Khoác một danh hiệu khi
làm văn nghệ cũng như kết thân với một định mệnh. Định mệnh này có thể xoáy
người nghệ sĩ trong một cơn lốc dữ cũng như đẩy trôi hắn bềnh bồng trên triền
sóng yên bình tùy theo cường độ từ tiếp xúc phản kháng, phủ phục biến cố ngoại
cảnh và nội tâm. Trong trường hợp Phạm đình Chương hình như một nỗi nhớ khôn
nguôi đã đeo đuổi ông triền miên từ khi ông chọn Hoài Bắc như một danh hiệu
văn nghệ.
Phạm Đình Chương (1929
– 1991)
là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến
Vào quãng năm 1951 gia
đình Phạm Đình Chương di cư vào Nam và cũng tại đây ban hợp ca
Thăng Long được thành lập để nhớ lại Hà Nội, chốn ngàn năm văn vật (1). Ngoài
ra theo Tạ Tỵ, Thăng Long cũng là tên quán phở của gia đình Phạm Đình Chương
lập nên ở chợ Đại cách Hà Nội khoảng 3,4 chục cây số trong thời gian toàn dân
kháng chiến.
Phạm Đình Chương sinh năm
1929 tại Hà Nội. Bắt đầu học nhạc từ năm 13 tuổi, sáng tác đầu tay viết năm
18 tuổi (năm 1947) (2). Cho đến năm 1971 ông đã viết được trên một trăm ca
khúc gồm đủ mọi thể loại trường ca, dân ca, ca khúc đồng vọng (3) tình yêu
đôi lứa, tình đầu tiên mang kỹ thuật soạn bè linh động của nhạc Tây phương áp
dụng cho nhạc Việt trong thời gian điều khiển về trình diễn với ban hợp ca
Thăng Long, sau hai mươi năm lưu diễn khắp ba miền đất nước vào quãng năm
1969(?) Hoài Bắc và ban hợp ca Thăng Long đã dừng chân tại phòng trà Đêm Mầu
Hồng (Sài Gòn) để kiểm điểm lại những ca khúc của gia đình họ Phạm viết trong
thời gian qua. Ngoài Phạm Duy, trong lịch sử tân nhạc Việt rất ít nhạc sĩ có
nguồn cảm xúc đa dạng và phong phú như Phạm Đình Chương.
Thường ra nhạc sĩ nào
chuyên làm nhạc buồn rất khó viết nhạc vui và ngược lại những nhạc sĩ chuyên
viết hành khúc tươi vui rất khó viết nhạc buồn. Điểm qua những bản nhạc của
Phạm Đình Chương, thính giả có thể tìm thấy những nguồn cảm xúc khác nhau từ
những bản nhạc rất vui, khỏe như Hò Leo Núi, Sáng Rừng đến những bản thật buồn
ảo não như Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn Thương Đau... Để có một cái nhìn
khái quát về nhạc Phạm Đình Chương; những nét đặc trưng từng thể loại cần được
nêu ra, tuy nhiên không tựa trên niên biểu nhưng tựa trên trường hợp cảm tác.
Mộ phần Nhạc sĩ Phạm Đình
Chương
Mặc dù có liên hệ gia đình
và sinh hoạt âm nhạc chung với Phạm Duy trong một quãng thời gian khá lâu
(4), Phạm Đình Chương vẫn không bị thu hút bởi "từ lực Phạm Duy".
Nhạc của Phạm Đình Chương vẫn mang một cá tính rất mạnh. Đó là một điều khá đặc
biệt. Ít ai phủ nhận, Phạm Duy được coi như "cây cổ thụ" về ca khúc
của tân nhạc Việt. Tuy viết sau Văn Cao và các nhạc sĩ tiền chiến khác nhưng
Phạm Duy viết rất khỏe và viết rất nhiều, đủ mọi khuynh hướng, thể loại, từ
những ca khúc mang âm hưởng dân ca sang đến những ca khúc phổ thông Tây
phương, từ nhạc cộng đồng đến nhạc đôi lứa, từ nhạc cách mạng đến nhạc tình ủy
mị. Chính vì thế trong bao nhiêu năm Phạm Duy đã "khống chế" tân nhạc
Việt trên số lượng nhạc phẩm và nguồn cảm tác phong phú. Tuy với số lượng nhạc
phẩm phổ biến ít hơn Phạm Duy, nhưng nguồn cảm tác Phạm Đình Chương không
kém. Phân loại hơn một trăm ca khúc của Phạm Đình Chương đòi hỏi một chương
trình nghiên cứu rất công phu, việc làm này tất nhiên không thích hợp với
khuôn khổ bài báo định kỳ. Vì vậy ở đây chúng tôi chỉ nêu lên những nét đặc
trưng đã tạo nên sự nghiệp âm nhạc của Phạm Đình Chương. Đại loại những ca
khúc, trường ca của Phạm Đình Chương mang những đặc tính sau: Âm hưởng dân ca
Việt Nam, xử dụng tài tình ngữ thuật, thổ ngơi, vận dụng khéo léo sức truyền
cảm phong phú, điều hợp tài tình sự rung động giữa thơ và nhạc, du nhập những
nét đẹp tân kỳ của nhạc Tây phương vào những khúc tình ca thành thị. Hầu hết
những đặc tính nêu trên trong ca khúc Phạm Đình Chương, ít nhiều dù tạo thành
cảm xúc vui hay buồn đều vẽ lại những nét đẹp... quê hương ngày thanh bình
thuở trước, sự nuối tiếc những kỷ niệm, mối tình lở dở, tất cả đều mang một nỗi
nhớ khôn nguôi.
Những nét đặc trưng dân ca
trong ca khúc Phạm Đình Chương
Phạm Đình Chương đã dùng
hai câu đầu của điệu cò lả, dân ca Bắc Ninh để mở đầu cho ca khúc Được Mùa:
"Con cò cò bay lả lả
bay la
Bay qua (qua) cửa phủ bay
về (về) Đồng Đăng
Tình tính tang (tang) tính
tình
Cô mình rằng cô mình ơi
Rằng có nhớ (nhớ) ta
chăng".
Chữ "chăng" của
điệu Cò Lả vừa dứt ở chữ âm(tonique)
Phạm Đình Chương đã khéo
léo kéo sang chữ "cánh đồng" của bản Được Mùa khiến cho người hát
dù yếu kém nhạc pháp vẫn có thể bắt ngay vào bản nhạc không khó khăn.
Tuy nhiên bản Được Mùa
hoàn toàn không khai triển giai điệu cò lả trong suốt bản nhạc, nhưng kiến
trúc âm thanh được xây cao dần trong ba câu đầu để tạo thành hình ảnh những
bó lúa được dơ cao, hạ thấp khi đập lúa.
Giai điệu của bài Được Mùa
không hẳn ảnh hưởng hoàn toàn dân ca, vì chủ âm được nhận ra rõ rệt. Tuy
nhiên những dấu láy dùng trong bản nhạc mang ảnh hưởng rất Việt Nam (cánh
à a ánh đồng...vui vui lên lua á a à ơi..)
Xóm đêm - Phạm Đình
Chương
Cũng như Phạm Duy và các
nhạc sĩ khác như Hoàng Thi Thơ, Anh Việt Thu, Phạm Thế Mỹ, Lam Phương, Y Vân,
Phạm Đình Chương thường phát triển một giai điệu dân ca có sẵn để làm phong
phú thêm ca khúc của mình, Hay tự tạo cho ca khúc của mình một âm hưởng dân cạ
Cả hai tiến trình sáng tác đều có giá trị ngang nhau là làm giàu thêm cho nền
tân nhạc Việt về phương diện xây dựng âm điệu. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ khi sáng
tác ca khúc Gạo Trắng Trăng Thanh cảm đề từ Hò Giã Gạo miền Trung (5), tuy
không lấy hẳn giai điệu của bài hò đó. Cũng như Anh Việt Thu khi viết Tám Điệp
Khúc có cho thêm phần Hò ru con miền Nam vào ca khúc của mình. Trở
lại trương hợp Phạm Đình Chương khi ông viết Hò Leo Núi, về kết cấu âm điệu
và tiến trình chuyển cung ảnh hưởng Tây phương hoàn toàn. Đặc biệt trong ca
khúc này ông dùng rất ít dấu láy và những nét trang điểm cần thiết cho dân
ca. Nhưng trái lại về hình thức ông dùng rất đúng lề lối của điệu hò. Về lối
hò để phụ giúp tinh thần cho những động tác như leo núi, kéo gỗ...thường chia
ra làm hai lớp: Lớp Trống là đoạn hò của người Hò Cái. Lớp Mái là đoạn hò của
người Hò Con (6). Trong Hò Leo Núi của Phạm Đình Chương cũng chia ra hai đoạn
như sau:
Hò Cái -------------------
Hò Con
...Vượt đồi vượt nương
---------- Dô!
Đi qua rừng hoang --------
---- Dô!
Băng suối băng ngàn
------------ Dô!
Chim muông trong hang
--------- Dô!
Nếu có một cái nhìn nghiêm
khắc bảo thủ chúng ta có thể ví bài Hò Leo Núi của Phạm Đình Chương như một
"ông Tây mặc áo the". Tuy nhiên, nếu chấp nhận sự giao lưu văn hóa
một cách cởi mở hơn, Ca khúc nói trên có thể được xem như một pha trộn, hài
hòa giữa hình thức và nội dung Đông Tây.
Hội Trùng Dương hầu như là
trường ca duy nhất Phạm Đình Chương giới thiệu với quần chúng trong suốt hơn
ba mươi năm âm nhạc của ông. Trái hẳn với Hò Leo Núi nói trên, trường ca Hội
Trùng Dương xử dụng hình thức khuôn khổ Tây Phương để chuyên chở một nội dung
dân ca Việt Nam.
Về bố cục trường ca Hội
trùng Dương gồm một đoạn mở đầu và ba phiên khúc. Mỗi phiên khúc là tiếng nói
của một dòng sông tiêu biểu cho mỗi miền. Miền Bắc có sông Hồng Hà đại diện,
vào đến miền Trung có Sông Hương lên tiếng, xuôi miền Nam có Sông Cửu Long
góp mặt. Tiếng nói của ba dòng sông đều được biểu tượng hóa bằng nỗi lòng của
ba thiếu nữ. Tâm sự của mỗi dòng sông cũng là tâm sự của người dân địa phương
về dân sinh, về nỗi khó khăn trong sự khuất phục với thiên nhiên, về sự can
trường tranh đấu với nạn ngoại xâm.
Để tạo sự chú ý của người
nghe, Phạm Đình Chương mở đầu với dòng nhạc chậm rãi, vững chãi rất hợp với sự
dẫn đạo của tiếng kèn trumpet, tựa như tiếng báo hiệu sự xuất hiện của bậc
quân vương thời trung cổ:
Trùng dương
Chốn đây ngàn phương
Có ba dòng sông
Cuốn xuôi biển đông
Nhắc câu chờ mong....
Về nhạc thuật, trong cả ba
phiên khúc Phạm Đình Chương đã dung hợp ý nhạc có âm hưởng dân ca, với nhịp
điệu Tây phương.
Những điệu hò dùng ở đây đều
do sự sáng tạo tinh anh của Phạm Đình Chương, vì ông không dùng âm điệu dân
ca nguyên thủy. Trái lại ở phần đầu của Tiếng Sông Hồng (Chiều nay nước
xuôi...người áo nâu giãi dầu) ông đã dùng điệu Hò Dô Ta sáng tạo. Sở dĩ chúng
tôi dùng chữ "sáng tạo" ở đây là vì đã có sự tranh luận về từ ngữ
này. Đứng về phía Trần Văn Khê và Nguyễn Hữu Ba, theo quan niệm định nghĩa
dân ca một cách cổ điển, Willi Apel và Ralph Daniel đều cho rằng: "Dân
ca là bài hát cổ, không biết tác giả là ai, được truyền miệng trong giới bình
dân qua nhiều thế hệ và trở thành phổ thông khắp nước hay trong một cộng đồng
nhỏ hơn". Đứng về phía Phạm Duy, ông mệnh danh những bài hát của ông có
âm hưởng dân ca là "dân ca mới" (7) Ngoài ra Lê Thương cũng tạo một
tên mới cho tập "Dao Ca Tạp Khúc" của ông là "dân ca cải
biên". Như vậy rõ ràng điệu Hò Dô Ta của Phạm Đình Chương thoát ly dân
ca nguyên thủy từ nhạc điệu đến nhạc thức. Vì lớp trống ( Hò Cái) nét nhạc
hoàn toàn Tây phương và lớp mái ( Hò Con) biến đổi thành một phần đối âm (contrepoint) của
lớp Trống và cả hai bị chi phối bởi luật hòa âm (harmony) Tây phương.
Phần hai của đoạn Tiếng
Sông Hồng dồn nhanh (acceleration), (chậm hơn Foxtrot và nhanh hơn March) và
cứ như thế hai lớp Trống Mái không còn ở tư thế đối đáp nữa, cuối cùng lớp
mái đã nhập vào lớp Trống để biến thành một hành khúc.
Sang đến phiên khúc hai Tiếng
Sông Hương, trừ đoạn cuối (Bao giờ máu xương....Tiếng cười đoàn viên), có lẽ
vì muốn duy trì nét cổ kính của miền cố đô nên Phạm Đình Chương đã khéo léo
trở về với nét nhạc ảnh hưởng rất nặng dân ca nguyên thủy. Ở đây, ông đã phỏng
theo điệu hò Mái Đẩy (8) miền Trung, nhịp điệu chậm rãi, rất hợp với sự than
van kể lể (Hò ơi phiên Đông Ba.... để lan biển khơi). Đoạn hai của phiên khúc
hai nhái lại đoạn hai của phiên khúc một. Tuy nhiên khó phủ nhận được nghệ
thuật dụng âm ngữ tài tình của Phạm Đình Chương ở phiên khúc hai. Những chữ
Ánh (Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than), Bến (Bến Vân Lâu thuyền có đơm
sâu), Lắm (Quê hương em nghèo lắm ai ơi !), Mỗi (Trời rằng trời hành cơn lụt
mỗi năm), Vắng (Ai là qua là thôn vắng), Nắng (nghe sầu như mà mưa nắng), tuy
là những thanh trắc nhưng đã bị kéo oằn xuống ở một vị trí thấp hơn thành bằng
của chữ đi kế trước hoặc tiếp sau (khua, trăng, vân, ai, năm, thôn).
Chính vì vậy điệu hò mới nỗi
bật địa phương tính qua lối phát âm thổ ngơi miền Trung. Nét đặc trưng này
khiến người hát không cần phải là người miền Trung, nếu xướng âm (déchiffrer)
đúng cao độ của câu hát cũng có thể tạo thành âm hưởng của tiếng nói miền
này.
Hiện tượng nói trên xãy ra
là vì tiếng Việt với năm dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng khi mỗi tiếng phát
âm ra tự nó đã được xếp ở năm cao độ khác nhau. Chẳng thế, một nhà văn ngoại
quốc đã nhận định: "Ngôn ngữ ViệtNam là ngôn ngữ duy nhất trên thế
giới có nhiều giọng điệu cung bậc.... Phải nghe người dân mỗi miền, người Bắc,
hay Trung, hay Nam hát những dân ca quen thuộc với tiếng nói thuần túy của họ,
chúng ta mới thấy ý vị của giọng nói ấy đậm đà chừng nào..."(8). Nếu
phân tích cấu trúc âm thanh của các dấu trong tiếng Việt, thanh nặng được sắp
ở vị trí như sau:
(Huyền) (Nặng) (Không dấu)
Thanh ngã không có cao độ
nhất định, khi thì tựa từ Thanh Huyền để uốn lên Thanh ngang ( không dấu) (giọng
miền Bắc) có khi nhập hẳn vào Thanh sắc (giọng miền Nam) Thanh Hỏi uốn khúc từ
trầm lên bổng (Huyền-Sắc), cho nên vị trí nó phải cao hơn Thanh Ngang (không
dấu) và thấp hơn Thanh Sắc (9).
(Huyền) Âm vực chính của
Thanh Hỏi (Sắc)
Đoạn hai của phiên khúc Tiếng
Sông Hương dồn nhanh hơn đoạn đâu và về ý nhạc nhắc lại đoạn hai của phiên
khúc một Tiếng Sông Hồng. (Ai là qua là thôn vắng....Tiếng cười đoàn viên)
Vào đến miền Nam, miền
đất phù sa màu mỡ, sức đối kháng với thiên nhiên không còn mãnh liệt như miền
Trung.
Vì thế, Phạm Đình Chương
đã dùng những nét nhạc thật khỏe khoắn, cởi mở, sung túc để nói lên đặc tính
địa lý nhân văn của miền nàỵ Trong cả phiên khúc ba Sông Cửu Long, ông chỉ
xen lẩn hai câu hò theo điệu ru con miền Nam:
Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ai sông Mỹ có ngày gặp
em
Điệu ru này thuộc ngũ cung
hơi Nam giọng oán tựa như điệu ru con ở Quảng Nam miền
Trung (10).
Do Mi Fa Sol La
Tương tự như Phạm Đình
Chương trong trường ca "Con Đường Cái Quan" Phạm Duy cũng biến cải
điệu Hò Ru Con miền Nam thành bốn câu đầu của đoản khúc số 18 để đưa người lữ
khách thăm viếng miền Nam nước Việt.
Như thế, điệu Hò Ru Con miền Nam đã
đóng vai trò rất quan trọng trong dân ca miền Nam. Phạm Đình Chương đã
nhận chân được điều ấy, khiến ông thành công trong tiến trình nêu lên địa
phương tính đặc trưng cho miền Nam. Chỉ với hai câu Hò Ru đó thôi cũng
đã làm nổi bật ý nhạc dân tộc giữa những cung điện Tây phương khỏe khoắn tươi
sáng (Nước sông dâng cao....nắng khô đồng lầy). Đoạn cuối của phiên khúc ba
Sông Cửu Long một lần nữa lại nhắc lại tứ nhạc của đoạn cuối của phiên khúc một
Tiếng Sông Hồng và phiên khúc hai Tiếng Sông Hương.
Nét đặc trưng dân ca mới
chỉ là một trong những cá tính âm nhạc Phạm Đình Chương. Với cảm nhận bén nhậy
ông là một trong những nhạc sĩ hàng đầu của miền Nam Việt Nam đã mang những
nét tân kỳ của nhạc phổ thông Tây phương vào hồn thơ Quang Dũng, Đinh Hùng,
Thanh Tân Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Ngọc Ẩn... Thi ca tự nó đã
có nhạc tính khi ngâm hay đọc lên. Tuy nhiên sự kỳ diệu của âm nhạc như đôi
cánh vạm vỡ nâng hồn thơ lên cao hơn và bay xa hơn. Đó là nét đặc trưng thứ
hai trong nhạc Phạm Đình Chương, nói đúng hơn trong " Nỗi Nhớ Khôn
Nguôi" của Phạm Đình Chương, chúng tôi sẽ nêu lên trong dịp khác với
tiêu đề: " Phạm Đình Chương bàn tay dịu vợi kết nối Thi Ca với Âm Nhạc".
(1) Tạ Tỵ: Phạm Duy còn đó
nỗi buồn, Văn Sử học...Sài Gòn 1971 tr. 105
(2) Phạm Đình Chương: Mười
bài ca ngợi tình yêu, Đêm Mầu Hồng xuất bản. Sài Gòn 1970
(3) Lê Thương - Thời tiền
chiến trong tân nhạc (1938-1946)
Nhạc Tiền Chiến. Kẻ Sĩ xuất
bản. Sài Gòn 1970 trang 66.
Đồng Vọng cũng là tên gọi
của nhóm sáng tác nhạc hướng đạo do Hoàng Quý đề xướng. Nhóm này để đáp ứng sự
đòi hỏi của thanh thiếu niên ưa cuộc sống ngoài trời đã gom góp sáu bảy chục
bài hát tươi sáng, nhẹ nhõm thích hợp cho sự sinh hoạt cộng đồng. Tiêu biểu
cho loại nhạc này là ca khúc "Tiếng chim gọi đàn" (Hoàng Quý), Gọi
bạn lên đường (Hoàng Quý)
(4) Phạm Đình Chương là em
ca sĩ Thái Hằng ( hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy )
(5) Văn Giảng "The
Vietnamese Traditional Music in Brief".
Ministry of State in
Charge of Cultural Affairs, Saigon 1970
(6) Miền Trung gọi Hò Cái
là Vế Kể và Hò Con là Vế Xô
(7) Xin đọc Nhân Văn số 3,
tháng 10 năm 1982 " Bàn về dân
ca Việt Nam" Phạm
Văn Kỳ Thanh
(8) Sở dĩ gọi là điệu hò
Mái Đẩy là vì cứ đến lượt điệu mái hò là thuyền được đẩy đi.
(8) Doãn Quốc Sĩ - Người
Việt Đáng Yêu. Sáng Tạo Sài Gòn 1965 trang 143
(9) Minh Lương - Tìm hiểu
Âm Giai Ngũ Cung. Tư liệu thuyết giảng cho Ban Quốc Nhạc (Âm nhạc viện Sài
Gòn) chưa xuất bản Sài Gòn 1968.
(10) Phạm Duy - Đặc khảo về
Dân Nhạc ở Việt Nam. Hiện Đại Sài Gòn 1972 trang 55.
Tạp chí Nhân Văn số 29
tháng 9 năm 1984
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét