Đời là tất cả nhưng chẳng có gì đâu/ Miếng ván chênh kêu giữa
nhịp cầu/ Một buổi chiều hôm nghe chó sủa/ Sân hè thóc trải liệng bồ câu…” Bất
chợt hôm nào đó không biết nữa, tôi bỗng nhớ lại mấy câu thơ của Xuân Diệu. Từ
lâu lắm, có lẽ đó là năm 46 hay 47 gì đó thế kỷ trước, bài thơ được in trên một
tờ báo giấy đen ở Việt Bắc kháng chiến.
Mặt trận Huế vỡ, thủ đô Hà Nội rơi vào tay giặc, cuộc kháng
chiến mới bắt đầu, chết chóc, khó khăn và đau thương như thi sĩ Hoàng Cầm đã mô
tả trong Bên Kia Sông Đuống. Nhưng khắp nơi vẫn dậy không khí hào hùng chống giặc
giữ nước. Xuân Diệu, có lẽ chỉ có Xuân Diệu thôi, trong cảnh nước sôi lửa bỏng ấy
mà vẫn nghe ra tiếng một miếng ván chênh kêu giữa nhịp cầu, một tiếng chó sủa
chiều hôm và cảnh liệng mấy con bồ câu trên sân thóc giữa mùa hè.
Trời ơi, “đời là tất cả” nhưng nhiều khi đời chỉ là như thế.
Nếu không có nhà thơ có lẽ ít khi chúng ta nhận ra được những “vi lượng cuộc đời”
mà vì nó, nhờ nó chúng ta sống, yêu thương, làm việc, đấu tranh và cả chết nữa.
Khi ra nước ngoài, gặp bạn cũ, bạn mới hay người thân ở châu Âu, hầu như người
nào cũng không giấu tôi một nỗi buồn, khi nhẹ nhàng với người này, da diết với
người khác. Họ thường là những người thành đạt, cuộc sống sung túc, sống trong
một môi trường lý tưởng không chỉ nhờ không khí an lành, thực phẩm được kiểm
tra kỹ lưỡng mà còn rất thuận lợi cho học tập, làm ăn, làm chủ cuộc đời mình.
Và giá trị hơn hết là tự do. Vâng, tự do với họ không còn là thứ xa xỉ hay phải
xin mới có. Họ có đủ tất cả điều kiện của một cuộc sống không phải “giật gấu vá
vai”, vì miếng cơm manh áo như bên nhà.
Thế nhưng hoặc là họ tâm sự, hoặc tôi tự cảm nhận, họ vẫn có
một nỗi buồn.Nostalgie không chỉ riêng ai. Trong một cái quán cóc bên bờ
sông Garonne ở Bordeaux, tôi và em, một cô bạn khá thành đạt, ngồi nhấp mỗi người
một ly vang “đẹp như ngọn lửa” trong thơ Apolinaire. Em đẹp, rất đẹp nữa là
khác, với cái dáng không lẫn được của cô gái Hà Nội gốc. Em thành đạt, ở xứ người
không mấy người được suôn sẻ như em. Chồng ở đây, nhà ở đây, mỗi người một chiếc
xe và mỗi người một công việc lương khá. Nhưng sao em lại buồn? Em có buồn đâu?
Em đang may mắn, em đang được phù hộ đấy chứ? Em đừng giấu tôi. Em có một nỗi
buồn thường trực, khó giấu. Nhớ nhà? Nhớ Hà Nội? Không, không nhớ, đã quen rồi.
Tôi tạm tin là em không buồn. Ngày trở về, em dặn tôi: “Anh ơi, lần sau có sang
anh mang cho em mấy cái củ niễng nhé!”. Tôi ừ và giữ lời hứa. Gặp em ở Bordeaux
lần sau, tôi đã may mắn vì ngay ở Hà Nội củ niễng cũng khó kiếm. Tôi có củ niếng
cho em thật. Và trong bữa cơm Việt chiều hôm ấy, khi em đặt xuống trước mặt đĩa
xào củ niễng tự mình nấu, tôi sững sờ vì nhìn thấy một khuôn mặt khác, một cô
gái khác. Em nói: “ Mười mấy năm rồi mới được ăn củ niễng! Cám ơn anh nhiều nhiều!
Em nhớ lại quá nhiều thứ anh ơi!” Tôi nhìn em và chắc chắn trong nhiều thứ em
đang nhớ có khuôn mặt của mối tình đầu thời sinh viên em từng kể với tôi. Và Hồ
Tây, hồ Gươm, đê sông Hồng…Nỗi buồn trong mắt em, trong tiếng nói dịu dàng của
em biến mất. Có thể chỉ là “buồn ơi, chào mi!” trong chốc lát. Đời là tất cả
nhưng đời nhiều khi cũng chỉ là miếng củ niễng xào thịt bò trên bàn ăn của người
xa xứ ở thành phố rượu vang.
Không chỉ em gái Hà Nội ở Bordeaux với mấy miếng củ niễng từ
Hà Nội mang sang. Những người khác, dù không mang nỗi nhớ quê của người xa xứ
thì vẫn mỗi người có cảm nhận riêng mỗi thứ về vi lượng cuộc đời. Nhưng thức ăn
( thời trân hay đặc sản) có lẽ là chất xúc tác tuy là chuyện nhỏ nhưng lại rất
nhạy và rất bền chặt có thể làm tâm hồn run rẩy. Có thể nói mỗi vùng đất cổ, mỗi
miền quê kiểng châu thổ sông Hồng đều có một món ăn hoặc một ngọn gia vị gắn với
món ăn ấy. Món trứng kiến hai lửa và xôi trứng kiến có người chỉ được ăn từ thời
thơ ấu nhưng mỗi lần nhắc tới đã thành một thứ “hương gây mùi nhớ” vùng quê
Kinh Bắc, da diết không kém gì một câu quan họ “ngồi đợi mạn thuyền”. Quả vải
thiều Thanh Hà, mà chỉ Thanh Hà thôi nhá, có mùi thơm vị ngọt không thể có nơi
nào. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sang Pháp du học khi tôi vừa mới tám tháng tuổi.
Năm 1963, nghĩa là 27 năm sau, ông về Hà Nội nhưng chưa được về quê vì bận công
tác. Ông gửi thư thăm ba mẹ tôi lúc đó đang sống ở Vinh và kèm theo câu nhắn:
“Nếu có ra Hà Nội, chị mang cho em một nắm nhút”. Thì ra ba thập kỷ xa
quê, một bác sĩ chỉ lo học, rồi tham gia phong trào cách mạng ở Pháp, không phải
nhà thơ, cũng không phải người sành ẩm thực như Vũ Bằng hay Nguyễn Tuân, vẫn
thèm được ăn một bữa cơm với nhút, một thứ dưa muối bằng mít xanh và ngọn
đỗ xứ Nghệ.
Nhút thường là “chủ lực quân” trong bữa cơm mùa gió Lào của người nghèo hay người ăn kẻ ở trong nhà người giàu. Người Cà Mau nhớ dưa bồn bồn, người Sóc trăng, bánh pía, bún nước lèo. Người Cần Thơ nhớ lẩu mắm, Rạch Giá là các loại bánh khéo, dân Sài Gòn là tô hủ tiếu Nam Vang…với điếu thuốc lá, ly cà phê và tờ “nhựt trình” trên tay mỗi sáng. Toàn bộ cuốn sách rất hay và gây xúc động Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng là vi lượng của một cuộc sống đã trôi vào quá khứ đối với ông, một “trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” không phải nói bằng thơ như Huỳnh Văn Nghệ mà bằng một thứ văn xuôi trác việt.
Nhút thường là “chủ lực quân” trong bữa cơm mùa gió Lào của người nghèo hay người ăn kẻ ở trong nhà người giàu. Người Cà Mau nhớ dưa bồn bồn, người Sóc trăng, bánh pía, bún nước lèo. Người Cần Thơ nhớ lẩu mắm, Rạch Giá là các loại bánh khéo, dân Sài Gòn là tô hủ tiếu Nam Vang…với điếu thuốc lá, ly cà phê và tờ “nhựt trình” trên tay mỗi sáng. Toàn bộ cuốn sách rất hay và gây xúc động Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng là vi lượng của một cuộc sống đã trôi vào quá khứ đối với ông, một “trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” không phải nói bằng thơ như Huỳnh Văn Nghệ mà bằng một thứ văn xuôi trác việt.
Vi lượng cuộc sống không chỉ thời trân. Nhiều khi chỉ là tiếng
rao đêm, hay sâu xa hơn, một câu hò trên sông, tiếng đập vải bên suối. Một câu
Kiều ai bâng quơ ngâm bên võng hay nhiều khi một tiếng cú kêu buồn trong đêm.
Là tiếng chim cu của “một buổi trưa không biết ở thời nào/ Một buổi
trưa nhè nhẹ như ca dao, có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ?” (Đi giữa đường
thơm – Huy Cận) Ta đang buồn bực, lo âu vì muôn vàn cái lo thời hiện đại. Nhưng
nhiều khi bất ngờ như có một ông tiên đến bến ta, trên con đường ta đang đi
dang dở, cất trên vai ta cái gánh nặng truyền kiếp của kiếp người. Ta thảng thốt
nghe một tiếng chim cu, giục giã, ân cần và bay bổng. Tiếng chim có sức mạnh
nâng ta lên, dù trong chốc lát khỏi cuộc đời nặng nhọc. Rồi tự hỏi như nhà thơ:
“ Buổi trưa này xưa kia ta đã đi, phải cùng chăng lòng nhớ rõ làm chi?” (Huy
Cận) Ta bỗng hiểu ra, “đời là tất cả” nhưng đời cũng là một tiếng chim vô ảnh
vô hình, nhiều khi chỉ tồn tại trong ký ức, trong một buổi trưa hè.
Và biết đâu nỗi đau của ta lại đến từ những sự vô tình khi ta
sống mà coi thường hay hờ hững với vi lượng cuộc sống. Cũng như một bệnh nhân
bướu cổ không biết nguyên nhân bệnh tình chỉ là một chút i-ốt trong bữa cơm
hàng ngày, ta phải mang cái bướu nặng nề trong tim, trong đầu hay một đôi giày
có đế bằng chì nặng như cùm dưới chân, cuộc sống bỗng trĩu nặng khác thường gây
đau đớn mà không biết vì đâu.
Bệnh thiếu vi lượng “i-ốt” nặng nề hơn với cả một số người
ham đội trời đạp đất, làm những việc to tát như bình thiên hạ, rạch đôi sơn hà
hay lập mưu tính kế ăn trộm cả một quốc gia. Với họ, tinh thần hiếu đại là lẽ sống.
Giấc mơ của họ là rải thây thiên hạ làm công một người. Nhưng lịch sử đã ghi lại
không biết bao nhiều “anh hùng gãy cánh”. Bản thân họ không được sống cho đúng
nghĩa với một con người cho nên họ thất bại vì coi nhẹ con người và những vi lượng
cuộc sống. Nhân vật Andrei Nicolaievich Bolkonsky, một sĩ quan quý tộc trong tiểu
thuyết Chiến Tranh Và Hòa Bình chỉ khi bị tử thương ngã vật xuống cỏ mới nhìn
thấy những vì sao nhấp nháy trong bầu trời hoàng hôn nơi chiến địa Borodino
chưa tan mùi thuốc súng sao mà đẹp đến não người. Napoléon lúc đó phi ngựa đến
bên cạnh người sĩ quan Nga, nói câu gì đó với các nguyên soái nhưng Bolkonski
chỉ cảm thấy tiếng nói của ông hoàng đế vĩ đại “vo ve như một con ruồi”. Anh đã
hối tiếc vì đã từng mơ “trở thành Napoléon của nước Nga” mà đã bỏ quên như chưa
hề một lần được ngắm bầu trời. Cũng như người thiếu phụ trong thơ Vương Xương
Linh, bỗng chợt thấy một chút màu xanh dương liễu đầu đường mà hối hận vì đã để
chồng ra trận đeo đuổi nghiệp công hầu khanh tướng. Nhà độc tài khuynh đảo châu
Âu một thời như Napoléon, từng coi con người chỉ là những khối vuông hứng đại
bác trong các trận đánh đẹp, bỗng trở thành một con ruồi vo ve trong ý nghĩ của
người sĩ quan Nga sau một cái nhìn hiếm hoi lên bầu trời trước ngày lâm tử.
Nghệ sĩ có thiên năng giúp ta phát hiện, khám phá những giây
phút nhỏ bé thiêng liêng với mỗi con người dù nó chẳng là gì trong ý thức thô lậu
của không ít người. Một miếng ván chênh kêu giữa nhịp cầu, một tiếng cu gáy,
hay cả một cánh bướm vàng chẳng là cái gì với họ, những hoàng đế sử dụng những
khối vuông người hay những quan vua độc tài tham nhũng có thể nhai ngấu nghiến
cả bê tông sắt thép. Nhưng “người là “hoa của đất”, những thứ có vẻ như vô
nghĩa ấy chính là hương sắc của hoa. Thiếu cái hương sắc ấy, con người trở nên
méo mó, khô cằn và cuộc sống, xã hội có nguy cơ trở thành sa mạc.
Nguyễn Quang
Thân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét