Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Nho tướng Nguyễn Công Trứ 2

Nho tướng Nguyễn Công Trứ 2
Chương 7
Nhậm chức Hình bộ Tham tri ở Kinh là một đặc ân của đấng quân vương dành cho ông sau tám năm bước vào cổng quan trường, nhưng thật lòng Nguyễn Công Trứ không muốn chút nào. Hơn hai giáp rồi chứ ít gì. Ngày ấy kể cũng liều, khi chỉ là anh thư sinh chân trắng vậy mà dám đón đường dâng Thái bình thập sách lên vua. Thực ra, nội dung không mới, song đó là cái tâm của ông đối với đất nước. Những người bắt đầu học Tứ thư đều biết đến Phú, Thứ, Giáo, chớ nào chỉ mình ông. Nhưng với Nguyễn Công Trứ lúc này, nhất là sau khi dẹp loạn Phan Bá Vành, những lời dạy của Khổng tử lại làm ông suy nghĩ. Làm cho dân no, dân giàu, đồng thời dạy cho dân biết lễ nghĩa là trách nhiệm của những người thay mặt thiên tử chăn dắt dân. Dân chi phụ mẫu mà làm không tròn trách nhiệm của người phụ mẫu thì không xứng đáng ăn cơm vua hưởng lộc nước. Và đó cũng là đạo thần tử, là một trong kế sách lâu bền trong việc trị quốc. Phú, Thứ, Giáo là vậy, nhưng Hoàng triều đã thực hiện đến đâu ? Hàng trăm cuộc khởi nghĩa nổi dậy lớn có, nhỏ có của nông dân đã cho thấy Hoàng triều chưa thực hiện được là bao. Song mỗi thời đại, mỗi giai đoạn đều có một hoàn cảnh riêng, khó mà tránh được. Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong, đấng minh quân nào cũng hiểu điều ấy, và Nguyễn Công Trứ tin Hoàng triều sẽ làm được. Nếu không được lòng trời, thì Hoàng triều không thể thống nhất sơn hà, không thể có được dải đất bao la như thế.
Dân đói, triều đình ban lệnh chẩn bần. Dân gặp phải thiên tai, triều đình ban lệnh cứu tế. Theo ông, triều đình làm vậy là đúng, song chưa đủ. Trị bệnh mà chỉ trị được chứng, không trị được căn là chưa phải thầy thuốc giỏi. Cái gốc của những cuộc nổi dậy của nông dân vừa qua là gì ? Dân muốn nổi loạn ư ? Chẳng phải. Đức Khổng đã dạy: Dân khả sử do chi, bất khả sử chí chi (Dân có thể sai khiến được, chớ không thể hiểu hết). Do vậy, hầu hết dân đen đều bị kẻ khác giật dây và trách nhiệm thuộc về những vị ăn lộc nước mà không lo cho nước. Qua vụ Phan Bá Vành, Nguyễn Công Trứ càng thấy rõ điều đó. Dân lúc nào cũng tốt. Họ theo giặc chỉ vì không ai dạy họ biết đâu là lời ngay lẽ thật, biết đâu là đạo lý làm người, không ai quan tâm tới miếng cơm, manh áo thường ngày của họ. Đói ăn vụng, túng làm càn, làm sao trách họ được. Những người lợi dụng điểm yếu của nhà cầm quyền thông qua quan sở tại, phất cờ chống đối, không có chủ trương, đường lối rõ ràng như những cuộc nổi loạn vừa qua, thì... được làm vua, thua làm giặc. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đường chớ kém chi. Ít ra, hậu thế sẽ có người biết tới họ, còn hơn sống mãi mà vua chẳng biết mặt, chúa chẳng biết tên.
Nguyễn Công Trứ tủm tỉm cưới một mình.
Lật thuyền mới thấy dân như nước. Câu thơ xuất phát từ thực tế cuộc sống, nên nó sáng mãi, tươi mãi. Nước có thể nâng thuyền lên mà cũng có thể nhận thuyền chìm. Cuộc đời của Ức Trai tiên sinh đã dạy cho ông nhiều điều hay. Dựng cơ đồ nhờ dân, mất nghiệp đế cũng do dân. Ý dân là ý trời!
Nhìn dòng chữ Lao năng khả tưởng (Năng lực và công sức khó nhọc đáng được ghi nhớ, khuyến khích) trên chiếc kim khánh của vua Minh Mệnh ban cho hôm nào sau ngày dẹp loạn Phan Bá Vành, Nguyễn Công Trứ thấy lòng rưng rưng. Về bản thân, Nguyễn Công Trứ khá tự hào. Mọi người từ trong triều đến ngoài quận, ai ai cũng thấy được ông là một vị nho tướng đủ tài thao lược. Nhưng... nhất tướng công thành vạn cốt khô. Tuy so với những trận đánh trước của các quan Trương Phúc Đặng, Lê Mậu Cúc... thì ông đã hạn chế được sinh mạng đôi bên tới mức thấp nhất, nhưng máu vẫn đổ, đầu vẫn rơi. Trên đầu quả phụ, cô nhi vẫn còn trắng lợp khăn tang. Con trùn, con kiến còn muốn sống huống hồ gì con người. Vì ai ? Vì ai ? Không nghĩ đến thì thôi, còn mỗi lần nhớ tới, dù biện hộ cách nào, Nguyễn Công Trứ vẫn cảm thấy ray rứt.
Trước khi điều quân vây khổn Phan Bá Vành, ông đã cho điều tra cụ thể gia cảnh từng người thân cận của Phan Bá Vành, kể cả cá tính từng người. Mạnh dùng sức, yếu dùng chước. Đối phó với Phan Bá Vành, Nguyễn Công Trứ dùng chước là chủ yếu. Các cánh quân dưới quyền điều khiển của ông không hề biết cách thức dụng binh của ông. Kế giương đông kích tây, rung cây nhát khỉ... được Nguyễn Công Trứ áp dụng triệt để và chẳng mấy ngày, nghĩa quân của Phan Bá Vành nhốn nháo như gà con mất mẹ. Tâm trạng hoang mang của họ đã giúp Nguyễn Công Trứ dễ dàng đưa đội quân tinh nhuệ của mình trà trộn vào đội quân của Phan Bá Vành. Nhiệm vụ của họ, chủ yếu là rỉ tai, tuyên truyền những tin thất thiệt có lợi cho quân triều đình.
Trên bộ, dưới thuyền đâu đâu cũng thấy quân triều đình đã vào đội ngũ chỉnh tề, cờ xí rợp trời, khiến mọi người có cảm giác đám giặc Phan Bá Vành như đang đứng trước miệng rồng, hang cọp.
Râm ran đây đó, bà con đã nói với nhau, chuyện chết của giặc Bá Vành đã rõ, chỉ còn chờ lúc nào quân triều đình tấn công mà thôi. Nguyễn Công Trứ vui lắm. Kế sách của ông cơ bản đã thành công. Ngày xưa, Trương Lương đã biết dùng tiếng sáo đẩy lui quân giặc. Ngày nay, ông không đủ tài như thế, nhưng ông biết tâm lý chiến thắng cũng quyết định phần lớn chuyện thành bại nơi chiến trường. Sức ai mạnh bằng Hạng Võ, ấy mà còn phải thua Hàn Tín – người đã có một thời vác dáo hầu Hạng Võ. Chuyện xưa tích cũ còn đó, học cả đời không hết, tại sao không học người xưa ?
Và, Nguyễn Công Trứ đã học.
Tổng hợp tin tức từ các cánh quân, các thám tử mật báo cùng với khí thế mới, Nguyễn Công Trứ tin rằng mình đã hội đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa, và ra lệnh tấn công.
Đêm ngày 16 tháng 2 (1827) là cộc mốc đáng nhớ trong đời Nguyễn Công Trứ – đời của vị tướng trước trận tiền.
Căn cứ Trà Lũ đã không còn là nơi bí mật và hiểm yếu đối với Phan Bá Vành và quan quân dưới thời Binh bộ thị lang Nguyễn Công Trứ nữa.
Tiếng trống thúc trận.
Ánh đuốc bùng lên đỏ rực một góc trời.
Nội công ngoại kích, khí thế của quân triều đình như nước vỡ đê.
Biết thân mình như hổ lạc bình nguyên, Phan Bá Vành đơn thân độc mã chạy thoát thân, nhưng cũng không thoát được thế trận thiên la địa võng của Nguyễn Công Trứ giăng ra, đành phải nộp mình cho viên
cai tổng quen biết trong những ngày còn là nông dân chịu thương chịu khó.
Rồng mà mắc cạn tôm giỡn mặt,
Cọp lạc đồng bằng bị chó khi.
Những lời thương tiếc ấy, Nguyễn Công Trứ nghe hết, và thực lòng ông cũng tiếc cho Phan Bá Vành.

Nhưng biết làm sao được. Ở đời nào ai có thể chọn cho mình quê hương, cha mẹ, số phận? Nợ nần kiếp trước chăng? Nguyễn Công Trứ thở dài, khẽ ngâm:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
Tạm dịch:
Chớ cười chiến địa nằm say ngất,
Xưa nay ra trận mấy ai về.
Trong lúc các quan lớn trong dinh Tổng trấn Bắc thành người lo thảo biểu tâu về kinh, người lo hạ tiệc mừng công thì Nguyễn Công Trứ lo treo biển yên dân. Cái vui hiện tại của ông là cái vui chưa trọn vẹn. Khi làm công tác địch vận để đối phó với Phan Bá Vành, ông đã hiểu thêm về nỗi khổ của người dân. Đời sống thường ngày của họ khổ quá. “Giời ơi, chúng con chỉ hơn con chó có đôi đũa”. Nghe mà thương, mà ứa nước mắt. Thời trai trẻ của ông đã khổ, nhưng ít ra cũng còn có mảnh vườn, còn người dân ở đây có gì đâu. Loạn lạc, giặc giã làm cho họ đã khổ lại càng khổ thêm, cực thêm. Một vũng trâu nằm hơn năm làm mướn là ước mơ bao đời của người dân quê một nắng hai sương và đã là dân chi phụ mẫu thì phải biết điều đó trước hết, chớ đâu phải như thầy cúng: sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi. Không có dân làm sao có nước, làm sao có đấng quân vương, có bậc thần tử ? Biết được cái chỗ làm của Trời, biết được cái chỗ làm của Người, đó là biết đến chỗ cùng tột rồi vậy. Biết được cái chỗ làm của Trời là biết thuận theo cái lẽ tự nhiên của trời đất mà sống. Biết được cái chỗ làm của Người là biết lấy cái mà trí mình biết được để dưỡng nuôi cái mà mình không thể biết được, hầu hưởng trọn tuổi trời mà không giữa đường chết yểu. Ấy là sự biết đến cùng cực rồi.
Tuy nhiên, cũng có điều lo: sự hiểu biết cần phải có chỗ căn cứ, nhiên hậu mới có thể thích đương được. Nếu chỗ căn cứ ấy mà chưa định được, thì lấy đâu phân biệt đạo Trời và Người ? Chả lẽ, cái mà ta gọi là Trời lại chẳng phải là Người, và cái mà ta gọi là Người lại chẳng phải là Trời ? Trang tử đã dạy vậy, nhưng đã có mấy người thấu triệt và áp dụng vào công việc của mình ? Học mà không hành là phụ thầy, phụ mình. Có thực mới vực được đạo. Do đó, triều đình phải có biện pháp làm cho con dân cơm no áo ấm. Được vậy, con dân sẽ biết ơn và hạn chế được mầm phản loạn. No thành Tiên thành Phật, đói ra ma ra qủi, nên làm sao trách được người dân. Làng Minh Giám có Phan Bá Vành làm giặc, triều đình xóa tên làng, đặt lại tên khác, cấm tòng tam tựu ngũ, v.v... thì chỉ mới giải quyết được cái ngọn, thậm chí người dân thấy mình bị răn đe, dọa nạt nhiều hơn là giáo hóa. Đức thắng tài vi quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân. Lấy đức chăn dân mới bền gốc nước...
Càng nghĩ, trong đầu Nguyễn Công Trứ càng hiện lên hình ảnh những người dân hiền lành đói cơm lạt mắm, hiện lên những vùng đất hoang hóa mà bọn giặc cỏ thường lấy làm chỗ trú thân. Nếu không giải quyết triệt để vấn đề này thì nay mai sẽ có những Phan Bá Vành khác mạnh hơn, cơ trí hơn. Mà loạn lạc nổi lên, kéo dài chừng nào thì người dân đen khổ chứng đó, chớ chẳng có ai khổ thay cho họ.
Nghĩ tới nghĩ lui, Nguyễn Công Trứ bèn ngồi lại án thư, sắp đặt câu chữ trong đầu đâu ra đó, rồi viết:
“... Đời xưa chia ruộng, lường của, để dân được có nghề, cho nên dân yên phận làm ăn ở nơi thôn ổ, không sinh lòng gian vậy. Hiện nay những dân đói nghèo, rong ăn rong chơi, lúc cùng lại rủ nhau trộm cướp, tệ ấy khó ngăn hết được. Trước kia hạ thần đi qua tỉnh Nam Định, thấy về phần đất huyện Giao Thủy và huyện Yên Định, đất đai hoang phế, trông thấy mênh mông, ngoài ra chỗ khác cũng còn lắm đất ruộng hoang kể tới hàng mấy nghìn mẫu. Hạ thần đi hỏi người sở tại, ai nấy đều có ý muốn khẩn cày, nhưng nhu khí nhiều quá, sức làm không nổi. Như cấp của công cho, thì có thể chiêu tập dân nghèo mà khẩn trị được. Làm thế thì nhà nước không tốn bao nhiêu, mà cái lợi tự nhiên, lâu dài mãi mãi. Vả lại bãi Tiền Châu ở huyện Chân Định, rậm rạp quá chừng, lũ giặc thường nhóm họp ở đây, nay nếu khai phá đi, thời không những là mở đường làm ăn cho dân nghèo, mà lại trừ được lũ giặc cỏ nữa. Xin sai quan trấn thần hạt ấy thân vãng xem xét, phàm các nơi đất hoang cày được, khiến những người có sức chia nhau coi việc, mộ dân nghèo các hạt để khai khẩn: như mộ được 50 người lập làm một lý, cho làm lý trưởng, 30 người làm một ấp, cho làm ấp trưởng. Lường đất cho ở, cấp tiền công cho làm nhà cửa và mua những đồ ngưu canh điền khí. Lại cấp gạo cho đủ ăn trong sáu tháng, ngoài hạn ấy thời phải làm lấy mà ăn, ba năm thành ruộng, đều chiếu lệ ruộng tư đánh thuế; phủ huyện sở tại lập kho trữ lại, đề phòng khi mất mùa mà phát chẩn cho dân. Những ấp lý mới lập gọi là quân lực bản, phàm các hạt khác có trích ra những tụi du dân không trước lạc vào đâu, đều bắt vào làm... "(1)
(1) Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, sđd, trang 135-136.
Nguyễn Công Trứ đọc đi đọc lại và tin rằng triều đình sẽ chuẩn y kế sách này. Nhưng để trở thành hiện thực một khi hoàng thượng đã châu phê, Nguyễn Công Trứ đem ý kiến của mình trò chuyện với lương dân, với những người hiểu chuyện ở quanh vùng. Khi thấy ai ai cũng hỗ trợ kế sách khẩn hoang này, Nguyễn Công Trứ thấy lòng nhẹ nhõm. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn, huống gì lòng dân đã nhất tề ủng hộ. Nguyễn Công Trứ mạnh dạn chuyển kế sách về kinh.
Nhiệt tâm, nhiệt huyết của Nguyễn Công Trứ không những được vua Minh Mệnh chấp thuận, mà bản thân ông còn được thăng Thụ Hình bộ Hữu tham tri sung chức Dinh điền sứ, được toàn quyền lo việc chiêu mộ dân đinh khẩn hoang tại các nơi miền duyên hải, trước mắt ở hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình.
Nguyễn Công Trứ vui vẻ trong lòng. Ông đặt lễ tiệc tạ ơn vua và giã từ bè bạn lên đường thực hiện ước mơ “phải hăm hở ra tài kinh tế".
Nguyễn Công Trứ đích thân đi gặp lại những người học trò nghèo và những nông dân đã giúp đỡ ông rất nhiều trong lúc dẹp giặc Phan Bá Vành, như: Phan Ruyện, Võ Ngọc Lân, Lại Thế Nhung, Nguyễn Bá Phan, Trần Minh, Lê Trụ, Vũ Duy Thắng, Nguyễn Hộ, Phí Đam, Phan Thạch Lý, v.v... (1)
(1) Các người này được ghi vào gia phả của dòng họ, ghi vào bia ở các đình, đền trong huyện Tiền Hải.
Nguyễn Công Trứ thông báo cụ thể từng chi tiết cho mọi người biết ý định của triều đình và ông là người trực tiếp điều hành công việc khai khẩn đất hoang, đem cơm no áo ấm về cho dân nghèo trong vùng. Nguyễn Công Trứ nói:
- Các người là những người nguyên mộ, mở đầu cơ nghiệp cho vùng đất này và sẽ là lý trưởng, ấp trưởng của làng, thôn sau này khi làng xóm được dựng nên. Do đó, các người hãy dựa vào năng lực của mình mà chiêu tập bà con để cùng làm việc nghĩa. Việc làm này không chỉ có ích cho nước mà còn lợi nhà, trước mắt là lợi cho bản thân, gia đình, làng xóm. Ta tin các người sẽ làm được. Đông tay vỗ nên kêu. Anh em cứ yên tâm, mọi việc hỗ trợ phía sau đã có triều đình, trực tiếp là ta.
Lướt nhìn những gương mặt căng thẳng, nhưng rạng rỡ niềm vui của họ, Nguyễn Công Trứ cùng mọi người bàn kỹ đến tiền gạo giúp cho những người đi khai phá. Cái lợi của việc khai khẩn đất hoang, ai cũng thấy, nhưng phải có cơm ăn no bụng mới làm được, chứ bụng đói thì mắt mờ, chân tay bủn rủn, đi còn không nổi, nói gì tới chuyện khai phá. Cái khó, cái lo của mọi người chính là tiền gạo ở đâu để vận động bà con bỏ công chuyện thường nhật, tập trung khai phá đất hoang. Quan Dinh điền sứ đặt vấn đề ấy ra là sát sườn nhất, cụ thể nhất. Chính vì vậy mà chỉ trong chốc lát, họ tự tách ra từng nhóm bàn bạc sôi nổi.
Họ là những người đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt với ruộng đồng, nên những gì liên quan đến ruộng đồng họ chỉ cần bàn bạc, nhẩm tính một hồi là đâu vào đó.
Theo mọi người thì ai chiêu tập được 50 đinh, xin triều đình cho 300 quan tiền để mua mười con trâu và 40 quan tiền để sắm công cụ, cùng khoảng 100 quan tiền để làm nhà. Nếu đáp ứng được điều ấy, việc khẩn hoang sẽ không khó và chắc chắn trong một thời gian ngắn, nhiều người ở nơi khác đến xin sung vào dân đinh khai khẩn. Có mật ắt có ruồi.

Nghe họ trình bày cặn kẽ với tấm lòng thành, Nguyễn Công Trứ vui lắm. Thói đời, ông đã gặp không ít những người dạ dạ vâng vâng đó, rồi khi quay lưng thì thóa mạ, bêu rếu. Nay đứng trước những người đang cùng ông mơ về một cuộc sống đầy đủ hơn, ấm no hơn, ông tin họ như tin chính bản thân mình. Tuy là quan lớn của triều đình, nhưng ông đã trải qua thời gian nghèo túng, nên những gì họ đề đạt ông đều hiểu. Nhựng tính toán vừa qua của họ, ông càng qúi cáng thương họ hơn. Số tiền họ đưa ra hoàn toàn hợp lý. Họ đã tính toán sít sao như chính đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình, chứ không phải thấy của trời mà mặc sức tiêu dùng. Họ nghèo nhưng tâm họ sáng, theo ông đó là vốn qúi. Và chính cái vốn qúi ấy sẽ làm nên tất cả. Suy từ bản thân, ông biết, ý chí của con người cũng có thể là thiên đường mà cũng có thể là địa ngục của người ấy. Ông gặp được những người này chính là trời giúp.
Nguyễn Công Trứ vui vẻ, tạm chia ra từng nhóm và hẹn ngày vào dinh ký nhận tiền tiến hành công việc.
Mọi người ra về thì cũng là lúc nhà nhà lên ánh lửa. Tiếng muôn trùng nay không còn là tiếng nhạc lòng của người lữ thứ, mà là bản hợp âm của cuộc sống vui vầy. Nghiên mực trên bàn như mời gọi hồn thơ. Nguyễn Công Trứ bước tới bước lui một lúc rồi ngồi lại án thư tung bút:
Cùng đạt có riêng chi mệnh số,
Hành tàng nào hẹn với văn chương.
Đường công danh sau trước cũng là thường,
Con tạo hóa phải rằng ghen ghét mãi.
Duyên ngư thủy còn dành cơ hội lại,
Quyết tang bồng cho phỉ chí trượng phu.
Trong trần ai ai kém ai đâu ?
Tài bộ thế, khoa danh ờ lại có.
Thơ rằng: “Độc thư thiên bất phụ,
Hữu chí sự cánh thành".
Giang san đành có cậy trong mình,
Mà vội mỉa anh hùng chi bấy nhẽ.
Đã sinh ra ở trong phù thế,
Nợ trần ai đành cũng tính cho xong.
Nhắn lời nói với non sông,
Giang san hầu dễ anh hùng mấy ai.
Thanh vân trông đó mà coi.
Ngày ngày, Nguyễn Công Trứ lúc cưỡi ngựa, lúc lội đồng đi đều khắp vùng bãi bồi hoang hóa. Dưới mắt ông, vùng đất này được khẩn hoang có thể lập thành một huyện vững vàng, chứ không chỉ được vài ba ấp, lý. Nhìn những người nông dân trần lưng dưới nắng, ông càng hiểu thêm giá trị của chén cơm hằng bữa.
Qua một thời gian ngắn, ông vội vã họp hết những người nguyên mộ, kể cả những lão nông tri điền bàn bạc tương lai cho vùng đất, bởi vùng đất mới này khá giống vùng đất quê hương ông. Công sức cứ đổ ra mà thu hoạch cỏ thì đúng là công dã tràng. Cái lo của người chăn dân là không thấy trước những điều cần phải thấy. Đắp đê ngăn lũ ? Chính đây là việc phải làm và làm còn kịp cho vụ mùa đầu tiên, nhưng... rủi thời gặp phải sức công phá của thủy triều thì bờ đê mới khó mà trụ nổi. Những băn khoăn này đã làm ông ăn không ngon ngủ không yên mấy hôm liền và ông phải triệu tập cuộc họp khẩn cấp hôm nay.
Khi mọi người có mặt đông đủ, Nguyễn Công Trứ không giấu gì nỗi lo và những gì còn chưa thấu đáo của mình. Mỗi người đều có sở trường sở đoản riêng, ông đề nghị mọi người đừng ngại ngùng, hãy chân thành bày tỏ hết kế sách để cuối cùng mọi người được cơm no áo ấm. Thiên tai có thể hại người, nhưng con người cũng có thể khắc phục.
Nghe những lời lẽ chân tình của quan Dinh điền sứ, những người có mặt sẵn lòng góp bàn ý kiến. Với họ, quan Dinh điền sứ đã thương dân, lo cho dân như thế mà họ làm ngơ trước nỗi lo ấy thì không xứng đáng làm người. Họ tâm đắc với ý của quan Dinh điền sứ. Không làm việc thiện thì đạo đức chỉ là tiếng suông. Và những việc họ đang làm, sẽ làm trước mắt là làm cho chính họ, cho tương lai con cháu họ chớ cho ai. Những người nông dân lưu tán như Trần Minh, Lê Trụ, Nguyễn Hộ, v.v... đều thống nhất dù đắp chân đê có rộng tới đâu mà đất chưa nén chặt, cỏ cây chưa kịp đâm rễ giữ đất thì sóng chỉ đập vài ba trống canh là mọi công sức đều theo dòng lũ. Cái khó là phải làm sao ngăn chặn thủy triều để người dân thu hoạch vụ mùa đầu tiên, lấy khí thế mà khai phá tiếp cũng như thu hút dân nghèo phương xa. Thời gian quả gấp rút, và họ cần phải chạy đua với ông trời.
Thấy mọi người hăng say bàn bạc, Nguyễn Công Trứ lệnh cho người nhà dọn cơm.
Tuy rượu thịt đầy đủ không thua gì bữa giỗ mà họ thường ước ao, song ai nấy như nghẹn ở họng. Thương quá. Sau bữa cơm, họ đề nghị Nguyễn Công Trứ lui về phòng, song ông cương quyết cùng tham dự góp bàn với mọi người. Họ dẫn ông ra đồng, vét bùn dắp đê giả, minh họa cách làm cách xả lũ và trồng cỏ để từng đoạn đê có thời gian như ý muốn của con người, rồi mới tiến hành bít cửa khẩu. Nhìn mô hình của những người nông dân lưu tán, trong đầu óc Nguyễn Công Trứ hiện ra mùa lũ sắp tới. Những miệng cống xả lũ chính là liều thuốc làm cho cơn giận thủy triều hạ xuống tới mức thấp nhất. Và những con người đang tập trung công sức, mồ hôi đổ lộn nước mắt cho những cánh đồng vàng mai sau sẽ được ấm no, niềm tin được nhân lên. Nghĩ cho cùng, người dân đen họ nào có nghĩ gì sâu xa hơn chén cơm manh áo. Ai làm con Trời cháu Phật, họ không mấy quan tâm. Do đó, triều đại nào muốn bền vững lâu dài, thì triều đại đó phải biết lo cho dân, nghĩ tới nỗi khổ của dân. Ông tin rằng kế hoạch khẩn hoang ở đây thành công, người nông dân có ruộng để cày, mùa màng bội thu, thì mười Phan Bá Vành sống dậy họ cũng không theo, và những Phan Bá Vành ấy cũng hết đất dung thân. Nghĩ tới đó, trên môi ông nở nụ cười. Thấy ông thuận tình, người nông dân lưu tán Lê Trụ xin ý kiến. Nguyễn Công Trứ đưa tay mời.
- Bẩm qua lớn, chúng con không biết chữ nghĩa thánh hiền, nhưng biết làm việc. Do đó nếu được, xin quan lớn cho những người biết chuyện như chúng con được phép giúp quan lớn, hằng ngày đi kiểm tra anh em làm việc. Chỗ nào anh em làm không đúng hoặc chưa đúng, chúng con sẽ chỉ dẫn và anh em phải sửa. Được như vậy thì công sức bỏ ra mới không đổ sông đổ biển ạ.
Nguyễn Công Trứ vuốt râu, gật gù ra chiều tâm đắc. Dọ hỏi đôi điều, Nguyễn Công Trứ liền lập ra một đội gồm những người dân lưu tán có sức khoẻ, biết công việc đê điều để nhận lãnh từng quãng đê; còn lại những người có mặt họp bàn với ông hôm nay, ông giao trách nhiệm luân phiên tuần tra, đôn đốc bà con làm đúng theo yêu cầu kỹ thuật cần thiết cho một bờ đê ngăn lũ.
Bàn tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng phải có ngón cái, ngón trỏ, ngón út... nên trong công việc cũng phải biết nhìn người, biết phân công hợp lý thì mới hy vọng đạt được kết quả tốt đẹp. Dụng nhơn như dụng mộc cũng là ý ấy, song con người thích cái hào nhoáng bên ngoài chớ không mấy ai chịu khó tìm hiểu chất lượng gỗ. Mọi công trình bị đổ nát sớm hay muộn đều do sự không hiểu biết và tính cẩu thả của con người.
Nhìn vùng đất được khai phá, lòng Nguyễn Công Trứ cứ rộn lên niềm vui. Nhưng với ông, đây chỉ là giai đoạn đầu. Chuẩn bị cho mùa vụ tới, Nguyễn Công Trứ tập hợp tất cả những người có mặt, không phân biệt người nguyên mộ hay người tòng mộ. Ông phân tích hệ thống làng xã của dân tộc từ nhiều đời qua và đề nghị lấy 30% đất khai phá làm thổ trạch để bà con có chỗ làm nhà ở, đình chùa, trường học, nghĩa trang, bãi thả trâu bò, gieo mạ, v.v...
Đời họ có khi nào nhìn tận mắt được vị quan nào đâu, huống gì đây là vị quan lớn của triều đình thay mặt thiên tử đến lo cho miếng cơm manh áo của họ. Đây mới đúng là cha mẹ của dân. Từ những việc làm cụ thể, thời gian qua, trong thâm tâm mọi người coi Nguyễn Công Trứ như là Phúc thần, nên khi nghe ông vừa nói xong, họ đồng loạt vỗ tay hò reo bằng tất cả những tấm lòng. Trước mắt họ, mùa màng trĩu hạt, gia đình ấm êm. Họ đã được đổi đời. Cái mơ ước bao đời “một vũng trâu năm hơn năm làm mướn” không chỉ đã trở thành hiện thực mà còn vượt ra ngoài sự mơ ước. Gặp được quan Dinh điền sứ này đúng là phúc đức tám đời nhà họ. Ông đã lo cùng nỗi lo của họ và vui cùng niềm vui của họ, lội đồng băng ruộng cùng họ, thậm chí có lúc cùng ngồi ăn với họ, dạy bày họ cái nhân cái nghĩa ở đời, thử hỏi không vui không cảm sao được.
- Chúng con dân đen ngu muội, quan lớn đã có lòng lo cho chúng con như thế này là qúi hóa lắm rồi. Chúng con nguyện sống để dạ chết mang theo. Quan lớn thấy điều gì hay thì cứ dạy, chúng con nguyện nghe theo. Với quan lớn, chúng con dù có tan xương nát thịt cũng chưa đủ đền đáp công ơn mà quan lớn đã ban cho, huống gì những điều quan lớn vừa nói là những điều tốt lành cho dân đen chúng con.
Một người dân tòng mộ nói. Mọi người đồng thanh hưởng ứng ý kiến ấy. Chờ cho niềm vui mọi người lắng xuống, Nguyễn Công Trứ nhắc nhở, động viên đôi điều rồi cho họ giải tán, chỉ mời một số lão nông tri điền ở lại cùng ông bàn bạc những công chuyện cần phải làm sắp tới.
Nguyễn Công Trứ lắng tai nghe họ trình bày và ghi nhận hết những gì họ cho là hay. Tam ngu thành hiền. Không phải là ông không tin họ, nhưng đây là chuyện liên quan đến nhiều người, nên ông mang những ý kiến ấy đi hỏi thêm những người hiểu chuyện. Và ý kiến của người học trò nghèo trong vùng có tên là Phí Qúi Trại, ông thấy cũng hay. Những người nguyên mộ ở đây, ông đều biết tên biết mặt, biết tâm tính của từng người, thế mà ông không ngờ người học trò nghèo ấy lại rành ruộng đồng không thua gì anh nông dân thực thụ. Những lão nông tri điền khi nghe ông bàn kế hoạch đắp đường, làm mương có phần khác với kế hoạch trước đây của họ, họ phải thừa nhận kế hoạch ấy hợp lý hơn, lợi công hơn, song họ cũng không ngần ngại đề nghị ông cho phép họ bổ sung thêm vài chi tiết. Những con đường, những kênh mương đến lúc này đã hiện ra trong đầu ông một cách hoàn chỉnh nhất. Và ông cũng đã sung sướng báo cho họ biết kế hoạch ấy là của Phí Quí Trại. Mọi người đều ồ lên một tiếng và nói thêm cho ông biết về người học trò nghèo đã được sinh ra, lớn lên từ vùng đất tưởng như bỏ đi này.
Nguyễn Công Trứ tủm tỉm cười, rồi cám ơn mọi người. Ông tiếp tục lên ngựa đi rảo hết vùng đất vừa khai phá. Đâu đâu, ông cũng thấy mọi người đều làm việc khẩn trương. Cỏ ở chân đê đã nhú mầm, như vậy không bao lâu những bộ rễ của nó sẽ giữ chặt đất hơn và ông cũng được chứng kiến những mùa vàng trĩu hạt.
Đê ngăn lũ cơ bản đã hoàn thành, Nguyễn Công Trứ chỉ giữ lại bộ phận nhỏ hộ đê, rồi họp dân triển khai kế hoạch làm đường và mương mán nội đồng, kể cả những kênh rạch vừa giữ nước, vừa tiện lợi cho sự đi lại của nhân dân bằng thuyền. Theo ông, giao thông càng thuận lợi bao nhiêu, thì tâm hồn con người càng thoáng bấy nhiêu. Giữ lại năm ba thước đấy, bà con cũng không giàu hơn, trái lại hạn chế tình làng nghĩa xóm. Bán bà con xa mua láng giềng gần. Ở đây, họ là những người lưu tán, không kết dính họ lại với nhau thì làm sao giúp họ an cư lạc nghiệp được. Từ ý nghĩ ấy mà Nguyễn Công Trứ đã chú trọng đến vấn đề giao thông ở vùng đất mới.
Nhờ trên dưới đồng lòng nên trước khi vào vụ mùa, hệ thống tưới tiêu được hình thành trên khắp vùng đất Tiền Châu. 18.970 mẫu ruộng cho hơn 2.350 dân đinh mộ đã cơ bản ổn định nơi ăn chốn ở, Nguyễn Công Trứ tin chắc cuộc sống của những người dân lành này sẽ khá lên sau vài vụ mùa.
Nguyễn Công Trứ dâng biểu về kinh tạ ơn vua và xin được thành lập huyện mới với tên gọi là huyện Tiền Hải, gồm bảy tổng: Tân Cơ, Tân An, Tân Định, Tân Thành, Tân Hưng, Tân Phong, Tân Bồi. Và ông xin triều đình cho khẩn hoang tiếp những vùng đất còn hoang hóa.
Những đề đạt của Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ được triều hồi đáp rất nhanh. Nguyễn Công Trứ lấy làm sung sướng, bởi ông có nhiệt tâm, nhiệt huyết tới đâu mà thánh thượng không châu phê thì chẳng làm nên cơm nên cháo gì. Với ông, đó là tin vui và ông đem tin vui ấy đến cho mọi người.
Vẫn theo bài bản cũ, cộng thêm nhiều người có thực tế từ việc khẩn hoang ở Tiền Hải giúp đỡ quan Dinh điền sứ tận tình, nên công việc cứ như dòng sông tuôn chảy. Khẩn hoang tới đâu, Nguyễn Công Trứ cho lập làng tới đó. Và sau huyện Tiền Hải, Nguyễn Công Trứ đã lập thêm được một tổng ở huyện Nam Trực (Nam Định), một tổng thuộc huyện Giao Thủy (Nam Định). Công việc khai khẩn đất hoang cứ cuốn lấy ông và ông lấy làm thích thú. Đời, đối với ông lúc này chẳng nghĩa lý gì, nếu làm toàn những việc vô nghĩa lý. Dù xây chín cửa phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người. Do đó, ông thấy vui ở công việc và thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn lúc nào hết. Nhìn những người dân đói khổ vì chiến tranh, loạn lạc, nhất là không có mảnh đất cắm dùi, nay đã có khí sắc, ông thầm cám ơn đất trời, cám ơn tổ tiên đã cho ông can đảm, sáng dạ để nghĩ ra và làm được những điều có lợi cho bá tánh.
Năm sau, Nguyễn Công Trứ được sự đồng ý của triều đình, tiếp tục khai khẩn ở hạt Ninh Bình, lập ra huyện Kim Sơn với 14.600 mẫu ruộng, quy tụ được 1.260 dân đinh và cũng chia làm bảy tổng: Chất Thành, Hồi Thuần, Quang Hậu, Hướng Đạo, Tự Tân, Tuy Lộc, Lai Thành.
Nhìn hàng xoan trơ trụi lá, Nguyễn Công Trứ những tưởng được vui cái tết với những người đồng cam cộng khổ trong thời gian qua. Với ông, những người lưu tán đang sinh sống trên vùng đất mới sẽ được hưởng cái tết vui nhất và không ai còn cái cảnh như ông ngày nào "co cẳng đạp thằng bần ra cửa" vào đêm ba mươi tết. Nói họ được sung túc thì chưa hẳn, nhưng ông biết tết này không ai phải đói, phải ăn cháo, trái lại họ có cái tết đầy đủ với gạo mới, nếp thơm. Thịt rượu chưa phải ê hề, song nhà nào cũng có thể có. Đời người nông dân một nắng hai sương, quần chằm áo vá mà đã được như vậy là đã đổi đời. Suốt chiều dài đất nước, nếu đâu đâu dân chúng cũng được như thế thì chưa dám sánh với thời Nghiêu – Thuấn, nhưng cũng đã đạt tới bờ hoàn thiện.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
(Người đời xưa nay ai không chết,
Để lại lòng son sáng sử xanh).
Nguyễn Công Trứ rung đùi khẽ ngâm và thầm nhủ, bài Quá Linh Đinh dương (Qua biển Linh Đinh) đủ làm Văn Thiên Tường (1236-1282) sống mãi. Cuộc đời của ông ta cũng khá đẹp và xứng đáng là bậc nho tướng.
Nguyễn Công Trứ còn đang nghĩ cách tổ chức một cái tết thật vui cho những người lưu tán, thì có chiếu chỉ của triều đình triệu ông về kinh, bổ làm Hữu Tham tri bộ Hình.
Lệnh vua không thể chần chờ, Nguyễn Công Trứ bàn bạc với quan sở tại sắp xếp công việc, tiến cử một số người mà ông cho là đủ khả năng để chăn dắt con dân thực hiện được những ước mơ của người nông dân bao đời đói nghèo.
Tấm lòng son của ông chưa là gì với sử xanh, nhưng cũng lấp lánh với những người sống chung quanh ông. Là người can trường đã từng vào sinh ra tử, đối mặt với làn tên mũi dáo, nhưng ông cũng phải ứa nước mắt trước những tình cảm của quân dân sở tại, nhất là những người dân lưu tán dành cho ông.

Nghe tin Nguyễn Công Trứ về kinh nận nhiệm vụ mới, mọi người đổ xô tới nhà thăm hỏi, chúc mừng nhưng nước mắt rưng rưng.
Tới ngày lai kinh, Nguyễn Công Trứ cùng các quan sở tại lại thêm bất ngờ mới. Dọc hai bên đường, những người dân lưu tán kẻ cân nếp, người con gà, buồng chuối, thậm chí có người xâu vào cọng cỏ vài con cá quả, vài con rô mề. Họ muốn ông nhận tất, vì đây là tấm lòng của họ. Của tuy bất túc tâm rày hữu dư. Ông hiểu và cảm động vô ngần, nhưng làm sao nhận cho hết. Ông sai lính hầu nhận mỗi người một ít để vui lòng. Nhiều người còn lăn ra cản đầu ngựa, van xin ông ở lại với họ. Triều đình có bắt tội thì họ sẽ chịu tội thay. Triều đình có cách chức thì họ sẽ chung hùn nhau nuôi gia đình ông sống suốt đời. Có rau ăn rau, có mắm ăn mắm, nhưng họ hứa sẽ không để cho ông và gia đình quần chằm áo vá.
Thương lắm! Nguyễn Công Trứ không khóc mà nước mắt rưng rưng. Ông xuống ngựa đỡ từng người dậy, và vỗ yên họ.
- Các người cứ về lo công việc. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, nên ta phải về phục mệnh. Các ngươi lo làm ăn, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đừng nghe lời phỉnh dụ của những kẻ ngông cuồng mà rước họa vào thân. Được vậy, chính là các người trả ơn triều đình, trả ơn ta.
Và phải mất hơn một thời gian dài, Nguyễn Công Trứ mới đi ra khỏi được địa phận Tiền Hải. Đi cho họ nhớ, ở cho họ thương. Lời cha răn mẹ dạy ngày nào, ông đã làm được, thế là qúy. Giàu có, vinh hiển chẳng là chi, nếu ngày nào cũng có người nguyền rủa. "Cách vật, trí tri, chính tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Càng lúc, Nguyễn Công Trứ càng thấm thía lời dạy của Khổng tử. Có tu thân thì mới làm sáng được cái đức sáng, mới thân dân mà canh tân cho dân. Có cách vật, có trí tri thì mới biết được vật có gốc ngọn, vật có trước sau, mà có biết được trước sau mới gần được đạo: đạo Trời, đạo Đất, đạo Người. Ngó thế chứ khó lắm thay. Sống phải đạo không phải ai muốn cũng được, nếu không biết tu thân. Khổng tử đã từng sung sướng nói: “Sáng được nghe đạo thì chiều có chết cũng đành" (Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ), còn Lão tử thì cầu mong: "Cầm giữ được Đạo xưa để chế ngự được cái có hiện nay” (Chấp cổ chi Đạo dĩ ngữ kim chi hữu), hoặc cái đạo mà Trang tử hằng mong ước chẳng khác chi các bậc tiền nhân hằng mơ ước: “Hi Vi được Nó (đạo) mà nắm được yếu chỉ của trời đất. Phục Hy được Nó mà đạt được cái nguồn gốc của nguyên khí. Bắc đẩu được Nó mà chiếm được địa vị không thay đổi một mình. Mặt trời, mặt trăng được Nó mà vận chuyển không ngừng. Kham Phi được Nó mà làm được thần núi Côn Lôn. Phùng Di được Nó mà rong chơi ở các sông to. Kiên Ngô được Nó mà ở Thái Sơn. Hoàng Đế được Nó mà lên đến chốn mây trời. Chuyên Húc được Nó mà ngự cung Huyền. Ngung Cường được Nó mà đứng ngay Bắc cực. Tây Vương Mẫu được Nó mà ngồi ở ngay ngôi đến Thiếu Quảng. Không ai biết Nó sinh từ bao giờ, không ai biết bao giờ Nó mới chết. Bành Tổ được Nó mà sống từ đời Hữu Ngu đến đời Ngũ Bá. Phó Duyệt được Nó mà giúp Vũ Đinh gồm thâu thiên hạ lên tận cõi Đông, cưỡi sao Cơ, sao Vĩ mà sánh vai với các vì tinh tú"(1). Nhưng ông không mong lên cung Quảng, cũng chẳng cần đến chốn mây trời. Ông muốn sống gần mọi người, muốn yêu thương mọi người và cũng muốn được mọi người thương yêu. Mà muốn vậy cũng phải hiểu và vận dụng được đạo Trời, đạo Đất, đạo Người, chớ không phải nằm đó cầu được ước thấy. Mọi việc đều dễ dàng cả thì đâu còn chi gọi là đời, đâu còn chi để phân biệt ai là quân tử, ai là tiểu nhân.
(1) Hi Vi đắc chi dĩ khiết thiên hạ. Phục Hy đắc chi dĩ tập khí mẫu. Duy Đẩu đắc chi chung cổ bất thắc. Nhật nguyệt đắc chi chung cổ bất tức. Kham Phi đắc chi dĩ tập Côn Lôn. Phùng Di đắc chi dĩ xử Thái Sơn. Hoàng Đế đắc chi dĩ đăng vân thiên. Chuyên Húc đắc chi dĩ xử Huyền cung. Ngung Cường đắc chi lập hồ Bắc cực. Tây Vương Mẫu đắc chi tọa hồ Thiếu quảng. Mạc tri kỳ thủy, mạc tri kỳ chung. Bành Tổ đắc chi thượng cập Hữu Ngu, hạ cập Ngũ Bá. Phó Duyệt đắc chi dĩ tướng Vũ Đinh, yêm hữu thiên hạ, thừa đông duy kỵ Cơ Vĩ nhi tỷ ư liệt tinh.
Nghĩ về những gì đã qua và những gì vừa xảy ra ở vùng đất ông đã thực hiện được phần nào ước mơ của đời người, Nguyễn Công Trứ càng thấm thía lời dạy của thánh nhân: "Dân khả cận. Bất khả hạ. Dân duy bang bổn. Bổn cố bang minh" (Dân nên thân cận. Không nên coi khinh. Dân là gốc nước. Gốc có bền, nước mới an ninh).
Chương 8
Nhìn cảnh trời mây yên ả mà chứa đầy giông bão, núi sông hùng vĩ mà đang chứa hận thù, Nguyễn Công Trứ thầm than: Đáng nhẽ bút nghiên mà kiếm mã, Thương ôi kim chỉ cũng phong trần. Rồi đây ai còn ai mất, bao nhiêu góa phụ, trẻ thơ trên đầu chít trắng khăn tang ? Tại sao cảnh này cứ phải diễn ra ? Đói khổ đổ xuống đầu ai trước ? Vua quan hay những vị chủ tướng, hay những người lính, những dân lành vô tội chịu đói khổ trước ? Túi giang san bốn bể cũng là nhà, Nền vương thổ cả trong trời đất Việt. Nghĩ vậy có phiến diện chăng ? Nghĩa của đời người là gì ? Hết câu hỏi này tới câu hỏi khác cứ hiện ra trong trí ông. Nhưng khi nhận chỉ dụ lên đây, Nguyễn Công Trứ biết tên đã lên cung, kiếm được rút khỏi vỏ và không còn con đường nào khác là phải tiến lên, phải thể hiện được mình. Nguyễn Công Trứ tự động viên:
Ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoắt,
Từ mọc răng cho đến bạc đầu.
Cõi nhục vinh góp lại có bao lâu,
Ngồi thử gẫm thợ trời thêu khéo quá.
Núi tự tại, cớ sao sông bất xả,
Chim thì lông, hoa thì cánh, công đâu tạo hóa khéo thừa trừ.
Từ nghìn trước để nghìn sau,
Kết cục lại một người riêng một kiếp.
Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp,
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân, thân.
Mà chữ "danh" liền với chữ "thân",
Thân đã có, ắt danh âu phải có.
Này phút chốc kim rồi lại cổ,
Có hẹn gì sau chẳng bằng nay.
Râu mày kia hỡi râu mày.
Nguyễn Công Trứ vẫn băn khoăn về cảnh binh đao không tránh khỏi ở vùng núi non trùng điệp này. Thấy con gà, con vịt bị cắt tiết còn thương thay huống chi thấy con người bị đầu rơi máu đổ.
Nhìn địa thế và nghiền ngẫm sự việc, Nguyễn Công Trứ biết đây là việc khó, khó hơn lúc dẹp loạn Phan Bá Vành gấp nhiều lần. Nông Văn Vân nổi loạn chẳng qua vì bất mãn với triều đình. Ở điểm này, Nguyễn Công Trứ thấy triều đình xử có phần nặng tay. Nhưng nghĩ cho cùng, Nguyễn Công Trứ không biết trách ai, bởi ai cũng giữ phận mình, lo đến sự an nguy của mình. Nông Văn Vân là em rể Lê Văn Khôi – con nuôi Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành. Nông Văn Vân là con trai của tri châu huyện Bảo Lạc – huyện lớn nhất của tỉnh Cao Bằng. Nông Văn Vân thay cha làm tri châu Bảo Lạc cũng chưa có gì sai sót. Vả lại, dân miền cao là như thế. Triều đình cũng đã từng phong sắc thần nhiều nơi để quy tập dân chúng kia mà. Lê Văn Khôi nổi loạn ở Phiên An (Gia Định) là của Lê Văn Khôi, chớ tại sao triều đình cách chức tri châu của Nông Văn Vân và lại còn bắt anh ta cùng thuộc hạ sung quân ? Tức nước vỡ bờ cũng phải thôi. Hơn 450 năm trước, Chiêu Văn Trần Nhật Duật tuổi còn trẻ mà đã biết chiêu dụ những thổ hào trên này để chống giặc Nguyên – Mông và đã giành chiến thắng, giữ yên bờ cõi. Bài học đơn giản, rõ ràng thế mà người có vị trí như Nông Văn Vân, triều đình lại xử lý không mấy hợp tình, hợp lẽ.
Khi nhận được lệnh phối hợp với cánh quân Lê Văn Đức, cánh quân thứ ba từ Tuyên Quang kéo xuống, Nguyễn Công Trứ biết vụ này không đơn giản chút nào. Triều đình không chỉ lấy quân ở các tỉnh phía Bắc mà còn điều quân từ miền Trung ra, đủ thấy thế và lực của Nông Văn Vân mạnh gấp nhiều lần Phan Bá Vành thuở trước. Nếu tính hết cánh quân của Tạ Quang Cự, Tổng đốc An Tịnh kéo ra phối hợp với đạo quân của Vũ Văn Từ ở Cao Bằng và đạo quân của Nguyễn Đình Phổ, Phạm Văn Điển từ Thái Nguyên kéo lên và cánh quân của ông thì đã hơn bốn nghìn quân, chưa kể dân phu và voi trận. Nhưng nhiều quân chưa phải là yếu tố quyết định để làm nên chiến thắng. Chỉ một thời gian ngắn mà Nông Văn Vân đã làm mưa làm gió các miền núi phía Bắc, nhất là khiến cho các quan đầu tỉnh Cao Bằng phải mặc triều phục, đặt hương án lễ vọng về nhà vua rồi thắt cổ chết, như Bố chánh Bùi Tăng Huy, Lãnh binh Phạm Văn Lưu. Án sát Phạm Đình Trực thì đào hố tự chôn mình cùng những bằng sắc để tạ ơn vua. Tuần phủ Hoàng Văn Quyền đi cứu viện Cao Bằng đã bị quân của Nông Văn Vân bắt sống, v.v...

Tình thế quả là bi đát ! Nhưng chuyện đã vậy thì phải biết vậy và tìm cách xoay xở chớ biết làm sao. Cơm vua lộc nước không cho phép ông tính thiệt hơn. Không có Nguyễn Công Trứ thì triều đình cũng có những Nguyễn Công Trừ, Nguyễn Công Trữ gì gì đó để thực hiện nghĩa quân thần. Không có mợ chợ cũng đông, mợ đi biệt tích không mong mợ về. Do đó, ông không thể ngồi tụng kinh gõ mõ cầu quốc thái dân an giữa lúc dầu sôi lửa bỏng này. Và đã nói tới chiến trận thì phải nói tới sự chết chóc. Đồng ý, nhất tướng công thành vạn cốt khô, nhưng cái giỏi của người làm tướng là làm sao tránh được sự thiệt hại nhân mạng của đôi bên càng nhiều càng tốt.
Khẩu hiệu phù Lê của Nông Văn Vân quá lỗi thời và không mấy ai tin lời nói ấy từ miệng một anh thổ hào. Thời của thân phụ ông phù Lê đã không được, huống gì đã trải qua triều Tây Sơn, bây giờ là triều Nguyễn thống nhất sơn hà. Trước mắt, khí thế của Nông Văn Vân có mạnh thật, nhưng xét về lý thì cái thua cũng đã rõ. Những trận thắng ban đầu của y, chẳng qua quan quân triều đình ở đây không chịu nghĩ tới “địa lợi” của y mà thôi, chớ dễ dầu gì.
Xuất chính hơn mười năm, ông đã nếm đủ mùi vị của chốn quan trường. Trên đường danh lợi vinh liền nhục, Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười. Nhưng Nguyễn Công Trứ không hề trách chi ai. Việc ông làm, đứng về mặt nhiệt tâm nhiệt huyết mà xét thì không sai, song ông tin sẽ sai nếu cứ để ông làm vậy mà không chấn chỉnh kịp thời. Trách bỉ trách kỷ. Gia có gia pháp, trường có trường qui, huống gì đất nước. Nếu cứ nể vì những kẻ có công, thì còn gì phép nước. Do đó, ông không buồn chút nào.
Rời Tiền Hải về kinh làm Hữu Tham tri bộ Hình rồi nhận lệnh vua vào Quảng Nam tra xét một vụ kiện cáo. Điều ấy cho thấy triều đình đã coi trọng ông, nâng phẩm giá của ông lên. Nhưng công việc chưa đâu vào đâu, thì ông bị triệu gấp về kinh rồi bị giáng bổ Tri huyện ở kinh. Mới đầu, ông còn giận lắm, buồn lắm. Trâu cột ghét trâu ăn. Thói đời đáng trách ! Cả tháng liền, Nguyễn Công Trứ tìm vui trong câu thơ chén rượu, trong tiếng hát của ca nương.
Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy.
Hễ không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở hóa hay.
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
Hẳn hoi không hết một bàn tay.
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa,
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Đâm thọc làm gì. Khổng tử đã dạy: "Cái nhanh thành hiệu của đạo làm người là việc chính trị, cái nhanh thành hiệu của đạo đất là sự mọc cây cối. Ấy việc chính trị cũng như cây lau cây sậy vậy. Cho nên làm việc chính trị cốt ở dùng người hiền, sửa mình mà dùng người hiền, lấy đạo mà sửa mình, lấy nhân mà sửa đạo”. Do đó, bổ nhiệm anh học trò nghèo rành việc nông tang, biết thương người, coi sóc vùng đất mới mở có gì quá đáng đâu, có lợi gì về đường vật chất cho ông đâu. Vả lại, trước khi rời Tiền Hải, ông cũng đã bàn bạc và tiến cử Phí Qúi Trại với quan Hiệp trấn Nam Định Nguyễn Nhược Sơn. Cả hai cùng nhất trí chớ phải mình ông tự tung tự tác đâu. Nhưng nói ra điều này để gỡ tội thị phi là hèn. Kéo những người có lòng với mình vào chỗ thị phi là không nên làm. Thính tụng ngô do nhân dã, tất dã sử vô tụng hồ (xử kiện thì ta cũng như người, sao khỏi xử kiện mới hay). Càng nghĩ, Nguyễn Công Trứ thấy cần phải can đảm hơn, hiên ngang hơn, đừng vì một chút công danh mà tự đánh mất mình.
Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ nần.
Nặng nề thay đôi chữ “quân thân”,
Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ.
Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt,
Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung,
Hết hai chữ "trung, trinh" báo quốc.
Một mình để vì dân vì nước,
Túi kinh luân từ trước đến nghìn sau.
Hơn nhau một tiếng công hầu.
Và Nguyễn Công Trứ nhìn ra cái sai của mình. Triều đình giáng cấp ông cũng là cái may cho ông chớ chưa hẳn là rủi. Sau năm năm thống nhất sơn hà, triều đình đã tổ chức khoa thi hương đầu tiên để kén chọn nhân tài, chớ đâu còn tiến cử nữa mà ông lặp lại thứ trật tự của thời loạn lạc. Chính bản thân ông cũng phải ói mật với sách đèn mới được như ngày nay, chớ nào phải gặp lụt chó nhảy bàn độc đâu. Lẽ ra những người như ông phải hiểu trước chứ. Dĩ nhiên trong việc này cũng có chút gì đó ghen ăn ghét ở và nó sẽ là bài học khôn cho ông. Đi lại chẳng qua thời vận mệnh, Cũng đừng thắc mắc với lo lường. Cây ngay không sợ chết đứng!
Và Nguyễn Công Trứ đã nghĩ đúng, làm đúng, mặc cho tiếng đời, mặc cho những nụ cười mỉa của ai đó thường ngày. Năm sau (Minh Mệnh thứ 12), Nguyễn Công Trứ được thăng làm Lang trung nội vụ, rồi chẳng mấy tháng được bổ Bố chánh Hải Dương. Minh Mệnh thứ 13 – 1832, Nguyễn Công Trứ được thăng hàm Binh bộ Tham tri, thụ Tổng đốc Hải An (Hải Dương, Quảng Yên).
Đã vượt qua cái tuổi "tri thiên mệnh", Nguyễn Công Trứ không còn háo hức mấy về đường công danh. Chữ hiếu đối với quê hương, tổ tiên, ông bà, cha mẹ coi như ông đã tròn. Về mặt trung quân, ái quốc, ông cũng đã làm được một số việc nghĩ cũng không thẹn với lòng. Nhưng, sống thì phải học tập, phải làm việc, đó là cái đạo. Và Nguyễn Công Trứ lần nữa "hăm hở ra tài kinh tế".
Là bậc dân chi phụ mẫu, Nguyễn Công Trứ không thể khoanh tay ngồi nhìn dân nghèo thiếu đấy cấy cày mà đất hoang thì lềnh ra đó. Bài học từ Phan Bá Vành vẫn còn rực sáng trong trí não ông. Những cuộc nổi loạn xảy ra trong thời gian qua, cái chính là do nghèo đói. No thành tiên thành phật, đói ra ma ra qủi. Một khi người ta không có cơm ăn no, không đủ áo mặc ấm thì họ rất dễ nghe những lời phỉnh dụ. Bởi họ có còn gì để mà sợ mất. Và nếu có mất chăng, thì họ chỉ mất cái đói cái nghèo. Do vậy, muốn an dân, trước tiên phải tỏ rõ cái quyền uy, rồi sau đó mới dùng nhân nghĩa. Trị quốc cũng như tề gia, nhưng phải tùy vào hoàn cảnh, tùy vào từng con người, thậm chí phải tùy vào đặc tính văn hóa của từng địa phương, chớ không thể chung chung được. Nghĩ ra vấn đề, Nguyễn Công Trứ đến gặp Tuần phủ Lê Đạo Quảng cùng bàn bạc kế sách an dân.
Tuần phủ Lê Đạo Quảng không ngờ Nguyễn Công Trứ lại đích thân đến thăm mình. Lê Đạo Quảng lấy làm vui vẻ lắm. Sau vài lời khách sáo cho phải phép, Lê Đạo Quảng chẳng cần giấu giếm gì tình hình dân chúng trong địa phương, rồi cả hai cùng bàn biện pháp tháo gỡ.
Nhờ vào tiếng tăm ngày dẹp loạn Phan Bá Vành và khai khẩn đất hoang cùng với sự ưu ái của vua Minh Mệnh trước đây cũng như hiện tại, nên Tuần phủ Lê Đạo Quảng không muốn làm phật lòng vị nho tướng nhiều tài lắm tật này. Lê Đạo Quảng một điều cũng “quan anh”, hai điều cũng “quan anh” và mọi việc chỉ có quan anh nhúng tay vào thì em mới nở mày nở mặt.
Nguyễn Công Trứ mỉm cười, cáo từ ra về. Nhớ lại những lời lẽ, cử chỉ của Tuần phủ Lê Đạo Quảng, Nguyễn Công Trứ mới thấy rằng việc thuyết phục một con người thôi cũng đã khó, nếu ta thiếu tài, thiếu đức, thiếu cả chút... thế lực. Tình hình dân chúng ở đây không thể áp dụng như ở Nam Định được. Suy đi nghĩ lại, Nguyễn Công Trứ bèn làm bản tấu về kinh: "Tại hạt Quảng Yên đất hoang còn nhiều kể hàng ngàn mẫu, nhưng dân ở đây chỉ quen nghề chài lưới, buôn bán, ít thích làm ruộng, nay xin cấp tiền công cho bọn thú binh cày khẩn và xây đê điều ở các nơi, hễ lúa thu được bao nhiêu thì chia ra làm ba phần, lấy hai phần bỏ kho, còn một phần thì quân cấp cho lính, lúc nào thành điền sẽ mộ dân cai quản theo lệ ruộng công mà trưng thu"(1)
Đối với đất hoang ở Hải Dương, Nguyễn Công Trứ lại đề đạt một chính sách khác: “Tại tỉnh Hải Dương, ruộng hoang kể được hàng nghìn mẫu, xem địa thế thì khai khẩn cũng dễ, xin sai bọn mộ lính ở các vệ chia ban mà khẩn thị, khi thành điền thì cấp cho làm ruộng thế nghiệp, theo lệ ruộng tư trưng thuế, còn ngưu canh điền khí thì theo lệ dinh điền năm trước, lấy của công mà cấp phát"(2).
(1)+(2) Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, sđd, trang 176.
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đường. Nghe tin quan Tổng đốc Hải An là quan Dinh điền sứ trước đây đang mộ dân khai khẩn đất hoang, nhiều người ở Tiền Hải, Kim Sơn tìm đến xin tình nguyện giúp ông hướng dẫn quân lính triều đình và nhân dân trong vùng khai phá.
Nguyễn Công Trứ vui lắm. Cái nhân ông gieo ngày nào, bây giờ đã gặt được quả. Cái tình cái nghĩa là vậy. Ở Tiền Hải, Kim Sơn, ông không chỉ khơi được nguồn sống cho lương dân mà còn khơi được tình người trong mỗi con người của họ. Nguyễn Công Trứ tiếp đón họ như tiếp đón những người thân đi xa mới về, và cùng họ bàn bạc công việc một cách chi tiết như ngày nào còn ở Tiền Hải.
Đông tay vỗ nên kêu, chẳng bao lâu hạt Quảng Yên có thêm ba xã mới: Lưu Khê, Vĩ Dương và Yên Phong với số đất khai phá: 3.500 mẫu. Hải Dương có thêm làng Minh Liễn...
Nhìn những gương mặt rạng ngời của nhân dân có ruộng cày và cánh đồng thẳng tắp đang sục bùn, Nguyễn Công Trứ lấy làm vui lắm. Ơn vua nợ nước, ông đã trả được phần nào. Vui lắm ! Vui lắm !
Niềm vui ấy chưa dứt, thì niềm vui khác lại đến với Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ được chính thức nhậm chức Tổng đốc, hàm chánh nhị phẩm triều đình. Đúng là, gái có công chồng không phụ. Nhưng cái vui lớn nhất của ông là dân nghèo ở những nơi ông trấn nhậm đã có cái ăn cái mặc. Thời trai trẻ, tuy chưa đến nỗi nào so với những cái nghèo ông đã gặp, nhưng ông đã hiểu thế nào là đói nghèo. Ông hy vọng và tin rằng, cái chức, cái tước của triều đình ban thưởng cho ông cũng chính là ban thưởng cho những người dân dưới quyền cai quản của ông. Ông nghĩ, nếu càng có uy tín với triều đình, thì ông càng có điều kiện cứu dân giúp nước hơn. Bởi người có lòng vị tha lớn bao nhiêu mà trong tay không có quyền hành, trong nhà không có hạt gạo, ngọn rau thì chẳng làm gì được ngoài việc lo cho sự sống của bản thân. Và ông tự
dặn lòng:
... Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lăng miếu ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương.
Sĩ làm cho bách tuế lưu phương,
Trước là sĩ, sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ tri gian giai phận sự,
Nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nhà nước yên mà sĩ được thung dung,
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch...
Nghĩ việc thì dễ, nhưng thực hành việc nghĩ ra không dễ chút nào. Nhìn địa thế chung quanh cùng đỉnh Pù Chè Mang, Pù Ngàm Lệnh sương mù bao phủ cùng sông Gâm nước sâu nhìn không thấy đáy, những eo dốc quanh co như Ngàm Pác Thốc, những vực sâu như Thòm Cò Nghè, những hồ rộng như Thộm Lốm, v.v... Nguyễn Công Trứ biết đó là những trở ngại lón cho quân triều đình và khó lòng lấy số đông mà áp đảo, làm nên chiến thắng. Đây còn là chốn rừng thiêng nước độc, càng kéo dài ngày nào thì quân triều đình càng khốn khó ngày đó. Bệnh rụng tóc vàng da cho quân triều đình ắt không tránh khỏi. Suy đi tính lại, Nguyễn Công Trứ cho án binh bất động, dưỡng quân và dâng biểu về triều: “Hạ thần lần đầu tiên mới đến vùng đất này, chưa am tường chỗ bằng chỗ hiểm, không dám vội hành động"(1).
(1) Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, sđd, trang 182.
Nguyễn Công Trứ biết, khi nhận được những lời lẽ ấy, triều đình sẽ quở trách, thậm chí có thể cách chức ông, nhưng vì tính mạng của hàng trăm người, ông không thể không cẩn trọng. Ngựa trạm đi rồi, Nguyễn Công Trứ tiếp tục lo nghĩ song không có phương án nào hoàn hảo. Ai cũng cho Nguyễn Công Trứ bạo gan, còn ông thì cho đó là trách nhiệm của người làm tướng. Nếu vì chuyện ấy, triều đình lột áo mũ, đuổi ông về quê chăn trâu, giữ vịt, ông cũng an lòng. Mà có thật vậy, thì triều đình chỉ biết mình chứ chẳng cần biết chi ai và khó thể ngồi lâu để trị vì thiên hạ. Ngày xưa, "... Khi Kiến Thúc vào, Tần Mục Công xuống thềm nghênh tiếp, mời ngồi và hỏi rằng:
- Bách Lý Hề thường nói tiên sinh là người hiền, xin tiên sinh chỉ bảo cho.
Kiến Thúc nói:
- Nước Tần ta ở cõi tây này tiếp giáp với các nước Nhung, Địch, đất hiếm quân mạnh, mà không được
bằng các nước Trung Quốc là chỉ vì không có đức đó thôi. Không có uy thì sao cho người ta sợ; không có đức thì sao cho người ta mến; người ta không sợ, không mến thì bá chủ thế nào được.
Tần Mục Công nói:
- Uy và đức, hai điều ấy điều nào nên làm trước?
Kiến Thúc nói:
- Nên lấy đức làm gốc, lại có uy để giúp vào. Nếu có đức mà không có uy thì sao giữ được nước, có uy mà không có đức thì sao yên được dân.
Tần Mục Công nói:
- Ta muốn sửa đức mà lập uy thì nên làm thế nào?
Kiến Thúc nói:
- Dân nước Tần ta tập nhiễm phong tục mọi rợ, không biết lễ nghĩa, nay muốn cho dân biết tôn kính người trên thì tất phải dùng giáo hóa và hình phạt. Có giáo hóa thì dân biết ơn, có hình phạt thì dân biết sợ, bấy giờ kẻ trên người dưới, khác nào như thể trong một người. Quản Di Ngô giúp nước Tề mà sai khiến được thiên hạ cũng vì lẽ ấy".
Chuyện người xưa ghi thế vàø Nguyễn Công Trứ không chỉ nghĩ thế mà còn tin rằng, Minh Mệnh không phải là vị hôn quân. Những việc đã xảy ra với bản thân ông trong thời gian vừa qua đã khẳng định điều ấy.
Nhờ bản tấu "bạo gan" của Nguyễn Công Trứ mà cánh quân của đạo Tuyên Quang được nghỉ ngơi, trong lúc những cánh quân khác không có một ngày yên.
Và thánh chỉ cũng đã tới.
Nguyễn Công Trứ cúi đầu tiếp nhận thánh chỉ. Mọi người đều hồi hộp lắng tai nghe, rồi thở ra nhẹ nhõm.
- Chúc mừng tướng quân được thánh thượng gia ân. – Lê Văn Đức mừng rỡ ra mặt, nói tiếp: - Tôi tin và qúi trọng tướng quân đã lâu, nên mới để mặc tướng quân lập tờ biểu ấy... Nói tướng quân đừng cười, mấy ngày qua, tôi ăn không ngon ngủ không yên. Nhiều đêm, giật mình thức giấc, tôi vội sờ thử cái đầu của mình có còn trên cổ hay không.
Nguyễn Công Trứ cười vui đáp lễ:
- Tôi phải cám ơn quan huynh mới đúng. Chúng ta giúp đỡ nhau cũng chỉ vì mong được tích phước cho triều đình. Nếu không có quan huynh ngầm động viên thì dù có mưới sáu cái đầu, Trứ này cũng không dám.
Lê Văn Đức cười vang, nói đỡ lời:
- Không dám, không dám. Nghe những lời trách yêu của thánh thượng, tôi vừa sợ nhưng cũng vừa thấy được thơm lây khi được cùng tướng quân chịu trách nhiệm đạo quân này.
Sau những lời nói vui, cả hai người trở lại công việc mà họ đang lấy đầu thử đoán số mệnh. Họ biết, án binh bất động hoài thì không được, bởi làm vậy cũng đồng nghĩa với việc nằm chờ chết; còn tiến đánh thì tiến đánh làm sao ? Quân triều đình đang ở ngoài sáng, còn địch ở trong bóng tối. Thiên thời, địa lợi, nhơn hòa, quân triều đình không nắm được phần nào vững chắc. Cứ tiến ào ào ạt ạt như đạo Thái Nguyên của Nguyễn Đình Phổ thì cầm chắc cái thua, vừa tổn quân, không khéo lại mất tướng... Càng nghĩ, cả Nguyễn Công Trứ lẫn Lê Văn Đức càng thấy như đi vào ngã cụt. Cả hai nhìn nhau thở dài và đồng ý trở về động viên quân sĩ chờ ngày hành động, khi tình thế buộc phải hành động.
Suy nghĩ của Nguyễn Công Trứ không mấy sai. Thắng thua ở chiến trận là chuyện thường, nhưng tin Án sát Nguyễn Mưu bị bắt sống không chỉ chấn động quân tình đạo Thái Nguyên mà còn gây sự dao động ở Cao - Lạng và đạo Tuyên Quang do ông và Lê Văn Đức đảm trách.

Còn đang tập trung quân lương để chuẩn bị phối hợp với Tổng thống đại thần Tạ Quang Cự ở đạo Cao – Lạng để cứu nguy đạo Thái Nguyên, thì Nguyễn Công Trứ nhận lệnh từ kinh bổ sung sang đạo Thái Nguyên với Nguyễn Đình Phổ.
Đúng là đội quân thất trận!
Nguyễn Công Trứ nhìn quân tình đạo Thái Nguyên mà thở dài.
Nhìn cảnh này, Nguyễn Công Trứ hiểu thêm thế nào là nhứt tướng công thành vạn cốt khô. Tiến lên, tiến lên giành thắng lợi mà không hề nghĩ tới vấn đề gì khác, để bây giờ mới ra nông nỗi thế này. Lương thực dự trữ không dự trù dài ngày, không nghĩ tới bệnh tật do rừng thiêng nước độc chực chờ xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng của quan quân từ dưới đồng bằng lên. Vả lại, địa thế và dân tình ở đây như thế thì làm sao có thể tốc chiến tốc thắng ? Ảo tưởng ! Và cái giá phải trả cho sự ảo tưởng ấy không rẻ.
Mọi suy nghĩ, Nguyễn Công Trứ đều báo thật về triều đình. Ông biết vua Minh Mệnh đọc xong phải giận lắm, nhưng ông không phải hạng người dối vua lừa chúa. Phải biết chấp nhận sự thật thì mới hi vọng tìm ra con đường sáng, còn ngược lại chỉ dẫn đến cửa tử. Và lần nữa. Minh Mệnh đã tỏ rõ mình là một đấng minh quân: "Lẽ nào để cho quân đói mà giết được giặc à ? Xem tờ tâu thực là bực tức ! Lũ chúng mày thực không đáng coi là loài người". Mắng là phải mắng, nhưng mắng vì không lo cho ba quân là phải lắm. Nguyễn Công Trứ lo cũng có lo mà mừng cũng có mừng. Lo vì chưa bao giờ ông phải đối đầu với việc nan giải như thế này, còn mừng là mừng vì thánh thượng có nghĩ tới ba quân..
Trở lực lớn với quân triều đình không phải vì thiếu binh hùng tướng mạnh, mà vì không hợp phong thổ, không rành địa thế, bất đồng ngôn ngữ, v.v... Từ lâu, Nguyễn Công Trứ muốn cài người vào làm công tác địch vận, song mọi việc không đơn giản. Quân thám thính đi lần này về nói thế này, lần khác về nói thế khác, không biết đâu mà hoạch định kế hoạch.
Sau nhiều ngày đêm vắt óc suy nghĩ, hình ảnh của Khổng Minh từ khi xuống núi đến lúc qua đời hiện ra trong ông. Nguyễn Công Trứ quyết định tiếp tục cho dưỡng quân, tránh giao chiến, bí mật cho đội tải lương vận chuyển lương thực dự trữ. Với ông, có ăn mới có sức và có sức mới nói chuyện xông pha trận mạc. Ngày ngày, Nguyễn Công Trứ cưỡi ngựa đi đây đó như kẻ nhàn du. Nhưng không ai biết đêm về, ông theo dõi sít sao đội quân đặc biệt do ông tuyển chọn và tham gia huấn luyện. Theo ông, đây là đội quân quyết định sự thành bại của ông trong cuộc cờ này. Và ông tin phần thắng thuộc về mình.
Trong lúc án binh bất động, thì đây đó quân triều đình vẫn đụng độ với quân của Nông Văn Vân. Ông cứ thầm mỉm cười, mặc cho ai đó dèm pha ông là thứ trói gà không chặt và gặp may trên đường làm quan. Trong thâm tâm, Nguyễn Công Trứ còn mong quân triều đình thua thêm mấy trận để tư tưởng chủ quan tràn ngập trong lòng anh thổ hào Nông Văn Vân cũng như trong đội quân của anh ta.
Trời cũng chiều lòng người khi chỉ dụ của vua Minh Mệnh cho rút quân về Tuyên Quang chờ lệnh. Ai nấy thở phào, hối hả chuyển quân, riêng Nguyễn Công Trứ thì cứ trùng trình và lệnh cho quan quân dưới quyền ai ở đâu cứ tiếp tục ở yên đó.
Chống lại chỉ dụ của vua ư? Tướng ngoài trận tiền có quyền quyết định tất tật và bảo đảm bằng thủ cấp của mình. Và ông tin vua Minh Mệnh là người hiểu ông, và là người thưởng phạt phân minh.
- Quân ở đâu cũng là quân triều đình sao tướng công cứ mặc họ, và tướng công cũng chần chờ thi hành chỉ dụ của thánh thượng, thiếp e...
Nghe Hiệu Thư, người hầu thiếp thỏ thẻ điều hơn lẽ thiệt bên tai, Nguyễn Công Trứ khẽ vuốt râu tủm tỉm cười, nói:
- Phu nhân có ý lo cho ta như thế là tốt, nhưng đây là chuyện của đàn ông.
Hiệu Thư châm thêm trà vào chén cho ông, rồi nói lên nỗi lo của mình. Nguyễn Công Trứ trấn an:
- Phu nhân đừng bận tâm lắm. Ta biết ta đang làm những gì. Ta suy nghĩ đã lâu, nhờ phu nhân ngày mai về xuôi một chuyến.
Hiệu Thư giãy nảy:
- Tướng công sợ thiếp ở đây làm bận lòng tướng công ư ? Thiếp nguyện sống chết cùng tướng công mà. Tuy là hạng ca nương, nhưng thiếp không phải là kẻ tham sống sợ chết, bỏ mặc tình tướng công ở đây không ai chăm sóc miếng ăn giấc ngủ...
Nguyễn Công Trứ cười, kéo Hiệu Thư vào lòng.
- Ta hiểu. Ta nhờ nàng về xuôi và mong nàng lên đây sớm nhất.
Hiệu Thư quàng tay lên cổ Nguyễn Công Trứ, nhõng nhẽo:
- Rước cô đầu phải không ? – Thấy chồng cười, Hiệu Thư lấy ngón tay đẩy nhẹ vào trán Nguyễn Công Trứ.
– Thiếp biết mà. Gì thì gì, tướng công cũng không bỏ được tính phong lưu.
Nguyễn Công Trứ nghiêm mặt, rồi cười dã lã, nói:
- “Tính tốt” khó chừa được nàng ạ. Nhưng nhiệm vụ của nàng không nhẹ đâu. Ta nhờ nàng về xuôi lần này, rước được nhiều đào kép càng tốt, nhưng ít ra cũng rước được một đoàn tuồng, một đoàn chèo.
Hiệu Thư đẩy ông ra, tròn mắt hỏi:
- Tướng công không nói chơi chứ?
- Vâng ! Ta muốn ba quân và nhân dân quanh vùng vui chơi ít hôm cho bõ những ngày cơ cực. Ý ta là vậy. Nàng lo thu xếp và đi về xuôi càng sớm càng tốt. Nàng phải nhớ một điều, ta và mọi người nóng lòng trông ngày trở về của nàng với tất cả những gì ta đã mong đợi.
Tiễn Hiệu Thư đi rồi, Nguyễn Công Trứ mới thở dài, chép miệng: - Âu cũng là duyên số!
Ngày chính thức nhậm chức Tổng đốc Hải An, Nguyễn Công Trứ tổ chức buổi hát vừa mừng ông thăng chức, vừa liên hoan mừng công khai khẩn đất hoang lập thêm cho hạt Quảng Yên những ba xã, rồi ở Hải Dương, ở Chàng Sơn... Nói chung, nơi nào ông đến, nơi ấy dân nghèo có thêm ruộng cày. Do đó, buổi hát thật nhiều ý nghĩa và ai cũng vui thật tình, chớ không phải vui vì cần phải vui để được quan Tổng đốc chú ý.
Một cô đào không còn trẻ, nhưng giọng còn hay, sắc còn đượm được các quan dưới quyền rước đến hát mừng, bởi họ biết quan Tổng đốc rất rành nghề hát xướng.
Sau mấy tuần rượu xã giao, Nguyễn Công Trứ bước ra xin được cầm chầu. Ai nấy đồng thanh ủng hộ và vỗ tay vang trời. Đã là dân phong lưu tài tử thường ra vào xóm cô đầu, mấy ai không biết vị quan Tổng đốc này không chỉ đặt bài hát hay mà còn có ngón chầu cũng thuộc hàng tuyệt kỹ.
Thi tửu cầm kỳ khách,
Phong vân tuyết nguyệt thiên.
Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên,
Cực hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí.
Phong lưu từ thuở ấy rồi, chớ nào phải đợi tới hàng Tổng đốc mới học đòi phong lưu đâu.
Tiệc vui đúng là vui không chê vào đâu được. Ai nấy đều hể hả với bữa hát tuyệt vời không phân biệt nổi đâu là kẻ sang người hèn, nhất là nghe được tiếng trống chầu có thần của quan Tổng đốc.
Nguyễn Công Trứ định bỏ dùi trống đứng dậy nói mấy lời cám ơn đào kép, thì giọng hát ngọt ngào ấy lại tiếp tục vang lên:
Giang san một gánh giữa đồng,
Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng?
Những người có mặt vỗ tay cười rân. Nguyễn Công Trứ giật mình, tròn mắt nhìn cô đào và bước lại hỏi:
- Hiệu Thư đó chăng?

Cô đào mỉm cười, cúi đầu thưa:
- Tiện thiếp cám ơn quan lớn còn nhớ tới người ca kỹ năm xưa.
Đêm đó, cả hai người cùng thức trắng ôn lại chuyện ngày xưa và quãng đời đã qua.
Khi biết Hiệu Thư chưa chồng, Nguyễn Công Trứ không ngần ngại đặt vấn đề xin nàng làm hầu thiếp. Và trong lúc "tình trong như đã, mặt ngoài còn e", Nguyễn Công Trứ mỉm cười, vuốt râu, khẽ ngâm:
Liếc trông già đáng mấy mười mươi,
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười.
Trăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết,
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi.
Chia đôi duyên nợ đà hơn một,
Mà nét xuân kia vẹn cả mười.
Vì chút tình duyên nên đặm thắm,
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
Đời là thế!
Nhớ lại thời hàn vi, Nguyễn Công Trứ muốn gần nàng mà nào có được. Ngày ấy, trong giới đàn ca hát xướng, Nguyễn Công Trứ cũng biết cái giá trị của mình. Khắp vùng Hoan Châu, thậm chí kể rộng ra nữa được mấy người như ông: đàn hay, đánh trống chầu chưa ai trách, nhất là ứng tác những bài hát mà đã là giới ca nhi không ai không phục. Thế mà Hiệu Thư vẫn làm cao để ông phải hạ mình xin được làm anh kép khi biết cô nhận đến hát mừng cho nhà hào phú ở một làng cách nhà ông một quãng đường xa.
Lòng trai phơi phới lại đi gần người đẹp với chú tiểu đồng, Nguyễn Công Trứ không biết làm cách nào trêu ghẹo. Suy nghĩ mãi cho đến quãng đồng vắng, Nguyễn Công Trứ lớn tiếng với vẻ mặt bần thần:
- Chết rồi ! Tôi... Tôi vội quá nên bỏ quên dây đàn ở nhà.
Hiệu Thư nhíu mày cùng vẻ mặt không mấy bằng lòng. Nguyễn Công Trứ ấp úng ra chiều biết lỗi:
- Cô... Cô với chú nhỏ đi trước. Tôi quay về nhà rồi chạy tới ngay.
Hiệu Thư dấm dẳng:
- Nói nghe dễ hay ! Cứ để chú nhỏ chạy về nhà lấy mang tới, còn bác phải đi cùng tôi. Nếu chú nhỏ tới không kịp, ta mượn đỡ dây đàn của ai đó còn được, chớ bác về rồi biết có đến hay không. Đây là chỗ làm ăn chớ phải trà dư tửu hậu đâu. Đây là lần đầu cũng là lần cuối, tôi không nhờ bác nữa.
Hiệu Thư nói một hơi không nghỉ. Nguyễn Công Trứ cười thầm trong bụng, nhìn chú nhỏ chạy ngược lại đường cũ.
- Đi chứ còn đứng làm thơ à ?
Nguyễn Công Trứ làm thinh, sánh bước. Kế hoạch đẩy chú nhỏ đi đã thành, mọi việc nên hư còn lại do ông.
Chờ Hiệu Thư nguôi giận, Nguyễn Công Trứ gợi chuyện xa xa gần gần, rồi ngỏ lời trêu chọc. Nhưng suốt quãng đường vắng chỉ có hai người, mà Nguyễn Công Trứ không "nói năng” được gì, ngoài những tiếng "ứ hự" tỏ ý không thuận của Hiệu Thư.
Và Hiệu Thư không ngờ bác kép trêu ghẹo mình năm xưa nay lại là quan Tổng đốc. "Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng ?".
Giỏi thật !
Bên ngoài nắng đã dịu.
Nguyễn Công Trứ lệnh cho quân lấy ngựa, lên đường nhàn du, quên hết chuyện binh đao.
Nhà Nguyễn đã hết thời, nên chọn tướng văn chẳng ra văn, võ chẳng ra võ. Đặc biệt, vị tướng ở đạo Thái Nguyên thì suốt ngày ra vào uống rượu ngâm thơ. Lời xầm xì ấy đã lọt vào tai Nguyễn Công Trứ vài ba ngày nay. Ai hỏi thì ông chỉ cười, vuốt râu ngâm ngợi: Nhân sinh bất hành lạc, Thiên tuế diệc vi thương.
Sống ở đời mà không biết hưởng thú vui, thì dẫu có sống nghìn năm cũng như chết non. Hết ý ! Tướng tại trận tiền như vậy mà vẫn tin dùng, thì đúng là nhà Nguyễn đã tới hồi mạt vận.
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất,
Thương cái cò lặn lội bờ sông.
Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng,
Ngoài nghìn dặm một trời một nước.
Trông bóng nhạn bâng khuâng từng bước,
Nghe tiếng quyên khắc khoải năm canh.
Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình,
Ơn thủy tổ phải đền cho vẹn sóng.
Tiếng đàn, tiếng hát, tiếng trống thập thình... đúng là ngày hội. Dân quanh vùng, kể cả dân chúng ở các
bản làng xa cũng lần lượt kéo về coi hát như chẳng hề biết tới loạn lạc, binh đao.
Điều khiển cuộc vui, Nguyễn Công Trứ giao toàn quyền cho Hiệu Thư. Và dân chúng trong vùng cũng không còn thấy ông cưỡi ngựa nhàn du như trước. Họ nghĩ, ông cũng đang lăn vào với tiếng đàn tiếng phách, lăn vào những cuộc mây mưa.
Thấy mọi người ùn ùn kéo về xem hát, Nguyễn Công Trứ vừa vui vừa lo. Ông luôn đôn đốc quân sĩ canh phòng nghiêm ngặt đề phòng Nông Văn Vân đem quân đánh úp. Và cứ mỗi đêm sau cuộc hát, từng đội quân nhỏ của ông trà trộn vào dân bản dò la đại bản doanh của Nông Văn Vân, rồi ém quân chờ lệnh.
Trong lúc đó, Tuần phủ Lạng Sơn Trần Văn Tuân bị quân Nông Văn Vân khiêu khích thường xuyên và đã nhiều lần cấp báo xin Nguyễn Công Trứ chi viện. Nhưng lần nào cũng như lần nào, Nguyễn Công Trứ hết viện cớ này tới viện cớ khác không chịu xuất quân và đề nghị đạo quân Lạng Sơn cứ đánh cầm chừng chờ thêm quân từ kinh ra.
Ngày ngày, Nguyễn Công Trứ đều nhận được mật báo do những cánh quân nhỏ của ông tung vào những dãy rừng phủ đầy sương khói kia đưa về. Nguyễn Công Trứ vui lắm.
Trường tên đạn xin chàng bảo trọng,
Thiếp lui về nuôi cái cùng con.
Cao Bằng cách trở nước non,
Mình trong trắng có qủy thần a hộ.
Sức bay nhảy một phen năng nổ,
Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn.
Đồng hưu rạng chép thẻ son,
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
Yêu nhau khắng khít giải đồng.
Nguyễn Công Trứ đích thân đánh chầu trong tiếng hát của Hiệu Thư. Tuy Hiệu Thư đã về sống đời vợ chồng với ông, nhưng vẫn không thể không liếc mắt đưa tình qua những tiếng "tom", tiếng "chát" của ông.
Nghề xướng hát roi chầu làm chuẩn đích,
Trống làm sao mà khúc khích chị em cười.
Và tiếng trống "lạc nhạn" của Nguyễn Công Trứ xưa nay không chê vào đâu được, nhất là giữa lúc ông
đang vui mà chẳng mấy ai hay.
Tiếng hát của Hiệu Thư vừa dứt, thì quân hầu chạy vào dâng lên ông lá thư.
Nguyễn Công Trứ bỏ roi chầu, nhanh chân vào thư phòng.
À, thì ra thói đời!
Thư của bạn ông ở kinh gửi đến cho ông biết, Tuần phủ Trần Văn Tuân thảo sớ về kinh, hạch tội Nguyễn Công Trứ lo ăn chơi, say sưa đàn hát, không chịu giao chiến, thậm chí không chịu giúp đỡ cho các đạo quân bạn diệt giặc. Nhưng may cho ông là vua Minh Mệnh hoàn toàn tin tưởng vị nho tướng ngoài trận tiền. Theo người bạn ông, thì hoàng thượng đã châu phê vào sớ của Tuần phủ Trần Văn Tuân: "Nguyễn Công Trứ tự thử sở hành, tất hữu biệt toán. Quân lữ chi gian, bất khả dĩ phù ngôn giao động tướng tâm, thích y xử trí" (Nguyễn Công Trứ làm như vậy chắc là có tính toán riêng. Trong quân không được bàn phiếm làm cho lòng tướng băn khoăn. Cứ để yên như vậy xem – Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, sđd, trang 187).

Nguyễn Công Trứ xem thư bạn mà lòng ngập niềm vui. Đúng không ai hiểu ông bằng thánh thượng. Thế mới xứng đáng là người thay trời hành đạo. Không phải vì vua không nghe lời Tuần phủ Lạng Sơn quở trách ông mà ông nghĩ vậy. Mọi việc ông đã và đang làm cũng chỉ vì triều đình, chỉ vì muốn dân chúng yên vui làm ăn, chớ không có ý gì khác. Nếu vua Minh Mệnh nghe lời dèm pha mà cách chức, hoặc triệu hồi ông về kinh, giao binh quyền lại cho người khác thì ông phải chấp hành, nhưng trong thâm tâm ông không phục.
Khi biết chắc Nông Văn Vân đang đóng đại bản doanh ở khu rừng Thẩm Bát, Nguyễn Công Trứ bí mật mời Tổng thống đại thần Tạ Quang Cự và Phạm Văn Điển đến bàn cách diệt giặc.
Nhìn tấm bản đồ với đầy đủ những chi tiết lối đi ngang về tắt và cách bố phòng của các toán quân của Nông Văn Vân cùng với những ý kiến của Nguyễn Công Trứ, về cơ bản ai cũng đồng ý và thầm phục vị tướng nổi tiếng... phong lưu.
Họ cứ châu đầu vào tấm bản đồ và bàn bạc hướng đi của từng cánh quân một cách say sưa, bỏ mặc lời ca tiếng nhạc bên ngoài đang làm nức lòng người sau một thời gian cứ phập phồng với chuyện binh đao.
Núi Pu Đôn lúc này dưới mắt của những vị tướng của triều đình không còn là bí hiểm nữa. Nguyễn Công Trứ nói:
- Quân cơ hữu do tôi đảm trách. Hai quan bác cứ cờ giong trống giục và vây chặt rừng Thẩm Bát, Lũng Bàn. Hễ quân của Vân chạy ra, các quan bác lệnh cho quân triều đình bắt sống. Cực chẳng đã mới giết, bởi dù sao họ cũng là dân của ta và là những người vô tội.
Tạ Quang Cự lên tiếng:
- Việc quan bác giao cho chúng tôi nhẹ quá. Chúng tôi thật tình... áy náy.
Phạm Văn Điển cũng đồng ý với Tạ Quang Cự.
Nguyễn Công Trứ cười tươi, nói:
- Các quan bác đừng lo chuyện ấy. Công là công chung, chớ chẳng của riêng ai. Mục đích của chúng ta tới đây, trước là trả ơn vua, sau giúp dân tình yên ổn làm ăn. Quân của chúng ta không quen địa hình ở đây, nên kéo vào càng đông càng gây thiệt hại. Công việc của cánh quân các quan bác không phải nhẹ đâu. Các quan bác làm sao cho quân của Vân khiếp sợ, tưởng chừng như đã lọt vào thiên la địa võng của quân triều đình, thế là các quan bác đã lập được công to.
Chia tay xong với Tạ Quang Cự và Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ lại bí mật tung hết số quân trong đội cảm tử còn lại xâm nhập đại bản doanh của Nông Văn Vân.
Khi mọi việc đâu đã vào đó, Nguyễn Công Trứ ăn mặc chỉnh tề, rà soát lại kế hoạch lần nữa để phòng bất trắc. Đây là mẻ lưới lớn, Nguyễn Công Trứ hy vọng không phải mất cả chì lẫn chài, dù cho con cá lớn lọt lưới. Phen này mà thất bại thì Nông Văn Vân đúng là người đại trí đại dũng và triều đình phải tiếp tục khốn đốn bởi anh thổ hào này. Để giành lấy ngôi báu, thì anh ta chưa hội đủ điều kiện, nhưng để hùng cứ một phương thì lại dễ dàng. Và triều đình muốn ổn định không thể một sớm một chiều mà được. Cái đức cái tài ngó thế mà khó.
- Bẩm chủ tướng, mọi thứ đã sẵn sàng.
Nguyễn Công Trứ lướt nhìn người hầu, rồi âm thầm bước ra ngoài. Con ngựa đánh hơi được mùi chủ, dậm vó thình thịch. Nguyễn Công Trứ vuốt nhẹ lên bờm như ngầm bảo nó hãy bình tĩnh chờ đợi như ông đang chờ đợi.
Tiếng đàn, tiếng hát vẫn còn văng vẳng. Nguyễn Công Trứ thấy thời gian trôi chậm quá. Và... mọi người hớt ha hớt hãi bỏ chạy thục mạng về nhà, bởi quân triều đình đã cờ giong trống giục với ánh đuốc sáng lòa trong đêm tối.
Nguyễn Công Trứ vuốt râu, mỉm cười, rồi lên ngựa.
Khí thế của quân triều đình khá dũng mãnh. Và chẳng bao lâu, khắp các ngả rừng, quân của Nông Văn Vân tháo chạy tán loạn. Gương mặt của Nguyễn Công Trứ rạng rỡ hẳn. Thế là các toán quân của ông bước đầu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Quân của Nông Văn Vân rối loạn hàng ngũ như thế là đã nhìn ra thế trận của mình đã bị ngoại công nội kích.
Được toán quân đặc nhiệm hướng dẫn, con ngựa chiến đưa Nguyễn Công Trứ lên quả đồi cao quan sát trận địa.
Gà rừng đã cất tiếng gáy, nhưng chẳng thấm vào đâu so với tiếng reo hò của quân sĩ. Đây đó, những căn lều bị đốt cháy làm rực sáng cả vùng trời. Nguyễn Công Trứ rùng mình – cái rùng mình rất con người chớ không phải vì sương gió.
Ngày xưa, Khổng Minh đã lập kế dụ cha con Tư Mã Ý vào tử địa như thế này. Nếu đức của nhà Nguyễn mỏng, thì ông cũng sẽ giống như Khổng Minh ngày xưa thôi. Nguyễn Công Trứ kìm chặt cương ngựa, lớn tiếng ra lệnh:
- Phóng hỏa!
Sau lệnh của ông, hàng loạt tiếng hô phụ họa theo và chẳng bao lâu khu rừng Thẩm Bát ngập trong biển lửa sáng rực cả một vùng. Tiếng thú, tiếng người, tiếng chim muông mất tổ... hòa vào nhau thành tiếng kêu uất hận.
Nguyễn Công Trứ rươm rướm nước mắt, ngước nhìn trời thở dài rồi lẩm bẩm: Ta khắc ghi ngày này: 11 tháng 3 âm lịch (1835).

Chương kết
Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ qùy xuống tiếp chỉ từ kinh đến. Sau khi tạ ơn vua, Nguyễn Công Trứ quay mặt, nhếch miệng cười. "Nguyễn Công Trứ trước kia phái qua Trấn tây, lo việc quân lữ, lâu ngày không làm nên công trạng gì, trẫm đã ngơ cho, lại cho làm Tuần phủ An Giang, gần đây chỉ ngồi yên một chỗ, không quan tâm việc gì. Tuy rằng cái việc thuyền buôn chở đồ gian vẫn là người khác bịa đặt vu cho, nhưng xét ra việc của viên ấy làm đại để “mượn công làm tư", cái tình giống như không làm sao che được !”. Đúng là họa vô đơn chí, nhưng biết làm sao được. Trách ai ? Phận làm con không đi trách cha mẹ. Phận làm tôi sao lại dám trách quân vương ? Trên không kỷ cương, dưới lập đường mây mưa. Từ xưa đã có biết bao tai họa của việc không dùng hình phạt nghiêm khắc. Chuyện kể, Tử Sản làm tướng quốc nước Trịnh, lúc bệnh sắp chết bảo Du Cát rằng: “Sau khi tôi chết, ắt ông sẽ được dùng làm tướng quốc nước Trịnh. Ông ắt phải dùng sự nghiêm khắc để trị người. Lửa có vẻ dữ dội nên ít người bị cháy phỏng, nước có vẻ yếu mềm, nên nhiều người bị chết đuối. Ông nên làm hình phạt của ông nghiêm, không nên đắm đuối trọng sự yếu mềm”. Tử Sản chết, Du Cát không nỡ thi hành hình phạt nghiêm khắc. Thiếu niên nước Trịnh thay nhau làm giặc cướp, trở thành một mối họa cho nước Trịnh. Du Cát thống suất binh gồm cả xe chiến và kỵ binh, cùng họ chiến đấu một ngày một đêm mới khắc phục họ được. Du Cát thở dài mà than rằng: "Ta sớm mà thi hành lời dạy của thầy, thì ắt không hối hận đến như thế". Mỗi thời mỗi khác, mỗi trào mỗi khác, nhưng Nguyễn Công Trứ tin rằng, một khi ai đã sống thật với lòng, sống thật với người thì lòng họ cứ sáng tựa sao Khuê.
Phận thần tử như ông, thiên tử có bảo chết cũng phải chết, huống gì cách chức. Cái vinh cái nhục ở đời có chi phải bàn. Trên đường danh lợi vinh liền nhục, Giữa cuộc trần ai khoc lộn cười. Cái vinh vái nhục chỉ cách nhau một sát-na. Để làm được con người đúng nghĩa cần phải tỉnh táo xem cái vinh ấy có đáng cho ta mừng, cái nhục ấy có đáng để ta phiền ? Danh lợi, chức tước chỉ là thân ngoại chi vật, là thói đời cả, nên chẳng có chi phải phiền muộn. Đới người như tia chớp, phiền muộn làm gì cho cực lấy thân. Ở Kinh thư, trong thiên Cao Dao mô, ông Cao Dao nói với Đại Vũ rằng:
Thiên thông minh tự ngã dân thông minh,
Thiên minh úy tự ngã dân minh úy.
Đạt vu thượng hạ,
Kính tai hữu thổ!
(Trời xem nghe sáng suốt tức là dân xem nghe sáng suốt,
Trời ban phúc hay ra uy là theo như lòng dân.
Trời với dân (trên với dưới) thông đạt cùng một lẽ,
Ai có đất đai nên kính cẩn vậy thay !)
Đó là nguyên lý nền móng, nhưng... Nguyễn Công Trứ nghĩ thì nghĩ mà không nén được tiếng thở dài.

Trăng hạ tuần đã lấp ló sau đọt dừa trước cửa mà Nguyễn Công Trứ vẫn chưa chợp mắt được. Cuộc đời ông kể cũng lạ. Số mệnh chăng? Đúng là ông trời muốn trêu chọc người đời. Phải học người xưa. Khổng tử đã từng khuyên học trò mình là Tử Hạ rằng: "Ngươi hãy làm nhà nho quân tử, đừng làm nhà nho tiểu nhân", hay lắm. Dù hoàn cảnh nào Nguyễn Công Trứ vẫn là Nguyễn Công Trứ của ngày nào, chớ đừng vì miếng đỉnh chung mà làm xấu hổ quê hương, tổ tiên. Ngẫm nghĩ lại, đời ông đâu chỉ mới lần này. Cuộc đời thăng trầm đã chỉ cho ông thấy, áo tía đai vàng cũng qúi thật, sang thật, vinh thật, song nào có hơn được việc nhân nghĩa. Thôi thì thôi quân tử cố cùng, Cùng khi ấy hẳn là thông khi khác. Ăn cơm vua, hưởng lộc nước để lo điều nhân nghĩa và phải biết chấp nhận sự rủi may. Phật còn bị hàm oan huống gì những kẻ phàm trần lục căn không tịnh. Ngày nào qua tuổi "tri thiên mệnh" ông đã đôi lần nghĩ tới chữ nhàn, nhưng... Trót đa mang một tiếng anh hào, Lại muốn chút cuộc nhà sao phải. Mặc xui khiến dám nghĩ đâu thành bại, Đem thông minh mà đến lại hoá quân. Thử xem con tạo xoay vần. Và cuộc đời của ông đã bị con tạo xoay vần đến nỗi muốn văng ra khỏi vòng sinh tử, nếu không thừa nghị lực. Từ anh thư lại luống tuổi, bằng tài năng và đức độ đã có những bước thành công vượt bậc trên đường công danh. Từng được thăng Binh bộ thượng thư, lĩnh Tổng đốc Hải An, rồi đến tuổi “hoàn đồng” lại bị giáng liền bốn cấp chỉ vì tên tù ở Hải Dương trốn ngục và bị triệu về kinh. Thời gian này cũng là thời gian giúp ông tĩnh tâm hơn, suy nghĩ về đời chín chắn hơn, thế mà...
Kể cũng lạ, đã là con người, ai cũng thích sống cho ra con người, thế mà chỉ do áo mão cân đai đành phải cứ lén lén lút lút như kẻ trộm. Khôn ngoan ư ? Cũng có thể, nếu ai đó muốn đánh mất chính mình. Làng Uy Viễn trước đây chưa có người như thế, đến bây giờ cũng chưa có người như thế. Nguyễn Công Trứ cười thầm một mình với vẻ mặt rạng rỡ. Tự hào à ? Đáng tự hào lắm chứ ! Nguyễn Công Trứ trước sau vẫn là Nguyễn Công Trứ sao lại không đáng tự hào !
Lênh đênh một chiếc thuyền nan,
Một cô gái Huế, một quan đại thần.
Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Ngày thời quan lớn như cha,
Ban đêm quan lớn rầy rà như con.
Với Nguyễn Công Trứ điều ấy chẳng có gì xấu hổ. Nhiều người cho ông là kẻ bất đắc chí khi bị giáng cấp triệu về kinh rồi đâm ra ngông; nhiều người thì cho ông thị mình được vua ưu ái, dựa vào công trạng, v.v... mà dám công khai khắc họa chân dung mình và... những người giống mình; người thì cho ông thị tuổi già. Trâu già chẳng nệ dao phay ! Theo Nguyễn Công Trứ, tất cả thì sai tuốt tuột. Cái chính là ông muốn sống thật với mình, với người. Và trên bước đường công danh của ông đã chứng minh điều đó. Từ anh Binh bộ thượng thư triệu về làm anh "lon ton" ở Bộ binh, chuyển qua làm Đô Sát Viện, Tả đô ngự sử, rồi được cử ra Hà Nội làm chủ khảo kỳ thi hương... Bất cứ ở đâu, bất cứ việc gì, Nguyễn Công Trứ cũng là Nguyễn Công Trứ luôn làm hết mình, sống thật với mình, không nề hà, không đãi bôi, không ton hót lấy lòng một ai.
Và rồi, "Thiên thông minh tự ngã dân thông minh", vua Minh Mệnh không những phong cho ông chức Trấn tây Tán Lý cơ vụ, mà còn xuống bệ cầm tay ông dặn dò: "Khanh là bậc nho tướng, việc quân đã am hiểu, nên tùy cơ xem xét, đã đánh cho mau thành công, khỏi phụ bụng ta ủy cậy" (Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, sđd, trang 193). Với Nguyễn Công Trứ, một khi đã vào cuộc thì Túi giang san bốn bể cũng là nhà, Nền vương thổ cả trong trời đất Việt, có gì phải tính thiệt hơn.
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Và Nguyễn Công Trứ đã hồ hởi lên đường. Điều làm ông xúc động là trước lúc vua Minh Mệnh băng hà còn nhớ và phong cho ông làm Tham tán đại thần. Thật là Chung đỉnh ơn vua ngày tháng nhiều. Nguyễn Công Trứ hiểu và đã "khỏi phụ bụng ta ủy cậy".
Nhiều lúc, Nguyễn Công Trứ muốn học làm Trương Lương, Bá Di, Thúc Tề..., nhưng ông nghiệm tới nghiệm lui vẫn thấy mình chưa "đạt đạo”. Cái trò trâu cột ghét trâu ăn, ông rành lắm, song ông lại mặc cho cơ tạo xoay vần. Việc gì đến ắt phải đến, có cưỡng lại cũng không được và có muốn cũng không xong. Trong cái rủi có cái may, trong cái may có cái rủi, biết đâu mà lần. Việc Mai Văn Thạch, đồn trưởng bên Châu Giang bị tố cáo dùng thuyền sang Nam Vang buôn lậu có dính dáng gì tới ông. Chính Khâm sai đại thần là Lại bộ Tham tri Trần Ngọc Dao và Lại Khoa Chưởng ấn Đặng Kham vâng mệnh vua Thiệu Trị từ kinh đô vào tận nơi truy xét, kết luận ông bị vu cáo, và đề nghị những bọn người vu cáo ông cần phải được trị tội nặng, phạt trượng đày đi xa. Trắng đen phân minh là thế mà xử ông như thế này là oan.
Nguyễn Công Trứ nhếch môi cười trong đêm. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Thế này cũng còn nhẹ, bởi ông không muốn mình là người bất trung, hậu thế nguyền rủa, chê cười. Chuyện này có khác chi chuyện cách đây bảy năm (1837) ông bị giáng những bốn cấp chỉ vì một tên tù vớ vẩn trốn ngục. Và... đâu sẽ vào đó. Nguyễn Công Trứ tin như vậy, và vui vẻ lên đường sung quân ở Quảng Ngãi.
Tuổi tác tuy rằng chửa mấy mươi,
Đổi thay mắt đã thấy ba đời.
Ra trường danh lợi vinh liền nhục,
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Chuyện cũ trải qua đà chán mắt,
Việc sau nghĩ lại chẳng thừa hơi.
Đã hay đường cái thời ra thế,
Sạch nợ tang bồng mới kể người.
Cái vui cái sướng của ông là mọi người ở xứ An Giang này từ quan tới dân đều hiểu ông. Nhiều người nằng nặc đòi ông cứ ở lại, họ sẽ đội đơn ra kinh khiếu nại, minh oan cho ông. Không khóc mà nước mắt ông cứ đổ. Cái tình cái nghĩa sao mà qúy quá. Giàu làm chi, sang làm chi mà lúc nào ai ai cũng muốn tống đi như muốn tống một món hàng ôi thối. Ông xúc động cám ơn và khuyên mọi người nên bình tĩnh. Sanh nhi tri chi giả, thánh nhân là bậc sinh ra đã biết và nếu muốn mở oan cho ông cũng chẳng mấy hồi. Cái quan trọng là mình có oan thiệt hay không, tâm mình có sáng hay không. Nếu không có vấn đề gì để lương tâm cắn rứt, thì đâu sẽ vào đó, chẳng có gì phải lo phải phiền. Lạc hồng bất thị vô tình vật, Hóa tác xuân nên cánh hộ hoa (Hồng rơi chẳng phải vô tình, Hóa thành bùn lại nuôi cành hoa xuân), mất đâu mà sợ.
Trong lúc xúc động trước những tấm lòng chân thật của những người có mặt, Nguyễn Công Trứ ngước mặt nhìn trời, ngâm:
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
- Bẩm quan lớn, chúng con tin quan lớn chính là cây thông – cây thông không chỉ đứng giữa trời mà đứng trong lòng chúng con. Thầy Mạnh đã dạy: Dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Chúng con tin như vậy.
Nguyễn Công Trứ cười khà khà che lấp nỗi niềm của mình. Ông hiểu họ như hiểu chính mình. Khi nhận mệnh vào đây đã có mấy ai tin ông. Nhưng ngày tháng đã chứng minh cho mọi người thấy ông thay mặt triều đình lo cho dân. Ông đã dẹp được nhiều cuộc biến động ở Ba Xuyên, Lạc Hóa và giúp dân khai phá đất hoang dọc theo bờ kinh Vĩnh Tế. Nói chung, những ngày ở đây là những ngày ông đã đem lại cho dân lành những ngày ăn no ngủ yên.
Dứt tiếng cười, Nguyễn Công Trứ ngâm tiếp:
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Nguyễn Công Trứ tạm biệt mọi người ra đi không kèn không trống, không có kẻ tùy tùng.
Mặt trời đã ngã về tây. Nguyễn Công Trứ mồ hôi mồ kê đầm đìa, nhưng rất lấy làm vui, vì đoạn đường dài đã hết. Suốt chặng đường qua, ngày đi đêm nghỉ, gặp đâu Nguyễn Công Trứ xin tá túc đó chẳng nệ sang hèn. Thực tế trước mắt, Nguyễn Công Trứ nghĩ đây cũng là dịp để ông hiểu thêm cái vui cái buồn, cái hồn nhiên chơn chất của con người. Và ở đời có mấy kẻ được như ông?

Với cái áo cộc màu chàm, chiếc nón dấu, ruột tượng gạo quàng trên vai và chiếc dao tu kè kè bên hông, ai nhìn qua cũng biết đó là anh lính già, còn tại sao già như thế mà chưa về vui thú điền viên với con cháu thì không ai hiểu. Trên đường từ An Giang ra Quảng Ngãi, nhiều vị quan phủ, quan huyện nhìn ra ông thì đích thân ra tiếp rước như thời ông còn đương chức Thượng thư, Tổng đốc... Tất cả chỉ vì họ qúy trọng ông, coi ông như người thầy, người anh cả. Những cử chỉ ấy khiến ông vui hơn và cảm thấy yêu đời. Đêm về, Nguyễn Công Trứ thầm tự hào: sống một đời không thẹn. Dĩ nhiên, đã có không ít người từng mang ơn ông, nhưng họ giả bộ không biết người lính già lang thang kia là ai, ông cũng chỉ cười chớ không hề trách.
Đường tương lai của họ còn dài và họ còn có gia đình, vợ con, vướng vào ông có khi họ bị họa lây. Quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở người. Ông không nghĩ xấu về họ, và mỗi lần như thế, ông tự xét lại lương tâm mình. Rồi lần nào ông cũng sung sướng nghĩ rằng ta đã có gì để thẹn với người, với lương tâm đâu nào ? Ở đâu, chức gì, ông vẫn là ông, vẫn sống đẹp, sống tốt với mọi người, dù cho người đó là dân đen hay là quan đại thần. Đi cho người ta nhớ, ở cho người ta thương. Ông cha bao đời đã dạy thế và ông đã làm được như thế.
- Bác kia, đi đâu ?
Nguyễn Công Trứ giật mình, nhìn lại. Thì ra mình đã tới nơi cần phải tới. – Nguyễn Công Trứ nghĩ thầm, mỉm cười xin lỗi và cho chú lính gác biết mình ở An Giang được sung quân ra đồn Quảng Ngãi. Nay vừa tới nơi và được xin ra mắt quan đầu tỉnh.
- Già rồi sao không chịu ở nhà với con cháu mà ngao du ra tận đây thế bố ? – Người lính trẻ cười, nói vui với ông.
Nguyễn Công Trứ cũng cười xã giao, nói:
- Vâng ! Mỗi người đều có cái số cả anh nó ạ.
- Thôi, bố vào trình diện rồi nghỉ ngơi. Ở đây, chắc chẳng có việc gì buộc bố phải nhọc sức đâu. Nhưng...
Nghe Nguyễn Công Trứ cám ơn và chần chờ đợi anh ta nói hết câu, anh ta nhìn Nguyễn Công Trứ ra chiều thương cảm, nói tiếp:
- Lính lác như bố con mình thì chẳng cần phải trình diện quan đầu tỉnh. Bố cứ đi thẳng vào rồi trình diện
qua quýt với ai đó cũng được.
Nguyễn Công Trứ hiếng mắt nhìn người lính trẻ tốt bụng rồi lững thững đi vào. Ông cũng định tìm ai đó trình bày qua quýt cho xong, nhưng vừa lúc ấy có người khách sang trọng tới tìm vị quan đầu tỉnh. Và như đã hẹn trước, vị quan đầu tỉnh đã bước ra tận thềm đón vị khách sang trọng ấy. Nguyễn Công Trứ định quay ra ngồi chờ, thì một chú lính lệ tới hỏi rồi chạy tới rỉ tai quan đầu tỉnh.
Vị quan đầu tỉnh quay nhìn Nguyễn Công Trứ, rồi bước xuống thềm, cười xởi lởi:
- Chào quan anh. Tiểu đệ biết quan anh về đây, nhưng không biết lúc nào nên không kịp nghênh đón. Có gì thất lễ, xin quan anh bỏ qua.
Nguyễn Công Trứ nhếch môi cười, trả lời:
- Không dám ! Thân làm lính đâu dám làm phiền tới quan lớn.
- Đừng nói thế, tiểu đệ đây giảm thọ. Mời quan anh vào trong ngồi dùng trà. – Quan đầu tỉnh vừa vui, vừa dẫn tay Nguyễn Công Trứ vào phòng và ấn ông ngồi xuống ghế. Gỡ ruột tượng gạo trên vai Nguyễn Công Trứ xuống, quan đầu tỉnh giới thiệu người khách: - Thưa quan anh, đây là ông Lê, thương nhân có hạng ở tỉnh này.
Nguyễn Công Trứ khẽ chào, dù rất không ưa bộ mặt thị tiền của lão ta.
- Hân hạnh được biết ông.
Ông Lê mỉm cười với điệu bộ kẻ cả, tay phẩy nhè nhẹ chiếc quạt lông ngỗng, hỏi ông với giọng xách mé:
- Về đây làm lính, ông thấy có nhục không? Tôi thì... nhục lắm, chẳng thà nhận tam ban triều điển còn vinh hơn.
Vị quan đầu tỉnh lúng túng ra mặt, nhưng không thể nào bịt miệng người khách qúi của mình. Trong lúc đó, Nguyễn Công Trứ vẫn ung dung nhấm nháp từng ngụm trà và khẽ nhìn gương mặt bì bì của lão con buôn.
- Chim sẻ làm sao biết được đại bàng đi đâu về đâu. Khi làm tướng, tôi chẳng lấy làm vinh, nên lúc làm lính tôi chẳng coi là nhục.
Bị cho mình là chim sẻ, thương nhân Lê vừa xấu hổ vừa bực mình. Quan đầu tỉnh còn chưa dám nói nặng ông nửa lời, ấy mà thằng lính già ấm ớ này dám gác kèo trên.
- Cha hắn lú còn chú hắn khôn. Ông nhớ, đây là đất của quan đại thần Trương Đăng Quế, chớ không phải đất cằn đâu nhé.
Nguyễn Công Trứ nhếch miệng cười. Những điều ông vừa nói vừa thật lòng cũng vừa muốn nói cho tên trọc phú biết thế nào là nhân cách, chớ nào nghĩ tới chuyện hơn thua với hạng người ấy. Nhưng cái giọng rung cây nhát khỉ của y ta, Nguyễn Công Trứ không ưa chút nào.
- Vâng, tôi biết. Quan đại thần họ Trương mà ông vừa nói, với tôi là bạn đồng khoa.
Quan đầu tỉnh biết chuyện, dàn hòa cả đôi bên:
- Vâng, vâng, quan anh đây đỗ giải nguyên khoa ấy đấy, ông Lê à. – Quan đầu tỉnh quay sang Nguyễn
Công Trứ nói tiếp:
- Thưa quan anh, thân phụ của ông Lê đây lúc sinh tiền cũng làm đến chức Lang trung của Hoàng triều ta.
Đúng là hổ phụ sinh khuyển tử ! Nguyễn Công Trứ hiếng mắt nhìn y, rồi mỉm cười với vị quan đầu tỉnh. Ông nghĩ, nếu không có ràng buộc vật chất gì đó thì những người như quan đầu tỉnh đây không đời nào dính tới. Tuy biết rõ thân phận ông hiện giờ là thuộc hạ thấp nhất, nhưng quan đầu tỉnh đối xử với ông như thế này khiến ông khâm phục. Và ông tin vào lòng nhân, tính thiện trong mỗi con người. Ông ung dung ngồi uống trà như chẳng có chuyện gì xảy ra.
- Tiểu đệ nhớ không lầm, dường như quan anh đây những ba lần giữ chức Lang trung thì phải ?
Nguyễn Công Trứ mỉm cười tinh nghịch, chớ chẳng có chi khó chịu. Còn vị thương nhân đất Quảng Ngãi đã biết người lính già mà mình đã có ý coi thường ấy là ai, nên không còn dám lên mặt như trước. Và đầu óc con buôn đã nhắc ông ta cách xử thế.
- Thưa ngài, chức Lang trung là chức gì mà ngài nhận những ba lần?
Nguyễn Công Trứ liếc nhìn y ta rồi vuốt râu mỉm cười.
- Tôi cũng chẳng rõ. Nhưng cuộc đời đi trấn nhậm nhiều nơi, tôi gặp một chuyện như thế này, xin được kể hầu quan đầu tỉnh và ông khách qúi của quan đầu tỉnh đây. Lần ấy có nhà buôn giàu có và có những ba vợ. Khi ông ta qua đời, người vợ cả chạy tới ôm cái đầu, khóc: Ô hô, lang thủ. Người vợ thứ hai thấy vậy cũng vội vàng chạy tới ôm chặt lấy đôi chân của người chồng, khóc: I hi, lang túc. Người vợ thứ ba lúng túng, nhìn tới nhìn lui rồi cũng chạy lại cầm chặt khúc giữa, khóc rống lên: Ai tai, lang trung.
Vị quan đầu tỉnh cười thoải mái, còn ông Lê cưới không ra cười, khóc không ra khóc. Lâu nay, ông ta nghĩ mình xuất thân từ gia đình quan lại, thân sinh làm tới chức Lang trung, hãnh diện lắm, ấy mà bây giờ tay lính già này nói... trớt huớt.
Cũng may vừa lúc đó, người lính hầu đã đến thông báo tới giờ dùng cơm.
Những ngày làm lính ở Quảng Ngãi là những ngày ông cảm thấy thanh thản nhất. Cánh lính trẻ xem ông như cha chú nên giành gánh công việc. Họ thêu dệt nhiều chuyện về ông. Trong những lúc có điều kiện thuận lợi, họ hỏi về cuộc đời ông, nhưng lần nào ông cũng cười.
- Bố giấu chúng con. Nghe họ đồn, bố là quan đại thần giả dạng thường dân đi quan sát dân tình.

- Các anh còn trẻ. Khi nào các anh lớn lên bằng phân nửa tuổi tôi, các anh sẽ hiểu.
- Chúng con tin vậy, bởi không có ai già như bố mà còn làm lính cả. Bố không có vợ con à ? Nếu vậy thì bố
vào chùa tu quách, chớ làm gì ba cái nghề này. Vả lại, tuổi của bố, ai cho đăng lính.
- Thôi, đừng bận tâm nữa. Các anh cứ lo làm cho tốt bổn phận của mình.
Và Nguyễn Công Trứ thực sự coi họ như con em trong nhà. Lúc rảnh rỗi, ông bày dạy họ những điều hơn lẽ thiệt, và nếu ai cần, ông cũng cho dăm ba chữ về dán nhà, thậm chí dán ở chuồng trâu, chuồng heo, bấm tuổi dựng vợ gả chồng, coi ngày lành tháng tốt... Với ông, cuộc đời chẳng khác nào dòng sông chảy mãi không ngừng. Ai muốn nó ngừng là đi ngược lại với tạo hóa. Ngày xưa, Chu Hy cũng cho đó là "Sự sinh hóa của trời đất. Cái gì qua, qua đi; cái gì đến, đến tiếp; không có cái gì ngừng nghỉ một giây phút nào; đấy chính là tính chất bản nhiên của Đạo thể" (Thiên địa chi hóa. Vãng giả quá, lai giả tục, vô nhất tức chi đình, nãi đạo thể chi bản nhiên dã). Và, Nguyễn Công Trứ vẫn còn thấy mình là người có ích.
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc, tùng, phong, nguyệt mới vui sao.
Đám phồn hoa trót bước chân vào,
Sực nghĩ lại, giật mình bao xiết kể.
Quá giả vãng nhi bất thuyết,
Cái hình hài làm thiệt cái thân chi.
Cuộc đời thử gẫm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ.
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang san phong nguyệt.
Mặc xa mã, thị thành không dám biết,
Thú yên hà giời đất để yên ta.
Nào ai ai biết chăng là ?
Nguyễn Công Trứ ngâm ngợi rồi thở dài. Mới đó mới đây đã hết một đời người. Nhưng nhìn lại quãng đời đã qua, Nguyễn Công Trứ cũng lấy làm mãn nguyện. Vinh nhục đời người ông đã trải qua, và cuối đời ông có quyền thực hiện cái ước mơ của ngày nào: Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo, Thảnh thơi tơ túi rượu bầu. Dĩ nhiên, cuộc đời của ông chẳng có chi là bằng phẳng, song có thế vào cuối đời, ông mới thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Hậu thế sẽ có người cho ông là kẻ háo danh. Vâng, biết làm sao được. Mạc hiềm trần thế vô tri kỷ. Xưa nay là thế. Sống mà không thể hiện được sức sống của mình, thì bị cho là kẻ bi quan, yếm thế. Sống cho hết lòng hết dạ với người đời, thì bị cho là kẻ háo danh. Nhưng... lo nghĩ làm   gì, một khi mình làm việc không trái với lương tâm, với đạo lý làm người. Với ông, hòa mình cùng cộng đồng mà lưu danh được mới khó, chớ phản nghịch để lưu danh thì dường như ai cũng có thể làm được nếu có chút máu liều trong người. Một khi “Đã xông pha bút trận, thì gắng gỏi kiếm cung, Làm cho rõ tu mi nam tử", còn không thì tay cuốc tay cày có lợi hơn. Đành rằng số mệnh cũng có, nhưng cứ nằm ỳ ra đó thì chỉ có số chết đói chớ chẳng có số nào khác. Nhơn bất học bất tri lý. Và "Tạo hóa có ghen chi số mệnh, Giang san nào oán với văn chương". Khó cũng do con người, dễ cũng do con người, và ai cũng muốn tìm cho mình cái lý để sống. Và Nguyễn Công Trứ không muốn dụng cái lý của con cóc đòi mọi người tôn vinh mình, vì mình là cậu ông trời. Với Nguyễn Công Trứ, thì "chữ danh liền với chữ thân, Thân đã có, ắt danh phải có", chớ không thể khác được. Chuyện mưa chuyện nắng cũng làm cho người đời than thở, trách móc, thậm chí lớn tiếng chửi rủa đất trời, nhưng thử hỏi ai là người muốn nắng hoặc muốn mưa quanh năm suốt tháng ? Chắc không ai dám, ngoại trừ kẻ điên. Và trách gì người điên!
Nguyễn Công Trứ bình tâm sống với đời lính thú xa quê của mình. Và ông cũng không lấy làm lạ khi vua Thiệu Trị điều ông về kinh làm Chủ sự bộ Hình (!845), rồi lại cử ông vào làm Án sát ngay nơi ông làm lính thú. Đấng quân vương cho rằng, có như vậy mới gọi là phục hồi danh dự cho ông chăng ? Lại thêm một người không hiểu ông rồi. Nhưng, trong cuộc trần ai, ai dễ biết, và sống thì phải hành động, phải hăm hở ra tài kinh tế. Bởi, người thế trả nợ đời là thế. Ông cần phải tận lực để biết thế nào là mệnh trời. Đường thư kiếm vẫy vùng cho hết đất, chớ hà cớ chi an phận thủ thường.
Ngoài những lúc ở công đường, Nguyễn Công Trứ vẫn là người lính thú, người cha, người chú, và... ông thầy đồ vui tính của ngày nào đối với mọi người ở tỉnh thành Quảng Ngãi.
Niềm vui ấy cũng chỉ được mỗi một năm. Vào tuổi bảy mươi, Nguyễn Công Trứ lại được mời về kinh để thụ hàm Thừa Thiên phủ doãn.
Thế là đã xong một đời người!
Nhà nước yên thì sĩ được thung dung, Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. Nhưng đã vào cái tuổi "cổ lai
hy" rồi, thì không muốn tìm ông Hoàng Thạch cũng không được. Nguyễn Công Trứ dâng sớ xin về trí sĩ. Trong lúc chờ đợi, thì ông lại phải bận rộn vào việc tang ma, bởi vua Thiệu Trị băng hà.
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì.
Lòng Nguyễn Công Trứ như có chùng xuống khi tư tưởng yếm thế của Ôn Như Hầu len vào đúng lúc trong ông. Đúng thôi ! Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, Tiêu khiển một vài chung lếu láo. Và thời gian cứ đi qua chẳng chờ đợi ai. Nguyễn Công Trứ không muốn ngồi lại lâu, cản đường lớp trẻ, ông lại dâng sớ thêm lần nữa. Vị vua trẻ Tự Đức không những chấp thuận cho ông về hưu mà còn xuống chiếu ban cho ông thực thụ hàm Thừa Thiên phủ doãn. Hàm quan hưu hạng tam phẩm với ông cũng đủ rồi. Nhất phẩm, nhị phẩm hay gì gì đi nữa, khi chết ông cũng không mang theo được. Cái vui nhất đời ông là đi tới đâu dân thương tới đó. Ngày về hưu, các quan lại trong triều hầu hết đều tới vui với ông chén rượu, câu thơ. Quý là thế. Tình là thế. Nguyễn Công Trứ hy vọng rằng, những ngày này mới chính là những ngày... Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, Trong thú yên hà mặc tỉnh say.
Nhìn lại quãng đời qua, Nguyễn Công Trứ chẳng thấy có điều gì phải xấu hổ. Ông đi lên bằng chính tài năng và đức độ của mình. Lúc là Tổng đốc, Nguyễn Công Trứ vẫn chưa cho đó là may và khi làm lính thú, Nguyễn Công Trứ vẫn chưa cho đó là rủi. Do đó, nay về hưu với hàm tam phẩm có chi là nhục. Những ngày gần đây, từ quan tới dân, ai cũng gọi ông là cụ Thượng cũng thế thôi. Ngày còn làm Tổng đốc, trước cửa công đường, ông đã dán câu đối:
Khả úy thị dân nham, kinh cức bất sinh bình thản lộ
Duy thâm giả hoạn hải, ba đào vô nộ tải không châu
(Lòng dân nham hiểm vô cùng, nhưng gai góc nào có sinh trên đường bằng phẳng
Bể hoạn thẳm sâu khôn xiết, nhưng sóng gió vốn không giận chiếc thuyền nhẹ tênh)
Do thế nên khi về hưu, bạn bè hiểu ông hơn, yêu ông hơn. Với ông, đời người được thế nghĩ cũng đáng. Từ thuở thiếu thời, ông đã học và hành theo lời dạy của Tăng tử: Ngô nhật tam tỉnh ngô thân (Ta cứ hàng ngày lấy ba điều kiểm điểm bản thân). Đến tuổi này, Nguyễn Công Trứ vẫn không thay đổi quan điểm ngày nào của mình: Có trung hiếu đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây. Nhưng chỉ tiếc một điều, con cái của ông không thừa hưởng được “chất lửa” ấy. Không đứa nào tự đứng bằng đôi chân của mình, trái lại chỉ mong nấp bóng người cha. Song việc nấp bóng cũng không xong. Giận làm sao! Buồn làm sao! Ông cũng thấy mình có phần trách nhiệm, nhưng nghĩ cho cùng vậy còn hay hơn. Làm cha mẹ dân mà kém tài thiếu đức thì chỉ có hại dân. Tử giả biệt luận chỉ đúng với bản thân người đó, chớ cái xấu cái tốt của con người đó sẽ còn mãi. Bia đá không ghi, sách sử không chép, nhưng bia miệng cứ truyền đời. Thôi, cái gì cũng đã rồi, cây cứ lớn, cỏ cứ mọc....
Nguyễn Công Trứ thấy nghèn nghẹn ở cổ, muốn nói mà nói không được. Ông rướn người và người hầu thiếp kịp thời đỡ ông dậy, đưa tay vỗ nhè nhẹ dưới bả vai ông và quay ra dặn người nhà:
- Nói với bà con bàn chuyện nho nhỏ một chút để Cụ Lớn nghỉ.
Ông khoát tay, ý bảo đừng nói lời lẽ ấy. Tuy bị bệnh nặng, đi đứng, nói năng không khỏe lắm, nhưng họ làm gì, nói gì ngoài ấy, ông đếu biết. Quan sở tại và bà con nghe tin ông bệnh nặng đã cho người đến thăm hỏi và tự động dọn vườn, kéo rạp để có chỗ ra vào cho khách một khi ông được trở về với tiên tổ. Họ đang bàn bài văn tế của một nhà khoa bảng danh tiếng nói hộ lòng dân với sự nghiệp của ông:
Đỏ xanh dấu cũ, mũ lọng triều xưa.
Bút cự nho xông thẳng trường văn, ba nghìn sĩ tử chịu co tay, tên đỏ chót đứng đầu bảng hổ,
Cờ đại tướng trỏ ngang giáo võ, trăm vạn hung cừ đều khiếp tiếng, bể trong veo lặng ngắt tăm Kình.
Phá toang bãi cỏ lập làng dân, chẳng quản chân tay bùn lấm,
Tát sạch đồng chua làm ruộng tốt, khác nào trời đất chuyển vần.
Hoàn danh, hoàn phúc gồm hai, công đức rỡ ràng bốn cõi,
Danh tướng, danh thần là một, linh thanh sực nức ngàn thu.
Hay thì có hay, thậm chí cũng có thể xếp vào loại tuyệt bút, nhưng ông vẫn thích những bài văn nôm dân dã, và ông đã không cầm được nước mắt khi họ cho người vào rước ông ra thăm lại vùng đất ngày xưa để tế sống ông:
... Bao phen khẩn trị hoang vu,
Mấy độ chiêu tầm nông hộ.
Nay nhìn bờ xôi ruộng mật, càng nhớ công đắp đập be bờ,
Nay nhìn đồng ruộng bãi dài, càng nhớ lúc bắc cầu, đặt mố.
Huân lao to tựa non sông,
Ân đức ấy khắp cùng cây cỏ.
Và chính điều này, vị quan hưu hàm tam phẩm phải lai kinh hậu cứu. Trên đường đi, Nguyễn Công Trứ chẳng chút băn khoăn. Chẳng phải đây lần đâu ông lai kinh hậu cứu, và cũng chẳng phải như người ta nói, trâu già chẳng nệ dao phay. Tất cả ông tin vào sự công tâm của vị vua trẻ tuổi và hay chữ như Tự Đức. Một người tiểu tâm nghi ngờ cả một lão thần đã trải qua ba triều như ông, thì khó có thể có bút lực hùng hồn như ông đã biết và vận nước coi như đã hết.
Hỏi mình, mình biết ai không?
Ai đây mới thực Tiên công đất này?
Ai cắm mốc, ai chăng dây?
Ruộng kia chia thẳng, sông này đào sâu.
Bạt ngàn bãi cát nương dâu,
Một phen kinh lý, nghìn thâu lưu truyền.
Chắc vị vua trẻ cũng đã lọt tai đoạn phong dao ấy. Nhưng đó là ý dân, chớ nào phải ý ông. Mà thôi, cái gì tới cũng phải tới. Nghiệp duyên vốn tại mình ra, Nơi vuông tấc đủ thiên đường địa ngục. Vì chưa thoát lòng trần mắt tục, Nên mơ màng một bước như khơi.
Nguyễn Công Trứ cười thầm trong bụng khi thấy mình được bố trí chỗ ăn chỗ ở khá tươm tất, nhất là chẳng có ai canh gác. Nếu theo tình hình này mà xét, thì chắc chắn bạn bè đã giúp ông và vị vua trẻ này không phải là người không hiểu chuyện. Ăn ở như thế này là được vua triệu về kinh, chớ không phải lai kinh hậu cứu, và ông sẽ không phải mang cái gông nặng trịch trên cổ giữa sân rồng. Trên đường lai kinh, Nguyễn Công Trứ đã chuẩn bị đón nhận tất cả những gì xấu nhất tới cho mình, và dặn lòng, dù có như thế nào cũng phải sống cho đúng với bản chất vốn có. Không khinh thường ai, nhưng cũng không bợ đỡ ai để được việc cho mình. Cha mẹ nói gian, làm quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa. Tất cả chỉ muốn con người tốt hơn, biết đời biết đạo hơn. Chẳng quân thần, phụ tử đếch ra người.
Nguyễn Công Trứ tự đặt mình vào vị trí của vua Tự Đức cũng thấy lúng túng. Ý dân là ý trời. Dân ở Kim Sơn, Tiền Hải rước Nguyễn Công Trư ra tế sống, phong thần cũng chỉ là thể hiện cái đạo làm người, chớ không thể nghi ngờ Nguyễn Công Trứ có mưu tạo phản. Nhưng, đây là việc xưa nay chưa từng có, nếu không chấn chỉnh sẽ di họa về sau. Nếu chấn chỉnh thì chấn chỉnh làm sao ? Nguyễn Công Trứ thở dài và cảm thông nỗi khổ của vị vua trẻ.
Sau khi tiếp chỉ của vua, bạn bè vây quanh Nguyễn Công Trứ mừng mừng tủi tủi. Nguyễn Công Trứ không khóc mà nước mắt cứ đổ ròng. Nguyễn Công Trứ nghĩ lại, trước đây mình cũng quá quắt với bạn bè. Hà Tôn Quyền tuy nhỏ hơn ông 19 tuổi nhưng là bạn đồng liêu, bạn vong niên, bạn văn thơ, thế mà ông cũng cố hơn cho được một câu, một chữ. Từng đỗ Hội nguyên, rồi từ chức quan Tham tri bộ Lễ, thăng thụ chức Thượng thư tòa Nội các thì có chi là lạ, thế mà ngày ấy Nguyễn Công Trứ chẳng mấy ưa. Nhân trong lúc bãi triều, Hà Tôn Quyền ứng khẩu câu đối: Quân tử ố kỳ văn chi Cụ Lớn. Đây là câu văn cổ mà sách Trung dung ghi: Quân tử ố kỳ văn chi trứ, nghĩa là người quân tử ghét lối văn chương lòe loẹt, bề ngoài. Nhưng Hà Tôn Quyền đã có ý nể nang mà lấy chữ: "Cụ Lớn" thay cho chữ "Trứ" thế mà ông cũng... tranh hơn. Nói cho công bằng thì Nguyễn Công Trứ thể hiện được tài ứng đối của mình, và ai trong hoàn cảnh ấy cũng phải hành động như vậy, song bây giờ nhớ lại, Nguyễn Công Trứ thấy mình có phần... háo thắng.
Nghe xong vế đối, Nguyễn Công Trứ cũng dùng cổ văn độp chát ngay: Thánh nhân bất đắc dĩ dụng... qúi ông. Đúng vế đối này là: Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền. Nguyễn Công Trứ cũng dùng chữ "qúi ông" thay cho chữ "Quyền". Cả vế ra cũng như vế đối đều thâm thúy. Cả hai câu đều là "ý tại ngôn ngoại" dù người nghe thấy từng chữ đối nhau chan chát, không chê vào đâu được. Nhưng cái đáng trách là sau đó, ông lại thách thức Hồ Tôn Quyền một vế đối bằng một câu cổ văn: Cùng, thông, đắc, táng, bỉ thương mặc phó kỳ quyền, nghĩa là: Cùng hay thông, thua hay được, trời xanh mặc nhiên giao phó quyền hành. Chữ nghĩa rành mạch là thế, nhưng thâm ý lại khác và Hồ Tôn Quyền chỉ còn biết cười... như mếu.
Bậy thật ! Bậy thật ! Nghĩ thì cứ nghĩ mà cười tiếp bạn bè thì vẫn cười tươi.
- Mừng quan bác vẫn tráng kiện.
- Nghe tin quan bác cưới thêm nàng hầu khiến bọn này muốn phát ghen.
- Thánh thượng giáng chỉ cho quan bác sáng mai vào chầu, thế là bọn này mừng lắm rồi.
Mỗi người mừng một câu đủ hết ngày và họ tình nguyện tổ chức bữa hát mừng ông.
Ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoắt,
Từ răng long cho đến bạc đầu.
Có nhục vinh góp lại có bao lâu,
Ngồi thử gẫm thợ trời thêu khéo quá.
Núi tự tại cớ sao sông bất xả,
Chim thì lông, hoa thì cánh, công đâu tạo hóa khéo thừa trừ.
Từ nghìn trước đến nghìn sau,
Kết cục lại mỗi người riêng một kiếp.
Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp,
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân, thân.
Mà chữ "danh" liền với chữ "thân",
Thân đã có, ắt danh phải có.
Này phút chốc kim rồi lại cổ,
Có hẹn gì sau chẳng bằng nay.
Râu mày kia hỡi râu mày.
Tiếng ca của đào nương vừa dứt, mọi người vỗ tay khen ngợi:
- Hi Văn tới chết vẫn là Hi Văn.
- Tiểu đệ thích cái ý của quan bác: Tân nhân dục vấn lang niên kỷ, Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
- Trước không có ai và sau Uy Viễn tướng công cũng chắc không có ai.
- Gặp được quan bác đây là qúy lắm rồi, sẵn đàn hay, giọng ngọt, mong quan bác cho bọn tiểu đệ biết về những tháng ngày thong dong vừa qua.
- Vâng, quan bác cho bọn tiểu tử biết để mừng cái tuổi “nhị thập tam” ấy mà.
Mọi người cười ồ vui vẻ.
Tiếng đàn, tiếng phách cứ nổi lên, và chừng một tuần trà, Nguyễn Công Trứ giao cho đào nương bài hát nói và đích thân ông cầm chầu.

Ngâm cùng giăng gió vài câu kiểng,
Tính với giang san mấy chuyện đời.
Thú gì hơn nữa thú ăn chơi,
Chi giàu có, sang hèn là phận cả.
Đủ lếu láo với người thiên hạ,
Tính đã quen đài các bấy lâu.
Đàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu,
Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải.
Thơ rằng: Đạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tứ thập phong vân biến thái trung.
Hỏi giang san mấy kẻ anh hùng,
Tri ngã giả, bất tri ngã giả.
Người có biết ta hay thì chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.
Linh khâm bảo hợp thái hòa,
Sạch không trần lụy ấy là thần tiên.
Ngang tàng lạc ngã tính thiên.
Tiếng vỗ tay nổ giòn như pháo tết, nhưng ai tinh ý sẽ thấy trên vầng trán mọi người đều hằn những nếp nghĩ suy cùng nụ cười kín đáo. "Người có biết ta hay thì chớ, Chẳng biết ta, ta vẫn là ta". Ngoài những kẻ bất đắc chí nói bậy, nói quàng, thì chỉ có kẻ "Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông” như Nguyễn Công Trứ mới dám nghĩ và nói vậy chớ nào ai dám.
Sân rồng cũng giống như ngày nào, văn võ bá quan vẫn nghiêm túc, kính cẩn. Bước đi, giọng nói của mọi người vẫn phải cứ nhẹ nhàng, rành rọt... Triều đình vẫn là triều đình, đạo vua tôi vẫn đâu ra đấy... Nguyễn Công Trứ miên man với những dòng suy tưởng, đến khi nghe gọi tên, ông mới giật mình. Cũng cách đi, giọng nói của hơn mười năm về trước, Nguyễn Công Trứ tâu:
- Tâu bệ hạ, hạ thần đã về hưu và đang hưởng phước của triều đình, không rõ có tội gì mà bệ hạ cho quan quân bắt về?
- Hiền khanh hãy bình thân. Vừa rồi, xem lại các văn án của tiên triều, trẫm cảm thấy mến hiền khanh nên cho người mời hiền khanh về kinh chơi ít hôm, không ngờ hiền khanh đi ra đất Bắc, sứ bộ vội vã làm hiền khanh hiểu lầm trẫm.
Nghe vua Tự Đức ban ơn, văn võ bá quan ai nấy đều lộ vẻ vui mừng khiến tự đáy lòng Nguyễn Công Trứ trào dâng một nỗi niềm mà ông tưởng chừng như đã lãng quên.
Và khi được đưa rước về quê cũ, Nguyễn Công Trứ nhìn đời với cặp mắt khác hơn. Tuy đã quá tuổi bảy mươi những mấy năm và thường đến ăn mày cửa Phật, nhưng lòng ông vẫn chưa dứt được tạp niệm, vẫn buông cái tâm này, chấp cái tâm kia. Nghĩ lại, nhiều việc xử sự ở đời, ông thấy cũng đúng mà cũng không đúng. Và nếu không phải là cụ Thượng Trứ, ông có thể hành động được như vậy không ? Cũng có thể, nhưng mức độ cũng chỉ là lời của anh đồ gàn, nghe qua rồi... bỏ. Đằng này... Tội nghiệp!
Ngày ấy, có một viên tri huyện trẻ tuổi mới đổi về trấn nhậm huyện Nghi Xuân. Y ta không hề tới thăm hỏi như những viên tri huyện khác, Nguyễn Công Trứ không hề trách móc. Tuổi trẻ vốn vậy. Thành đạt sớm cũng dễ làm con người trở nên hư hèn. Nhưng ông vẫn hi vọng, thời gian sẽ làm họ tĩnh tâm lại, chững chạc hơn, bởi họ là những người có học, biết đạo nghĩa thánh hiền. Mỗi người, mỗi thời có khác. Dù là trọng thần hưu trí, nhưng ông cũng là con dân của đất nước, của huyện Nghi Xuân nghèo khó này. Lấy tuổi già và công trạng để chèn ép lớp trẻ là điều ông không muốn. Điều mong muốn nhất của ông là làm quan phải ra làm quan, phải đóng góp cái gì đó thiết thực cho đời, chớ không phải ráng học hành rồi dựa vào thế quan mà bóp nặn dân lành. Loại quan đó, xã hội không cần, đất nước không cần và nếu có cần là cần phải loại trừ. Với quan điểm rõ ràng như vậy, nên Nguyễn Công Trứ rất lấy làm vui vẻ trong những ngày còn lại của cuộc đời.
Ngày ngày, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng cùng cây cuốc nhỏ viếng hết chùa này tới thắng cảnh khác. Ông yêu qúi con bò như yêu qúi những đứa con của ông. Đến chỗ nào có cỏ non, ông thường dừng lại cuốc vài cụm cỏ và đưa vào tận miệng bò.
Trong lúc Nguyễn Công Trứ đang cho bò ăn, thì có người lính lệ đi trước dẹp đường, hô lớn:
- Khuyên ai nấy phải tránh về một bên đường để quan lớn đi hành hạt.
Nguyễn Công Trứ nhướng mắt lên nhìn, rồi ngồi nép vào bờ cỏ, tiếp tục cho bò ăn.
Hai người lính lệ khiêng võng quan huyện đến nơi, thấy con bò xê ra đường, dạng chân ỉa, phải lùi võng và dừng lại.
Quan huyện bước ra khỏi võng, bước lại giật nắm cỏ trên tay ông già, rồi ném mạnh xuống quát tháo:
- Hay cho lão già nhà quê vô lễ! Bắt lấy nó!
- Thưa... – Người lính lệ ấp úng.
Quan huyện khoát tay, nói:
- Nhà ngươi dắt con bò, còn hắn ta thay ngươi khiêng võng.
Vừa nói, quan huyện vừa bước lại võng và nằm xuống với gương mặt sáng ngời, thỏa mãn.
Nguyễn Công Trứ nói với người lính lệ:
- Hãy nghe lời quan lớn. Già này vẫn còn sức để khiêng quan huyện đi hành hạt mà.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ kê vai khiêng vị quan huyện. Độ chừng mươi thước, người lính lệ thả dây mũi
bò, chạy lại giành lấy cây đòn khiêng, nói như khóc:
- Cố để con. Cố già rồi. Nếu quan lớn bắt tội, con xin chịu hết. Cố bước ra đi.
- Chuyện chi mà rùm beng vậy? – Quan huyện hỏi lớn.
Lúc ấy có vài người qua đường, và một thư sinh dừng lại, chắp tay chào hỏi Nguyễn Công Trứ:
- Bẩm lạy Cụ Lớn! Cụ Lớn đang khiêng ai thế?
Dường như đã nghĩ ra, quan huyện lệnh hạ võng, bước xuống, một tay chống nạnh, một tay chỉ vào ông già nhà quê, hỏi:
- Ông già nhà quê này là ai mà các người làm rối lên thế?
Người thư sinh lễ phép thưa:
- Trình quan lớn, đây là cụ Binh bộ thượng thư trí sĩ, một bậc hưu quan có danh vọng và phẩm tước lớn
nhất Hà Tĩnh này. Nếu quan lớn bắt cụ khiêng võng, thì bà con chúng tôi ở đây xin quan lớn cho phép khiêng thế. Ơn đức ấy, chúng tôi không dám quên.
Tiếng nói của người thư sinh chưa dứt, vị quan huyện run rẩy như người bị bệnh kinh phong, nhưng vẫn còn nhớ chắp hai tay lạy như tế sao.
- Bẩm lạy cụ lớn. Con đến nhậm chức ở qúy huyện mới được vài ba ngày, chưa có dịp tới yết kiến cụ lớn. Thế mà, nay còn lại phạm lỗi với cụ lớn, xin cụ lớn mở lượng khoan hồng xuống phước tha cho con nhờ.
Người hiếu kỳ mỗi lúc một đông, và ai nấy cũng đều lấy tay che miệng cười ra chiều vui thích lắm. Nguyễn Công Trứ đỡ vị quan huyện trẻ tuổi hách dịch đứng dậy, ôn tồn nói:
- Già này nào dám bắt tội quan huyện. Quan huyện hãy đứng dậy. Khi nãy, quan huyện bắt tôi khiêng quan huyện tới đây, thì bây giờ quan huyện khiêng trả tôi về chỗ cũ. Còn nhúm cỏ non, quan giật ném lên đầu tôi, thì quan huyện cố mà lượm lại để tôi cho con bò của tôi ăn. Tuy nó là loài vật, nhưng nó có nghĩa.
- Con xin khiêng cụ lớn tới đâu cũng được, xin cụ lớn tha thứ những lỗi lầm vừa qua.
Thấy Nguyễn Công Trứ đưa tay vuốt râu, ngẩng mặt lên trời như chẳng hề đoái hoài tới lời cầu xin, vị quan huyện qùy xuống, nắm chặt cánh tay buông thõng của ông, năn nỉ:
- Bẩm lạy cụ lớn, con lỡ nóng tính mà mắc lỗi với cụ. Con hối hận lắm, mong cụ lớn đại nhân đại lượng
thương hại con là đứa hậu sanh lỡ mồm lỡ miệng...
- Quan huyện đứng lên. – Nguyễn Công Trứ lần nữa đỡ viên quan huyện dậy, nói tiếp: - Ông đã hầu cửa Khổng sân Trình, thi đỗ cử nhân, được bổ nhậm chức quan tri huyện, dạy lễ nghĩa cho dân, chẳng lẽ ông không biết xỉ, đức, tước là thiên hạ tam tôn hay sao ? Cứ cho rằng tôi quê mùa dốt nát, nhưng cái đầu bạc trắng của tôi cũng xứng vai cha chú của ông chứ ? Ông ném nắm cỏ lên mái đầu bạc của tôi, ông có thấy lương tâm cắn rứt không ? Ông phải nhớ rằng, làm người cái tâm là qúy nhất, còn mọi thứ chỉ là thân ngoại chi vật. Đối với người già như tôi, ông còn hành hạ như vậy, huống gì những người dân đen. Nay, nếu tôi vô tình dung thứ cho ông thì tôi mang tội "trợ Kiệt vi ngược" (ý nói, giúp kẻ ác làm xằng bậy).
Nghe tới đó, viên tri huyện mặt trắng bệch không còn chút máu, hạ giọng năn nỉ:
- Bẩm lạy cụ lớn. Tôi cũng như con út của cụ, lỡ dại một lần, xin cụ làm phước tha cho. Tôi còn mẹ già...
- Thôi, được rồi, ông đứng lên đi. Lẽ ra, tôi báo lên đường quan tỉnh Hà Tĩnh chuyển trình về bộ Lại và triều đình xét xử để làm gương cho những viên quan lại xấu xa, hiếp đáp lương dân vô tội. Nhưng, ông đã biết nghĩ tới mẹ già, thế là còn chút lương tâm. Tôi mong rằng, sau này mỗi lần ông làm việc gì cũng nên nghĩ tới mẹ hãy làm. – Nguyễn Công Trứ vuốt râu cười, nói tiếp: - Bây giờ quan huyện không ngại khiêng trả tôi về chỗ cũ chứ?
Đúng là chết đi sống lại, viên quan huyện mừng rỡ, lạy tạ Nguyễn Công Trứ rồi kê vai vào đòn khiêng, mời Nguyễn Công Trứ bước lên võng.

Những người hiếu kỳ ra về mà lòng vui như mở hội và thầm khen cụ Thượng Trứ xử sự đúng mực của kẻ bề trên. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà cả vùng Hoan Châu ai cũng biết chuyện cụ Thượng Trứ cho viên tri huyện Nghi Xuân một bài học nhớ đời. Và cũng chỉ vài tháng sau, huyện Nghi Xuân đã đón nhận vị quan khác. Không biết vì tỉnh thần Hà Tĩnh biết chuyện mà hoán đổi vị quan tri huyện ấy, hay vì vị quan tri huyện ấy tự thấy khó lòng ở lại mà có thể làm việc có hiệu quả, nên vận động xin đi. Mỗi người mỗi ý tùy theo khoa ăn nói của người kể chuyện. Nhưng ai ai cũng muốn địa phương mình có được một vài người như cụ Thượng Trứ.
Ngẫm nghĩ lại có nhiều việc chưa đúng lắm, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn thấy mình xử sự phải đạo. Có lẽ nhờ thế mà dường như chẳng ai ghét bỏ ông. Nhân dịp mừng thọ bát tuần, nhân dân huyện Kim Sơn phái người mang lễ vật và câu đối mừng:
Hoan quận hương chi khôi, cái thế văn tài kiêm võ lược
Kim Sơn địa dĩ tích, thiên thu miếu hưởng hựu triều phong
(Hoan quận Hương đỗ đầu, cái thế văn tài kiêm võ lược
Kim Sơn đất mở rộng, nghìn thu miếu hưởng lại triều phong)
Nhân dân Tiền Hải cũng nhớ ơn ông:
Văn võ tuyền tài, danh trọng nội triều ngoại quận
Điền trù thực ngã, công cao Tiền Hải, Kim Sơn
(Văn võ tài gồm hay, danh trọng đối nội triều, ngoài quận
Ruộng nương đất mở rộng, công cao tại Tiền Hải, Kim Sơn)
Những vị thân hào hai huyện còn cho ông biết, những câu đối ấy được nhân dân khắc vào tấm gỗ sơn son thếp vàng đặt vào miếu thờ dù ông vẫn còn tại thế. Ngoài ra, bà con còn chạm bức hoành phi "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn) để nhớ ơn ông đã đem cơm áo lại cho họ. Nguyễn Công Trứ không biết nói gì hơn là cám ơn và mong họ lo tận lực làm ăn để ngày một giàu hơn, con cháu được ăn học nhiều hơn.
Thân bằng văn hữu ở Hà Tĩnh, Nghệ An không đến được thì gửi câu đối chúc mừng:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu
Phong lưu đáo lão thế gian vô
(Trong thiên hạ vốn có người sự nghiệp kinh đời như Cụ
Giữa thế gian nào có kẻ phong lưu mãn kiếp như Ngài)
Hoặc:
Minh thế văn chương thiên hạ hữu
Nhứt sinh khảng khái thế gian vô
(Văn chương cái thế như ông, trong thiên hạ còn có đôi kẻ
Khảng khái suốt đời như Cụ, giữa thế gian không có một người)
Nguyễn Công Trứ còn đang đắm chìm trong những câu những chữ của các vế đối, thì người nhà chạy vào báo có quan Tổng đốc Võ Trọng Bình tới. Nguyễn Công Trứ vui vẻ ra mặt. Ai chứ Võ Trọng Bình là người chơi được. Tuy đỗ tiến sĩ, làm tới chức Tổng đốc, nhưng gia cảnh Võ Trọng Bình chẳng hơn gì ngày chưa xuất chính. Thời gian qua, Võ Trọng Bình hết lòng vì nước vì dân, không hề tơ hào, đục khoét của cải dân lành. Võ Trọng Bình ít tuổi hơn ông, nhưng ông coi như một người bạn. Qúy nhau vì đức, mến nhau vì tài. Ngó thế chứ gần năm rồi, hai người có gặp mặt nhau đâu. Mà lần trước cũng chẳng có ai tính trước.
Ngày ấy, trên đường viếng cảnh chùa về đã xế chiều, Nguyễn Công Trứ định bụng sà vào quán bên đường cho bò nghỉ chân, trước khi tách đường thiên lý rẽ vào làng, thì thấy một đoàn người khá đông, có mang cờ, lọng, trống, chiêng và phường bát âm, võng đòn cong cán... từ bên kia sông đang qua đò đi về phía Nam đến địa phận tỉnh Hà Tĩnh. Hỏi ra, Nguyễn Công Trứ mới biết họ đang đón quan tân Án sát Nghệ An về nhiệm sở.
Thì ra thế !
Đi đầu đám rước là một viên cai lính Giản đội mũ đỏ, quần áo cũng có nẹp đỏ, tay cầm loa gọi lớn:
- Mọi người đi đường hãy tránh về một bên để cho đám rước quan lớn rộng đường đi.
Ai nấy đều dạt sang một bên. Nguyễn Công Trứ cũng xuống khỏi lưng bò và dắt sang một bên đường. Nhưng tiếng hô của viên cai lính Giản cứ rổn rảng vào tai mọi người, cộng với sự hiếu kỳ của những gnười đi đường, của bọn trẻ con... làm cho con bò của ông tuôn chạy. Nguyễn Công Trứ sải bước, chụp kịp sợi dây tróng, song con bò không chịu đứng yên, nên giữa người và bò cứ dùng dằng ở giữa đường.
Thấy vậy, người lớn thì lo sợ cho ông, còn bọn trẻ con lại khoái chí vỗ tay cười hô hố. Sự nhốn nháo ấy khiến cho con bò của Nguyễn Công Trứ càng sợ, càng trì kéo với chủ.
- Ông già này bạo gan nhỉ? Ông dám cản đường rước tân đường quan đi phải không? – Viên cai lính Giản
quát.
Nguyễn Công Trứ ôn tồn thú thật:
- Không phải thế đâu, anh nó ạ. Con bò của già vì sợ quá mà đâm ra hư hỏng, chớ già này nào dám để
mang tội phạm tất.
Càng lúc đám rước càng tới gần, viên cai lính Giản cũng hốt hoảng xô Nguyễn Công Trứ một cái rồi chạy lại trình với quan Án sát đang nằm bệ vệ trên võng đòn cong có hai người lính đi kèm với hai cây lọng xanh che bóng mặt trời.
- Bẩm quan lớn, con có bổn phận dẹp đường cho đám rước quan lớn về nhiệm sở, nhưng tới đây có một ông già cùng con bò cản đường, con dẹp không được. Bất đắc dĩ con mới đẩy ông già vào lề, thế mà ông ấy ăn vạ không chịu ngồi dậy.
Trong lúc đó, Nguyễn Công Trứ được bà con đỡ dậy, xoa bóp chân tay, hỏi han ông bị đau chỗ nào, có
thấy nguy hiểm lắm không. Nguyễn Công Trứ chưa kịp cám ơn bà con, thì quan Án sát đã cho lính khiêng võng tới gần, lớn giọng quát:
- Tên lão phu thảo dã nào mà dám vô lễ, vô hạnh đến thế ? Lính đâu, bắt lão già lại dẫn về dinh Án sát Nghệ An, ta sẽ chiếu luật xét xử đích đáng để răn những kẻ điền phu dã tốt khác ỷ tuổi già mà làm càng làm bậy, khinh khi phẩm tước triều đình.
Lệnh vừa ban, hai người lính tới kéo Nguyễn Công Trứ ra khỏi những vòng tay run sợ của những người dân ven đường.
Quan Án sát tiếp tục ra lệnh:
- Tiếp tục thi hành nghiêm chỉnh phận sự dẹp đường.
Nguyễn Công Trứ thực tình năn nỉ mấy người lính:
- Quan Án sát nói thế chứ bắt già này về làm gì. Các anh thương cho tôi về nhà, trời cũng sắp tối đến nơi
rồi. Mũi dại lái mang, nhưng con bò chớ phải con người đâu mà biết được cái gì đáng làm, cái gì không đáng làm. Lần nữa, xin các anh tha cho.
- Không được đâu bố ơi. Bố phải thương tụi con. Tụi con còn cha mẹ, vợ con. Rủi thời về tới tỉnh đường, quan lớn hỏi bố, thì tụi con biết ăn nói làm sao. Bố chịu khó đi theo tụi con và chắc chắn bố được tha sớm thôi.
Nghe mấy người lính nói mà thương. Nguyễn Công Trứ cùng đi với họ về dinh quan Án, nhưng không quên dắt theo con bò.
- Bố đi một mình được rồi, còn con bò để tụi con dắt cho. Nếu mệt, thì bố cứ lên lưng bò mà ngồi.
Nguyễn Công Trứ cám ơn lòng tốt của những người lính trẻ.
Đến tỉnh thành Nghệ An cũng vừa lúc mặt trời lặn. Mấy người lính không biết tính sao với ông già và con bò. Bàn tới tính lui, họ dẫn Nguyễn Công Trứ và con bò vào tạm gửi nhà lao để sáng sớm mai tới nhận ra và dẫn trình quan Án sát.
Trong lúc Nguyễn Công Trứ và con bò vàng nằm trong ngục, thì tên quan Án phải bận rộn thù tiếp các quan phủ, huyện và các ty, tào cùng hàng văn thân, tổng lý trong tỉnh chờ chực ra mắt tân đường quan từ lúc chiều. Họ vui vẻ bên chén rượu và những câu chuyện đãi bôi, quên kẻ điền phu dã tốt bị bắt ở dọc đường vì tội vô lễ với quan lớn.
Sáng ngày sau vừa nghe tiếng trống hầu, hai người lính áp giải Nguyễn Công Trứ và con bò vào ngục chiều qua, vội vội vàng vàng chạy vào nhận lãnh những mong sớm đưa ông hầu tân quan.

Ra khỏi ngục thất, họ thấy quan Án trong chiếc áo xanh rộng thùng thình đang nhanh bước về phía dinh Tổng đốc. Họ lắc đầu thở dài:
- Bố xui quá. Quan Án đang bận yết kiến quan Thủ hiến theo lệ định. Kiểu này, sớm lắm thì chiều tối, bố mới gặp được quan lớn.
Nguyễn Công Trứ cười, nói:
- Cám ơn hai anh lo lắng cho già này. Hai anh hãy giữ hộ con bò để tôi chạy theo quan Án, họa may ngài xét xử sớm cho tôi.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ cất bước chạy theo khiến hai người lính thót ruột, đứng nhìn và lắc đầu than:
- Đúng là trâu già chẳng nệ dao phay.
Họ rất muốn cản ông lại, nhưng lại sợ gây cảnh ồn ào trong buổi đầu diện kiến của quan Án với quan Thủ hiến, nên họ đành chôn chân tại chỗ.
Quan Án sát cứ xăm xăm đi về phía dinh Tổng đốc, không hề biết phía sau mình có một ông già lẽo đẽo chạy theo.
Gần đến dinh Tổng đốc, quan Án thấy quan Thủ hiến đương đứng trên bậc tam cấp nhìn xuống, liền gật đầu chào mấy cái. Nhưng quan Án lấy làm lạ không hiểu tại sao quan đầu tỉnh không chịu chào đáp lễ mà cứ đăm đăm nhìn ở đâu đâu như không hề thấy mình đang đến trước mặt.
Theo ánh mắt của vị quan đầu tỉnh, quan Án quay lại phía sau mới hay sau mình còn có một ông già nhà quê đang bước thấp bước cao. Mặc ! Quan Án tiếp tục bước lên tam cấp vái quan đầu tỉnh. Nhưng lần nữa, quan đầu tỉnh làm như chẳng thấy ông mà vội vàng bước xuống dìu ông già và đưa vào phòng khách, thưa chuyện rất ư lễ độ.
- Trới xanh có mắt. Lâu nay, tiểu đệ cứ mong có ngày cụ lớn qua chơi để hàn huyên tâm sự. Nhưng càng trông càng bặt tin. Tiểu đệ gửi mấy tờ thư, cụ lớn cũng không thèm phúc đáp, khiến tiểu đệ cứ lo sức khỏe của cụ.
- Cám ơn tôn huynh còn nhín chút thì giờ nhớ tới lão già này. Già này có chết cũng thấy thỏa lòng.
- Cụ lớn cứ nói gở. Hôm nay cụ lớn qua đây, lại vào giờ này tại sao không cho tiểu đệ biết để tiểu đệ cho
người đón rước ?
Lúc đó, quan Án sát cũng đã vào phòng khách. Nguyễn Công Trứ hớp một ngụm trà, nói:
- Tuổi trời ngày một đè nặng, nên già này cứ như gà què ăn quẩn cối xay, rất mong tôn huynh lượng tình miễn chấp. Hôm qua, lão già vô tích sự này trên đường về làng thì gặp phải đám rước tân quan lớn đây. Tiếng loa gọi, tiếng trẻ con cười giỡn và người người đang vội vã nép vào lề đường, khiến con bò của già sợ quá vụt chạy. May nhờ già còn lanh tay chụp được dây tróng, nhưng ai ngờ cái may hóa cái rủi. Người và bò cứ dùng dằng giữa đường, khiến tân quan tức giận lệnh bắt giải già về đây. Có vậy chúng ta mới gặp nhau chứ dễ dầu gì. Thế là trong cái rủi lại có cái may.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ đứng dậy cung tay cám ơn quan Án sát:
- Tội của già, xin quan lớn xử sau. Trước mắt, già cám ơn quan lớn đã tạo điều kiện cho chúng tôi tái ngộ.
Quan Tổng đốc Võ Trọng Bình nghe vậy, hốt hoảng hỏi:
- Cụ lớn bị áp giải qua đây? Như vậy, suốt đêm qua, cụ lớn nghỉ ở đâu, ăn ở đâu? Người ta đối đãi với cụ
ra sao ?
- Cả đêm, già này được ký giam tại lao xá qúy tỉnh, chịu nhịn đói từ chiều qua tới bây giờ. Còn muỗi và rệp thì khỏi phải nói. Bọn chúng cứ quấy rầy mãi, nên già này nào có ngủ nghê được gì.
Tổng đốc Võ Trọng Bình đỏ mặt, trừng mắt về phía quan Án sát, nói:
- Quan Án có biết cụ già này là ai không ? Đây là cụ Binh bộ Thượng thư trí sĩ Nguyễn Công Trứ, một vị danh thần và trọng thần của triều đình. Chẳng những hàng đốc phủ (Tổng đốc và tri phủ – những chức quan đầu tỉnh) chúng tôi phải tôn trọng cụ, kính nhường cụ, coi cụ như bậc sư trưởng, mà ngay cả đức hoàng thượng cũng qúi mến và ưu đãi cụ. Đã mấy lần, kể cả các tiên vương hoàng triều ân ban lụa là, tiền bạc cho cụ, bởi cụ là vị công thần có nhiều sự nghiệp huy hoàng, huân danh rực rỡ đối với dân với nước.
Tổng đốc Võ Trọng Bình hớp một ngụm trà, nói tiếp:
- Quan Án được lệnh trên hoán bổ tới đây, chưa đạp chân lên đất Nghệ An, chưa có hành động nào có lợi cho dân sở tại mà đã ngang nhiên hành hạ một vị lão thần vào hàng tuổi thúc phụ, xâm phạm đến danh vọng và thân xác của Người. Như vậy là quan Án đã khinh thường phẩm tước triều đình và sắc phong của hoàng đế. Hành động của quan Án vừa rồi quả thật không xứng đáng là một vị đường quan cầm cán cân công lý ở tỉnh hạt Nghệ An này – tỉnh hạt xưa nay vốn là một trọng trấn trong nước.
Quan Án sát tái mặt, vái lạy quan Tổng đốc và “kẻ điền phu dã tốt", ra chiều biết lỗi.
Tổng đốc Võ Trọng Bình khoát tay:
- Nay tôi không dám nhận một vị quan cao cấp trông coi về hình ngục và án tiết tỉnh Nghệ An lại là người hách dịch và không biết đạo như thế. Tôi xin giao hoàn quan Án "lai kinh hậu cứu" về tội vô cớ hành hung và hạ ngục một vị công thần của triều đình.
Nói xong, Tổng đốc Võ Trọng Bình sai người coi về tào Lại soạn thảo giấy tư về bộ Lại để giao hoàn quan Án sát trở về kinh đô. Nghe tới đó, quan Án sát mặt đã tái còn tái hơn, ấp a ấp úng vái lia lịa mà không nói được câu nào.
Tổng đốc Võ Trọng Bình gạt ngang:
- Quan Án đừng vái nữa mà hèn người. Việc quan làm, quan phải chịu. Quan hãy trở về dinh Án sửa soạn hành lý để trở về kinh đô.
Nguyễn Công Trứ lại bắt đầu thấy áy náy trong người. Ông bèn lên tiếng:
- Kính thưa quan lớn Tổng đốc An Tĩnh. Quan Án này có những sở hành quá đáng đối với tôi – một người có tuổi vô tội, và là một trọng thần, nên quan lớn tức giận mà xử sự như thế là hợp lý. Nhưng xét cho kỹ, quan lớn đây không biết tôi, dù tội đã rõ. Theo tôi, quan lớn nên vì tuổi già của tôi mà tha cho quan Án, chỉ mong trong thời gian trấn nhậm ở đây, quan Án hãy vì con dân Nghệ An mà xử sự đúng mực là phước lắm rồi.
Nghe Nguyễn Công Trứ nói vậy, quan Án sát vái tạ, nói theo:
- Cụ lớn dạy chí phải. Tôi còn gia đình, còn bầy con xin quan lớn xét lại. Về đây chưa ấm hơi mà đã lai kinh hậu cứu, coi như đường công danh của tôi tới đây đã hết. Xin quan lớn rộng lòng dung thứ. Ơn ấy tôi xin ghi tâm khắc cốt.
Nguyễn Công Trứ tiếp tục nói thêm vào và sau đó vị quan Án được trở về dinh nhậm chức.
Tài thật, thế cũng gần một năm rồi...
- Hay quá! Hay quá! Tiểu đệ muốn mừng tôn huynh câu đối mà nhìn câu đối của tôn huynh, tiểu đệ không dám múa búa trước cửa Lỗ Ban.
Quan Tổng đốc Võ Trọng Bình lớn tiếng xởi lởi từ ngoài cửa.
Mọi việc đã qua cứ chập chờn trong trí khiến Nguyễn Công Trứ như mê như tỉnh. Nguyễn Công Trứ cầm tay Võ Trọng Bình nói:
- Qúy lắm ! Qúy lắm ! Cái hay cái dở không thành vấn đề. Tôn huynh tới đây là tấm lòng chớ đâu phải tới để tranh hơn tranh thua chuyện văn hay chữ tốt đâu.
Võ Trọng Bình vẫn đứng đó và đọc đi đọc lại câu đối của Nguyễn Công Trứ viết khi tròn tuổi tám mươi:
Thật là may, công đăng hỏa có bao nhiêu. Theo đòi nhờ phận, lại nhờ duyên. Quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen. Nào cờ, nào biển, nào mão, nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào ngựa tía dù xanh. Kẻ anh hùng mà trong hội kiếm cung, khắp trời Nam biển Bắc cũng phong lưu, mùi thế thử chơi xem đã thỏa.
Thôi thì chớ, kiếp phong trần chi bấy tá. Ngất ngưỡng chẳng tiên, mà chẳng tục. Hầu gái một đôi cô, hầu trai ba bốn chú. Này trà, này thơ, này cờ, này kiệu, này rượu nồng dê béo, này đàn gảy hát hay. Trai chí khí đã ngoài vòng cương tỏa, lấy nước trí non nhân làm trí thức, tuổi trời thêm nữa cũng là hay.
- Thôi được rồi, mời tôn huynh vào dùng chén rượu nhạt.
Võ Trọng Bình cười hề hề ra chiều khoái trá với câu đối và sai người khiêng câu đối của mình vào.
- Đố tôn huynh, tiểu đệ viết gì mừng thọ bát tuần của tôn huynh ?
Nguyễn Công Trứ vuốt râu hồi lâu, nói:
- Càng già càng lú lẫn, chắc tôn huynh lại cười mỉa tuổi già mà còn ham vui chứ gì ?
Võ Trọng Bình bước lại gỡ tờ giấy hồng điều với nụ cười thú vị.
Người người có mặt đều ồ lên khi thấy những nét chữ như rồng bay phượng múa:
Trực dục lăng tiêu tri kính trúc
Khả ư hàn tuế kiến thương tùng
(Thẳng đám trời cao hay trúc cứng
Vào năm rét lớn thấy tùng xanh)
- Cám ơn tôn huynh.
Viết vậy là mọi người biết Thượng thư Võ Trọng Bình trọng Nguyễn Công Trứ lắm. Nguyễn Công Trứ cũng biết vậy và không thấy có gì phải xấu hổ với những lời khen tặng ấy.
... Nguyễn Công Trứ lại thấy khó thở. Ngươi hầu thiếp và đứa cháu nội vội đỡ ông lên. Trong lúc đó, bên ngoài, người người đang chộn rộn. Ông biết nhưng không thể nào hỏi được. Đứa cháu nội tinh ý chạy ra, rồi chạy vào cho ông biết, hai đứa con trai của ông từ kinh về vừa tới cùng với thị vệ mang đồ phúng của hoàng thượng.
À, thì ra sự chộn rộn ấy là mọi người lo bày hương án để nhận đồ phúng viếng của nhà vua.
- Thầy ơi, chúng con đã về đủ cả. – Người con trai lớn của ông, nâng câu đối của vua Tự Đức đến trước mặt ông. – Thầy còn có đọc được không? Tả hữu nghi văn nghi võ, Tử sinh danh tướng danh thần.
Nguyễn Công Trứ nhếch môi cười, và... buông xuôi hai tay.
Tiếng trống cầm canh trên chòi gác huyện lỵ huyện Nghi Xuân đã báo sang canh. Đó là ngày mười bốn tháng mười một năm Mậu Ngọ. Cái lạnh của tháng trọng đông như rúc vào xương, như cứa vào da thịt mọi người, nhưng họ thấy không đau, không lạnh bằng sự ra đi của một con người.
Vũ Gia
Theo http://www.vnmilitaryhistory.net/








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Lời Tạ Lỗi Muộn Màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ l...