Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Chuyện kể ở quán trần ai

Chuyện kể ở quán trần ai 
Mỗi lần có dịp đi xa, thời gian ngồi trên xe khách tôi hay nhìn qua khung cửa quan sát các bảng hiệu hàng quán để tạm quên quãng đường dài. Chuyện nhỏ này cũng lắm điều thú vị. Hiệu giò chả thường là Ngọc Hương, Kim Hương, Thanh Hương…, buôn bán nữ trang thì hay Kim Tùng, Kim Mỹ, Kim Ngân…, làm đẹp cho phụ nữ có Chú Thoòng, Chú Cón, Chú Phò…, sửa xe lại khoái lấy tên A Lỳ, A Bảo, A Cáo…, hàng ăn uống tạo thương hiệu riêng bằng tên hoặc biệt hiệu chủ nhân như Ông Mập, Ông Ốm, Ba Cô, Năm Ngù…Buồn cười hơn khi gặp những quán nhậu gây ấn tượng tức thì, ví dụ Sống Trên Đời, Chính Nó, Nè, Bảy Món, Vào Đây Ngay…kèm hình vẽ cái thủ cấp chó nhe răng trừng trợn hay cái đầu dê với chòm râu khiêu khích do một cây cọ vườn nào đó ngẫu hứng thực hiện. Đối với tôi thì những tên hàng quán bình dân, là lạ dễ tạo sự chú ý và nằm vùng lâu hơn trong trí nhớ…
Tối nọ, tôi cùng hai bạn thân Tuấn và Tùng ngồi xem trận bóng đá tới gần mười giờ mới chấm dứt.
Chuyện phiếm thêm một lúc, Tuấn nổi hứng rủ đi quán dê nướng Trần Ai ở giáp hạt lai rai vài xị. Biết chữ giáp hạt có nghĩa là vùng đất phân ranh giữa các địa phương, nhưng quán mang cái tên có vẻ khinh bạc này thì tôi chưa đến bao giờ. Và tôi tán thành bởi Tuấn gợi ý "Ông chủ quán quen mình, nghe nói biết rất nhiều việc lạ lùng từng xảy ra ở nơi ấy mấy chục năm về trước, giá như tìm hiểu được thì hay lắm…".
Chung sự tò mò, ba đứa hai xe tà tà vượt đường xa hơn mười cây số tới một ngả ba. Đường vắng, Tùng kể cho nghe địa danh "cây me thắt cổ" gần đó, người ta đồn rằng từ lâu lắm sau khi có người thất tình, thất chí treo cổ trên cây me đó, oan hồn không siêu thoát nên đên khuya hay hiện hình vật vờ kêu khóc. Cây me giờ chẳng còn, chuyện huyển hoặc tôi không tin, nhưng bóng đêm luôn làm mình yếu đuối, sợ hãi vu vơ. Rẽ vào lộ đất nhỏ nhiều lùm bụi, hai bên là ruộng lúa, ao bưng, nhà cửa khá thưa thớt…dẫn đến gian nhà lợp lá, cất kiểu nông thôn. Bên rào dựng tấm bảng sơn trắng xiên xẹo dòng chữ "Dê nướng Trần Ai" đúng lời Tuấn giới thiệu. Một ngọn đèn măng-xông treo trước sân, độ mươi người khách đang gù gật tính tiền, loạng choạng kéo nhau về. Quán nhậu làng xã thường chỉ khách vãng lai vài chập là tan. Chúng tôi vào gặp lúc chú Năm chủ quán đang thắp nhang cho ba bàn thờ gian giữa, không gian âm u, leo lét ánh sáng vàng vọt của mấy ngọn đèn dầu nhỏ gợi nhớ mênh mang. Đợi chú làm xong phần việc thiêng liêng trên, chúng tôi mời cùng ngồi cái bàn nhỏ đặt gần gốc khế già cỗi, lần lượt mấy dĩa mồi nhậu được cô cháu gái ông chủ mang ra. Quan sát chú Năm tuổi trên dưới bảy mươi, gầy gò, mái tóc trắng dài cùng đôi mắt già lúc ủ rũ, khi linh hoạt, tôi cảm nhận trong ông có lẽ chất chứa khá nhiều uẩn khúc, buồn vui cuộc đời mà ít thố lộ. Chú nhiệt tình mời mọc :
- Chú Tuấn chiêu đãi các bạn cho xôm lên nghen ! Sườn, thịt nây…tôi ướp nướng đặc biệt dành cho khách quen. Có dĩa cua gạch xào chua phụ họa thêm cho đỡ ngán, cứ ăn thiệt tình. Rượu ngâm chuối hột đường phèn loại cốt, uống vô bảo đảm sáng dậy không nhức đầu…Nào…vô!

Không khí bở ngỡ ban đầu sớm được xua tan qua cuộc trò chuyện lan man đủ thứ đề tài, thường chỉ nghe được trong bàn rượu, có thể là lúc mỗi người chợt cảm thấy trống vắng và cần chia sẻ, cảm thông. Tôi cũng hào hứng tham gia, nhắc lại các mẫu chuyện mà ba tôi từng tham dự hoặc chứng kiến, thời đánh Tây sau trận Cầu Nổi tản cư qua miệt biển Lý Nhơn, Đồng Hòa. Hào hùng, bi thương, oan khuất có đủ, nhưng xuyên suốt vẫn là ý niệm đối trọng giữa thiện và ác. Hai bạn tôi lừ lừ đốt thuốc lắng nghe, nhấm nháp ly rượu, thỉnh thoảng góp lời. Trời về khuya, ánh sao dày đặc trên nền trời đen trông như cái bát úp thủng chi chít. Chú Năm đứng lên vào nhà thắp thêm tuần nhang, trở ra bảo chúng tôi cùng cụng ly rồi lên tiếng bằng giọng khàn khàn :
- Tôi cảm ơn chú Tuấn đưa các bạn tới đây và vì quán tôi cũng sắp dời đi nên nhân dịp này kể cho nghe một câu chuyện thật về nhân quả hay báo ứng gì đó. Bao nhiêu năm nay, chuyện lạ lùng này nó cứ luẩn quẩn, ám ảnh trong tâm trí tôi hoài mà khó giải thích được. Mấy chú uống cầm chừng, đừng ngại trời khuya và xin chớ ngắt lời tôi…
Từ giờ phút này, ba đứa chúng tôi chỉ im lặng đưa mắt cho nhau cùng hiểu ngầm là đã may mắn khơi đúng mạch nỗi sầu tư chất chứa trong lòng ông chủ quán dê nướng Trần Ai. Chú Năm hơi cúi đầu nhìn xuống, giọng đều đều, âm ỉ hòa tiếng côn trùng rã rích, tiếng gió lạnh lẽo lướt qua khu vườn…
…Khoảng năm 1955 hay 1956, xóm làng này nhà cửa còn hẻo lắm, chỉ trong miệt vườn thì đông đông một chút. Dân phần nhiều là nghèo, sống cơ cực với miếng ruộng, cây dừa, châm bẫm làm sao cho đủ ăn là mừng. Khổ nhứt hạng là cái đồn lính Bảo an đoàn chưa đầy hai chục mạng mà nó hành người ta quá trời. Suốt ngày chúng quẩn quanh dòm ngó, chọc gái, kiếm chác nhậu nhẹt; ai cũng rủa thầm đám ôn hoàng dịch tể này. Lúc ấy tôi chừng mười hai, mười ba tuổi, giống như bà con rất có ác cảm với thằng cha Ba Đởm phó đồn. Hắn to khỏe, cỡ ba mươi tuổi, tính tình cộc cằn, tham lam và ác. Vợ hắn bị hành hạ, dằn vặt tới nỗi trốn biệt xứ, bỏ đứa con gái chín tuổi lại. Con nhỏ tên Hoa thui thủi một mình trong nhà thấy cũng tội nghiệp, nhưng đám trẻ trong xóm biệt đời không cho lân la chơi chung. Tôi còn nhớ lần nấp bên rào nhìn nó ngồi bệt dưới sân, lấy đất sét nắn vài hình người với vẻ say mê, đem phơi nắng một lúc rồi đặt nằm thành hàng. Biết nó làm gì không ? Cầm con dao găm của cha, nó đâm, chặt những hình người làm đôi mà môi mím lại, nghe hình như có tiếng rít trong họng. Tôi sợ, thật sự sợ con nhỏ. Nghe truyền miệng cha nó trước khi đổi về đây đã khét tiếng "ba ngày không thấy máu không ăn cơm" ở Tam Bình. Ba Đởm đóng đồn vùng giáp hạt mấy năm mà rất nhiều chuyện thương tâm xảy ra, nhưng tôi chỉ nhớ hai vụ. Vụ cướp nhà bà Cả Trọng đầu rạch Quao, một giờ sáng làng xóm đánh mõ, dộng thùng thiếc vang trời chẳng thấy làng lính tới tiếp cứu liền. Tội nghiệp bà Cả già nua, đơn chiếc mà bị trói đánh khảo chết ngất, máu me ướt mặt, chỗ giấu tiền trống trơn. Trong đồn bung ra lùng sục một buổi rồi thôi, đổ cho bọn cướp đâu ở bên cồn qua. Nói có đầu có đuôi, chiều hôm kia con trai một của bà theo nghề khai thác muối ở Lý Nhơn về giỗ cha, sẵn gởi mẹ số tiền khá lớn dự tính tháng mười sửa nhà, nào ngờ khuya sau xảy ra cớ sự đau lòng. Sau này người ta thì thào với nhau rằng lúc rời nhà ra bến đò, anh con trai bị lính Ba Đởm bắt về đồn lấy cung vì "tình nghi liên lạc phía bên kia". Bị đánh mấy báng súng, anh nói thiệt tình cảnh với tên phó đồn và gởi mớ tiền "nhẫm xà" mới được tha. Bà Cả may còn sống, nhưng lơ láo thất thần, hai tháng sau cũng chết. Dư luận lén xầm xì rằng còn ai dám vô đây ăn cướp ?...

Ngừng một lúc như để sự nặng nề lắng xuống, chú Năm mời tiếp vòng rượu rồi trầm ngâm thở dài:
- Vụ thứ hai cách khoảng một năm, tôi nhớ vào giữa trưa ngày tết Đoan ngọ vì đang phụ má tôi soạn bánh cúng. Nghe tiếng la làng, tôi chạy theo mọi người vô tuốt vườn dừa ấp Kinh Một. Thiệt tán tận lương tâm, cầm thú không bằng ! Chị Hài con dâu bác Năm Thơ bị cưỡng hiếp, bóp cổ chết nằm trên bờ mương, thân nửa trên nửa dưới. Nhẫn tâm hơn là nghe bà con nói chị ấy đang có bầu ba tháng. Cảnh sát quận có xuống làm ăng-kết điều tra, ban đầu đặt nghi vấn Ba Đởm vì ngay trưa đó hắn nhậu chỉ xa nơi chị Hài chết ba dây ruộng và đường về đồn nhất thiết phải qua chỗ chị móc dừa khô rớt mương. Hồi trước hắn si mê chị Hài, òn ỉ xin cưới, nhưng gia đình bác Năm lần lựa né tránh, sau lén gã chị cho nhà quen biết, đàng hoàng. Chuyện tưởng đã yên, ngặt cái tên hung thần ác sát này thù dai đến độ điên cuồng vì dục vọng không thỏa mãn nên…hiếp, giết chị chăng ? Tới lui cả tuần không ra chứng cứ, tụi cảnh sát chấm dứt cuộc điều tra bằng trận nhậu rôm rã tại đồn. Sau đó có người tình cờ nghe Ba Đởm nhừa nhựa trong cơn say "Một phát hai mạng cho cha Năm Thơ khóc hận tới ngày xuống lổ!". Chẳng hiểu sao trời đất lại sinh ra hạng hình người lòng thú như tên súc sinh này?
…Chỉ tay ra phía tây con đường, ông chủ quán nói rành mạch:
- Nền nhà cũ Ba Đởm chỗ đó, năm bảy mươi chủ đất cho san phẵng cấy lúa, còn một gốc cây ô môi. Gò mã thì không xa mấy, thân nhân lấy cốt gần hết, chỉ sót vài cái mã lạng cầm cự ít năm rồi cũng trâu nằm heo ủi ráo ! Giờ chắc hơn nửa đêm, chú nào còn sức thì nhâm nhi chơi, bằng không uống trà nghe tôi kể để mà thấm thía chuyện trả vay nghiệt ngã này…
Tuấn xua xua khói thuốc trước mặt, tôi tưởng chừng anh đang khuấy động bóng tối cùng sự nghẹn uất chuyện vừa nghe. Tùng rót ly rượu đưa chú Năm, thấp giọng:
- Những u uất trong lòng người sống, nếu nói ra được cũng là cách làm vơi nhẹ và biết đâu nỗi oan khiên của người chết nhân đó mà tiêu tan, siêu thoát…
Ngửa cổ trút cạn ly, chú nhếch môi cười khó hiểu, nếp nhăn trên trán như dãn ra:
- Ừ,,,số phận, cứ cho là như vậy sẽ thanh thản hơn phải không ? Có điều tôi suy nghĩ khác nên cái tâm mới khổ…
Tôi xoay người tựa lưng vào thân cây khế lắng nghe từng lời ông chủ quán, trầm tư nghiền ngẫm nỗi thống khổ, áp bức kêu chẳng thấu trời cách nay hơn năm mươi năm của người dân quê chơn chất, ngay trên mảnh đất mình vừa đặt chân. Chú Năm ngó đăm đăm vào âm u bóng tối, nghiêng nghiêng đầu tựa hồ lắng nghe âm thanh huyền ảo của đêm về sáng. Chuyện kể khiến lòng tôi se thắt, miệng khô váng vất, không dám hỏi thêm điều gì nữa. Tuấn và Tùng cũng tay chống cằm, chắc khó mà hình dung ra được cảnh tượng gớm ghiếc vừa nghe. Rít một hơi thuốc, chú Năm nói tiếp:
- Tôi bị gọi làm giấy lược giải cá nhân, có nghĩa là sắp bị bắt lính. Cha tôi vét bồ bán ba chục giạ lúa hối lộ tụi lính gác bến đò Vàm Còng để đưa tôi trốn lên Sài Gòn. Hơn một năm sau, ông chủ chành gạo người Tiều chỗ tôi làm đúng là quới nhơn. Ông thương, chạy cho cái giấy hoản dịch giả mà như thiệt, đỡ khổ. Đầu năm sau nữa, tôi về lại đây mới biết thêm nhiều việc trong thời gian ở Sài Gòn. Trời bất dung gian, Ba Đởm bị ai đó ra tay bắn hai phát đạn, một vào chân, một bể hàm. Hắn ra lính khoảng năm sáu ba, năm tôi về. Mất chức, hết quyền, chẳng ai thèm dính líu, đừng nói chi giúp đỡ làm ăn. Hắn tự biết thân, chìu lòn, chỉ chọc để ăn nhậu chực và dựa thế phần nào. Quên…con gái hắn trổ mã dậy thì, trắng đẹp giống mẹ, có điều trông ngơ ngơ, đồng bóng. Mấy nhà hàng xóm quả quyết rằng mỗi lúc Ba Đởm nhậu say về là…ngủ cùng con gái ruột, quả là tâm cuồng trí loạn. Cái ác khi đã ăn sâu vô trong máu thì chuyện gì mà nó không dám làm, kể cả đối với người ruột thịt. Chưa hết đâu, thằng đệ tử của tay phó đồn mới khoái con Hoa, cầm lựu đạn tới đòi Ba Đởm phải gã cho nó. Bị áp lực và cô thế, hắn đành nuốt hận chấp nhận. Ba cặp vịt "xin" của dân làm tiệc nhậu tới nửa đêm là xong lễ đón vợ về đồn. Mờ sáng, chó sủa dậy làng vì thằng "rể" Ba Đởm lôi con Hoa tới trả, hậm hực đòi bồi thường tiền tiệc nhậu. Nguyên do là trong đêm động phòng, con Hoa phát điên, xé quần áo, gào khóc van lạy tứ phía khiến bọn lính vừa bực vừa sợ. Nhìn con Hoa mà tôi hụt hẫng, xót thương cho một đời con gái sao quá bất hạnh. Tóc rối bù, mắt long sòng sọc vô cảm, lưỡi thì thè ra thụt vô như rắn đớp mồi. Có lúc nó lăn ra đất quẫy đạp, dãy dụa, chăp tay trước ngực xá lia xá lịa như sắp bị ai đó ăn tươi nuốt sống. Cho cơm, nó đổ xuống đất rồi gục mặt, há miệng lè lưỡi nuốt miếng được miếng đổ, ai thấy cũng lắc đầu bât nhẫn. Người thì cho là báo ứng nhỡn tiền, người bảo tội nghiệp ai làm nấy chịu mới công bằng chớ con nhỏ có hại ai đâu. Tồi chịu ý sau, nhưng không dám nói ra vì ý trước được nhiều người ủng hộ hơn. Ba Đởm với bộ dạng đen đúa, chân khập khiễng, miệng méo xệch rì rầm kéo con gái cột chân ở góc nhà. Cuối năm đó hắn càng tuột dốc thảm hại bởi người ta thân thế trình bằng khoán lên quận để đòi đất, đuổi nhà. Cha con Ba Đởm cất cái chòi lá gần gò mã, thui thủi sống xa mọi người. Hắn giăng câu, bắt cá bán có tiền ngoài việc đổ vô rượu, còn thì mua nhang tối tối đốt lập lòe trên những ngôi mộ, trong đó có mộ của bà Cả và chị Hài. Con Hoa cả ngày lang thang bờ bãi đầu trên xóm dưới, bà con cám cảnh thương cho ăn cho uống. Tới khuya nó về ngủ cạnh các ngôi mộ, trơ trụi lạnh lẽo. Có lần đi soi ếch, tôi thấy Ba Đởm nằm ôm con gái khóc mùi, tiếng khóc đàn ông trong đêm nghe rờn rợn, khó nhận ra đó là nỗi bi thương của kẻ một thời gây sợ hãi, tang tóc cho mọi người. Ác giả ác báo ! hắn chết đúng sớm ngày tết Đoan ngọ mùng năm tháng năm, trùng ngày giỗ chị Hài con bác Năm Thơ bị hiếp, giết. Ghe chở lá lợp nhà ngang cầu Sắt thấy xác hắn nằm sấp trên hai ngọn tầm vông xiên thủng ngực, bụng, đầu gục thỏng xuống gần mặt nước, hai chân quấn trong mớ kẽm gai bùng nhùng của bà con giăng chận lục bình.
Phỏng đoán chung là Ba Đởm nhậu say về qua cầu té xuống ngọn tầm vông. Nhưng người tinh tế có nhận xét khoảng cách từ cầu tới chỗ xác hắn khá xa, cho dù cố tình nhảy cũng không thể được. Rõ ràng thi thể hắn tựa như có một sức mạnh kỳ bí nào đó nâng lên cao để rồi ép ấn xiên vào hai ngọn tầm vông nhọn. Không giải thích được thì thôi, bà con lấy dây thừng cột dong xác Ba Đởm theo đường sông tới ngọn vàm, đào cho cái huyệt, bó chiếu, lấp đất, coi như trục xuất vĩnh viễn hắn khỏi đất giáp hạt này. Con Hoa theo coi từ đàu tới cuối, nó cười ngặt nghẽo suốt mà nước mắt nước mũi ràn rụa. Chôn Ba Đởm xong, ba ngày sau con gái hắn bỗng dưng biến mất, cả làng xã chẳng ai biết đi đâu ? Cho tới giờ tôi vẫn không quên nét mặt con Hoa ngày còn nhỏ đối chọi với hình ảnh cô gái điên chịu đọa đày tinh thần, thân xác quá nhiều. Tội lỗi này thuộc về ai đây? có lẽ cái hữu hình và vô hình có mối liên quan. Nhân quả, báo ứng chăng?...
Chú Năm vuốt vuốt mái tóc bạc trắng, khoát tay đứng lên ra ý chấm dứt câu chuyện:
- Hai giờ sáng rồi, mấy chú muốn ở hoặc về lúc nào thì tùy. Tôi mệt xin nghỉ
trước, bàn nhậu này là duyên may gặp, nhất định phải để cho tôi được mời. Chuyện kể rồi thuộc về quá khứ, tôi mong đừng ai có ý nghĩ sâu nặng hay bình phẩm khe khắt người trong cuộc. Tất cả chỉ là nghiệp chướng trả vay mà thôi!
…Hơn tháng sau, rỗi việc tôi cùng Tuấn và Tùng trở lên quán dê nướng Trần Ai thì nơi ấy chỉ còn nền đất, trơ cây khế già. Hỏi người sống gần đó, họ cho biết chú Năm cùng đứa cháu đã dọn đi hai tuần trước, về đâu thì chú không nói. Chuyện kể này thực hư tôi chẳng tìm hiểu thêm làm chi bởi một đêm như thế trên vùng đất này đủ làm tôi trăn trở, khắc khoải về sự sống, cái chết cùng số phận mỗi con người!.

NGUYỄN KIM
Theo http://vietmessenger.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Nhớ sông" của Huỳnh Văn Quốc: Bởi chính mình và cho chính mình

"Nhớ sông" của Huỳnh Văn Quốc: Bởi chính mình và cho chính mình Tôi đọc tập thơ Nhớ sông của Huỳnh Văn Quốc lần thứ nhất ở nơi l...