần cây số. Ngâm nước mùa đông nên được thưởng. Nhưng
em nói thật nhé! Cũng phải bù thêm một ít”. “Vậy ra cô làm ở công ty vệ sinh
à?”. “Vâng, đêm nào chúng em chẳng quét rác trên đường. Gớm, Hà Nội mình đang
nghèo xác ra, vậy mà rác ở đâu nhiều thế không biết. Chúng em nhặt nhạnh được
ối thứ bán ra tiền”.
Và ba ngày sau nữa. Ba
ngày sau nữa. Tới lần thứ bảy thì cô giái đã trở nên bạo dạn, bắt đầu tò mò lục
lọi đọc mấy cuốn sách của Tùng. Bất ngờ tấm ảnh của Dũng rơi ra. Cô gái nhặt
lên, lật mặt sau đọc tên, rồi quay lại hỏi Tùng: “Anh này giống con bác Lâm bộ
trưởng quá. Lại cùng họ tên nữa”. “Cô mà cũng quen bộ trưởng à?”. “Chứ sao!
Bác ấy còn chụp ảnh kỷ niệm với chúng em”. “Có bà con gì không?”. “Cả nhà em
truyền đời quét rác, bà con sao được. Là bác ấy đi tập thể dục buổi sáng, thấy
chúng em đẩy xe rác thì tới bắt chuyện, mời tới nhà chơi. Mới đầu công an họ
không chịu cho vào. May mà bác ấy đứng trên lầu nhìn thấy. Anh biết không?
Nhà bác ấy nhiều đồ đẹp và quý lắm. Khách nước ngoài tới thăm, biếu làm quà đấy”.
Cô gái đang nói, bỗng ngừng lại, nhìn kỹ tấm ảnh một lúc rồi nói: “Em đoảng
quá. Đúng anh này là con bác Lâm rồi. Nhà bác Lâm có ảnh anh ấy treo trên tường,
lúc mới nhập ngũ. Bác Lâm cũng nói với chúng em là bác ấy có người con trai
tên Dũng, hy sinh không tìm tấy xác ở chiến trường Quảng Trị. Hay là anh cho
em mượn tấm ảnh, em đem đến cho bác ấy xem”.
Mấy ngày sau, Tùng đi làm
về, đang lạch xạch mở khóa của, có đứa bé hàng xóm chạy tới nói: “Chú Tùng có
khách. Bác gì ấy già lắm, đang ngồi uống nước chè ngoài quán bà Thủy. Bác ấy
dặn cháu, bao giờ chú về thì nhắn giúp để gặp”.
Tùng không tin một ông bộ
trưởng nổi tiếng cả nước, lại đạp xe đến nhà mình. Nhưng điều khiến anh phải
tin, chính Dũng là con trai duy nhất của ông bộ trưởng, lại nhập ngũ ngay khi
cha mình còn đang chức.
Sau cuộc gặp ấy mấy ngày,
có người đưa xe hơi đến tận cơ quan, xin phép cơ quan cho Tùng đến nhà riêng
ông bộ trưởng đã hưu trí. Khi nghe Tùng kể đến đọan Dũng trút hơi thở cuối
cùng, vợ ông bộ trưởng ôm chầm lấy Tùng, khóc nấc lên: “Con ơi!”. Rồi bà đứng
dậy, thắp hương cho con trai. “Dũng ơi! Con sống khôn chết thiêng, trời đất
run rủi cho anh Tùng đến nhà ta”.
Khi mấy cây hương đã ngún
khói, mẹ Dũng bình tâm trở lại, ngồi xuống nói với Tùng: “Tùng ơi, mẹ muốn nhận
con làm con trai, con có đồng ý không?”. Ông bộ trưởng mở tủ lấy ra một chai
rượu ngoại, rót ra ba cái cốc nhỏ có chân, nói với Tùng: “Cháu là bạn thằng
Dũng, nhà bác chỉ có mình nó là con trai, cháu đừng làm bác gái buồn”.
Cô gái tròn như trái mít,
quanh năm quét rác trên đường, nhưng lại biết đủ thứ chuyện trên đời. Chính
cô đã dẫn Tùng đến gặp ông quyết. Nhờ vậy anh mới tìm được Dũng giữa cánh rừng
le ngút ngát.
Tùng bị nắng chiếu vào mắt.
Thức dậy, thấy mặt trời đã chênh chếch gần đứng bóng. Dũng đã thức từ lúc
nào. Anh ngồi tựa gốc cây, lơ đãng nhìn đi đâu đó. Thấy Tùng ngồi dậy, Dũng
nói: “Nhà mày ở gầm cầu tàu hỏa phải không? Hồi nhỏ có đá bóng ở sân Long
Biên không? Tao hay trốn nhà đến đó chơi. Có hôm cay cú vì thua, bọn tao lao
vào đánh nhau. Có thằng đấm tao tới chảy máu mũi, có khi là mày cũng nên”. Trầm
ngâm một lúc, Dũng lại nói: “Tao không tiếc gì hết. Chỉ thương ông bà già.
Nhà chỉ có tao với hai đứa em gái. Bây giờ chắc chúng nó đã vào đại học cả rồi”.
Ôm ngực ho mấy tiếng, Dũng lại nói: “Mày có người yêu chưa? Tao thì chưa bao
giờ. Hôm bị sập hầm trên cao điểm, tao ngất đi cả tiếng phải không? Mày biết
vì sao tao qua được, sống dậy không? Lúc đó, tự nhiên tao mơ thấy con Hoài
Thu, bạn học cùng lớp. Nó đến rủ tao đi xem phim. Bấy giờ Hà Nội
đang chiếu phim “Chú bé Di Gan”. Tao với nó đi bộ từ khu Ba Đình đến rạp
Tràng Tiền. Trời rét kinh khủng”.
Nói đến đó, Dũng duỗi
chân, thả người nằm tựa hẳn vào gốc cây cụt ngọn, cháy xém tro bụi. “Mày đi
lính 68 à? Tao đi từ năm 66. Lúc đó bạn bè chết vì sốt rét nhiều lắm. Tao
cũng mấy lần thập tử nhất sinh. Có hôm ngủ dậy, gọi thằng bạn, không nghe nó
ơi hỡi, tao cuốn tấm tăng lên, thò tay vào võng, thấy nó đã chết cóng. Lúc đó
sợ tới rùng mình. Chỉ muốn có địch để bắn nhau thí mạng, chết mẹ nó cho rồi.
Chết trên chiến trường còn quang vinh, chứ chết vì sốt rét, sợ lắm”. Thấy
Dũng lại ôm ngực ho nấc lên, Tùng nói: “Anh ngồi đây, để em đi kiếm thứ gì ăn
được. Bên kia đồi, biết đâu có người Vân Kiều hay người Pa Kô.
Tùng đi đến xế chiều mới về
tới nơi. “Em không gặp dân, nhưng gặp rẫy sắn của dân. Vác có hai ống quần sắn
mà mệt muốn ná thở”. Trong khi Tùng nhóm lửa nướng sắn, Dũng lại ngất đi. Chờ
Dũng tỉnh dậy, Tùng đưa cho anh mấy củ sắn đã bóc sạch lớp vỏ cháy đen. Thấy
Dũng ăn bị nghẹn, Tùng nghĩ, đêm nay phải tìm cách bắt mấy con tắc kè, may ra
Dũng mới khỏe lại được. Vết thương của Dũng đã bắt đầu có mùi. Thế này thì
khó mà dìu anh ta về tới N. Cách tốt nhất là Tùng phải một mình đến N, gọi
người vào cáng Dũng về cứ. Nhưng để Tùng ở lại một mình, lỡ có bề nào thì
sao. Biết đâu số anh em thoát được trận tao ngộ chiến, sẽ báo cho trung đoàn
đưa người vào tìm kiếm thương binh tử sĩ.
Rừng khuya im ắng đến kỳ lạ.
Nghe có tiếng tắc kè ném lưỡi vào đêm, nhưng không có đèn, làm sao mà tìm thấy.
Đành phải để đến sáng mai tìm cách khác.
Sáng hôm sau, Dũng thiếp
đi đến tận trưa không thức dậy nổi. Tùng lang thang trong cánh rừng loang lỗ
những vạt đất bị cày lên, đỏ bầm như máu vì bom và đạn pháo. Anh
tìm được một cái mũ sắt, liền đem về lấy sắn nướng cho vào đó, nghiền ra, rồi
đổ thêm nước vào. Vậy mà Dũng ăn vẫn bị nghẹn.
“Tùng này. Sức tao đã kiệt
lắm rồi, đằng nào cũng chết. Thôi, mày cứ một mình về trung đoàn. Sau đó có
điều kiện thì trở lại. Tao muốn được chôn xuống đất”. Quả là Dũng đã quá yếu.
Vết thương càng lúc càng bốc mùi khắm lặm. Phải liều mạng xuống suối
lấy nước rửa cho anh ta, nếu không, giòi bọ sẽ đục đến tận xương. Nhưng xuống
suối là điều không thể. Suối quá xa, lại phải đi ngược về phía cao điểm. Đành
phải đái vào cái mũ sắt, lấy nước tiểu mà rửa. Rửa xong, lau cho thật sạch,
chắc cũng không đến nỗi nào.
Nhờ làm cách đó mà Dũng có
vẻ tươi tắn được phần nào. Anh ta nghiến răng chịu đau đến chảy nước mắt, ngồi
yên cho Tùng lau chùi vết thương. Lúc Tùng băng lại xong xuôi, Dũng nắm tay
anh, thều thào: “Tự nhiên tao thèm ăn một quả xoài quá đi”. Nói xong, Dũng
hơi rướn người ngồi dậy, mặt đờ ra ngây dại. Tùng biết, mình có nói thì Dũng
cũng không nghe được. Nhưng Dũng chỉ có một ước muốn ấy. Mình đã gặp rẫy sắn
của đồng bào, nhất định sẽ gặp buôn làng của họ, nhất định sẽ có xoài, sẽ có
người dân vào giúp.
Mới mờ sáng, Tùng đã cắt rừng
đi về phía rẫy sắn. Anh tìm được mấy ngôi nhà sàn xệch xạc, trống huơ thống
hoác, mốc meo mùi bỏ hoang. Không có một thứ gì khả dĩ có thể đựng được nước.
Nhưng may mắn là anh đã tìm được mấy quả xoài xanh.
Tùng về tới nơi lúc trời
chiều bầm đỏ. Dũng nằm mê man. Tùng lay gọi hàng chục lần anh mới tỉnh. Nhìn
thấy quả xoài, mắt Dũng vụt sáng, miệng nở nụ cười méo xệch. Anh cầm qủa xoài
lên, ấp nó vào ngực, rồi hôn nó mấy cái, sau đó mới cắn một miếng lớn, nhai
rau ráu ngon lành.
Ăn hết quả xoài, Dũng cầm
tay Tùng áp lên ngực mình, nở nụ cười yếu ớt: “Tao đi đây! Chúng nó đang gọi”.
Đầu Dũng gật sang một bên, lả xuống. Bàn tay vẫn còn nắm bàn tay của Tùng.
6.
Sư đoàn theo tiếng súng tiến
về phía trước, nhưng Tùng thì tụt lại. Một mảnh pháo đâm lủng lá phổi bên
trái của anh. Một mảnh pháo khác cắt ngắn ruột non của anh một khúc. Một mảnh
bom rạch ngực anh thành đường rảnh sâu hoắm. Hai viên bi chui vào ngủ
trong bụng dưới. Đẹp nhất là viên AR15 xuyên thủng hai má thành lúm đồng tiền,
lúc anh vọt lên khỏi công sự, há miệng hô xung phong. Tất cả họp nhau, xui
khiến Tùng trốn tránh những nơi ồn ào, hội hè, và nhiều phụ nữ.
“Con ơi- mẹ của Dũng nói-
ngày mai có chuyến hàng quần áo gởi tặng bà con các tỉnh miền Trung, bố mẹ muốn
theo chuyến hàng ấy vào Quảng Trị, con sắp xếp đi luôn được không?”.
Anh Quân, cán bộ Sở Lao động
thương binh tỉnh, lật hồ sơ, tìm được tên Dũng, nhưng anh không xác định được
Dũng nằm xuống ở nơi nào, giữa trùng trùng đồi núi huyện Lao Bảo. Tất cả là
nhờ vào sự liên lạc từ xa với ông Quyết. Khi tìm được ngọn đồi từng là cao điểm
A6, ông bà Lâm tuổi cao sức yếu, đành phải ở lại nhà khách huyện ủy.
Buổi sáng, hai ông bà chỉ
uống cốc sữa. Buổi trưa, hai ông bà không nuốt nổi hột cơm. Họ dìu nhau ra ngồi
bên gốc bồ đề sum suê cạnh đường 9. Cả hai lặng lẽ tựa vào nhau, nhìn vọng về
phía ngọn đồi A6.
Rất lâu. Rất lâu. Chợt bà
Lâm nắm tay chồng, khóc nấc lên: Ông ơi, thằng Dũng nó về tới rồi này!
Nhìn ra, chỉ thấy đường 9
uốn vút một đường cong mềm mại.
|
|
Dấu ấn cuộc đời
Má Bảy sống với người con
dâu ở làng, bởi má nhất định không chịu lên thành phố sống với người con trai
duy nhất còn lại sau chiến tranh.
Chồng má chết trào chống Mỹ.
Bấy giờ tôi vừa tròn chín tuổi. Hôm đó tôi qua bắn chao chảo bên vuông vườn của
má. Trời trưa, khát nước, tôi đến khạp nước vục đầy một gáo dừa, tu ừng ực. Uống
vừa xong, thốt nhiên tôi thấy má chạy từ trong nhà ra ngoài sân, đầu tóc xõa
xượi, hai mắt chỏng lơ. Má quơ tay lên trời, kêu "ông ơi" , rồi ngã
chúi nhủi xuống sân. Chừng tỉnh giấc, má thổn thức nói với chòm xóm,
"tui thấy ổng máu me cùng mình, nhìn tui trân trối". Sau này xã nhận
được giấy báo tử của đơn vị, rằng bác trai đã hy sinh đúng vào ngày hôm ấy.
Chuyện linh thiêng, không biết đâu mà nói.
Năm mười bảy tuổi, tôi vào
du kích xã, cùng tiểu đội với hai người con trai của má. Người con lớn tên
Hai Toàn. Người con thứ tên Ba Thắng. Hai Toàn hơn tôi hai tuổi. Ba Thắng bằng
tuổi tôi. Tiểu đội tôi có Ba Cúc, nhỏ con mà tròn lẳn, rất có duyên. Hai Toàn
với Ba Cúc yêu nhau. Má Bảy biết vậy, có miếng gì ngon cũng tìm cách gởi cho
Ba Cúc. Vậy mà Hai Toàn và Ba Cúc cùng hy sinh một lượt trong trận chống càn ở
đồng một trăm.
Gọi đồng một trăm, bởi
cánh đồng đó rộng chừng trăm công. Bữa đó tiểu đội chúng tôi đang băng đồng
thì đụng tao ngộ chiến. Trời tối hù tối hịt. Chúng tôi nằm rạp giữa đồng trống,
bắn văng mạng ra tứ phía. Chừng ngớt tiếng súng, mạnh ai nấy rút về cứ. Tới
nơi, điểm quân mới biết thiếu Hai Toàn và Ba Cúc. Chúng tôi bám đồng trở lại,
tìm được xác hai người. Má Bảy như người mất hồn, gục xuống xác con trai, ngất
xỉu. Xã đội trưởng cho chôn hai người hai ngôi mộ song song trong vuông vườn
của má. Tối nào má cũng lặng lẽ thắp nhang trước hai nấm mộ. Và hình như từ
đó, má không ngủ được thì phải.
Gần cuối năm 1974, Ba Thắng
bị địch phục kích bắt được ở Giồng Ké. Cảnh sát Hồng, nghe đâu đang tra khảo
Ba Thắng, bất ngờ bị anh dùng đầu húc hạ bộ, té lăn cù trên bờ kinh. Điên tiết,
nó dí khẩu côn vào màng tang anh bóp cò. Nhờ mấy má ở làng kéo lên đấu tranh
mới lấy được xác Ba Thắng đem về chôn cùng chỗ với anh trai. Người con út của
má lúc đó là Tư Trận, mười sáu tuổi, nhào vô du kích với nỗi thù căm cắm thằng
Hồng, thề độc bắt được Hồng sẽ moi gan ăn tái.
Tư Trận đánh đồn, lận lưng
được khẩu julô, thường lén phục đường đón lỏng thằng Hồng. Có hôm anh giả làm
thằng nhỏ chạy ghe bí lên chợ quận, ngồi cắm quán rình thằng Hồng cả buổi. Xã
đội trưởng dọa kỷ luật mấy lần, nhưng Tư Trận chứng nào tật nấy, vẫn không hề
rung rinh ý định trả thù.
Cuối cùng rồi Tư Trận cũng
thộp được thằng Hồng, khi hắn bỏ đồn đi o mèo ngoài chợ quận. Hôm đó Tư Trận
neo chiếc ghe nhỏ chở dừa, ngồi trên ghe rình thằng Hồng từ chiều. Nhá nhem,
thằng Hồng dẫn hai đứa đàn em ra quán Tư Béo kêu mồi nhậu. Tư Trận lợi dụng
bóng đêm, lẻn vô buồng Tư Béo núp sẵn dưới gậm giường. Tụi lính nhậu
ngã ngớn tới giác chín giờ tối thì hai thằng lính say gục tại bàn. Thằng Hồng
chừng đó mới lôi Tư Béo vào buồng. Hắn lột quần áo và khẩu côn để ngay mép
giường. Tư Trận núp dưới giường, thò tay kéo được khẩu côn, lừng lững đứng vụt
dậy, dí súng vào màng tang thằng Hồng bóp cò. Hồng té vập xuống người Tư Béo
một đống. Tư Trận vọt ra, khỉa nốt hai viên vào đầu hai thằng lính say gục
trên bàn, tiện tay vơ luôn hai khẩu AR15 và mấy dây đạn, chạy biến vào bóng tối.
Lính trong đồn quận nghe động, bắn hỏa châu đỏ trời, nhưng không thằng nào
dám ló ra dò xét.
Sau bận đó, xã đội bắt Tư
Trận phải đi học trường thiếu sinh quân của tỉnh. Kế tới hòa bình, Tư Trận lại
được cử đi học trường bổ túc văn hóa tập trung của tỉnh. Hết lớp 12, Tư Trận
được điều về làm cán bộ kinh tài của huyện.
Hai bên dòng họ gia đình
má Bảy đều tham gia kháng chiến. Chết cũng nhiều mà sống cũng nhiều. Người chết,
có người tìm được xác đưa về nghĩa trang, có người không tìm lấy được một
lóng xương. Người sống, có người làm cán bộ lớn trên huyện, trên tỉnh, trên
thành, có người cũng chỉ về làm vườn làm ruộng. Tư Trận bấy giờ chỉ là cán bộ
loàng xoàng, anh về quê cưới Út Đẹp làm vợ.
Út Đẹp mồ côi cả cha lẫn mẹ
từ nhỏ. Một trái bom rơi trúng nhà cô vào giữa bữa cơm chiều. Hôm đó Út Đẹp
qua nấu thuốc cho ngoại nên sót lại. Từ khi về làm dâu nhà má Bảy, Út Đẹp
không bao giờ ra khỏi làng. Cô cùng mẹ chồng chăm nom mấy công vườn và chục
công ruộng. Ruộng vườn ràng rịt cô thì ít mà mẹ chồng ràng rịt cô thì nhiều.
Không phải là má Bảy thúc ép gì cô, nhưng bởi má Bảy không chịu xa bốn cái mộ
trong vườn; thậm chí má còn không chịu để xã đem hài cốt các con ra nghĩa
trang của huyện. Má cứ vậy mà già đi bên nấm mồ những người đã khuất.
Tội nhất là những lần làm
đám giỗ cho chồng, bao giờ má cũng nước mắt lưng tròng, níu kéo ủy ban, van
vái họ tìm giùm xác chồng đem về cho má. Lúc Tư Trận lên tỉnh công tác, anh
bàn với những người bà con ở cùng trong xóm, kiếm đại một cái quách, để vào
đó một vài di vật của cha, đem về an táng trong vườn cho mẹ an lòng. Cuối
cùng rồi mọi người cũng đành làm theo cách đó để an ủi người mẹ đang mỗi ngày
mỗi héo hon trong đau khổ.
Lúc Tư Trận còn ở huyện,
Út Đẹp đeo bầu, nhưng chỉ sanh được cái thai trứng. Lúc Tư Trận lên tỉnh, Út
Đẹp lại đeo bầu, nhưng lần này cái thai bị chết non. Lần có bầu thứ ba thì Tư
Trận đã là Tổng giám đốc một công ty xuất nhập khẩu. Anh đưa vợ lên thành để
tiện chăm sóc thai nhi. Má Bảy gởi nhà cửa, ruộng vườn cho chòm xóm, theo
nuôi con dâu thai nghén. Nhưng rồi tới tháng thứ tám, cái thai cũng chết
trong bụng mẹ. Má Bảy với con dâu lại về quê. Thời kỳ này công ty của Tư Trận
làm nên ăn ra sao đó mà báo chí đăng tin ca ngợi rầm rầm.
Mỗi lần coi ti vi, thấy
con trai vung tay múa chân trên màn hình, má Bảy không vui mà buồn. Nhiều lần
má nói với Út Đẹp:
- Út à, bây lên với chồng
bây, giữ chồng bây cho má yên tâm.
Út Đẹp không dứt được khỏi
mẹ chồng. Cô thấy mình không thể xa được mẹ. Đã nhiều lần cô bắt gặp mẹ ngồi
câm lặng hàng giờ trước mấy ngôi mộ trong vườn. Bà lầm rầm nói chuyện với người
bên kia như nói với người còn sống. "Ông ơi! Ông sống khôn chết thiêng,
ông độ cho hai đứa nó có mụn con, ông ơi!". Út Đẹp nghe vậy,
chỉ biết nằm lặng trên giường mà khóc. Hai mẹ con sống ở làng cứ quắt quéo
theo thời gian, cỗi cằn theo năm tháng.
Nhưng rồi Út Đẹp lại có bầu
lần nữa. Tin cho Tư Trận hay, Tư Trận chỉ thư về, dặn ráng giữ gìn cẩn trọng,
cần nhiêu tiền cứ nói, chứ anh lu bu công việc bù đầu không về được. Tội nghiệp
người mẹ già. Lụm cụm ngoài bảy mươi mà cứ giành hết công việc về mình. Bà lo
cho dâu, cho cháu. Tối nào bà cũng thắp nhang trong nhà, ngoài sân, ngoài
ngõ, ngoài mấy nấm mộ trong vườn. Lửa nhang cháy rưng rưng. Nước mắt hai mẹ
con cũng cháy rưng rưng. Ngày Út Đẹp gần chuyển bụng, má nhờ uỷ ban xã điện
cho con trai. Con trai cử tài xế đánh xe về chở mẹ và vợ lên bệnh viện tỉnh,
gởi nhờ khoa nhi săn sóc dưỡng thai. Còn anh, anh bận lu bu công việc xuất nhập
bù đầu trên thành không về được.
Viện tỉnh còn nghèo, sản
phụ lại đông, má Bảy mua manh chiếu trải nằm ngoài hành lang, lúc nào cũng dỏng
tai phòng hờ nghe con dâu trở mình thột giấc, không lúc nào dám rời con dâu một
bước. Gặp ai má cũng nhờ, có gì thì giúp má một tay.
Út Đẹp nằm dưỡng thai đến
ngày thứ bảy thì xã cử người lên nhắn má Bảy về gấp dự Lễ tuyên dương mẹ Việt Nam anh
hùng. Cán bộ bệnh viện và những người đi nuôi sản phụ, ai cũng khuyên má cứ
yên tâm về một vài hôm, có gì họ sẽ lo chu tất giùm cho. Nhưng má lắc đầu trước
hết thảy mọi lời khuyên. Má hồi hộp đợi chờ dòng máu của dòng họ chồng ra đời.
Ngày Út Đẹp chuyển bụng,
nghe Út la khóc trong phòng sanh, má Bảy quýnh quáng, qùy sụp ngay trước cửa
phòng sanh khấn vái. Út càng la khóc má càng quýnh, quýnh tới mức chạy quáng
quàng qua lại dọc theo hành lang. Thấy giỏ đồ của ai có bó nhang, má chụp
ngay một nắm, xoè lửa hộp quẹt châm lên, rồi túm lấy trái bưởi của ai đó cặm
ngay vào để cầu trời khẩn phật. Chừng nghe tiếng trẻ khóc oa oa, má từ từ sụm
xuống, chết giấc tới nửa tiếng đồng hồ.
Vào cái ngày đứa bé ra đời,
cơ quan của Tư Trận bị khởi tố về tội làm thất thoát hàng tỉ bạc. Không ai
dám báo cho má Bảy tin này, họ sợ má sẽ bị nhồi máu cơ tim. Nhưng rồi tới
phiên Tòa thì… dù cần thiết phải báo cho má biết, nhưng ngay cả đảng ủy, uỷ
ban xã cũng không dám cho má hay tin. Họ thấy đau cho má Bảy qúa. Tư Trận biết
đánh giặc, chứ làm ăn kinh tế lại là chuyện khác.
Bí thư đùn cho chủ tịch.
Chủ tịch đùn cho công an. Đùn đẩy mãi không được, mọi người đành ủ ê kéo tới
sắp hàng cúi đầu trước má. Ai dè má là người nói trước.
- Bây thương, bây đưa tao
đi dự phiên Tòa.
Té ra má biết hết, biết từ
lâu.
Lần đó má ngồi coi ti vi,
tình cờ thấy người ta luận tội con trai của mình về việc yếu kém năng lực,
buông lỏng cho cấp dưới làm ăn sai nguyên tắc; má ngồi chết lặng cả tiếng đồng
hồ. Rồi má sực nhớ con dâu đưa đứa bé đi chích thuốc sắp về, liền lật đật tắt
ti vi, kiếm thanh tre mỏng thọc vô lỗ hở, quậy cho nó hư đi. Má sợ Út Đẹp
nghe được như má, sẽ hoang mang lo lắng mà mất sữa nuôi con.
Sáng hôm ra đi, má Bảy dậy
sớm, nói thác với con dâu là có việc phải đi thăm người bà con. Út Đẹp nghe vậy,
sụp xuống chân má oà khóc.
- Má! Má để con bồng cháu
lên với ảnh! Má đừng đi! Thương tâm lắm má ơi! Má làm sao chịu đựng nổi phiên
Tòa!
Trời ơi, con dâu của má!
Thì ra nó cũng biết, cũng giấu má, âm thầm chịu đựng nỗi đau riêng mình như
má. Vậy là hai mẹ con ôm nhau khóc ròng cho tới lúc xuống ghe.
Khi Tòa tuyên án Tư Trận
hai mươi năm tù giam, người ta thấy có hai người đàn bà khẳng khiu bồng một đứa
bé, dìu nhau lảo đảo bước về phía vành móng ngựa. Người đàn bà tóc bạc trắng
là má Bảy. Má bồng đứa cháu trên tay, đưa cao đứa bé về phía người con trai vừa
bị còng, khóc mếu máo:
- Con bây nè Tư!
Đôi mắt ráo hoảnh của Tư
Trận thốt dàn dụa.
Người ta thấy Tư Trận từ từ
sụm xuống, lả ra như tàu lá chuối. Cả phiên Tòa lặng hẳn đi, tưởng
đã đông cứng lại tới ngộp thở.
|
Hồ Tĩnh Tâm
Theo http://www.vanchuongviet.org/
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét