Đối với nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn, quá trình 40 năm sáng tác của ông là một cuộc hành trình dài vào bề sâu của
âm thanh và ngôn ngữ. Ông coi ca khúc là một mô hình gần gũi, thiết thân và
hoàn chỉnh; là cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Công việc sáng tác
ca khúc không chỉ cho phép ông giãi bày những niềm vui, nỗi buồn của mình, mà
cao hơn, nó còn mang tình yêu, lòng nhân ái tới mỗi người.
Soi gương
Mỗi sáng nhìn vào mặt gương
soi lại thấy thêm rất nhiều sợi tóc bạc.
Tôi là một đứa bé thích ca
hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập,
chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitar đầu tiên trong đời
và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình
hát.
Tôi không đến với âm nhạc
như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi
hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong. Như những họa sĩ tập sự bắt đầu
sự nghiệp mình bằng cách sao chép lại tác phẩm của những nhà danh họa, tôi cũng
chọn một số mẫu mực âm nhạc mà tôi yêu thích và thay đổi giai điệu bên trong ở
thời kỳ đầu. Đó là những năm 56 – 57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của
những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu
mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên ham muốn
trở thành nhạc sĩ. Đối với cái bề mặt xã hội lúc bấy giờ, tương lai có nhiều tiếng
gọi khác hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn cho một con người còn trẻ tuổi.
Dạo ấy ba tôi đã mất, mẹ tôi
ở xa, tôi một mình giữa Sài Gòn phải tự quyết định mọi chuyện về đời mình. Cái
gánh đời tuổi tác còn quá nhẹ. Có lúc tôi đã bỏ dở cái trò lãng mạn viết lách
này với nỗi ám ảnh ngu ngốc “xướng ca vô loại”. Tôi trằn trọc đêm này qua đêm
khác, ray rứt ngày này qua tháng nọ. Nhưng càng cố quên lãng thì tiếng hát
trong tôi càng vang lên rõ rệt, tràn ngập cả lúc đứng ngồi, cả trong giấc ngủ.
Dần dà những năm về sau, mới
bắt đầu hình thành trong tôi một quan niệm rõ rệt: Sống là sống với người khác
và muốn có cảm thông chúng ta phải luôn luôn tự diễn đạt mình. Trong những cách
diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ viết và nhiều phương tiện khác, tôi thấy tâm
hồn mình có khuynh hướng nghiêng về phía ca khúc. Trên mảnh đất nghệ thuật nhỏ
nhắn này, tôi tìm thấy tự do và tôi nghĩ rằng ở đây tôi có thể bày tỏ được với
người khác về những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
Mấy mươi năm nhìn lại quãng
đường mình đã đi, tôi cảm thấy không có gì phải ân hận. Tôi vẫn là đứa trẻ thơ
trong nghệ thuật, lòng còn tràn đầy cảm hứng. Tôi vẫn còn ham mê học hỏi quanh
mình và còn đủ hào hứng mở ra những cuộc đối thoại với cây cỏ thiên nhiên, với
con người qua ca khúc dưới ánh sáng hiền hòa nhân hậu của những ngày tôi đang sống.
Phải chờ đến lúc soi gương
nhìn thấy tóc không còn mang mầu xanh cũ nữa, mới nhận ra được hết nỗi khát
khao được yêu thương mãi mãi con người và cuộc sống. Yêu thương con người cũng
là yêu thương tiếng hát bởi vì tiếng hát mang trong nó tâm hồn của con người.
Tiếng hát sẽ mọc lên xanh tươi trên cuộc đời này như những cây tử đinh hương mọc
tràn thơm tho trên những cánh đồng vô tận.
Với ca khúc, tôi là người
tình của thiên nhiên, là người bạn của những em bé. Qua ca khúc, tôi đã đến gần
và đã đi xa những chuyện tình; đã tham dự những nỗi hân hoan của đời người và
cũng đã gánh nhẹ giùm những phiền muộn.
Ca khúc là đời sống thứ hai
sau cái thân thể mà cha mẹ đã sinh thành.
Trái đầu mùa
Bài hát đầu tiên do Nhà xuất
bản An Phú phát hành năm 1959 tại Sài Gòn. Đó là những cảm xúc được ghi lại từ
những giọt nước mắt của một ca sĩ nữ sinh vừa rời ghế nhà trường. Cô hát để kiếm
tiền nuôi mẹ đang hấp hối trên giường bệnh.
Dạo ấy, trong đầu hoàn toàn
chưa có một khái niệm nào về tiền tác quyền. ở tuổi hai mươi, trong tâm trí
đang còn phơi phới những ý đồ hiệp sĩ. Số tiền năm ngàn hồi ấy quá lớn đã được
dùng một phần tặng người ca sĩ và phần còn lại chia đều cho các bạn cùng ở trọ.
Mỗi tháng, tiền ăn ở cho một học sinh, sinh viên chỉ có năm, sáu trăm đồng.
Nguồn cảm hứng đầu tiên ấy
đã làm cơ sở cho một loạt những cảm xúc khác thành hình. Như một khu rừng mùa
thu yên tĩnh được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng dậy, tâm hồn
tôi đã bắt đầu biết xôn xao theo những tín hiệu, dù nhỏ nhất của cuộc sống. Tôi
không còn nhìn ngắm cuộc sống một cách lơ đãng như trước nữa mà càng lúc càng
thấy mình bị cuốn hút về phía những tình cảm phức tạp của con người.
Những trái cây đầu mùa ấy
còn vụng về, chưa có vóc dáng riêng, nhưng nó mang đến niềm thích thú để từ đó
sẵn lòng làm một cuộc hành trình dài lâu đi vào cái bề sâu của âm thanh và ngôn
ngữ.
Gặp gỡ
Năm 64 – 65, tôi được các bạn
tổ chức buổi ra mắt đầu tiên trước quần chúng tại khu đất trống sau lưng trường
Văn Khoa Sài Gòn cũ (nay là Thư viện Quốc gia).
Với tôi, đây cũng là buổi thể
nghiệm xem mình có thể tồn tại trong lòng quần chúng được không. Trước mặt đám
đông đến mấy nghìn người gồm đủ thành phần văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh,
sinh viên tôi cảm thấy mình quá trơ trọi và đầy lo âu trên bục gỗ với cây đàn
guitar dưới ánh sáng đèn. Với một hành trang nhẹ nhàng bằng hai mươi ca khúc
nói về quê hương, ước mơ hòa bình và những bài sau này được gọi là “phản chiến”,
tôi đã cố gắng hết sức để một mình đảm nhận vai trò đưa nỗi lòng của mình đến với
quần chúng. Buổi hát đã để lại một ấn tượng khá tốt đẹp cho cả người trình bày
lẫn người nghe.
Trong buổi diễn có một bài
hát được yêu cầu hát đến lần thứ tám và cuối cùng mọi người tự động hát theo.
Sau buổi diễn tôi đã được “bồi dưỡng” bằng một tiếng đồng hồ ngồi ký tên trên
những trang giấy của tập bài hát quay roneo dành cho người nghe.
Đó là buổi gặp gỡ đầu tiên
giữa người sáng tác và người nghe. Những buổi trình diễn nối tiếp ở các giảng
đường đại học khác cũng được lặp lại trong một bầu không khí nồng nhiệt như thế.
Trong tôi bắt đầu sáng lên một khái niệm: đó là ý thức về trách nhiệm của người
sáng tác đối với công chúng.
Đêm Nhị Xuân không còn thấy
rõ mầu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một mầu áo
khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt
dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long ẩn và tôi…) cùng anh em thanh niên
xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế.
Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ
đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái thanh niên xung phong nhanh nhẹn vui
tươi mang cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy,
tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng
còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy tay
trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe nằm lại giữa đường, không được
vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. Về lại thành phố, trở lại công việc thường
ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái thanh niên xung phong đi về
phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn,
đã gặp trong đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới
Tây Nam. Những tiếng hát, giọng cười còn đó. Những cây mía, cây dứa các bạn trồng
vẫn còn đó, vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong
trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có gì khác chúng
ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khỏe mạnh ấy, đã có những
cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất
mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những
người bạn nhỏ ấy đã ra đi vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ
như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường
và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến
nơi đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng là có lỗi với cuộc đời rồi
hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những
cân nhắc đong đo xuôi chèo thuận lái.
Thông điệp
Mỗi người đều có một cách
riêng và một lý do riêng khi đến với nghệ thuật. Cánh cửa mở ra, chúng ta bước
vào. Có những cánh cửa rộng hẹp không đều nhau. Có những cách nhìn và lòng đam
mê không giống nhau. Và làm sao có thể giống nhau được khi bản chất của nghệ
thuật là một đòi hỏi miên man cái muôn hình vạn trạng. Từ đó hình thành tính
cách của mỗi con người muốn lân la kết tình bằng hữu với nghệ thuật.
Có một điều chắc chắn là
không có ai làm nghệ thuật một cách không nghiêm túc. Con người còn lắm chỗ, lắm
nơi để bày ra những trò phù phiếm. Tuy nhiên, cũng có không ít những người quan
niệm rằng làm nghệ thuật không vì một mục đích nào cả nghĩa là muốn hoàn thành
một thứ nghệ thuật không có cứu cánh.
Đã từ lâu tôi muốn qua ca
khúc nói được thật nhiều điều. Tôi không chọn ca khúc như một chặng đường để rồi
sau đó tu dưỡng hòng nhảy vào những thể loại to lớn hơn. Ca khúc đối với tôi là
một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu
giữa thi ca và âm nhạc.
Ở nơi nào trên mặt đất này
có con người, ở đó có tiếng hát. Con người có thể hát một mình ở bất kỳ nơi
đâu. Ca khúc là nỗi lòng của một con người trong cuộc sống. Cuộc tình giữa âm
nhạc và văn học này đã khiến ca khúc tự nó có thể chạm đến mọi bờ cõi tri thức
của đời sống con người. Nó đủ khả năng hát về một cái chồi non vừa nhú cho đến
cái chết của một con người. Nó chính là tiếng chim buổi sáng, tiếng gà gáy trưa
bên đồi mang âm vang của một nỗi nhớ nhung. Nó là nắng, là mưa, là nụ cười, là
tiếng khóc. Nó ở cùng với điều nhỏ nhất và đồng thời cũng sống chung với những
cõi bờ bao la.
Tôi chưa bao giờ cảm thấy ca
khúc bối rối trước những điều tưởng không nói được. Nó đã đi qua bao nhiêu mùa
mang giữa lòng cuộc sống con người và thường nó có mặt bên cạnh con người như một
lời an ủi. Cũng vì thế, tôi đã có lần nuôi tham vọng gán ghép cho ca khúc một
cái gì đó lớn hơn, tràn đầy ra ngoài cái hình thể nhỏ nhắn và khiêm tốn của nó.
Đó chính là sứ mệnh truyền đạt những âu lo, những chờ đợi của con người khi đối
diện với chính mình trước cuộc sống. Nó có bổn phận phải cưu mang trong từng
dòng nhạc dòng chữ cái phần tinh khiết nhất của hạnh phúc và bất hạnh. Như vậy,
ca khúc ngoài cái vai trò mua vui cũng được một vài trống canh, nó còn phải đảm
nhiệm cái sứ mệnh đẹp đẽ mà các anh chị em họ hàng nghệ thuật của nó đã và đang
làm.
Tôi nghe một tiếng hát và
tôi thấy lại cả một khoảng trời đầy kỷ niệm. Tiếng hát đi từ tôi đến anh bằng
con đường ngắn nhất. Cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang đến sự cảm
thông giữa mọi người bằng tiếng hát. Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh
này tiếng hát sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay
qua các lục địa, các đại dương, mang trong lòng nó tình yêu và tình nhân ái.
Cái sứ mệnh huy hoàng nhất của nó là phải mang được cái thông điệp ấy đến với từng
con tim. Không những chỉ với những tâm hồn vốn yêu chuộng hòa bình mà cả những
con tim đang ngộ độc bởi những ngòi thuốc nổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét