Truyện ngắn của Hồ Tĩnh Tâm 2
Điều kỳ lạ của thế giới
Là nói cho vui, bởi nó
thương ngoại, xin về ở với ngoại. Dù còn nhỏ, ngoại vẫn coi nó là một chàng
trai, dành riêng cho nó một phòng. “Chàng trai” chứng tỏ bản lĩnh nam nhi chi
chí của mình, bằng việc xuất tiền lì xì, mua một cái bể cá, cùng mấy con cá
ba đuôi to như nắm đấm về nuôi. Đã nuôi cá, tất nhiên phải lo cho cá. Nó rinh
về lủ khủ máy bơm khí, lọc nước, rong nhựa, thảm cỏ nhựa, tượng nhỏ ngư tiều
canh mục bằng sành… và cả mấy lọ thức ăn cho cá. Rồi không biết nghĩ thế nào,
mới bảnh mắt ngày đầu năm, nó chạy xe đạp đến nhà tôi, bảo biếu anh Nhân cái
cần câu máy.
Cái cần câu này tự nó mua
hay ai mua cho nó thì tôi không biết. Có điều tôi biết chắc, nó nghe con gái
tôi nói, anh Nhân ở bên Nhật rất thích câu cá; nhưng không phải câu chơi, mà
câu để cải thiện bữa ăn, bởi lẽ sông suối ở xứ hoa anh đào cá nhiều lắm. Có lẽ
nó cho để nhắm vào mục đích thiết thực ấy.
Tôi hỏi: “Bộ con chán câu
cá rồi sao?”. Nó lắc đầu. Lại hỏi: “Vậy sao không giữ cần câu?”. Nó trả lời gọn
lỏn: “Cho anh Nhân”. Rồi thì nó cười lỏn lẻn, thót lên xe đạp về nhà.
Cái thằng thế đấy. Lúc nào
cũng cười lỏn lẻn. Giá có máy đếm chữ như máy đếm tiền, giỏi lắm cũng chỉ đếm
được nó nói mỗi ngày vài trăm chữ là cùng. Mỗi lần anh em nó đến nhà tôi, thằng
anh càng nói bao nhiều, thằng em càng im lặng bấy nhiêu. Khi thấy bất tiện về
sự ít nói, nó vớ lấy một cuốn sách, nằm dài ra ghế xa lông mà đọc. Hỏi nó
sách hay không, nó gật đầu với mỗi một tiếng: “Hay!”. Hỏi hay thế nào. Nó cười
lỏn lẻn: “Dượng đọc thì biết”. Ấy! Đó cũng là một cách mà tôi phải học ở nó.
“Ngậm miệng ăn tiền”. Dại khôn, phúc hoạ cũng ở cái miệng mà ra cả.
Một lần hai con thằn lằn cắn
nhau trên tường, một con rớt xuống, khúc đuôi bị đứt lìa ra, giãy đành đạch.
Tôi thấy nó buông cuốn sách, nhìn lom lom cái đuôi đang búng búng. Khi tôi bước
đến, nó cười lỏn lẻn và nói: “Đuôi thằn lằn”. Tôi phát vào mông nó
một cái, hỏi: “Đuôi thằn lằn thì sao?”. Nó lại nhìn tôi cười lỏn lẻn: “Cái
đuôi thằn lằn sẽ mọc”. Nói xong, nó chúi đầu vào cuốn sách. Tưởng nó mãi đọc
sách, đã quên chuyện cái đuôi con thằn lằn, bỗng nhiên nó cất tiếng hỏi tôi:
“ Dượng Ba thấy đuôi thằn lằn câu thia thia chưa?”. Quả thật là tôi chưa thấy,
nên tôi nhìn nó rất ngạc nhiên. Nó ngước cặp mắt to như hai cái bóng đèn nhìn
tôi, cùng miệng cười lỏn lẻn: “Thằn lằn thọc đuôi xuống, con cá vừa đớp là nó
giật văng ra ngoài”.
À, ra cái thằng này từng
nuôi cá thia thia. Hỏi nó có đá cá thia không, nó lắc đầu. Một lúc sau nó cười
lỏn lẻn: “Cá thia bị cắn rách đuôi, cũng mọc lại như đuôi thằn lằn”. Tôi hỏi:
“Mầy nuôi chơi không đá, sao biết cá mọc đuôi?”. Nó cười lỏn lẻn: “Con thấy”.
“Mầy không đá, làm sao thấy?”. Nó lại cười: “Tụi nó đá thiếu gì”.
Hôm đến mừng tuổi tôi, nó
đứng im lặng hồi lâu trước bể cá “tả pí lù” của tôi, rồi cười lỏn lẻn: “Làm
sao nước không màu, mà sinh ra cá nhiều màu, há dượng Ba?”. Chỉ bi nhiêu đó
mà suốt mấy ngày Tết tôi cứ quẩn quanh nghĩ mãi.
Ừ nhỉ! Trên đời, cái không
màu mè gì, lại sinh ra không biết bao nhiêu là màu. Thế giới kỳ lạ vậy đó!
|
Mùa xuân dìu dịu
Cõi hoang thăm thẳm
Dòng sông tuổi thơ
- Nếu cứ đi riết trên sông
như vầy, có ra tới biển được hôn anh Ba?
Bấy giờ tôi đã mười lăm tuổi,
còn Út mới lên mười, vậy mà không hiểu tại làm sao tôi cũng nói được một câu
có vẻ ra trò lắm.
- Suối chảy về sông, sông
chảy về biển. Tất cả các dòng sông đều chảy về biển. Biển mênh mông bát ngát.
Biển rộng lắm!
Ngày tôi nhập ngũ, tới lượt
Út chạy coler chở tôi từ xã lên huyện. Dọc đường, Út lại hỏi tôi :
- Hết nghĩa vụ, nếu anh Ba
không về thì đi đâu ?
Bấy giờ Út mười lăm tuổi,
còn tôi đã hai mươi. Tuổi hai mươi là tuổi sôi trào ước vọng, bởi vậy tôi mới
trả lời :
- Thì anh sung vô lính
biên phòng, anh ra đảo vẫy vùng với biển .
Nghe tôi nói vậy,Út hỏi một
cách rất thật thà :
- Phải vậy thiệt hôn anh
Ba ?
Tôi nhìn những dề bông tra
vàng rực trôi dập dềnh cặp theo mé sông, trả lời Út một cách không mấy làm tự
tin cho lắm :
- Chừng đó rồi Út biết liền
hà !
Út là con bác Tám, nhà
cách nhà tôi một ranh đất. Cả hai nhà đều cất cặp theo ngọn xẻo đổ ra con rạch
khá lớn. Thuở nhỏ, tôi với Út vẫn thường ôm bè chuối giỡn nước ngay bến cây
còng trước cửa nhà Út.
Hết thời gian tập trung huấn
luyện ở Chi Lăng, tôi được chuyển qua bộ đội biên phòng, rồi được biên chế
vào một phân đội canh giữ một hòn đảo nhỏ, xa cách đất liền vời vợi giữa
trùng dương. Nói là phân đội chứ thực ra chỉ có năm người, bởi hòn đảo qúa nhỏ,
đứng bên này hú to một tiếng bên kia cũng có thể nghe được.
Đảo nhỏ nên chúng tôi cũng
chẳng có mấy công việc để làm. Công việc quan trọng nhất của chúng tôi là trực
máy thông tin vô tuyến, giữ liên lạc định kỳ với đảo lớn cách mấy chục hải
lý, và trực đài quan sát. Thời gian còn lại, chúng tôi dành để bắt cá, để
nghe radio, và để nằm khểnh tán dóc nổ trời với nhau.
Trong năm anh em cùng phân
đội, tôi là người duy nhất có được tấm hình chụp chung với Út lúc chia tay ở
chợ huyện. Trong hình, Út có vẻ lớn hơn tuổi mười lăm ở ngoài đời, và cũng đẹp
hơn ở ngoài đời rất nhiều. Không hiểu tại làm sao, ngay từ lần đầu nằm tán
dóc với nhau ở đảo, tôi đã móc tấm hình đó ra khoe với bạn bè, khiến bạn bè lầm
tưởng Út là người yêu của tôi. Giữa trùng dương vời vợi, chẳng có gì ngoài tầm
tả mưa tuôn, ngoài ầm ào sóng vỗ, và chang chang nắng lửa nhảy múa chói lóa
trên sóng biển, ngay chính bản thân tôi, tôi cũng mặc nhiên coi Út như người
yêu chung thủy của mình.
Ở đảo, chúng tôi ai cũng
có thói quen ghi nhật ký. Ghi nhật ký để giết thời gian, và để nguôi đi nỗi
nhớ nhà cồn cào như trùng trùng sóng bạc đầu trắng xóa. Bởi công việc ngày
nào cũng như ngày nào, thành thử ai trong chúng tôi dần dà cũng tập được thói
quen ghi lại cảm nghĩ của mình về nỗi nhớ đất liên tới cháy bỏng trong tim. Với
tôi, Út vẫn thường hiện về với những kỉ niệm hồn nhiên bên dòng sông tuổi thơ
trong tiềm thức. Nhưng không phải là cô Út lên tám, lên mười, hay cô Út mười
lăm tuổi chạy máy coler đưa tôi lên đường nhập ngũ ; sống dậy trong từng câu,
từng chữ của tôi là cô Út mười tám, đôi mươi mà tôi tưởng tượng ra. Có những
đêm tôi nằm mơ thấy Út, giật mình choàng thức dậy, nhìn ra chỉ thấytrăng vàng
chứa chan trên biển ; không kìm được cảm xúc, tôi một mình chạy cuồng ra biển
sóng, vùi tấm thân bỏng cháy của mình xuống làn nước mặn chát của đại dương,
để mà thầm khóc gào lên nỗi nhớ. Út đã hóa thành quê hương, hóa thành một tôi
thứ hai, tồn tại đồng hành trong tôi, thân thuộc, gần gụi trong tôi đến lịm
người.
Hồi đó, mỗi tháng chúng
tôi mới nhận được một chuyến hàng tiếp tế chở tới từ đảo lớn. Những lá thư từ
đất liền bao giờ cũng là niềm khát đợi lớn lao và thiêng liêng nhất. Chúng
tôi chuyền nhau đọc những lá thư nhà tới thuộc lòng. Nhà tôi chỉ có hai chị
em. Chị tôi đi lấy chồng xa, mẹ tôi không biết chữ, nên nhất nhất thư từ gì mẹ
cũng phải nhờ Út viết giùm và đọc giùm. Bởi viết giùm cho mẹ tôi nên Út chưa
bao giờ viết riêng cho tôi một lá thư nào, mà thường là Út chỉ ké vào đó một
vài dòng, nói rằng Út rất nhớ tôi, rất nhớ những kỉ niệm bên dòng sông tuổi
thơ của chúng tôi. Một cô gái quê mười bảy tuổi thì còn biết viết gì hơn thế
nữa. Nhưng tôi đọc được trong từng nét chữ Út viết giùm những ý nghĩ, những
nhắn gởi của mẹ tôi, cả một bầu trời, cả một đại dương cuồn cuộn tình cảm mà
Út dành cho tôi.
Trung úy phân đội trưởng của
chúng tôi là người đã có vợ, có con, có lần nói với tôi :
Biết là phân đội trưởng
nói đúng, nhưng tôi vẫn cứ thấy mình hình như bị xúc phạm về tình cảm. Tại
sao lại chưa có gì gắn bó lắm cơ chứ. Chúng tôi sống cặp ranh đất với nhau từ
thời tôi còn vận quần xà lỏn thọt me dốt cho Út. Tôi với Út từng ôm bè chuối
giỡn nước dưới bến cây còng. Út từng theo tôi lội vô đồng dậm cù bắt chuột…
Dường như phân đội trưởng
đọc được dòng ý nghĩ đang chạy trong đầu của tôi, anh vỗ vai tôi mà nói:
- Chú mầy đừng tự ái nhen! Những cái mà chú mầy đã có được với cô nàng một cách hồn nhiên, trong sáng
mới là đáng qúy. Cảm xúc của mối tình đầu mới chớm nở từ lúc chia tay như
tình cảm của chú mầy, chú mầy cần nói với nàng. Tháng sau anh được đổi về đất
liền, anh sẽ tìm đến tận nhà để chuyển giùm chú mầy lá thư đó.
Phân đội trưởng của chúng
tôi đã có hai năm sống trên hòn đảo nhỏ này, ba năm sống trên hòn đảo lớn,
đương nhiên là anh cần được đổi về đất liền. Nhưng khi nghe anh sắp được đổi
địa bàn công tác, lòng tôi tự nhiên cứ xốn xang thế nào. Tôi còn một năm nữa
mới hoàn thành nghĩa vụ của người lính đảo. Bấy giờ tôi sẽ trở về dòng sông
tuổi thơ hay sẽ tiếp tục xin được tại ngũ. Hồi chia tay Út, tôi đã từng nói với
Út, rằng tôi sẽ ra đảo, sẽ vẫy vùng với biển cho thỏa chí nam nhi.
Nhớ lại điều đó, tôi nói với
phân đội trưởng :
- Em cũng muốn được sống
như anh. Xa cách vời vợi mới có được nỗi nhớ sâu thăm thẳm để mà yêu thương
nhau hết mực anh ạ !
Trung úy phân đội trưởng về
đất liền được bốn tháng, thì tôi nhận được lệnh gọi tập trung về trường bổ
túc văn hóa của bộ đội biên phòng cực nam duyên hải ôn tập, để chuẩn bị thi
vào trường sĩ quan biên phòng.
Nỗi nhớ đất liền cồn cào
đã xúi tôi chấp nhận ngay lệnh gọi mà không hề có một ý kiến đề xuất gì đối với
cấp trên. Với tôi lúc bấy giờ, điều cần nhất là cứ được về đất liền để chạy
ngay về quê thăm mẹ và thăm Út cho đã nhớ, rồi sau đó muốn tính gì thì tính.
Nhưng sự đời nó không theo đúng như mong muốn của mình. Khi tôi về tới trường
bổ túc của quân chủng, thì cũng vừa đúng dịp nhà trường chuẩn bị khai giảng
khóa học. Vậy là đành phải ở lại, đành phải ôm nỗi nhớ chờ đợi.
Suốt hai ngày nằm chờ khai
giảng, việc đầu tiên của tôi là viết cho mẹ và cho Út một lá thư, thời gian
còn lại tôi thả bộ lang thang khắp thị xã, để được tận hưởng nhịp thở hôi hổi
nóng của đất liền trong thời đổi mới.
Vốn mê đọc sách từ nhỏ,
khi bắt gặp hiệu sách của thị xã, tôi đã tấp ngay vào đó. Đáng lẽ chọn mua
sách thì tôi lại đọc nghiến ngấu mỗi cuốn mấy trang một cách say sưa. Thói
quen đi mua sách của tôi bao giờ cũng phải xem lướt qua và đọc trước vài
trang; tôi đọc để chọn trước hết là những cuốn có vấn đề khả dĩ hấp dẫn được
tôi, sau đó là chọn lối hành văn có thể làm tôi yêu thích. Tôi đang đọc say
sưa, bỗng giật mình khi nghe có tiếng hỏi ở sau lưng. Ngoảnh lại, tôi nhận ra
người hỏi mình là cô gái bán sách còn rất trẻ.
- Anh là lính ngoài đảo mới
về phải không ? nhìn gương mặt cháy nắng của anh, em đoán vậy thôi.
- Vâng, tôi là lính biên
phòng ! Tôi về tập trung học văn hóa.
- Hèn chi anh mê sách qúa
trời. Để em chọn giùm anh vài cuốn nghen !
Tôi chưa biết cú sét ái
tình là gì, nhưng trước ánh nhìn lúng liếng của cô gái, tôi thấy mình trở nên
có qúa nhiều thứ thừa thải ở trên người.
Vậy mà khi trả tiền sách,
tôi vẫn hỏi được một câu, khiến sau này tôi bị ràng buộc bởi vì nó rất nhiều.
- Tôi tên Quốc. Nguyễn Văn
Quốc. Còn cô… cô tên gì ?
- Em tên Út Thu. Nhà ở mị
ngoài cầu Đá. Hôm nào chủ nhật em cũng ở nhà với mẹ. Anh đến chơi nhen!
Tất nhiên là tôi không từ
chối lời mời của một cô gái đẹp. Có một sức mạnh nào đó cháy lên trong tôi, dẫn
tôi đến với Út Thu liên miên hết chủ nhật này đến chủ nhật khác. Chủ nhật nào
có việc phải ở lại trường, chủ nhật đó lòng tôi nóng như lửa đốt, làm việc gì
cũng không ra đâu vào đâu. Và… hình như tôi đã không còn nhớ tới cô Út bé bỏng,
nhà ở cặp ranh đất với tôi, đã chạy máy coler đưa tôi lên huyện
ngày nhập ngũ. Thỉnh thoảng viết cho mẹ một lá thư, tôi mới nhớ tới Út, mới gởi
kèm cho Út vài chữ. Đó thường là những lời hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm xem Út
đã có người yêu chưa… Và tất nhiên, những lá thư mẹ gởi cho tôi là vẫn do Út
viết giùm. Cuối thư bao giờ cũng có thêm vài dòng của Út. Nhưng những dòng đó
đã không còn đem lại cho tôi những cảm xúc rạo rức. Trong thâm tâm, tôi tự biện
minh rằng, tôi với Út chỉ như anh em cùng xóm với nhau vậy thôi; giả như tôi
có ngõ lời cầu hôn với Út Thu, tôi cũng không có gì phải hối tiếc, phải ân hận
đối với Út bên dòng sông thơ mộng của tuổi thơ. Nói như phân đội trưởng của
tôi, tôi với Út đã có gì gắn bó với nhau lắm đâu. Tất cả chỉ là những cảm xúc
của tuổi mới lớn khi xa nhau vậy thôi.
Vào một buổi sáng thứ bảy,
tôi vừa từ lớp học trở về dãy nhà của trung đội, thì được trực ban thông báo
là tôi có khách.
Bốn tháng kể từ khi tôi về
trường ôn thi, tôi chỉ có một người khách duy nhất, đó là Út Thu. Nhưng thường
Út Thu chỉ đến thăm tôi vào chiều chủ nhật, nếu chủ nhật đó tôi có việc không
đi thăm mẹ con Út Thu được. Nay Út Thu đến vào trưa thứ bảy, chắc là có việc
gì cần lắm. Nghĩ vậy, tôi chạy như lao về nhà khách.
Trời ạ! Khách của tôi
chính là trung uý phân đội trưởng. Vừa thấy tôi, anh đã vỗ vai nói oang oang
như kiểu ăn sóng nói gió của lính đảo.
- Chào! Khỏe mạnh chớ
trung sĩ? Chiều thứ bảy nghỉ học, anh em mình ra bến cảng làm một chầu nghen!
Có thằng nào chí cốt, rủ thêm vài thằng cho vui. Bữa nay anh khao để rửa lon
luôn thể.
Tôi kéo hai thằng bạn cùng
lớp. Trận nhậu đang tưng bừng, thốt nhiên phân đội trưởng hỏi tôi:
- Nè, lóng rày chuyện cô
Út tới đâu rồi?
Tôi chưa kịp trả lời, hai
thằng bạn đã mau miệng.
- Khỏe re anh ơi! Chủ nhật
nào hai đứa nó cũng gặp nhau. Dám chừng kỳ này nó thi đậu trường
sĩ quan, tụi em được uống rượu đã đời.
-Giỏi! Chúc mừng chú mầy!
Con nhỏ đó giỏi hết biết! Cấp tao ghé nhà, bà già mầy bệnh dữ lắm, nó ở săn
sóc bả tối ngày. Vậy mà cấm hé một lời cho mầy biết phải không? Má mầy coi nó
như con dâu. Đám cưới nhớ báo anh trước một tháng nghen mầy! Tuần sau anh được
nghỉ, chuẩn bị ra đảo Thổ Chu. Chú mầy tranh thủ xin phép mấy ngày, tiện thể
anh em về thăm cô vợ chưa cưới của mầy luôn.
Vậy đấy. Mẹ tôi bệnh mà
tôi có biết đâu. Cô Út bé bỏng bên dòng sông tuổi thơ của chúng tôi, cô không
hề viết một dòng về điều đó trong những lá thư viết giùm cho mẹ. Làm sao tôi
biết được là mẹ tôi bệnh nặng. Lá thư nào Út cũng viết giùm mẹ một câu muôn
thuở: Mẹ khỏe mạnh. Con ráng học hành công tác cho bằng anh bằng em. Trong
khi đó, tôi tối ngày chỉ biết có Út Thu. Út Thu đã chiếm hết thời gian của
tôi, chiếm hết tâm hồn và tình cảm của tôi.
Khi hiểu ra người yêu của
tôi bây giờ là Út Thu, phân đội trưởng ngồi há hốc cả mồm. Dằn ly rượu đánh cốp
xuống mặt bàn, anh nhìn thẳng vào tôi mà nói:
- Bậy qúa trời! Tao chưa
biết con nhỏ mới của mầy ra sao, chớ tao thì tao chịu con Út của mầy ở quê.
Mà làm sao suốt bốn tháng trời, mầy không về thăm bả với nó được lấy một lần
chớ!? Thôi được, để tao xin phép giùm cho. Sáng mai sẵn xe biên phòng đi công
tác, tao với mầy tháp tùng luôn. Giờ dứt hết chai này nữa là nghỉ. Nào, dô!
Mặc dù ngày mai có hẹn với
Út Thu, nhưng tôi vẫn thấy rằng mình không thể ở lại được. Mẹ tôi bệnh mà tôi
không hay biết gì. Út đã giấu tôi, đã thay tôi lo lắng tất cả cho mẹ. Hẳn là
Út và mẹ đều mong tôi tập trung cho việc học tập. Cả nhà tôi chỉ có mỗi mình
tôi được học hành đến nơi đến chốn, nghĩa là đã tốt nghiệp xong lớp 12. Chị
tôi chỉ học hết lớp 5 đã phải nghỉ học để phụ mẹ kiếm sống. Còn cha tôi, cho
tới ngày hy sinh cùng con tàu không số trên đường mòn Trường Sơn trên biển,
cha tôi cũng chỉ mới biết đọc, biết viết bập bỏm; những lá thư còn lại của
cha, nét chữ to cồ cộ.
Tôi về tới nhà lối chín giờ
tối ngày hôm sau.
Mẹ tôi nằm trên bộ ván
còng kê ở góc nhà. Ngọn đèn dầu hôi cháy leo lét trên chiếc bàn kê giữa nhà.
Nhà vắng huơ vắng hoắc.
Nghe tiếng động lịch kịch,
mẹ tôi hỏi:
- Con Út há bây? Đi ngủ đi
con, thức khuya chi cho mệt.
Nghe tiếng mẹ, tự nhiên
tôi rơm rớm nước mắt muốn khóc. Qủa là tiếng mẹ tôi không còn được khỏe như
trước.
Phân đội trưởng lên tiếng
giùm tôi.
- Mẹ, con với Ba Quốc về
nè mẹ!
Mới nghe tên tôi, mẹ đã lật
đật ngồi dậy, vén mùng nhìn ra, hỏi:
- Thằng quốc về thiệt há
con? Út ơi! Thằng Ba nó về nè, Út ơi!
Vừa nói mẹ vừa lọng cọng bỏ
chân xuống khỏi bộ ngựa, xỏ chân vô đôi guốc vông. Phân đội trưởng nhanh chân
chạy lại đỡ mẹ tôi đứng dậy. Mẹ vịn một tay vào phân đội trưởng, nhìn anh chằm
chằm rồi thốt lên:
- Chèng ơi! Thằng Tùng đây
mờ. Cơm nước gì chưa con?
Lúc bấy giờ tôi muốn chạy
ngay lại ôm chầm lấy mẹ, nhưng không hiểu sao tôi cứ chôn chân đứng yên một
chỗ, trong lòng rưng rức một nỗi niềm ân hận. Toàn thân tôi nóng râm ran như
có lửa đốt. Ngoái nhìn về phía sau, tôi thấy Út vịn một tay đứng nép bên cánh
cửa. Vừa bắt gặp ánh mắt của tôi, Út liền cúi gục đầu, đôi bờ vai nhỏ nhắn
rung lên nhè nhẹ. Cả mái tóc buông xõa cũng rung lên nhè nhẹ.
Mẹ cũng đã nhìn thấy Út. Mẹ
cất tiếng gọi:
- Thằng Ba nó về rồi nè
Út. Vô đi con!
Út không vô nhà như lời mẹ
tôi gọi. Út vùng chạy ra ngoài. Nghe rõ tiếng chân chạy về phía bến cây còng.
Tiếng phân đội trưởng cất
lên như ra lệnh:
- Cái thằng. Chạy ra với
nó, lẹ mầy!
Tôi gở ba lô đặt xuống
bàn, bước tới đỡ mẹ ngồi xuống ghế. Mẹ nắm lấy tay tôi mà nói:
- Đi đi con! Ra với nó đi
con !
Tôi bước ra ngoài. Miếng
sân đất lành lạnh sương đêm. Hương chanh từ mé xẻo đưa vào dìu dịu. Tôi bước
từng bước rất chậm, rất nhẹ về phía bến cây còng. Đêm tháng năm trong veo
trong vắt. Bầu trời căng vồng lên muôn vàn vì tinh tú. Dãy ngân hà vắt ngang
trời như một dòng sông sắp chảy òa xuống mặt đất.
Út đứng úp mặt bên gốc
còng. Dáng em thanh mảnh cùng với bộ bà ba đen, như hòa tan vào cùng với màn
đêm óng ả như thủy tinh. Tôi rụt rè chạm nhẹ một bàn tay lên vai Út. Tôi cảm
nhận bờ vai nóng ấm của em đang rung lên nhè nhẹ.
- Út ơi!…
Út xoay người lại, đổ tấm
thân mềm mại vào ngực tôi.
- Anh vào với mẹ đi!..
Không hiểu sao bấy giờ tôi
bối rối đến lạ lùng. Tôi không biết là nên đứng lại với Út một lúc, hay là
nên quay trở vào với mẹ.
Bên kia sông có tiếng chim
bìm bịp kêu đôi nao niết.
- Nước lớn rồi há Út?
Dòng sông tuổi thơ vụt hiện
trước mắt tôi những dề bông tra trôi dập dềnh vàng rực. Rồi đảo nhỏ giữa
trùng dương cũng hiện lên với ì ầm sóng vỗ. Kỷ niệm dội về ăm ắp trong lồng
ngực căng lên thổn thức. Tôi thấy mình như đang tan chảy ra, hòa vào với dòng
sông dạt dào tuôn ra biển.
Ngoài phía con rạch lớn,
có tiếng trẻ con khóc u ơ; rồi có tiếng ru cất lên da diết.
Ơ ầu ơ…
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn
còng
Về sông ăn cá…
Tiếng ru vừa mới cất lên,
Út đã gục đầu vào vai tôi thổn thức. Tôi cảm nhận những giọt nước mắt của em
thấm qua vai áo hôi hổi nóng. Tôi vòng một cánh tay qua tấm lưng thanh mảnh của
Út, khẽ xiết em vào lòng.
Tôi nghe rõ tiếng thì thào
của Út cất lên nghèn nghẹn :
- Vào với mẹ đi anh… Con
nước đang ròng rồi…. Phải hôn anh Ba?
Qủa là con nước đang ròng.
Nhưng nước ròng rồi nước lớn.
Út ơi!
|
Bập bùng giai điệu
"Giai điệu bập bùng
gieo từng giọt lửa
Đôi lứa có bao giờ thôi cháy
nỗi đam mê"
Hồ
Tĩnh Tâm
Có lẽ suốt cả đời tôi vẫn
không quên được buổi chiều se lạnh ấy ở Phổ Yên.Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều
thì phải.Chiều mùa đông trắng xám như sà thấp xuống. Phụng từ dưới chân đồi
lên nhờ tôi giải một bài toán. Tôi biết đó chỉ là cái cớ. Cái chính thì nó vu
vơ lắm. Cũng như gió mùa đông bắc vậy. Vô cớ luồn vô da thịt, thổi thon thót
vào tận con tim.
Cái lạnh thường xúi người
ta ngồi xích lại gần nhau. Tôi với Phụng cũng vậy. Chúng tôi ngồi với cây ghi
ta. Tôi bấm bập bùng giai điệu bài "Ca li na nở hoa". Phụng cũng
hát dặt dìu theo giai điệu ấy. Mùa đông đốt má Phụng chín ửng lên. Gió lùa
làm tóc Phụng rối bời lên. Tiếng hát làm mắt Phụng long lanh như có lửa. Bà
chủ nhà trọ đem cho chúng tôi một dĩa sắn luộc hôi hổi nóng. Giai điệu bài
"Ca li na nở hoa" bay theo mùi sắn thơm phưng phức.
Thế rồi chúng tôi cùng đi
ra bờ sông Công.
Chiều sập tối từ lúc nào.
Vầng trăng non run rẩy bò lên đỉnh đồi từ lúc nào. Đêm trung du chùng xuống
như một phím đàn run rẩy.
Tôi lượm một hòn sỏi ném
xúông dòng sông. Mặt nước phẳng lặng dềnh lên những vòng sóng óng
ánh trăng vàng.
Phụng nói:
- Bản chất của vật chất là
sóng nhỉ. Sóng chuyển tải năng lượng, hấp dẫn vạn vật.
Bấy giờ tôi không cảm nhận
được năng lượng của sóng. Tôi chỉ thấy vầng trăng dưới nước đẹp hơn trăng
trên trời. Mà vầng trăng đang vỡ oà dưới nước soi vào mắt Phụng lại càng đẹp
hơn nhiều. Đó là vầng trăng sông mùa đông trong mắt Phụng. Vầng trăng ấy theo
tôi cho đến tận bây giờ.
Tôi và Phụng cùng học cấp
ba với nhau suốt cả ba năm ở Quỳnh Lưu. Chúng tôi có với nhau rất nhiều kỷ niệm.
Năm học lớp tám, gia đình
tôi và gia đình Phụng cùng sống ở Quỳnh Minh. Chiều nào tôi với Phụng cũng
cùng nhau đi cào lá phi lao ngoài động cát sát với mí biển. Khi băng qua ruộng
dưa hấu của hợp tác xã, thỉnh thoảng tôi vẫn bẻ trộm một qủa dưa. Hai đứa tôi
leo lên một chiếc thuyền đã được kéo lên nằm chình ình trên bãi cát. Tôi đập
qủa dưa vào mũi thuyền. Qủa dưa bể ra thành nhiều miếng đỏ thắm, nhưng nhức
những hột đen huyền như mắt của Phụng. Ăn hết qủa dưa, hai đứa tụt xuống khỏi
con thuyền đi lộng, chạy ào ra biển. Nhảy choi choi trên những con sóng là niềm
vui của Phụng. Lặn hụp dưới những con sóng là niềm vui của tôi. Tắm táp thỏa
thuê rồi thì xoay qua dùng bàn chân cào cát, tìm bắt những con ngao trắng lấp
lóa dưới nắng mặt trời. Mỗi đứa bắt được chừng vài chục con mới chịu trở lên
động cát cào lá phi lao. Rừng phi lao cổ thụ dài ngút ngát, chỉ cần cào chừng
một tiếng đồng hồ đã gom được cả một gánh lớn.
Khi đã cào được đầy gánh
lá khô thì cũng là lúc hoàng hôn buông trên biển. Đó cũng là lúc thuyền đánh
cá khơi xa cập bờ. Chỉ cần một vài tiếng tù và cất lên đã thấy các bà các cô
trong làng túa ra gánh cá. Tôi với Phụng vẫn thường sán tới chỗ những người
đàn bà ngồi lom khom chọn cá. Chỉ cần ngồi với họ, thể nào họ cũng cho một mớ
cá đem về. Những người đàn bà thường chỉ cho cá nhỏ. Còn các lão ngư ông thì
hào phóng hơn, họ vẫn thường lén các bà dúi cho tôi và Phụng một hai con cá
thu to như cổ chân, hoặc một vài con cá chim to hơn cả bàn tay người lớn.
Môt buổi trưa tôi với Phụng
đi cào lá, nhưng lại đi tuốt về phía Lạch Quèn để leo núi. Trên núi có một
pháo đài cổ của Pháp xây bằng đá, đã hoang tàn vì bị bỏ phế qúa lâu. Chúng
tôi đang mải mê khám phá từng ngóc ngách của pháo đài thì một cơn giông mùa hạ
nổi lên đùng đùng với trăm ngàn tia sét rạch ngang dọc trên bầu trời. Trên
cao, mưa quất ào ào. Dưới chân núi, biển gầm lên sôi sục. Trời và đất như tan
chảy và trôi tuột xuống vực biển sấm rền và gió táp. Qua hết cơn giông thì trời
đã sập chiều xâm xẩm. Hai đứa chúng tôi vất vả tuột xuống núi, rồi hối hả chạy
dọc theo bờ biển về làng. Từ trong rừng phi lao, rùng rùng hàng chục bó đuốc
túa ra bờ biển. Khi tới nơi chúng tôi mới biết, dân làng đổ xô đi tìm chúng
tôi, bởi họ tưởng chúng tôi bị sóng thần cuốn ra khơi rồi đánh tấp vào đâu
đó.
Từ Bình Minh đi Quỳnh Ngọc,
đám học trò cấp ba chúng tôi phải thức dậy đi từ bốn năm giờ sáng để qua chuyến
đò đầu tiên vượt sông Hoàng Mai, may ra mới kịp tiết học đầu tiên. Mùa đông,
phải ngồi đò từ bốn năm giờ sáng, đứa nào cũng bị giá rét từ trời cao, từ mặt
nước, làm cho lạnh cóng. Vậy mà với tôi và Phụng lại trở thành một kỷ niệm rất
đẹp. Số là cách bến đò của xã gần trăm mét, có một ông lão sáng nào cũng chèo
đò qua sông để đưa hai cô cháu gái gánh cá đi bán dạo trên Cầu Giát. Ông lão
thường cho chúng tôi đi nhờ mà không lấy tiền. Đò vượt sông vào ban đêm, mái
chèo quẫy nước làm ánh lên những tia lửa lân tinh, sáng óng ánh màu biếc xanh
rất đẹp. Hai cô cháu gái của ông là nữ pháo binh dân quân miền biển, từng bơi
thuyền nan trước họng súng thủy phi cơ ra biển, cùng hai nữ dân quân nữa bắt
sống tên phi công Mỹ ngồi trên phao cứu sinh chờ trực thăng tới cứu. Vậy mà cả
hai cùng hiền từ và thường im lặng như cũ khoai, củ sắn. Khi gánh cá trên con
đường hun hút heo may, cả hai cũng lặng lẽ người trước người sau, guồng chân
đi nhanh như chạy. Tôi với Phụng cũng guồng chân chạy theo tiếng đòn gánh tre
phát ra kẽo kẹt. Nhờ vậy, chúng tôi cũng ấm lên được phần nào. Do phải chạy
nhanh cho kịp hai cô gái, đã nhiều lần chúng tôi vấp ngã quay lơ xuống đường;
có lần tôi với Phụng đè díu vào nhau, guốc dép văng cả xuống ruộng. Và bao giờ
cũng vậy, chúng tôi cứ theo họ đến ngang nhà thờ Quỳnh Đôi thì cũng là lúc
bình minh ưng ửng sáng. Từ con đường lát đá tảng dẫn vào cổng nhà thờ, chúng
tôi lặng lẽ chia tay với họ, theo con đường đất băng qua cánh đồng rộng ngút
ngát để tới trường.
Phụng lượm một hòn sỏi ném
xuống sông. Tôi cũng lượm một hòn sỏi ném tiếp theo xuống sông. Hai vòng sóng
giao thoa với nhau, khiến vầng trăng dưới nước trở nên lung linh, kỳ ảo lạ
thường.
Phụng nói:
- Sự giao thoa tạo nên cộng
hưởng nhỉ. Nếu bản chất vật chất không phải là sóng, thì làm sao thế giới có
được tồn tại sức mạnh của sự sống.
Tôi có cảm tưởng Phụng
đang trôi vào một thế giới vật chất xa vời nào đó, rất không có thật trong đời.
Con người ta vẫn thường có những phút phiêu lưu tâm tưởng vào một thế giới
hoàn toàn xa lạ. Thế giới ấy tạo ra sự xuất thần đột biến.
- Nhưng phải có hạt mới có
sóng chứ. Vậy thì bản chất vật chất phải là hạt, là rắn. Nếu đêm nay lạnh hơn
nữa thì cả dòng sông Công cũng sẽ đông cứng lại. Rắn lạnh như băng nhỉ?
Bản năng vật chất của tôi
bùng lên ngay lúc đó. Chúng tôi giao thoa sự ngọt ngào thổn thức với nhau lúc
nào không biết. Đến lúc tính chất sóng của tôi bùng lên năng lượng khổng lồ của
Hỏa Diệm Sơn trong ngực, thì ngay lập tức tôi hoảng sợ nhận ra cái thế giới rất
thật mà hai chúng tôi đang tồn tại.
- Phụng này! Hoa ca li na
là?..
- Phụng cũng không biết.
Chắc là…
Cả hai chúng tôi đều không
biết hoa ca li na là hoa gì.
Dòng sông Công cũng không
biết. Cả bầu trời mùa đông cũng không biết.
11g00 đêm hôm ấy chúng tôi
ra ga Phổ Yên để lên tàu về Hà Nội. Có tiền nhưng chúng tôi đi lậu vé. Đi lậu
vé thì phải ngồi ngoài bậc cửa lan can, chỗ giáp nối giữa hai toa tàu. Đêm
hun hút. Giá lạnh tới đặc quánh cả màn đêm thăm thẳm như bịt lấy mắt. Giá lạnh
làm cho tiếng còi tàu trở nên khàn đục. Người trưởng tàu không biết xuất hiện
sau lưng chúng tôi từ lúc nào, hắng giọng ho mấy tiếng, rồi bật đèn pin hỏi
vé. Biết chúng tôi là sinh viên nên anh bỏ đi, chỉ lẩm bẩm rằng, đừng có mà
tí tởn, không khéo lại rớt xuống đất mất mạng.
Tàu về tới Gia Lâm lúc
2g00 sáng. Cầu Long Biên bị máy bay Mỹ đánh đứt nhịp, chúng tôi phải theo bờ
đê sông Hồng tới cầu phao Chương Dương để qua sông. Đang đi thì còi báo động
nổi lên hù hụ. Rồi thì máy bay Mỹ ập tới sầm sập. Bom nổ như xé gió. Đạn
phòng không bắn lên xối xả. Tôi với Phụng chạy cắm xuống chân đê, cùng nhảy
xuống một cái hầm tròn không có nắp.
Đó là đêm 19 tháng 12 năm
1972. Đêm đầu tiên Mỹ tập kích bằng máy bay chiến lược B52 xuống thủ đô Hà Nội.
Cùng với pháo đài bay ném bom rải thảm, còn có máy bay con ma, thần sấm sét,
và máy bay cánh cụp cánh xòe, kết hợp tấn công bằng bom và tên lửa xuống các
nhà máy, các khu dân cư và trận địa pháo cao xạ của ta. Mỗi lần nghe tiếng phản
lực chúi xuống ném bom, rít lên rợn người, Phụng lại ôm chầm lấy tôi. Mặt đất
rung bần bật. Mảnh bom quất veo véo trên đầu. Chớp lửa chói lóa nhằng nhằng.
Máy bay oanh kích chiến thuật của Mỹ cháy đùng đùng như những bó đuốc trên trời.
Rền trong tiếng bom rung chuyển cả không trung và mặt đất, có nhiều tiếng người
hét lên đầy phấn khích: Cháy rồi.. ồi… ồi! B52 cháy rồi… ồi… ồi! Cả hai chúng
tôi cùng đứng vụt dậy, không còn biết sợ là gì nữa. Trên trời cao, bùng bùng
một đám cháy chói lóa, sáng trắng tới mức không thể nhìn qúa được vài giây.
Đó là đám cháy ma nhê của siêu pháo đài bay Hoa Kỳ- cái mà đế quốc Mỹ gọi là
con át chủ bài để đem ra dọa sẽ đẩy miền Bắc của chúng ta về thời đồ đá.
Chừng dứt trận bom, chúng
tôi theo đoàn người chạy ào ào trên cầu phao để vượt sông. Qua tới bờ đê Hà Nội,
Phụng kéo tay tôi ngồi phịch xuống vạt cỏ. Rồi Phụng co chân nằm ngửa ra, hai
tay vòng qua đầu.
- Thoát chết rồi! Để Phụng
thở một lúc.
Tôi ngồi dưới chân Phụng,
hai tay chỏi ra sau lưng; cảm nhận hôi hổi hơi thở dập dồn của Phụng.
Bấy giờ bình minh đã ửng hồng
phía đông bầu trời thủ đô.
Cuối năm 72 tôi nhập ngũ,
rồi khóac ba lô đi theo tiếng súng vào chiến trường Nam Bộ. Còn Phụng được
chuyển sang Ba Cu học chuyên ngành về dầu khí. Giữa hai chúng tôi chỉ còn lại
kỷ niệm nụ hôn bên bờ sông Công. Đó là nụ hôn của mối tình đầu nên tôi không
bao giờ quên được.
Trong một lần đi thực tế
sáng tác dọc theo dòng sông Láng Sắc, tôi với anh bạn cùng phân hội âm nhạc,
ghé vào thăm một ngôi trường tiểu học. Tiếng là trường, nhưng thực ra chỉ có
một dãy nhà lá được ngăn thành năm lớp học. Lùi ra phía sau chừng năm chục
mét là một ngôi nhà lá khác nhỏ hơn, được ngăn làm hai. Hai phần ba ngôi nhà
này là chỗ ở của năm cô giáo, một phần ba còn lại là văn phòng hội họp và làm
việc của nhà trường. Có vẻ như cả năm cô giáo trẻ tuổi còn độc thân này,
không phải sống bằng lương, mà họ sống bằng chăn nuôi là chính. Cả một ao cá,
một dãy chuồng heo, và không biết cơ man nào là gà, là vịt. Hình như giáo
viên tiểu học ở vùng sâu đều như vậy, không ai sống thảnh thơi bằng lương, ai
cũng phải lấy nghề khác để nuôi nghề dạy học.
Biết chúng tôi đi thực tế
viết nhạc, họ nhất định bắt chúng tôi ở lại ca hát với họ một đêm, và nhất định
bắt phải sáng tác một ca khúc về ngôi trường của họ. Cái nghề đi thực tế sáng
tác của chúng tôi, hễ được ai mời thì không bao giờ lại ngu ngốc từ chối, nhất
là với năm cô giáo còn trẻ phơi phới như thế này. Riêng với tôi, một trong
năm cô giáo ấy lại là người xứ nghệ; mà lại là cô giáo lớn tuổi nhất, và… đẹp
nhất. Làm sao mà tôi bỏ đi cho được.
Chúng tôi không có đàn,
nhưng các cô thì lại có tới hai cây đàn ghi ta và ba cây đàn manđolin. Đó là
đàn của đơn vị biên phòng tặng nhân ngày kết nghĩa.
Phụ nữ độc thân sống với
nhau, họ cũng ồn ào không khác gì đàn ông. Có nghĩa là họ cũng cạn ly với
chúng tôi, cũng ca hát với chúng tôi tới vỡ oà cả đêm sáng trăng lồng lộng.
Và tất nhiên là khi chúng tôi say thì họ cũng say. Tôi với anh bạn nhạc sĩ
cùng phân hội ngủ ở phòng làm việc. Họ đã cẩn thận chuẩn bị chỗ ngủ và nước uống
cho chúng tôi từ chiều. Nhưng cái tật của tôi là không dễ gì ngủ được ở nơi
xa nhà, nhất là khi trăng vàng đang chan chứa trên sông.
Xách chai rượu và cây ghi
ta ra bờ sông, bàn tay tôi tự nhiên bấm lên bập bùng giai điệu bài "Ca
li na nở hoa". Tiếng đàn theo những sợi gió đêm mong manh trượt xuống
dòng sông lóng lánh muôn vàn ánh vàng ánh bạc. Dòng sông đang lúc triều cường,
căng vồng lên như một lồng ngực ngùn ngụt sức sống. Tiếng đàn theo những sợi
gió mong manh bay chạm vào rặng bần, làm rung lên xạc xào muôn vàn âm thanh của
lá. Một con cá trồi lên búng nước. Mặt nước duềnh lên những vòng sóng óng ánh
như pha lê. "Bản chất của vật chất là sóng nhỉ. Sóng chuyển tải năng lượng,
hấp dẫn vạn vật". Trời ơi! Sao mà tôi nhớ Phụng, nhớ đêm sông Công đến cồn
cào. Đêm ấy sóng vật chất của chúng tôi đã giao thoa với nhau đến mức cộng hưởng
thành hương vị mặn mà, ngọt lịm. Nhưng mà hoa ca li na là hoa gì? Nó có giống
bông bần đang lặng lẽ nở trong đêm trăng sông của dòng Láng Sắc này không nhỉ?
- Anh không ngủ được à?
Không nhìn sang nhưng tôi
cũng biết là Hồng Sa xứ Nghệ từ trong nhà mới ra.
- Trăng sông đẹp như thế
này mà ngủ thì uổng lắm! Với nữa là… tôi nhớ.
- Nhớ sông Bùng phải
không?
- Ừ, nhớ sông Bùng, sông
Thai, sông Mai.
- Nhớ sông sao lại hát
"Ca li na nở hoa"?
Như có cái gì đó cứa vào
tim tôi, khiến tim tôi nhói lên một cơn đau rất mơ hồ. Rõ ràng là tôi với Phụng
có với nhau rất nhiều kỷ niệm trên bờ đê sông Thai, khi chúng tôi chuyển về
Quỳnh Hồng, thường đi bộ từ Quỳnh Hồng tới Quỳnh Ngọc. Lối bờ đê đầy bông cỏ
may. Khi từ trường trở về, tới qủa núi đầu xã, chúng tôi thường ngồi lại trên
một gộp đá, tỉ mẩn nhổ từng bông cỏ.
- Hồng Sa cũng biết bài
"Ca li na nở hoa" à?
- Biết! Em biết từ hồi còn
học cấp hai ở quê, thành thử nghe anh đàn mới không ngủ được.
Rất tự nhiên, Hồng Sa hát
theo tiếng đàn của tôi. Tiếng hát và tiếng đàn bập bùng cất lên trong đêm
trăng sông mặn mòi gió biển. Tôi nhận thấy trên mặt mình ram ráp hơi muối biển.
Tôi biết chắc rằng tóc của mình cũng đã cứng bết lại bởi vị mặn của biển
khơi. Biển khơi bao giờ cũng làm cho con người ta trở nên rắn rỏi và săn chắc.
Nhưng đêm nay, đêm trăng sông trên dòng Láng Sắc, tôi hiểu rằng trái tim của
tôi đang thổn thức một nỗi đau xa vắng, mơ hồ.
- Hồng Sa uống với tôi một
ly rượu được không?
- Được, nhưng em sợ bị
say.
Tôi đưa ly rượu cho Hồng
Sa, nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của cô giáo xa quê mà nói một cách văn vẽ như có
ai đó móc miệng cho:
- Say với trăng sông huyền
diệu, với ca li na nở hoa lặng thầm thì sợ gì há em.
Đêm chuyển vào xuân chầm
chậm. Cánh đồng bầu trời cuối năm ở miền duyên hải trong vắt như thủy tinh.
Trăng đã nhường sáng cho sao từ bao giờ. Trên những rặng bần, đom đóm đã
giăng lửa đèn nhấp nhánh. Tiếng bìm bịp báo nước ròng cất lên từ bên kia
sông, nghe nao niết tới mủi lòng.
Hồng Sa đã ngấm chất men của
thứ rượu nếp huyết rồng miền duyên hải, tựa đầu vào vai tôi, ngủ một cách yên
bình, thánh thiện. Tôi nhận thấy em cười trong mơ. Chắc là em mơ thấy sông
Bùng. Còn với tôi, dòng sông Công đang hiện ra trước mặt.
Tôi cũng thừa biết rằng,
tôi đã ngấm tới tận cùng máu thịt chất men nồng nàn của lửa. Tôi đặt cây đàn
xuống, định lay Hồng Sa thức dậy để đưa cô về phòng; nhưng khi tiếng đàn vừa
tắt thì Hồng Sa đã mở choàng đôi mắt thăm thẳm ánh sáng sao trời.
Em dùng cả hai tay, nắm lấy
bàn tay tôi mà nói:
- Đàn đi anh! Đàn cho em
mơ thấy sông Bùng, mơ thấy ca li na nở hoa trên bến nước.
Làm sao tôi có quyền dập tắt
một giấc mơ tuyệt vời như thế.
Nhưng mà sông Bùng ơi, hãy
nói giùm với em, tôi cũng đang ngây ngất, tôi sắp đổ xuống vạt cỏ sữa bên
dòng sông Láng Sắc ngay bây giờ đây thôi.
Từ cánh rừng sú ngút ngát
bên kia sông, một cơn gió của buổi hừng đông nổi lên rười rượi. Cơn gió chạm
vào mặt sông. Cơn gió chạm vào tán lá. Cơn gió chạm vào da thịt của hai sinh
linh đang ngún cháy. Tất cả ngân lên lời bập bùng giai điệu.
Sông Bùng, sông Bùng ơi!
Sao mà nhớ sông Công đến nao lòng muốn khóc!.
|
||
Chuyện viết từ nhật ký
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét