Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Nho tướng Nguyễn Công Trứ 1

Nho tướng Nguyễn Công Trứ 1
Chương 1
Trời đã vào khuya, Nguyễn Công Trứ ngồi đó với ngọn đèn và dòng châu phê còn tươi rói: Nay khanh đã suy nhược nhiều lắm rồi, trẫm không muốn lấy việc binh cách mà tần phiền kẻ lão thần. Đức Kim thượng đã hiểu ông; các quan ở Hà Tĩnh đã hiểu ông, thương ông... nhưng lại chẳng hiểu gì ông. Tang bồng là cái nợ, làm trai chi sợ áng công danh. Ông không còn trai trẻ nữa. Tuổi của ông, Đỗ Phủ còn chạy mặt (Đỗ Phủ có câu thơ: Nhân sinh thất thập cổ lai hy – Người sống 70 tuổi xưa nay hiếm), tử vi cũng phải loại ra hàng hai thập niên rồi chứ ít đâu. Song còn sống là ông còn nợ với núi sông. Quả là Trần ai, ai dễ biết ai.
- Khuya lắm rồi, tướng công vào nghỉ.
Người hầu thiếp trẻ khoác lên vai ông chiếc áo bông, đề phòng cảm lạnh.
Vẫn tư thế ngồi ấy, Nguyễn Công Trứ co tay lên cầm lấy bàn tay thon mềm của người vợ trẻ:
- Nàng cứ vào ngủ tiếp đi. Đêm nay, ta thấy khó ngủ quá.
Người hầu thiếp ôm chặt lấy ông, gục đầu lên vai ông, nói nhỏ:
- Thiếp sợ tiếng cú kêu đêm lắm. Không có tướng công bên cạnh, thiếp cũng chẳng tài nào ngủ được.
Nguyễn Công Trứ thở dài thật khẽ, đứng dậy cùng người hầu thiếp vào phòng nghỉ.
Nhanh thật! Mới đó, mới đây mà đã gần mười năm hương lửa. Tân nhân dục vấn lang niên kỷ, Ngũ thập
niên tiền nhị thập tam (Vợ mới hỏi chàng bao nhiêu tuổi – Năm mươi năm trước, tớ hăm ba). Gần mười năm! Ghê thật! Thời gian ấy cũng đủ biến biển xanh thành ruộng dâu, huống gì tuổi trời. Cái tình, cái nghĩa so mà khó. Đã có nhiều người phụ nữ đến với ông, cho ông những đứa con và một lòng chung thủy cho tới ngày trở về với cát bụi. Nhưng cũng không ít người, ông sẵn sàng giúp họ sang thuyền khác. Với ông, chuyện tình cảm mà cố tìm cách trói buộc nhau chẳng ích lợi gì. Không thương, không yêu nhau, thì cũng đừng thù ghét nhau để khổ một đời. Cái tình là cái chi chi, Dẫu chi chi cũng chi chi với tình. Ông lại thở dài và mỉm cười trong đêm tối.
Người hầu thiếp nghiêng mình, ôm choàng lấy ông.
- Tướng công chưa ngủ sao ? Tướng công có bài thơ nào, đọc cho thiếp nghe với.
Nguyễn Công Trứ khẽ nhớm dậy. Người hầu thiếp hiểu ý, vội đẩy chiếc gối bông vào cho ông được ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, dựa vào thành giường. Trong đêm tối, ông kéo nhẹ người hầu thiếp ngả vào lòng, e hèm lấy giọng:
Tao ở nhà tao, tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước chân đi.
Không đi mi nói rằng không đến,
Đến thì mi nói đến làm chi.
Làm chi ta đã làm chi được,
Làm được ta làm đã lắm khi.
Người hầu thiếp vùng vằng, nhõng nhẽo:
- Tướng công lại nhạo thiếp nữa rồi. Chuyện cũ mà!
Nguyễn Công Trứ cười thầm trong đêm, đưa bàn tay xoa nhè nhẹ trên mặt người hầu thiếp.
Thời gian tựa cánh chim bay. Mới ngày nào được Đức Khâm thượng thuận cho về hưu, ông ung dung đây đó với bầu rượu túi thơ và con bò vàng đủng đỉnh. Ông “che miệng thế gian” bằng bài thơ tứ tuyệt viết bằng vôi trên tấm mo cau:
Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn,
Lợm mùi giáng chức với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Đâu đâu, người ta cũng chỉ che miệng cười và chẳng một ai trách cái ngông của ngài Uy Viễn tướng công.
Bởi từ lâu, ai ai cũng đều biết chí nguyện của ông: Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo, Thảnh thơi thơ
thạp rượu bầu. Nhưng sự thật ra sao chỉ mỗi mình ông biết, mỗi mình ông hay. Nàng hầu thiếp đang nằm trong vòng tay của ông đây là người mà ông quyết cưới cho bằng được. Vì, cô là người phụ nữ duy nhất làm tổn thương lòng tự ái của ông. Với ông, xướng ca cũng là một nghề như bao nghề khác mà ông luôn qúi trọng. Trong một bữa ca trù, ông đã sửa hai câu thơ của Văn Thiên Tường không phải để làm vừa lòng người đẹp, mà là sự thật lòng của ông: Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ, Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh (Người đời ai chẳng có nghề, Cốt sao ghi được tấm lòng tốt lưu truyền trong sử sách). Thế mà, cô đào trẻ dám bỡn cợt ông, chẳng coi ông vào đâu. Dĩ nhiên, đưa đúng hai câu thơ của Văn Thiên Tường vào bài hát nói của ông sẽ hợp hơn, đúng hơn và không hỗ thẹn với người đi trước. Nhưng ông muốn những người như cô hiểu rằng ông không xem cô là hạng "xướng ca vô loại", chớ nào phải ông không biết, không hay. Và đây là chầu hát, chớ có phải ghi vào sách vở lưu truyền cho đời sau đâu. Hay ông đã già quá chăng ? Bố chánh tỉnh Hà Tĩnh Hoàng Nho Nhã còn phải tặng ông câu đối: Sự nghiệp kinh nhân, thiên hạ hữu / Phong lưu đáo lão, thế gian vô (Sự nghiệp làm người ta sợ, thiên hạ có / Già còn phong lưu như vậy, thế gian không), huống gì cô. Trẻ người, non dạ ư ? Cũng có hể, nhưng cũng không thể vậy được. Sự bực tức đưa bước chân ông trở lại xóm ả đào với Bài ca ngất ngưởng:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng
Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi tiên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tây kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khi chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào đường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều, ai ngất ngưởng như ông!
Nhìn ra cái nhíu mày của cô đào trẻ khi lướt qua bài hát, nhưng ông giả vờ không thấy. Ông nghĩ, đây là lần đầu và cũng là lần cuối "tỏ tình" bằng cả cuộc đời mình. Và nếu thất bại cũng chẳng thể trách ai. Nhưng lúc giọng ca vàng của cô đào trẻ cất lên, ông đã nhếch môi cười thú vị.
Nghe tin ông cưới hầu thiếp, không ai là không bàng hoàng.
... Trong trần thế duyên duyên nợ nợ
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành
Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần là một với mình là hai
Càng già càng dẻo càng dai.
Thế mà... Ông thở dài, đỡ người hầu thiếp ngồi dậy.
- Đốt đèn lên, ta sẽ thay nàng viết mấy lời tự tình.
Hiểu tính tình của ông, người hầu thiếp không một lời than trách. Nàng thắp đèn, mài mực và lo nấu cho ông ấm trà.
Tiếng gà gáy sáng, thì cũng vừa lúc ông buông bút xuống, húp ngụm trà đặc sánh, thơm lừng từ tay người vợ trẻ. Ông hiếng mắt nhìn người vợ trẻ đọc đi đọc lại bài ca trù chưa ráo mực, gật gù ra chiều thích thú. Ông lấy bàn tay khẽ gõ nhịp lên bàn, và giọng người hầu thiếp cất lên:
Buồn sực nhớ đài trang cảnh cũ
Nhớ trượng phu trong dạ bàng hoàng
Mái Tây sơn sương tỏa mấy lần
Thân cái nhện không vò mà rối
Chỉn tại tơ hồng trêu quấy nỗi
Há rằng dây đỏ ghét ghen chi
Chốn cô phòng năn nỉ với cầm thi
Đường viễn hoạn ngõ thấu tình chăng nhẽ
Trong trần thế sầu lây mấy kẻ
Giòng Hà Đông thêm cám cảnh cho ai
Xin cho trời đất lâu dài
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru ?
Thấu tình chăng kẻ trượng phu?
- Đúng là Uy Viễn tướng công! – Người hầu thiếp đặt tờ giấy xuống bàn, ôm chầm lấy ông và siết một cái thật mạnh rồi... buông ra ngay.
Nguyễn Công Trứ lại thở dài, nhìn người hầu thiếp thoát ra khỏi phòng lo công việc cho ngày mới. Gần đây, nhiều lúc ông thấy có lỗi với nàng. Chính chút tự ái vặt cuối đời, ông đã trói buộc cuộc đời của nàng. Đã có lần ông đặt vấn đề cho nàng tự do bay nhảy. Nhưng nàng đã từ chối và giận hờn ông. Có chồng thì phải theo chồng; Chồng đi hang rắn hang rồng phải theo. Cái đạo lý ngàn đời ấy đã ăn sâu vào trong máu thịt của nàng, biết làm sao mà gỡ. Trước đây, ông rất tự hào về chuyện ong bướm, bướm ong. Chắc ông là người duy nhất trên đời này có câu liễn phúng vợ:

Nguyệt tỉ bất tu sầu, khang phụ thùy năng thiên tuế hạc
Diêm vương như hữu vấn, lão phu do phiến Ngũ hồ chu
(Chị Nguyệt chớ nên buồn, vợ tấm cám mấy người nghìn tuổi thọ
Diêm vương như có hỏi, thuyền lão này đang mải Ngũ hồ chơi)
Nhưng để được gì ? Thân phụ của ông tuy chỉ có mỗi một mình ông là con trai, nhưng lại đạt được chí nguyện của Người. Còn ông ? Trai gái dẫy đầy hàng ba chục đứa, mà nào có được gì đâu. Nhờ ảnh hưởng của ông và cũng nhờ vào những ngày ông chưa xuất chính, người con trưởng của ông (Nguyễn Hy Cát) mới được làm Cẩm y thị vệ hiệu úy tại Ty Thanh lại. Nguyễn Công Ngạc cũng chỉ đến Tú tài và đang làm hậu bổ ở Kinh. Những trai gái còn lại chẳng đâu vào đâu. Con đông làm gì, nếu chúng cứ cố sống để mà sống. Tội nghiệp ! Trót sinh ra thì phải có chi chi, Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu. Cái chí ấy, ông không truyền được cho con.
Người hầu thiếp trẻ bảo ông là kẻ ích kỷ, quả chẳng sai. Ông chỉ lo cho mỗi phần ông. Ông mãi lo lo "vẫy vùng cho hết đất" mà quên đi trách nhiệm làm cha. Nhìn lại bầy con cháu bây giờ, ông chỉ thấy còn người con trai Nguyễn Công Huân và đứa cháu nội Nguyễn Công Trường (con của Tú tài Nguyễn Công Ngạc) là có thể nối được chí ông, nhưng... đã trễ lắm rồi. Qũy thời gian không cho phép ông đào luyện một đứa trẻ nên người. Thôi, còn sống ngày nào, ông tìm cách phả chút hồn của mình vào cho con cháu, may ra chúng không làm xấu mặt tiền nhân.
Nguyễn Công Trứ thở dài buồn bã, khẽ ngâm:
Việc đời đã chắc chắn đâu,
Lỡm lờ con tạo một màu trêu ngươi.
Hóa nhi đa hí lộng,
Đúc chuốt ra rồi bắt bẻ làm sao.
Khéo gán phần những việc đâu đâu..
Chương 2
Kẻ thì cho tin lành. Người thì cho tin dữ. Giặc châu chấu đã dẹp xong ! Nguyễn Công Trứ ngồi trầm ngâm bên chén rượu, không biết nên vui hay nên buồn khi nhận những dòng tin ấy.
Chu Thần Cao Bá Quát bị tử trận dưới cờ Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu, Thuấn / Mục Dã, Minh Điền hữu Vũ, Thang (Ở Bình Dương, Bồ Bản không có vua Nghiêu, vua Thuấn (thì) ở Mục Dã, Minh Điền có Vũ Vương, Thành Thang nổi dậy lật đổ Kiệt, Trụ) trên mảnh đất Yên Sơn (Sơn Tây), kể ra cũng đáng buồn – cái buồn của chút tình riêng.
Hiện nay, triều đình cho truy bắt những người có liên quan đến đám nghịch tặc, thậm chí phải đốt cho kỳ hết những áng thơ, văn có dính dấp tới họ. Chết ! Kiểu này thì con cháu dòng họ Cao sẽ không còn, và cái làng Phú Thị hiền lành, lắm người tài hoa ấy cũng sẽ ngóc đầu không nổi ít ra cũng bốn năm thế hệ.
Nguyễn Công Trứ lật lại đống thơ, văn của những quan khách đã đến mừng ông, chia tay với ông nhân
ngày ông được về hưu (1848). Nhìn nét chữ như rồng bay phượng múa với dòng lạc khoản: Lễ bộ hành tẩu Cao Chu Thần kính bái, Nguyễn Công Trứ thấy bùi ngùi muốn khóc.
Ngày ấy, đơn xin về hưu của ông được nhà vua châu phê, ông làm bài thơ Thất thập tự thọ, và đã được thân bằng cố hữu, các quan trong triều, các quan lại có dịp đến kinh đều có đến mừng và họa. Nguyễn Công Trứ đọc lại bài xướng của mình:
Nhựt đối nhi tào tự giải di,
Kim ngô bất tự cố ngô thì.
Tùy cơ khối lỗi chiêu nhân tiếu,
Trục ký niên hoa giới cổ hi.
Lão thực phất kham trang diện mục,
Anh hoa an dụng nhiễm tu tì.
Tự tàm hào mạt hồn vô trạng,
Tiếu sái Hồng Sơn hữu thị phi.
(Nhìn trẻ thường ngày tự mỉm môi,
Nay ta khác hẳn lúc xuân thời.
Áo xiêm trò múa cười bao độ,
Ngày tháng thoi đưa tới bảy mươi.
Đã biết mặt mày cằn cỗi thật,
Cần chi son phấn điểm tô hoài.
Thẹn mình công trạng không may mảy,
Phải, trái Hồng Sơn cũng nực cười).
Đọc lại bài xướng ngày nào thú thật ! Nguyễn Công Trứ nghĩ thế rồi ngâm lên lần nữa sau hớp rượu tê tê đầu lưỡi.
Nguyễn Công Trứ đưa mắt liếc khắp các bài họa của bạn bè và dừng lại bài họa theo nguyên vận của Cao Bá Quát:
Quần sơn Nam vọng độc chi di,
Dao tưởng tiên sinh vị lão thì.
Tự cổ anh hùng ngộ đa dị,
Tức kim xỉ đức kiến chân hi.
Thường đa thế vị chung tu tửu,
Cấm đoạn sương hoa bất thượng tì.
Văn đạo hồng phong dục hồi thủ,
Khởi ưng Lục thập cửu niên phi.
(Non Nam nhìn tới mỉm đôi môi,
Tưởng nhớ tiên sinh lúc thiếu thời.
Những kẻ anh hùng riêng mỗi cảnh,
Mấy ai xỉ đức được như Người.
Rượu nhờ tẩy sạch bao mùi tục,
Râu cắm không màng những phấn bôi.
Nghe nói Hồng phong nay trở gót,
Lẽ nào sáu chục chín năm sai !)
Đúng là bậc tài hoa! Chỉ mỗi câu kết bài thơ là nói được tất cả. Khen đấy mà cũng chê đấy. Đa thọ đa nhục cụ ơi. Bảy mươi tuổi mới chịu về hưu thì làm sao khỏi có nhiều lầm lỗi. Tham quyền cố vị như cụ, thật chẳng mấy người. Hay ! Hay lắm lắm, Chu Thần ạ. Nhưng cái hay, cái giỏi ấy, Chu Thần đã đem dùng không đúng chỗ rồi. Nguyễn Công Trứ vừa rung đùi khẽ ngâm, vừa ứa nước mắt.
Qua bài xướng của ông, mỗi người họa lại đều gửi gắm một nỗi niềm cho ông. Bài họa chữ có, nôm có, song trong thâm tâm, Nguyễn Công Trứ vẫn thích bài họa của Chu Thần. Lúc này, nghĩ lại... tội nghiệp.
Tại sao ở đời vẫn còn lắm người tưởng hễ biết thơ văn là biết tất cả, kể cả việc kinh bang tế thế ? Sợ thật ! Từ thời Tiền Đường, Viên Mai từng đỗ tiến sĩ, từng lĩnh chức tri huyện và cũng đã từng nói: Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch. Lập thân tối hạ thị văn chương (Mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc. Lập thân thấp nhất ấy văn chương). Dĩ nhiên ở đời, không thiếu người thăng quan tiến chức, quyền nghiêng thiên hạ chỉ nhờ vào vài ba cuốn sách, dăm bảy bài thơ. Trịnh Khải vì thơ hay mà làm nên tể tướng. Và cũng chính ông ta tự mỉa mai: "Tôi mà làm được tể tướng thì cuộc đời này như thế nào rồi, không nói đã rõ". Thế mà...
Nguyễn Công Trứ lại chép miệng thở dài. Khôi phục nhà Lê ư ? Thực ra, nhà Lê có còn gì đáng để khôi phục ? Ngay từ năm 1533, Nam triều được dựng lên. Nam triều là triều Lê, nhưng quyền bính thực sự đã nằm hết trong tay Nguyễn Kim. Tháng 5 năm Ất Tỵ (1545), Nguyễn Kim bị một hàng tướng của nhà Mạc – tức Bắc triều – là Dương Chấp Nhất, hạ độc chết. Từ đó, tất cả quyền bính của Nam triều lọt hết vào tay người con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Vua Lê ngay từ thời ấy có khác gì con bù nhìn đâu. Thậm chí, những ngày cuối của triều Lê, thân sinh ông là Đức Ngạn Hầu vẫn trở về làng cũ sống với ruộng vườn cho đến hết đời, kia mà. Lê Duy Cự là cái gì mà Chu Thần phải theo để làm khổ cả dòng họ, cả xóm làng.
Nói cho công bằng, triều Nguyễn hiện giờ có gì không phải với Chu Thần ? Khoa thi năm Tân Mẹo, Minh Mệnh thứ mười hai (1831), trường Thăng Long lấy hai mươi cử nhân. Chu Thần đỗ nhì sau Giải nguyên Đào Huy Phúc, người xã Thượng Hiệp, huyện Đan Phượng. Nhưng sau đó, bộ Lễ xét lại và cho Chu Thần đỗ cuối bảng. Điều đó có thật, nhưng cuối bảng vẫn là cử nhân, vẫn được bổ dụng, chứ nào vứt bỏ ai đâu. Tam thập nhi lập, và anh ta mới hai mươi hai tuổi vẫn là trẻ, quá trẻ so với ông ngày nào.
Bước vào quan trường, Chu Thần đã là Hành tẩu bộ Lễ cũng như ông ngày ấy (Hành tẩu Sử quán) chớ nào thua kém gì. Trong lúc đó ông đỗ Giải nguyên, chớ nào chỉ đỗ nhì rồi cho xuống cuối bảng như Chu Thần đâu. Và ông nhớ không lầm, chẳng bao lâu, Chu Thần được đặc cách thăng Lang trung, còn ông phải những... bốn năm. Hồ Hằng Tánh, người xã Phú Mỹ, huyện Diên Phước, đỗ Phó bảng khoa Giáp Thìn, Thiệu Trị thứ tư (1844) cũng làm quan tới chức Lang trung rồi về, chớ nào phải ai muốn làm gì thì làm. Dễ như làm ruộng, thế mà phải chịu một nắng hai sương, cày sâu cuốc bẫm, hạt đã xám lá gai và chỉ qua một đêm trời hại là không còn một hạt nấu cháo, huống gì tước lộc triều đình. Còn gì nữa nào ? Sơ khảo trường thi. Phải rồi. Chu Thần được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, khoa Tân Sửu (1841). Rắc rối bắt đầu từ đây. Nguyễn Công Trứ tin lòng Chu Thần sáng tợ như gương. Nhưng ai biết được ! Dám lấy muội đèn chữa văn cho hai mươi bốn quyển thi trong khoa này là quá lắm lắm. Nếu bảo, trí rộng giữ mình an, thì Chu Thần còn kém lắm. Lạ gì những anh nôm hay mà chữ dốt. Với ông, đã thực tài, thì những chuyện vặt vãnh của trường qui cũng dễ đi qua. Học tài thi phận chỉ là cái cớ để an ủi cũng như mượn nhang đèn khấn vái chư thần.

Ngày ấy, sau khi bị phát giác, Chu Thần bị khép vào tội giảo giam hậu (thắt cổ chết nhưng hoãn thi hành, giam lại đợi lệnh). Song triều đình mến tài văn chương của Chu Thần mà buộc đi dương trình hiệu lực ở Giang-lưu-ba (Gia-các-ta) đái công chuộc tội. Phúc bảy đời, còn đòi gì nữa. Phái bộ đi Giang-lưu-ba ngày ấy, ai không biết danh Thánh Quát. Và ai nỡ lòng nào bắt Thánh Quát dâng trà, hầu rượu. Thậm chí, hai năm ngồi trong ngục, Thánh Quát vẫn được đem theo tiểu đồng lo miếng ăn, giấc ngủ kia mà. Trọng dụng đến mức ấy, chẳng lẽ chưa đủ sao ? Đặt điều này ra, không phải ông bênh vực cho triều đình, song cái gì cũng phải có ranh giới nhất định, chớ không thể vì chút tình riêng mà muốn nói gì cứ nói để những người hiểu chuyện, hoặc ngày sau con cháu cười chê.
Cuối đời, ông muốn ngông nghênh đôi chút để vơi nỗi buồn thầm kín mà ngoài ông ra không còn ai hiểu được. Ai ơi, xin chớ có cười, Chỉ che lỗ miệng những người thế gian. Nói thì nói thế, chớ ông sợ "miệng thế gian lắm”. Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ. Sử sách không ghi, song lòng người nhớ mãi. Thú thật, ông đã biết sợ, mà nào có ai biết ngoài ông.
Giáo thụ phủ Quốc Oai nhỏ lắm sao? Nguyễn Tường Phổ, người xã Cẩm Phô, huyện Diên Phước, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ hai (1842) và là con của Binh bộ thượng thư Nguyễn Tường Vân, Phó tổng trấn Bắc thành chớ phải con nhà dân dã đâu, thế mà đến cuối đời cũng chỉ làm đến Giáo thụ phủ Điện Bàn.
Thôi, cứ cho rằng, vì dân vì nước, Chu Thần theo Lê Duy Cự chống lại triều đình, thì phải ngẫm lại Lê Duy Cự đã làm được gì cho dân cho nước ? Dựng lại mồ ma một triều đại không còn chút thực quyền những mấy đời, thì có nên chăng ? Nếu là tôi trung, là kẻ sĩ đứng trong trời đất, Chu Thần phải đem cái tài cái đức của mình ra phục vụ, hiến những kế sách hay làm cho dân giàu nước mạnh. Đằng này, ông chưa thấy Chu Thần hiến được một kế gì ngoài những áng văn thơ than trời trách đất, thương xót chung chung. Dân nghèo, dân đói ư ? Quan tham, quan nhũng ư ? Đã gọi là xã hội thì làm sao tránh khỏi những điều ấy. Và chính vì những điều ấy, có những điều ấy mới giúp kẻ sĩ thể hiện tài năng của mình, chớ ai cũng giàu, cũng sang, "bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng", thì kẻ sĩ làm gì ? Tọa thực, sơn băng. Thiên tai, dịch bệnh, triều đình cũng chỉ giúp ngặt chớ đâu thể giúp nghèo. Vua quan cũng có công việc của vua quan, chớ ai ngồi không mà thụ hưởng đâu?
Dân nghèo, dân đói quả có thật, song đâu đã đến nỗi người ăn thịt người như sử sách Trung Hoa ghi chép. Chu Thần lẽ ra phải biết điều ấy hơn ai hết. Muốn trị quốc thì trước hết phải tề gia, muốn tề gia thì phải tu thân, muốn tu thân thì phải chính tâm, muốn chính tâm thì phải thành ý, muốn thành ý thì phải cách vật trí tri. Đó là cả một quá trình gian nan, khổ công tu học cả đời kia mà.
Khi nghe tin Chu Thần theo Lê Duy Cự làm giặc, Nguyễn Công Trứ giận lắm, muốn dâng sớ xin đi dẹp ngay, nhưng nghĩ lại thấy cũng chẳng cần. Tài của Chu Thần mà làm Quốc sư, thì chẳng mấy ngày sẽ bị quân triều đình đánh tả tơi không còn manh giáp. Bởi ở chiến trường, không thể múa bút ngâm thơ. Chu Thần có thể là người thầy giỏi trong thời bình, chớ không thể là một nho tướng, một mưu thần ngồi trong trướng quyết định thắng bại ngoài chiến trận. Vả lại, Nguyễn Công Trứ cũng không muốn nhìn Thánh Quát bị đóng gông, hoặc chết trước mắt mình.
Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái
Quan Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên Nguyễn Bá Nghi có lần kể cho Nguyễn Công Trứ nghe câu đối dán nhà Thánh Quát khi làm Giao thụ phủ Quốc Oai. Ngày ấy, ông chỉ cười không nói. Theo ông, Chu Thần đã tự đánh mất mình từ đấy. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Nhưng thôi, chuyện đã rồi. Nghĩa tử, nghĩa tận. Thương chăng là thương cho dân làng Phú Thị, thương những người vô tội chết oan. Nguyễn Công Trứ thở dài, uống nốt chén rượu, đọc đi đọc lại bài thơ thất ngôn bát cú mà Chu Thần đã họa bài thơ ông làm khi về hưu. Tiếc thật ! Tiếc thật ! Nguyễn Công Trứ cuộn bài thơ bỏ vào ống cùng với những bài văn, bài thơ của bạn bè thay vì đốt bỏ theo lệnh của triều đình.
Tiếng muỗi cứ vo ve như trêu ngươi người khó ngủ. Nguyễn Công Trứ cứ thở dài thườn thượt. Những việc có liên quan đến Cao Bá Quát cứ như lởn vởn trước mắt ông, trong tâm trí ông, cứ như mới ngày hôm qua, hôm kia. So với ông, Cao Bá Quát gặp may nhiều hơn gặp rủi. Khi Cao Bá Quát được vời vào Kinh, sung làm chức Hành tẩu bộ Lễ, ai ai cũng tấm tắc khen quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử đúng người, khen phúc ấm gia đình Chu Thần. Những tháng ngày ở kinh thành, nhờ bạn bè, Nguyễn Công Trứ mới có dịp biết đến bản mật tấu ngày nào giúp Chu Thần qua cơn bỉ cực.
Tuy đã lâu và cũng chỉ đọc qua một lần, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn còn nhớ như in tấm lòng của kẻ sĩ đối với dân với nước:
"Sĩ phu trong đời tuy hiếm nhưng không phải là không có.
Cây trầm, cây quế trong rừng dẫu khó tìm, nhưng vẫn chưa là hết hẳn. Phàm người có chút học thức ai cũng chả mong có chút tước lộc của triều đình ? Kẻ cầm gươm lăn lóc ở chiến trường, há chẳng phải vì chữ "Phong Hầu Bái Tướng" ? tên cuồng sĩ Cao Bá Quát tài học xét ra thật uẩn súc cao siêu, nhưng tính tình lại kiêu sa ngạo mạn. Triều đình chủ trương đào luyện nhân tài theo đường lối đạo đức của thánh hiền, không vì tiếc rẻ một nhân tài mà để giảm thanh danh của Khổng giáo. Sách có chữ: "Như hữu Chu công chi tài, chi mỹ, sử kiêu thả lận, kỳ dư bất túc quan dã dị" (Dù có tài giỏi như ông Chu công, mà còn giữ thói kiêu ngạo và biển lận thì cái tài giỏi kia là thừa).
Như vậy, triều đình không trọng dụng tên Quát thật là chí công, chí lí thay.
Nhưng ít lâu nay, thần được biết tên Quát vì bất đắc chí thành ra phóng đãng giang hồ, thường nay đây mai đó, khi quán rượu, lúc bến đò, dùng văn chương châm biếm người đời, lấy kinh sách mỉa mai thế tục.
Hành vi của Quát xét ra có hại đến thanh danh của giới sĩ phu, mà cũng có thể làm cho dân chúng hiểu lầm là triều đình quá ư bạc đãi nhân tài, coi nho gia như phường tục tử.
Thần trộm nghĩ, sách có câu: "Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hĩ" (Người quân tử chịu được cảnh nghèo túng, còn kẻ tiểu nhân khi nghèo túng tất làm bậy). Xem như tên Quát gia đình bần bách, ba gian nhà cỏ không đủ che nắng mưa, vài thửa vườn rau cơ cực, bữa cơm bữa cháo. Trên mẹ già tuổi ngoại thất tuần, rầu rĩ mong chờ lãng tử. Dưới con nhỏ tối ngày gào khóc thương nhớ phụ thân. Than ôi ! Hữu tài mà chẳng được dùng, ai oán con người bạc phước. Vô hạnh sao không tu kỷ, cơ hàn trói buộc văn nhân.
Thần ngửa trông lượng trên ban cho tên Quát chút ơn vũ lộ, trước là cho hắn yên thân nuôi nấng mẹ già, sau để cho hắn ra vào cửa khuyết, sợ uy trời mà bỏ bớt tính ngông cuồng" (Unesco Vietnam, VIII, tháng 12-1964).
Chuyện đời chẳng ai tính trước ! Nguyễn Công Trứ lại thở dài. Cái giá của kẻ không tự lượng sức mình lớn quá ! Nghĩ rằng Chu Thần không hiểu Kinh Dịch thì quá đáng, nhưng qua việc làm của ông ta thì rõ mười mươi. Nhưng chính Khổng tử trước khi trút hơi thở cuối cùng còn than tiếc với học trò: "Giá như ta được thêm ít năm nữa để học Dịch cho trọn vẹn thì không có điều sai lầm lớn", kia mà.
Gẫm lại bài hịch mà Chu Thần viết cho Lê Duy Cự công bố với tướng sĩ của mình trước giờ khởi nghĩa, Nguyễn Công Trứ không hiểu, đúng là không thể hiểu được Chu Thần.
"Hỡi các tướng sĩ:
Người xưa có nói: "Thiên chi sinh vật, tất nhân kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi". Nghĩa là trời sinh muôn vật, hễ vật nào có tài lực thì vun đắp cho tốt lên, vật nào kém hèn nghiêng lệch thì làm cho đổ nát đi. Lại có câu: “Bất tri mệnh vô dĩ quân tử giả”. Không biết mệnh trời không phải là quân tử.
Xét qua hai câu này thì phàm đã là kẻ thức giả tất phải biết cái lẽ "Thuận" và lẽ "Nghịch". Ở đời thuận hay nghịch đều do thiên mệnh, cho nên khi trời đã bày ra cảnh thuận, tức như vạch một con đường hay để người tài bồi vun đắp cho cảnh thuận mãi. Nhưng khi trời đã bày ra cảnh nghịch, khác nào gây sự hỗn loạn, nghiêng ngửa thì con người phải theo ý muốn của trời mà san phẳng nghịch cảnh. Do đó, ta có thể ngắm cảnh tượng của tạo hóa mà biết được việc trước sau, xét việc của người mà đoán được lẽ biến hóa của trời đất vậy.
Nay thử lần giở trang sử nước nhà để tìm hiểu thế nào là cảnh thuận, thế nào là cảnh nghịch, ngõ hầu
vạch một con đường chính nghĩa cho mọi người noi theo.
Kể từ khi họ Hồng Bàng lập quốc, dân ta đã có một hệ thống phong tục tập quán thuần mỹ, tình cha con, nghĩa vợ chồng được coi như căn bản của đạo lý. Trải qua đời Thục, đời Triệu, luân thường vẫn không bị xâm phạm mà còn vun trồng tươi tốt thêm. Như vậy có thể gọi là cảnh thuận. Đến khi đất nước biến chuyển, giang sơn bị lệ thuộc vào Trung Quốc, hệ thống luân lý cổ truyền bị làn sóng đô hộ biến thể nhưng vẫn chưa mất hẳn bản sắc, cho nên tới ngày nay, ở một vài nơi, ta còn thấy những tục lệ tốt đẹp của thời xưa. Kịp khi Ngô Vương Quyền đánh tan năm vạn quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng phục hồi độc lập cho đất nước, thì dân ta mới lại được sống trong cảnh thuận tiếp diễn qua các triều Lê, Lý, Trần... Nhưng vẻ vang hơn hết là vị anh hùng ở đất Lam Sơn đã nổi lên quét sạch giặc Minh mở một kỷ nguyên mới cho đất nước, tức như thay trời mà đem lại cảnh thuận cho dân tộc.
Xem như thế ta đã biết cảnh thuận và cảnh nghịch của lịch sử xen lẫn nhau, con người luôn luôn theo ý muốn của trời mà hành động, người và trời tương ứng, tương cảm với nhau, trong sự tạo nên vũ trụ vậy.
Giang sơn ta, cuối đời nhà Trần, như chiếc nhà mục nát chỉ rình đổ, họ Hồ lợi dụng thời cơ mưu việc thoán vị. Kế đến quân Minh mượn danh nghĩa phù Trần, giày xéo đất nước, tàn phá dân ta, bày ra những trạng thái vô cùng bi đát, thì tưởng trăm phần trăm ách nô lệ lại quàng vào cổ của hai mươi triệu dân Nam một lần nữa. Nhưng đáng mừng thay, Đức Lê hoàng ở Lam Sơn lấy nhân nghĩa mà trị được bạo tàn, vì nòi giống mà chịu đựng mười năm lao khổ, gây dựng được nền vương nghiệp tốt đẹp, đem lại cảnh “thuận” cho toàn dân suốt một trăm năm thanh bình thịnh vượng. Không ngờ họ Mạc làm phản, gây ra cảnh Nam, Bắc triều, chia thế lực với triều Lê ta, cam tâm cúi luồn Trung Quốc để tác oai ở miền Bắc. Rồi thì nghịch cảnh cứ tiếp diễn mãi, hết Trịnh, Mạc tranh giành nhau ảnh hưởng, lại đến Trịnh, Nguyễn chia giới hạn để cai trị, sự rối loạn càng nhiều, nhân dân đồ thán lưu vong đến cùng cực. Tuy nhiên đất đai này vốn của nhà Lê, công ơn của vị anh hùng Lam Sơn đối với quốc dân vẫn còn chói lọi như ánh sáng của vừng Thái dương, cho nên khi vua Tây Sơn kéo quân ra Bắc chỉ dám nói diệt Trịnh mà không dám xâm phạm đến một tấc đất của Lê triều. Ngờ đâu Nguyễn Phúc Ánh nhờ quân Pháp giúp sức đánh lại được Tây Sơn, không trả lại ngai vàng cho nhà Lê, lại tự lập làm vua, nói là nhà Lê không người thừa kế trực hệ.
Người xưa đã nói: “Phú dữ qui thị nhân thi, sở dục giả bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất sử dã", nghĩa là "Phú qúi thì ai cũng muốn, nhưng không lấy đạo mà được, thì không nhận". Nguyễn Phúc Ánh đã làm việc trái với lẽ phải, không giữ trọn đạo thần tử đối với nhà Lê, lại có tội đem người Pháp sang nước ta để sau này gây nhiều chuyện rắc rối. Nghĩ lại ba trăm năm vương nghiệp triều Lê vô cùng rực rỡ, thì ta không khỏi căm thù dòng dõi của Nguyễn Kim đã dại dột để cho ngoại bang xen vào nội bộ của nước ta chỉ vì tham chiếc ngai vàng. Đến khi đắc chí, lại bày ra nhiều trò báo oán nhỏ nhen, nào là quật chết hai đứa con vô tội của vua Quang Trung, đào mả ba anh em vua Tây Sơn lấy thủ cấp làm đồ đi tiểu, tàn sát con cháu những cựu thần nhà Lê đã hợp tác với quân Tây Sơn để chống lại cuộc xâm lăng của nhà Mãn Thanh. Hơn thế nữa, Ánh lại giết hại những người đã cùng giúp mình làm nên nghiệp lớn như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường... ưu đãi bọn Pháp-lan-tây, uốn lưng thần phục Trung Quốc là nước thù địch của ta, tóm lại Nguyễn Phúc Ánh đã có những hành động và tư tưởng phản bội lịch sử. Con là Minh Mạng lại dâm dật tàn ác hơn bố, giết chị dâu và cháu, san phẳng mộ của Lê Văn Duyệt và Lê Chất là những công thần đã chết, lưu đày thân thuộc của họ và tịch biên gia sản sung công. Kể từ khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi truyền đến con là Minh Mạng và cháu là Thiệu Trị, suốt thời gian bốn mươi lăm năm đế chế, dân tộc ta đã chịu bao nhiêu sưu cao, thuế nặng, ăn bữa tối lo bữa mai, lụt lội mùa màng trôi sạch, xóm làng, đường sá tiêu điều. Trong khi đó bọn tham quan ô lại ra sức bóp nặn lương dân, tụi giặc đói tha hồ đốt nhà cướp của. Than ôi ! Dân ta có tội tình gì mà trời đất gieo tai, rắc vạ như vậy ? So với thời thanh bình ở các triều Lê, dân ta dưới chính sách áp chế dã man của họ Nguyễn Phúc quả đã lâm vào tình trạng đảo huyền cơ cực.
Hỡi các tướng sĩ,
Cái gì tốt đẹp thì vun đắp cho tươi tốt thêm lên, cái gì nghiêng ngửa thì làm cho đổ nát đi. Nhìn vào kiến trúc xã hội ngày nay, thì tất cả nền móng xã hội chính trị, cơ cấu kinh tế, trạng thái sinh hoạt đều nghiêng lệch, chỉ rình sụp đổ. Trời đất, qủi thần đều oán giận bọn thống trị nên mới bày ra những thảm cảnh để trông thấy mà suy nghĩ về tương lai. Lúc này chúng ta phải theo ý trời mà hành động tiêu diệt cái triều đại đổ nát này và xây đắp một xã hội khác tốt đẹp và thịnh vượng hơn lên. Vả lại lịch sử của họ Nguyễn Phúc đã chấm dứt từ khi Thiệu Trị thở hơi cuối cùng, tên hôn quân Tự Đức là dòng dõi người ngoài mượn họ Nguyễn Phúc để lên ngôi vua đó thôi. Hơn nữa, trong trời đất, mọi vật đều biến chuyển không ngừng, có cái gì là tồn tại vĩnh viễn đâu, chiếc ngai vàng kia cũng là của chung thiên hạ ai có đức thì được, có phải riêng gì một họ ? Ta dòng dõi của đức Lê Thái Tổ đau xót vì những cảnh khổ mà toàn dân đã chịu đựng ngót nửa thế kỷ nay, nhất quyết phất cờ khởi nghĩa, nên mài sẵn gươm thiêng, đúc thêm súng đạn giải phóng đất nước khỏi sự áp bức của bọn phong kiến sài lang, xây đắp một xã hội công bình và nhân đạo.
Quân ta đi đến đâu, một lá rau, một hạt thóc cũng không tơ hào của nhân dân, dè dặt từng giọt máu, từng viên đạn, tôn trọng từng luống rau, nắm cỏ. Kẻ nào giết người vô tội phải đền mạng, bứt một bông hoa phải thường tiền, giẫm nát cây lúa phải phạt trượng.
Hỡi các tướng sĩ,
Tiếng trống khởi nghĩa đã bắt đầu rung lên trong cảnh đêm thu.
Lòng người đã thức tỉnh và vâng theo mệnh lệnh qủi thần. Hãy trỗi dậy cả lên ! Ai có dáo vác dáo, ai có gậy vác gậy, tiêu diệt hết bọn quan lại tham ô, san phẳng hết những bất công của thời đại và cương quyết phục hồi đất nước cho triều Lê.
LÊ DUY CỰ" (Unesco Vietnam, đd)
Nói người chẳng nghĩ đến ta. Ngay chữ nghĩa, ý tưởng trong lời hịch đã tự mâu thuẫn nhau rồi thì làm sao thuyết phục được ai. Không phải Chu Thần không biết, nhưng sự thật vẫn là sự thật, làm sao Chu Thần có thể đổi trắng thay đen. Thế mới biết, chữ nghĩa thánh hiền đôi lúc cũng có hạn. Và mọi chuyện nào có dễ dàng. Đã hiểu Kinh Dịch thì không ai làm vậy. Ngay thẳng, cương nghị và nhu hòa là ba đức tính cần thiết trong việc lãnh đạo quốc gia của đấng quân vương. Có ngay thẳng tức là có chí công vô tư mới thực hiện được vương đạo, mới điều hòa được Tam tài, mới đại diện được Vũ trụ để nắm vững những nguyên lý căn bản của thiên nhiên. Có ngay thẳng mới mong giải quyết công bằng hợp lý mọi việc trong xã hội khiến nhân quần có một cuộc sống trật tự, ấm no và hạnh phúc. Nhưng chỉ ngay thẳng thôi chưa đủ. Tiếp thế xử vật lại cần phải có khi cương khi nhu. Cương nhu là hai đức tính cần thiết của bất cứ ai, nhất là đấng quân vương. Cương đối với kẻ hèn kém. Nhu đối với người cao minh. Tùy nghi sử dụng cương nhu, có thế mới gọi là khôn khéo. Cái khôn khéo của đấng quân vương là vậy, chớ đâu phải vì mình mà đưa dân tới bờ vực thẳm. Ở đời, ai không muốn ăn sung mặc sướng, ai không muốn lên ngựa xuống xe, nhưng ai cũng có quyền ấy, ai cũng cầu được, ước thấy thì sẽ tai hại cho nhà cho nước. Đấy là hậu quả của cái đạo tiểu nhân khác cái đạo quân tử mà Dịch Hệ hạ chủ trương khi giải thích tại sao Dương quái nhiều Âm, Âm quái lại nhiều Dương. “Dương nhất quân nhi nhị dân, quân tử chi đạo dã. Âm nhất quân nhi nhất dân, tiểu nhân chi đạo dã" (Dương là một quân mà hai dân, đó là đạo của người quân tử. Âm một quân mà một dân, đó là đạo của kẻ tiểu nhân).
Nhưng chỉ có tam đức thôi cũng chưa đủ. Có tam đức rồi, đấng quân vương còn phải lo tới ngũ sự. Ngũ sự tức là dung mạo, lời nói, mắt trông, tai nghe, bụng nghĩ. Đây là năm việc cần thiết của đấng quân vương khi thế thiên hành đạo, mong theo được vương đạo, vương nghĩa, vương lộ.
Mắt trông, tai nghe để quan sát sự vật. Quan sát phải tường tận, không được cẩu thả. Mắt trông, tai nghe rồi bụng nghĩ. Suy nghĩ chín chắn để giải quyết mọi vấn đề, không hề lầm lẫn, hư hỏng. Tin chắc ở ý nghĩ rồi mới phát biểu ra lời nói. Có thế mới gọi là "tam tư nhi hậu hành". Lời nói phải là lời vàng lời ngọc, nghĩa là lời nói phải theo lẽ, phải rõ ràng chứ không được mơ hồ, mờ ám. Đấng quân vương há lại không biết “Một lời nói có thể hưng bang, một lời nói có thể táng quốc” đó sao? Cẩn trọng ở lời nói. Đứng đắn ở lời nói thì thái độ hẳn nghiêm chỉnh, dung mạo hẳn khiêm cung. Ai thấy cái dung mạo ấy, cái thái độ ấy mà chẳng kính qúi, tin yêu.

Dùng đức trị dân, dân mới cảm mến mà tuân theo. Không tốn một giọt máu, không phí một giọt mồ hôi mà thiên hành hạ hiệu, bốn bể một nhà, quốc thái dân an, thế mới gọi là bậc thánh. "Kỳ duy thánh nhân hồ ? Tri tiến toái tồn vong nhi bất thất kỳ chính giả, kỳ duy thánh nhân hồ ?” (Duy chỉ có đấng thánh nhân như thế thôi sao ? Biết tiến, biết lui, biết còn, biết mất mà chẳng để mất chánh đạo, phải chăng chỉ có đấng thanh nhân mà thôi ?).
Càng nghĩ, Nguyễn Công Trứ càng giận, càng buồn, nhưng rốt lại chẳng còn biết giận ai, buồn ai. Chữ nghĩa thánh hiền đã có, song học rồi hành lại càng khó hơn. Nhưng nghĩ cho cùng sửa mình là trọng. Từ vua đến dân nếu không nội tỉnh ngoại tu thì làm sao trở nên người đạo đức, sống trọn đời không rủi ro, không tội vạ. Nếu con người không tích cực làm ăn thì làm sao trở nên giàu có; không từ bỏ dục vọng, trác táng thì làm sao có thể khỏe mạnh, bình yên, sống lâu được. Và nếu mọi người tự biết bổn phận, khôn khéo mưu sinh, tìm cách tiến thủ, thì chẳng những tránh được lục cực mà còn hưởng được ngũ phúc một cách chắc chắn và lâu dài. Đức Khổng tử cũng đã có dạy: "Tự nhiên tự dĩ chí ư thứ nhân, nhất thí giai dĩ tu thân vi bản" (Từ đấng thiên tử cho đến kẻ thứ nhân, ai cũng đều phải lấy việc sửa mình làm gốc). Nhưng mà... Nguyễn Công Trứ lại thở dài, quờ tay cầm chiếc quạt nan, phất qua phất lại dưới cặp chân, rồi đập đập mấy cái vào ống quyển như muốn xua tan những ẩn ức, buồn thương...
Mỗi thời mỗi khác, mỗi người mỗi khác, song trong cái riêng bao giờ cũng có cái chung. Nếu so sánh cùng mục đích, thì Ức Trai có nhiều điểm đáng để đời sau học tập hơn Chu Thần. Là cháu ngoại của nhà Trần. Được nhà Trần nuôi ăn học từ tấm bé, cơm của nhà Trần nuốt chưa khỏi cuống họng, nhưng để đối phó với giặc Minh cướp nước, Ức Trai không theo Giản Định đế Trần Ngỗi và Trùng Quang đế Trần Qúy Khoáng mà theo phò hào trưởng Lê Lợi ở Lam Sơn. Khi thoát khỏi tay Trương Phụ, Nguyễn Trãi từng tâm sự với Trần
Nguyên Hãn:
- Kể về thanh thế thì không chỉ có cuộc dấy binh của Giản Định, Trùng Quang mới gọi là lớn. Và không phải tôi không có ý theo phò. Ngặt vì khởi binh đánh giặc làm làm một việc lớn. Mà mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Duy nhân nghĩa gồm đủ thì công việc mới thành được. Lẽ ấy, tôi không tìm thấy trong các cuộc khởi binh đánh giặc mà tôi biết. Ngay hai vị vương họ Trần, dẫu có danh tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân hết lòng giúp đỡ, đã có lúc lấy được Nghệ An, Thuận Hóa, nhưng thiếu chiến sách và nội bộ chưa gì đã mất đoàn kết. Khôi phục cơ nghiệp nhà Trần cũng được, nhưng ngày nay không còn ai xứng đáng với tiên triều. Lòng dân đã không còn mong thì sự nghiệp lớn sao thành?
Nhà Trần trị vì thiên hạ 175 năm. Vài năm cuối, Trần Thuận Tông (1378-1398) làm vua được chục năm thì bị cha vợ là Hồ Qúy Ly sai người bức tử, rồi đến con trai là Trần Thiếu Đế lên ngôi được hai năm
(1398-1400) bị ông ngoại (Hồ Quý Ly) cướp ngôi giáng làm Bảo Ninh Đại Vương, chứ chưa tai tiếng gì. Ngược lại nhà Lê, thì sau thời Hồng Đức đã hỏng. Lê Hiến Tông làm vua được bảy năm, Lê Túc Tông ngồi ngai vàng được sáu tháng. Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng... ai cũng bị giết sau khi ngồi ngôi vị chừng 5 – 6 năm. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi và chia ra Nam triều (nhà Lê), Bắc triều (nhà Mạc). Nhưng nhà Lê nào được yên. Tháng 5 năm Ất Tỵ (1545), Nguyễn Kim bị một hàng tướng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất bỏ thuốc độc giết chết. Từ đó, tất cả quyền bính của Nam triều lọt hết vào tay con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Cục diện vua Lê chúa Trịnh bắt đầu xuất hiện và xu hướng chung là vị trí của vua Lê đã lu mờ lại càng bị lu mờ hơn. Vị vua cuối đời là Lê Chiêu Thống cũng đã phải gửi nắm xương trẻ nơi xứ người. Và nhà Lê cũng đã truyền ngôi những 360 năm chứ ít ỏi gì nữa. Thực ra, chỉ có 11 vị vua đầu nối nhau trị vì 100 năm, tuy mạnh yếu không đều nhau, nhưng nhìn chung, đó là những vị vua của thời cường thịnh. Và từ vị vua thứ 12 (Lê Trang Tông) trở đi, quyền lực ngày càng bị thu hẹp và cuối cùng chỉ còn là danh nghĩa tượng trưng. Đã biết "trong trời đất, mọi vật đều biến chuyển không ngừng có cái gì là tồn tại vĩnh viễn đâu, chiếc ngai vàng kia cũng là của chung thiên hạ ai có đức thì được, có phải riêng gì một họ ?", thì có gì phải "nhất quyết phất cờ khởi nghĩa" ?
Đã là kẻ sĩ thì phải biết nhìn trước ngó sau, phải cân đong nặng nhẹ để xem nơi nào ta có thể gửi được chí mình, chớ không thể nhất thời nghe vài ba câu đầu môi chót lưỡi để không chỉ hại mình mà còn hại cả tông tổ, xóm làng. Tài như Trương Lương, Hàn Tín, thế mà kẻ thức thời phải đi tu, người không thức thời bị rã thịt làm mắm, huống hồ gì...
Vô kế ưu thiên hoàn tự tiếu
Khu khu văn mặc quả hà vi
(Thơ của Bùi Dương Lịch – Huấn đạo thời Cảnh Hưng, nhà Lê)
Tạm dịch:
Cười mình không kế lo trời sập
Bo bo sách vở được gì đâu.
Bên ngoài, gió vẫn rao rao thì thầm cùng cây cỏ. Nguyễn Công Trứ rung đùi ngâm ngợi mà lòng xốn xang.
Tiếng vạc lưng trời nhắc ông nhớ đến tuổi mình.
Nguyễn Công Trứ ngả người xuống trường kỷ, và lại vắt tay lên trán ôn lại chuyện đời, dù ông có cố muốn quên đi.
- Tướng công suy nghĩ hoài chuyện ấy làm gì. Tướng công thường nói việc gì đến sẽ đến...
- Ta biết, nhưng nàng bảo làm sao ta có thể yên giấc được. Dân lành vốn vô tội.
Thấy Nguyễn Công Trứ rưng rưng nước mắt, người hầu thiếp vỗ về:
- Thiếp hiểu nỗi lòng tướng công – vừa nói, người vợ trẻ dìu ông nằm xuống, kéo tấm chăn đắp ngang người ông – Thôi, tướng công chợp mắt một chút cho khỏe. Chu Thần sẽ được người đời phong anh hùng đấy, không có sao đâu.
Tưởng đâu giãi bày vậy, Nguyễn Công Trứ yên tâm dỗ giấc ngủ, ai ngờ ông lại ngồi bật dậy, nhìn người hầu thiếp trừng trừng.
- Thế nào là anh hùng? Thế nào là không anh hùng ? Anh hùng phần mình, còn thân tộc, xóm làng chết dở
sống dở, vậy có đáng anh hùng không ?
Người hầu thiếp lại đỡ ông nằm xuống, dỗ dành:
- Thiếp xin lỗi. Tướng công hãy cố quên mọi việc để thấy đầu óc thảnh thơi hơn.
- Cũng có thể... Cũng có thể... – Nguyễn Công Trứ lẩm bẩm và níu tay người hầu thiếp lại – Nàng đọc Kiều của Nguyễn Tiên Điền cho ta nghe.
Người hầu thiếp sẽ sàng ngồi xuống bên ông, khẽ thưa:
- Thiếp nghe mọi người truyền miệng rồi nhập tâm ít câu, chớ có đọc được bài bản như đọc thơ tướng công đâu.
- Nàng cứ đọc đến đâu hay đến đó. Ta rất muốn nghe.
Người hầu thiếp lấy giọng đọc:
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung...
Với giọng bổng trầm của đào hát, người thiếp trẻ cứ nghĩ mình đang hát ru và lấy làm mừng khi thấy cặp mắt của ông lim dim. Tuổi già hạt lệ như sương, nên thấy ông ăn ngủ được là nàng mừng. Ông còn sống ngày nào, nàng bớt cô quạnh ngày đó... Thấy ông thở đều, nàng định đi lo công việc, thì ông kéo tay nàng lại.
- Nàng thấy chưa ? Thái bình là thế, ấy mà vẫn có những nỗi oan, vẫn có một Thúy Kiều mưới lăm năm lưu lạc, vẫn có một Từ Hải “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo"... Vậy Từ Hải là anh hùng hay phản loạn? Triều Minh còn đáng tồn tại để chăn dân?
Người hầu thiếp giật mình, té ra ông lim dim đôi mắt là nghe nàng đọc Kiều, chớ có ngủ nghê gì đâu. Nhíu mày suy nghĩ một hồi, nàng nói:
- Chuyện triều ca thiếp không dám bàn. Nhưng Từ Hải là anh hùng, ít ra cũng anh hùng với Thúy Kiều, với những người đã toàn tâm toàn ý theo phò ông ta suốt một thời ngang dọc.
Nguyễn Công Trứ trầm ngâm một lát, nói như muốn chỉ cho mỗi mình mình nghe.

- Cũng có lý... Cũng có lý... – Nguyễn Công Trứ nhìn người hầu thiếp rồi nhìn ra bên ngoài, lẩm bẩm – Sinh vi tướng, tử vi thần. Ta mong Chu Thần sẽ là phúc thần trong lòng mọi người chớ không phải là ác thần. Nhưng...
Nói đến đó, dường như Nguyễn Công Trứ đã trút được phần nào nỗi lòng của mình dành cho Chu Thần nên
ông đã đi vào giấc ngủ dễ dàng.
Người hầu thiếp cũng thở dài thương cảm, nhẹ nhàng bước xuống bếp lo công việc của thường ngày.

Chương 3
Khí trời oi nồng, khó chịu. Vừa tắm xong đã lấm tấm mồ hôi. Nguyễn Công Trứ lấy tay vuốt mồ hôi đang rịn ra trên vồng ngực trai trẻ, rồi đứng dậy bước ra sân mong đón ngọn gió của trời đêm.
Trăng thượng tuần như vệt mày bạc treo lơ lửng trên nền trời sâu thẳm. Nguyễn Công Trứ ngả người trên chiếc võng tre mắc ở đầu hè, nhìn cây khế đứng thù lù như muốn tập trung tinh lực lắng nghe tiếng côn trùng rả rích.
Từ ngày thân phụ qua đời, Nguyễn Công Trứ thấy nhà trống vắng hơn và trách nhiệm làm người của ông cũng nặng nề hơn. Trăm dâu đổ đầu tằm. Cha mẹ chỉ có mỗi mình ông, thì biết than với ai. Cái ngông nghênh thành nết cũng từ chỗ "hũ mắm treo đầu giàn" này mà ra. Chiến tranh, loạn lạc và cái đói luôn rình rập mọi nhà, mọi người, nhưng ông vẫn được cơm no áo ấm, vẫn được học hành. Bây giờ nghĩ lại, ông mới thấy thương cha thương mẹ. Thì ra, cha ông có nỗi khổ tâm mà ông nào hay biết. Tiến vi quan, thối vi sư, cha ông được vậy là tốt là hay. Ý nghĩ ấy của ông đúng là nông cạn, trẻ con hết sức. Khi được làm chồng làm cha, đúng hơn khi được làm cha, Nguyễn Công Trứ mới biết cảnh nhà túng quẫn.
No thời ra bụt, đói ra ma,
Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta.
Khôn khéo chẳng qua thằng có của,
Yêu vì đâu đến đứa không nhà.
Ở đời mới biết cùng thời dễ,
Muôn sự cho hay nhịn cũng qua.
Cơ tạo có đi thời có lại,
Vạch vôi lấy đó mãi ru mà.
Phụ thân ông khẽ vuốt râu, lắc đầu:
- Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn (Gặp cảnh hoạn nạn thì xử sự cho hợp cảnh hoạn nạn). Nhưng đói cho sạch, rách cho thơm. Đời người không mấy ai không trải qua những cơn hoạn nạn, và mỗi lần ta vượt qua là mỗi lần ta lớn khôn thêm. Đã là người, nhất là kẻ sĩ đừng để cái nghèo làm cho hèn người, đừng để cái giàu sang làm hỏng nhân cách. Thầy già rồi, nhưng anh chưa nên người là cái lỗi ở thầy, song lực bất tòng tâm.
Thân phụ ông nén tiếng thở dài, dõi nhìn vào cõi xa xăm nào đó, rồi nói tiếp:
- Kể ra, anh cũng đã đủ lông cánh, đủ sức bay nhảy với đời. Dòng họ nhà này chỉ còn trông cậy vào anh. Phúc hay họa do anh quyết định lấy.
Ông Nguyễn Công Tấn đưa tay vuốt chòm râu bạc, nhẹ bước ra ngoài, miệng ngâm khe khẽ:
Thử địa biệt Yên Đan,
Tráng sĩ phát xung quan.
Tích thời nhân dĩ một,
Kim nhật thủy do hàn.
(Đất này biệt chú Yên Đan,
Tóc anh tráng sĩ tức gan dựng đầu.
Người xưa nay đã đi đâu,
Lạnh lùng sông nước cơn sầu chưa tan)
Thơ Lạc Tân Vương – Tản Đà dịch
Nguyễn Công Trứ thấy thân phụ nói không mấy sai, nhưng đã mấy ai làm được gì giữa thời buổi loạn ly này. Nguyễn Công Trứ rất tin vào bản thân và không mấy nôn nóng trên đường hoạn lộ. Ông không thể bì với thân phụ, hai mươi tuổi đã đỗ đầu Hương cống, hết làm Giáo thụ phủ Anh Sơn, đến tri huyện Quỳnh Lôi, rồi Tri phủ Tiên Hưng (Thái Bình), thăng Tham tán Sơn Nam. Cuộc đời của thân phụ ông những tưởng thẳng đường mà tiến bởi tài năng và đức độ. Nhưng cuộc đời đâu có đơn giản như bấm đốt ngón tay.
Chúa Trịnh ngày càng quá quắt và nạn kiêu binh càng làm cho dân tình thêm thống khổ. Vận nước đã đến hồi mạt rồi ư? Buồn chỉ để buồn chớ làm được gì hơn, ngoài những đêm thức trắng thở vắn than dài. Trai trung không thờ hai chúa, Gái chính chuyên không lấy hai chồng. Nguyễn Công Tấn gắng giữ đạo thần tử, thể hiện qua việc chăn dắt dân lành, còn mọi việc tới đâu hay tới đó, chớ ở đời chẳng ai bẻ nạng chống trời.
Năm Bính Ngọ (1786), nhà Tây Sơn từ phương Nam tiến quân ra phù Lê diệt Trịnh. Thực tâm, ông không mấy tin và đã lo sợ. Bởi quân nhà Tây Sơn đi tới đâu, quân tướng chúa Trịnh bỏ chạy tới đó. Mạnh ai nấy chạy, mong được thoát thân. Những tướng gọi là tài như Trịnh Tự Quyền, Đích Tích Nhưỡng... đều vứt cả thuyền bè, binh khí tháo chạy tán loạn, để chẳng mấy ngày quân Tây Sơn chiếm cả Thăng Long.
Chúa Trịnh Khải tự vận vì quân mình phản bội.
Đúng là vận nước đã hết!
Nhìn đứa con trai mới lên chín, Nguyễn Công Tấn muốn ứa nước mắt. Thương quá! Rủi thời gặp phải bề gì... Nguyễn Công Tấn không dám nghĩ tiếp, phó mặc cho số mệnh
Tin Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kết hôn với Công chúa Ngọc Hân rồi rút quân về lại phương Nam, Nguyễn Công Tấn chay tịnh bảy ngày, đặt bàn hương án ra trước sân tạ ơn trời đất. Cơ đồ nhà Lê chắc từ đây rạng rỡ, không còn nạn phủ chúa chuyên quyền. Đúng là ông trời có mắt. Nhưng tốt nhất, chẳng nên trách ai. Có khi đó là cái nghiệp mà con cháu nhà Lê phải trả. Ông sung sướng ra mặt và thấy đời đáng yêu hơn.
"Tôi nghe ngày xưa đức Thái Tổ mở mang ra nước Nam Việt, công đức như trời. Tôi tuy ở xa khuất tại miền biển phương Nam, song cũng là đất của đức Thái Tổ khai thác. Tôi vì giận kẻ cường thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn phò. Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để; còn đất của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không dám lấy. Tôi nghĩ rằng, nước ta đây mới dẹp yên, còn nhiều việc cần phải sửa sang, vì vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn phương đã phẳng lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua chấn chỉnh giường mối triều đình, cùng nước tôi đời đời kết nghĩa láng giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy" (Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, H, 1987, trang 153).
Đã là "đất của đức Thái Tổ khai thác” mà đòi "kết nghĩa láng giềng",   nghe chẳng xuôi tai. Nhưng vậy cũng là chí tình rồi. Đây chính là hồng phúc của nhà Lê. Và Nguyễn Công Tấn được cử làm Tham tán ở Sơn Nam.
Niềm vui ở những người như Nguyễn Công Tấn chưa đọng được bao lâu, thì mọi việc lại trở về với bài bản cũ. Vua Lê Chiêu Thống bất tài để cho các quan trong triều kết bè kết cánh. Họ buộc vua Lê Chiêu Thống rước Trịnh Bồng về phong làm An Đô vương. Và cung vua phủ chúa lại tiếp tục làm khổ nhân dân.
Điều Nguyễn Công Tấn suy đoán chẳng sai là bao. Vua Lê Chiêu Thống bí mật cho mời Nguyễn Hữu Chỉnh ra diệt Trịnh Bồng. Nhưng xong việc, Nguyễn Hữu Chỉnh quay lại chống Tây Sơn, muốn trở thành thứ nhà Trịnh thứ hai.
Đúng là loạn lạc!
"Ngồi trong trướng" Nguyễn Công Tấn âm thầm theo dõi thời cuộc và được biết, sở dĩ Nguyễn Hữu Chỉnh có hành động nghịch đạo như vậy chẳng qua tin vào lời xưa: "Hổ tự tây sơn xuất. Long tòng đông hải lai” (Hổ từ núi phía tây ra. Rồng từ biển đông đến). Chỉnh là người Đông Hải, anh em Nguyễn Huệ là người Tây Sơn, nên Chỉnh lấy làm đắc ý "tuân theo mệnh trời".
Nguyễn Hữu Chỉnh hí hửng chưa lâu, thì Tây Sơn đem quân bắc phạt. Tiết chế quận Nhậm (Vũ Văn Nhậm) tấn công như vũ bão, bắt giết cha con Nguyễn Hữu Chỉnh tại Mộc Sơn (Yên Thế – Hà Bắc). Vua Lê sợ quá, chạy về Hưng Hóa và trước đó đã sai nội thị Trường phái hầu Lê Quýnh bảo vệ Hoàng thái hậu, hoàng phi và "phù ấn bảo quốc" lên Lạng Sơn. Thái hậu đem nguyên tờ sắc phong và bảo ấn theo đường trạm chạy sang Tàu tâu lên triều đình nhà Thanh.
Vua Càn Long (nhà Thanh) sai Tuần phủ sứ Tôn Sĩ Nghị dẫn hai mươi vạn quân thu phục Thăng Long, lập vua nối ngôi. Vua Chiêu Thống được nhà Thanh phong làm An Nam Việt quốc vương. Nhà vua hạ chiếu kêu gọi mọi tầng lớp quan lại, dân chúng đứng lên diệt quân Tây Sơn.
Hưởng ứng chiếu Cần vương, Nguyễn Công Tấn được phong Đức Ngạn hầu. Ân tứ ấy lớn lắm. Nguyễn Công Tấn hi vọng lần này sẽ có dịp thể hiện rõ hơn đạo vua tôi để đền đáp ơn vua lộc nước. Nguyễn Công Tấn lo tích lương, luyện tập quân sĩ, sửa sang thành lũy phòng khi bất trắc. Thế rồi, tin tức hàng ngày đưa đến, Nguyễn Công Tấn càng lo, bởi toàn những tin chẳng tốt lành gì cho đại cuộc. Quân Tàu thì nghênh ngang cướp bóc, hãm hại dân lành. Vua tôi nhà Lê từ việc lớn tới việc nhỏ đều xin phép Tôn Sĩ Nghị. Nhục nhất, theo ông vẫn là việc những công văn, giấy tờ mà tất cả quan lại phải qùy xuống tiếp chỉ đều được ghi niên hiệu Càn Long. Vua hèn đã đành, bởi đó là việc của vua, chớ những người như ông cũng hèn nữa sao?

Nam quốc sơn hà nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Nước Nam sẵn có vua rồi, Đã định rành rành ở sách trời). Từ xa xưa, Lý Thường Kiệt đã nói vậy rồi, hà cớ gì phải qùy lạy, cúi đầu trước niên hiệu Càn Long ? Mà nói chi đâu xa. Mưu thần Nguyễn Trãi của Đức Cao hoàng Lê Lợi cũng đã dạy: "Nhớ Đại Việt ta từ trước, Thật là một nước văn hiến. Bờ cõi sông núi đã riêng, Phong tục Bắc, Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Mà hào kiệt không bao giờ thiếu".
Ông cha như thế, chẳng lẽ con cháu không học được mảy may ? Cơ đồ nhà Lê chắc kết thúc bởi kẻ cõng rắn cắn gà nhà, rước voi giày mả tổ. Lịch sử bao đời đã chứng minh điều ấy. Và trong lòng Nguyễn Công Tấn dấy lên những nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Trung quân, ái quốc ngó thế mà có lúc không dễ gì vẹn cả đôi đường. Nguyễn Công Tấn nhớ lại trong Kinh Thi có chép rằng: "Vua   Thành Thang khi khởi cuộc chinh phạt (chống vua Kiệt), trước hết chiếm đất Cát. Thiên hạ đều tin tưởng Ngài. Ngài đương chinh phục miền Đông thì đoàn rợ Di miền Tây phiền trách, tới chừng Ngài chinh phục miền Nam thì đoàn rợ Địch miền Bắc phiền trách. Họ trách rằng: Sao Ngài chẳng đến sớm nước ta. Dân chúng khắp thiên hạ mong chờ Ngài đến, như lúc trời hạn người ta không cho thấy mây và mống trời. Đến chừng Ngài kéo binh vào xứ họ, họ vẫn tự nhiên chẳng sợ sệt gì cả: Người đi chợ vẫn đi, người đương cày vẫn cày. Ngài giết những vị vua hôn bạo mà giải cứu cho nhân dân. Bá tánh đều mừng rỡ, dường như được mưa tuôn phải lúc”. Và ông sẽ làm gì, nếu những điều ông suy nghĩ trở thành sự thật ? Nguyễn Công Tấn cứ thở vắn than dài khi chỉ có một mình trước ngọn đèn đêm. Ông biết quyết định vội vàng trong lúc này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách của đứa con trai mà vợ chồng ông đã đặt hết niềm tin vào nó.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi, lấy hiệu Quang Trung, tiến quân ra Bắc. Dân chúng đất Bắc nói chung, Thái Bình, Sơn Nam nói riêng hầu như nô nức đón chờ. Và Nguyễn Công Tấn càng thấm thía lời dạy của mưu thần Nguyễn Trãi: Lật thuyền mới thấy dân như nước. Rõ ràng là chuyện Cần vương mà lâu nay ông khuyến dụ chẳng qua người người qúi ông mà vâng vâng dạ dạ, chứ thực ra lòng dân chẳng còn ai tin vào ông vua hèn, bầy tôi nhược.
Mạch suy nghĩ của Nguyễn Công Tấn dường như chưa dứt, thì đại quân của người anh hùng áo vải Tây Sơn giành hết thắng lợi này tới thắng lợi khác. Mấy chục vạn quân Thanh, kể cả Tuần phủ sứ Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín trốn chạy về Tàu. Những bậc hiền giả cao minh ông hằng kính trọng như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Nễ, Bùi Dương Lịch, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, v.v... sớm về với Tây Sơn. Ai cũng có cái lý cho riêng mình, nên ông chẳng trách buồn ai. Khi nghe bài chiếu Dụ cựu triều văn võ của Quang Trung: "Những người bị tù đều nhất loạt được tha. Những người trốn tránh đều không truy nã" thì Nguyễn Công Tấn cho rằng, đó là phép an dân, chẳng có gì cao minh cả. Quan trọng là thời gian. Hễ trước sau như một mới là bậc quân tử, đúng là kẻ thấm nhuần đạo thánh hiền. Thánh nhơn đã dạy: Quân tử đạo giả tam: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ (Đạo quân tử có ba điều: có nhân tức chẳng lo rầu, có trí tức chẳng lầm lạc, có dũng tức chẳng sợ sệt). Ông sẽ coi. Sống ỡ thác về, chẳng có gì phải lo sợ. Cùng lắm, ông sẽ hành động như Đức Khổng tử, chống gậy hát ngêu ngao: Thái Sơn kỳ đồi hồ, lương mộc kỳ hoại hồ, triết nhân kỳ suy hồ (Ôi non Thái bạt ngàn, lương mộc nát tan, triết nhân suy tàn). Nhưng trong thâm tâm, ông muốn nước nhà ổn định để đứa con trai của ông có điều kiện giúp ích cho đời. Cái tài của cậu Củng nhà ông sớm lộ rõ. Song với ông, cái đức mới là quan trọng. Đức thắng tài vi quân tử. Tài thắng đức vi tiểu nhân. Và đó là bổn phận của ông, của người cha biết lo cho tương lai con cái.
Và Nguyễn Công Tấn đã dốc hết kinh nghiệm ở đời, lẫn chữ nghĩa cho con. Nguyễn Công Tấn cố quên nhà Lê, nhưng mùa đông năm Qúi Sửu (tháng 10, Cảnh Thịnh thứ 1, 1793) được tin vua Chiêu Thống băng hà nơi đất khách, ông đã khóc. Có người cho ông biết, gia đồng của Phạm Như Tùng và Lê Huy Vượng có công khó nhọc với vua, nên được nhận làm con nuôi, đặt tên là Duy Khang. Trước giờ lâm chung, vua Chiêu Thống có di mệnh với các bề tôi và Duy Khang rằng: "Gặp khi vận nhà suy kém, không thể liều chết để giữ xã tắc, phải chạy sang đất người để khôi phục. Không ngờ lại bị người lừa dối để đến nỗi như thế này, không còn biết làm sao được. Ngày sau, các người trở về nước nhà được, nhất thiết phải mang nắm xương tàn của ta về chôn ở nước nhà để làm cho chí của ta được rõ".
Đúng là đức nhà Lê đã hết, và biết đến bao giờ, rồi ai là người thực hiện được cái chí nhỏ nhoi của vị vua cuối cùng triều Lê? Ôi, chỉ chút đớn hèn mà trở thành kiếp ăn nhờ ở đậu... Bệ hạ ơi... Nguyễn Công Tấn gục đầu xuống bàn, nén tiếng khóc mà nước mắt cứ đổ, đôi vai già cứ rung...
Nắm xương tàn về quê cha đất tổ là đúng rồi, bởi cáo chết ba năm còn quay đầu về núi huống gì con người, nhưng "chí" gì được tỏ ? Chẳng có chí gì cả, bệ hạ ơi ! Con không được trách cha. Bề tôi không được trách thiên tử. Nhưng... vua hèn thì tôi nhục. Cũng là cái chết, nhưng có cái chết mà không chết, còn bệ hạ thì đã chết trong lòng mọi người từ khi bỏ nước ra đi. Thần khóc chưa hẳn đã khóc cho bệ hạ mà khóc cho đức của nhà Lê ta kiệt. Nếu cõi âm có thật, thần không biết bệ hạ, thậm chí cả hạ thần ăn nói làm sao với liệt tổ liệt tông...
Nguyễn Công Tấn mệt mỏi đứng dậy, từ từ đi lại bàn thờ đốt nắm nhang ra vái tứ phương.
Gà đã gáy sang canh, Nguyễn Công Trứ giật mình mới hay mình đã khóc. Nguyễn Công Trứ tự trách mình quá vô tâm vô tình để khi hiểu được cha thì cha đã ra người thiên cổ. Ông vùng dậy, quay vào thư phòng, khêu ngọn đèn dầu lạc, vung bút một hơi, rồi ngâm lên sang sảng như bao lần đọc trước mặt cha:
Vũ trụ chức phận nội,
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ "quân, thân" mà gánh vác.
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thời nát với cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế.
Người thế giả nợ đời là thế,
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung.
Riêng nhau hai chữ anh hùng.
Khí phách lắm, hào hùng lắm và cũng... chững chạc lắm lắm ! Nguyễn Công Trứ tưởng chừng như thân phụ đang mỉm cười, bằng lòng với chí định của con mình.
Bên ngoài, tiếng học bài của con, tiếng lợn trong chuồng đòi ăn và tiếng vo gạo của vợ... báo hiệu ngày mới đã về
Chương 4
Tròn nửa đời người, Nguyễn Công Trứ mới cảm nhận hết mùi cay đắng. Ngày đỗ đầu xứ sau một kỳ sát hạch Tiến Ích (Ngày xưa, chừng một năm, các trường Đốc học ở tỉnh, Giáo thụ ở phủ, Huấn đạo ở huyện, đều có mở các kỳ khảo hạch khả năng các sĩ tử để xem việc học hành có tiến bộ hay không. Những kỳ khảo hạch này gọi là hạch Tiến Ích) cùng với các thí sinh hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, Nguyễn Công Trứ thấy trước mắt con đường tương lai rộng mở. Có lẽ, ông là ông đầu xứ thường hay lê la với đám hát cô đầu, với những sòng tổ tôm, mạt chược. Thân phụ ông cũng có lúc la rầy, nhưng chứng nào tật nấy. Con một có cái hư của con một, con bầy có cái hỏng của con bầy. Và thân phụ của ông chỉ còn biết thở dài. Hỏng kỳ thi hương lần này do ông nhiều hơn là do số mệnh.
Ngày đỗ đầu xứ, ông đi hát xướng những mấy ngày liền, thân phụ ông đã đe nẹt:
- Anh nhớ rằng đỗ đầu xứ kỳ thi hạch Tiến Ích không là gì hết. So sánh chẳng có gì hay, nhưng nói cho anh biết, ngày bằng tuổi anh, thầy đã được quyền viết chữ sĩ có bộ nhơn kèm theo rồi, và với dòng họ cũng nở mày nở mặt. Anh đã nên bề gia thất, thầy không muốn quở mắng anh nhiều. Mọi việc ở đời nên biết dừng lại đúng lúc, đúng nơi. Anh nghiệm lấy mà sống để khỏi xấu mặt với tiền nhân.
Thật là bỉ mặt với tổ tông. Nguyễn Công Trứ cột chặt cửa thư phòng không để cho vợ con quấy rầy. Ông thẩn thờ nhìn vòng khói nhang chập chờn hư ảo trên bàn thờ gia tiên. Ông cầu xin tiền nhân chứng giám cho lòng ông. Lúc này, ông mới thấy hết cái tài hay chữ, cái danh đầu xứ vùng Hoan Châu (Nghệ An – Hà Tĩnh) đã hại ông. Và hình ảnh thân phụ như hiện về trong ông với nụ cười hiền từ nhưng không kém phần nghiêm khắc. Ông khẽ nhếch môi cười, vì ông hiểu được nụ cười của thân phụ. Ai không vui khi trồng cây được hái quả ngọt lành. Ngay từ nhỏ, ông đã được cho là người sáng dạ và thân phụ ông thường cười bằng mắt trước những lời khen của những người quen biết. Theo mẫu thân kể lại, thì năm Giáp Thìn, Cảnh Hưng thứ 45 (1784), quân lính kiêu căng, kéo bè kết cánh kéo vào tận phủ chúa đòi ban thưởng và đập phá dinh thự Tán quận công Nguyễn Khản (anh ruột Nguyễn Du). Thân phụ ông buồn lắm, nhưng còn nhờ vào đứa con trai thông minh dĩnh ngộ nên khuây khỏa nỗi buồn. Với mẹ, thì cậu Củng thời nhỏ cái gì cũng nhất thiên hạ. Và... Nguyễn Công Trứ thở dài, nhìn làn khói nhang khi mờ khi tỏ qua luồng ánh sáng dọi vào vách phên tre đã tróc cứt trâu.
Nhớ lại ngày ấy, hai cha con đi chơi, ngang qua cái cống được xây ghép bằng đá xanh, thân phụ của ông chỉ vào, nói:
Đá xanh ghép cống, hòn dưới chống hòn trên
Cậu bé Củng nhìn quanh và dừng lại mái ngói lợp âm dương của ngôi nhà bên đường, nói ngay:

Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước
Ông không ngờ câu đối bất chợt của đứa bé bảy tuổi đã làm cho thân phụ vui, quên vận nước đang hồi điên đảo. Rồi dường như cũng vào năm đó, thân phụ ông tiếp khách, lâu lâu lại kéo thuốc lào, thả khói thơm lừng. Khách hỏi thân phụ ông đã dạy ông phép làm thơ chưa. Thân phụ ông cho rằng con còn nhỏ chưa đến lúc khai tâm. Bé Củng thấy cha vê thuốc lào vào điếu, vội đốt đóm hầu. Việc này không ai buộc, nhưng cậu bé Củng thích tiếng kêu ro ro của nó và thích ngửi mùi thơm dễ chịu, nên tình nguyện và chưa một lần bị quở mắng. Thấy khói thuốc lào quánh đặc từ miệng, từ mũi của thân phụ bay ra, cậu bé Củng ứng khẩu:
Nín hơi biển động ba từng sóng
Há miệng rồng bay chín khúc mây
Khách vỗ đùi khen hay. Thân phụ của ông tròn mắt nhìn. Như được động viên, cậu bé Củng sung sướng đọc tiếp:
Ba từng sóng dội vang trời bể
Năm sắc mây bay thấp thoáng trời
Khách xoa đầu cậu bé sáng dạ, tương lai phong vân đắc lộ, sự nghiệp kinh nhân và xin phép chủ nhà được phép khai tâm cho đứa bé. Và đó là người thầy đầu tiên của Nguyễn Công Trứ. Ngày theo song thân giã từ người thầy đức độ trở lại quê cha đất tổ ở làng Uy Viễn này, ông nào có biết gì. Ông cứ tưởng vì lo kiếm thầy giỏi để ông có điều kiện được học những điều hay điều tốt của thánh hiền nhằm lớn lên giúp nhà, giúp nước, chớ nào biết Đức Ngạn hầu muốn về quê ẩn dật giữ tròn chữ trung, bảo toàn danh tiết.
Trước ngày lên đường, cậu bé Củng đến tạ ơn người thầy đầu tiên câu đối:
Tuy tôn sư chi giáo trạch vô cùng, hà cảm xá cận nhi cầu viễn
Nhi quốc gia chi học qui hữu định, tương sử tự hạ tiệm thăng cao
(Tuy ơn giáo dục của tôn sư vô cùng, đâu dám bỏ nơi gần mà tìm nơi xa
Nhưng phép học hành của quốc gia có định, nên phải từ chỗ thấp mà bước lên chỗ cao)
Năm đó, tuổi của ông vừa tròn con giáp. Nguyễn Công Trứ nhớ lại và thầm cười một mình. Kể cũng lạ. Ngày ấy chẳng hiểu sao, ông nói toàn những giọng trổ trời, nghịch ngợm, nhưng người lớn nghe được cứ cho rằng, đó là văn chương khẩu khí. Hồi mới học phép làm thơ, gặp lúc trời mưa giông, có người ném gánh cỏ cho trâu xuống đất, chạy vào núp mưa dưới mái hiên. Vừa tạnh hạt, người nọ vội chào chủ nhà rồi chạy ra xốc gánh cỏ, bươn thẳng. Cậu bé Củng ứng những lời thầy dạy, tức cảnh đọc sang sảng:
Tạnh cơn phong vũ lò ngay mặt
Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai
Ai nấy đều tấm tắt khen hay và khí khái, làm cậu bé Củng xấu hổ không biết trốn vào đâu. Nếu ở nhà, chắc chắn cậu sẽ sà vào lòng mẹ.
Và nào chỉ vậy. Một lần khách đến thăm nhà, thân phụ cho người sai ông lên hầu trà. Khách thấy ông vội ngớ người và khen lấy khen để. Khen thật chứ không phải là khen lấy lòng. Bởi trước đây, người khách ấy không biết ông là con nhà ai cũng đã thốt lên: "Khả úy đoan đoan đích hậu sinh” (Kẻ hậu sinh này rất đáng sợ).
Sự thể chẳng là một hôm ở nhà thầy học, ông theo bạn bè về quê hương người trưởng tràng chơi, giữa đường gặp đoàn xe ngựa, dù lọng rợp trời, ai nấy đều tránh dạt hai bên đường, riêng cậu bé Củng cứ như chôn chân tại chỗ, tròn mắt nhìn, vì mọi thứ đối với cậu đều lạ mắt quá.
Bị cho là vô lễ, cậu bé Củng bị lính bắt, vội khóc lóc hô hoán rầm trời. Các bạn bè, kể cả anh trưởng tràng chẳng ai dám bước ra nói một lời van xin. Kiệu của vị quan lớn tới hỏi đầu đuôi, và ra vế đối:
Khách khoa bảng, khách văn chương, giữa quan khách, khách lại gặp khách
Bé Củng lấy tay áo chùi nước mắt, nhìn vào chiếc kiệu, đối ngay:
Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai ?
Nhắc lại chuyện đó, thực tình Nguyễn Công Trứ không hiểu sao mọi người cứ cho ông là thần đồng. Chẳng lẽ hễ ai biết ứng đối nhanh, biết làm thơ hay là làm vương làm tướng được hết hay sao ? Tuy còn nhỏ, nhưng Nguyễn Công Trứ đã thấy đó là điều lạ.
Còn đang nghĩ vu vơ, thì thân phụ ông vuốt râu mỉm cười, sung sướng bảo:
- Cậu ấm (vì con quan) hãy tạ ơn quan bác và ứng khẩu kính quan bác bài thơ.
Ấm Củng đỏ mặt, lí nhí trong miệng xin khách ra đề. Khách cũng đưa tay vuốt chòm râu ra chiều sung sướng, dõi nhìn ra ngoài vườn rồi bảo bé Củng vịnh cây cau.
Ấm Củng nhìn hàng cau cao vút ngoài vướn, lấy ý, lựa vần rồi xin phép, đọc liền một mạch:
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao,
Càng ngày càng một rấn lên cao.
Lưng đeo vai bạc sương vừa nhuốm,
Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào.
Buồng chất cháu con khôn xiết kể,
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào.
Kình thiên một cột đưa tay chống,
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.
Nghe xong, khách cười khà, khen nức nở. Thân phụ của ông cũng lấy làm sung sướng. Nhưng thời của cậu ấm Củng sớm đi qua. Mới mười bốn, mười lăm tuổi, Nguyễn Công Trứ đã được gia đình kiếm vợ những mong sớm có người nối dõi tông đường. Và cậu ấm cứ vẫn là cậu ấm chẳng nên thân chút nào. Những lời khen của người lớn, nhất là khi trở thành "ông đầu xứ", thì Nguyễn Công Trứ càng tự tin – tự tin đến độ quá quắt.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Khi Nguyễn Công Trứ đỗ đầu xứ, Nguyễn Trùng Quang ở phủ Thạch Hà (Hà Tĩnh) nghe tiếng, ghé đến thăm và mời Nguyễn Công Trứ đến nhà chơi. Đúng hẹn, Nguyễn Công Trứ đến chỉ thấy ngoài cửa sổ đề câu đối:
Sinh nê nhi bất nhiễm
Hữu xạ tự nhiên hương
(Sinh nơi bùn mà không nhiễm
Có chất xạ tự nhiên thơm)
Nhếch môi cười thầm trong bụng, Nguyễn Công Trứ ung dung bước vào chào chủ nhà và thấy trên bàn có sẵn giấy bút nên xin được đề mấy chữ. Nguyễn Công Trứ không đợi nhiều. Chủ nhà gật đầu mời ông phóng bút ngay:
Cửa sấm dám đâu mang trống lại
Đất người đành phải vác chiêng đi
Tuy rút ra từ hai câu tục ngữ: “Đánh trống trước cửa nhà sấm" và "Vác chiêng đi đánh xứ người”, nhưng ông đầu xứ Nguyễn Trùng Quang hiểu người khách trẻ muốn nói gì, vội vàng đứng dậy chắp tay vái Nguyễn Công Trứ và xin chịu làm em, mặc dù tuổi có lớn hơn.
Nguyễn Công Trứ từ chối. Nguyễn Trùng Quang viết bên dưới câu đối nôm của Nguyễn Công Trứ hai câu thơ chữ Hán:
Kinh nhân văn tự đề giai cú,
Tuyệt thế anh tài kiến thiếu niên.
(Văn tự kinh người đời, đề đôi giai cú,
Anh tài tuyệt cõi thế, thấy kẻ thiếu niên)
Từ chối không được, Nguyễn Công Trứ bèn cúi đầu tạ lễ, rồi hai người cùng ngồi lại đàm đạo văn chương. Khi chia tay, Nguyễn Trùng Quang viết tặng riêng cho Nguyễn Công Trứ hai câu thơ nói lên lòng thành thật của mình:
Khắc chấn danh gia năng hữu tử
Bất tài tiện đệ nhượng vi huynh
(Nối nghiệp danh gia sanh được con tài giỏi
Kém tài, tiện đệ nhường bậc đàn anh)
Nguyễn Công Trứ sướng lắm và hai người thường hay qua lại, rủ nhau đi viếng chùa này, đi thăm cảnh nọ. Một hôm nghe Nguyễn Trùng Quang báo có vị sư trụ trì một chùa không xa lắm, chữ nghĩa cũng giỏi. Nguyễn Công Trứ chờ dịp thuận tiện đi viếng cảnh chùa.
Đi đường cũng mệt, gặp cảnh chùa vắng lặng, Nguyễn Công Trứ bước thẳng xuống bếp hi vọng gặp ai đó xin miếng nước. Không dè khi vào tới bếp, vị sư đứng bên trong lên tiếng:
Khách khứa quản chi ông bếp núc
À, chắc vị sư giỏi chữ đây rồi! Nguyễn Công Trứ thấy lòng phấn khởi, quên cả sự mệt nhọc đường trường. Nguyễn Công Trứ bình tĩnh rót tô nước vối uống một hơi ngon lành rồi nhìn vị sư đang vẫn sắp lại mấy vại cà, đối ngay:
Trai chay mà có vại cà sư
Vị sư đứng bật dậy tròn mắt nhìn người khách trẻ. Còn Nguyễn Công Trứ thì mỉm cười. Ở vùng Nghệ Tĩnh
vại cà và bà vãi đều nói là vại, nên câu đối của ông vô tình lại khá thâm thúy.
Vị sư chắp tay lên ngực, ngước mặt nhìn trần nhà, nói:
Xin chứng minh cho, Nam Mô A Di Đà Phật
Nghe vậy càng làm cho hào khí của Nguyễn Công Trứ bốc lên, quên hẳn mọi thứ trên đời. Với Nguyễn Công Trứ lúc này phải rạch ròi hơn thua trên tài trí, chữ nghĩa thánh hiền. Nguyễn Công Trứ đưa tay sửa lại nồi nước vối trên bếp, tiếp lời:
Còn chiếu giám đó, Đông trù Tư mệnh tướng quân
Dù là kẻ tu hành không thích hơn thua, nhưng nghe người khách trẻ chế nhạo mình, vị trụ trì cũng khẽ nhíu mày. Bên mời phật, bên nhờ vua bếp ra minh chứng, quả thực là hay, là tài trí. Vị sư nói tiếp:
Đọc ba mươi sáu quyển kinh, không thiên địa thánh thần nhưng khỏi tục.
Nguyễn Công Trứ hiểu ý nhà sư, nhưng đã bước vào trường chữ nghĩa rồi, chẳng lẽ chịu thua ? Nguyễn Công Trứ đối ngay:
Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người
- Mô Phật! Thí chủ đây có phải người đầu xứ của vùng Hoan Châu không?
- Xin đừng trách bần tăng có mắt không tròng. Mời thí chủ quá bước lại trai phòng đàm đạo. Bần tăng nghe danh đã lâu, nhưng bữa nay mới gặp mặt. Danh bất hư truyền. Hay lắm, hay lắm!

Hỏng kỳ thi hương lần này (1807) tuy không có nỗi buồn nào bằng, nhưng nghĩ lại, Nguyễn Công Trứ nghiệm ra bài học nhớ đời. Những năm gần đây, từ kẻ sĩ đến thường dân đều truyền miệng bản Truyện Kiều của Nguyễn Tiên Điền. Cái tài, cái hay của bản thơ nôm, Nguyễn Công Trứ đã thấy và lúc này ông có cảm giác như Nguyễn Tiên Điền nhắc nhở mình: Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Đúng là, biết khôn cớ sự đã rồi. Khổng tử đã dạy: Tam thập nhi lập. Thế mà, ông đã làm được gì đâu. Thân phụ ông cũng là Đức Ngạn hầu thật đấy, nhưng nào có gì ngoài cái nhà tranh ba gian, một miếng vườn nho nhỏ và mấy chồng sách cũ. Ông rất qúi, rất kính trọng cuộc sống đạm bạc của thân phụ trước hoàn cảnh nước nhà nghiêng ngữa. Mọi ước mơ của thân phụ, ông là người duy nhất phải gánh vác, chu toàn mà chưa có gì ra hồn. Nhìn vợ con khổ cực, Nguyễn Công Trứ ứa nước mắt, gắng gượng làm vui. Phải gắng vậy ! Phải gắng vậy ! Nguyễn Công Trứ thầm dặn lòng như thế và nhúng cây bút lông vào nghiêng mực.
Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu,
Trông gương mà thẹn với hàm râu.
Có từng gian hiểm mình càng trí,
Song lắm phong trần lụy cũng sâu.
Năm ấy đã qua thời chẳng lại,
Giống kia có muộn mới còn lâu.
Khi vui diễu cợt mà chơi vậy,
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu.
Tận nhân lực tri thiên mệnh. Ông đã tận lực đâu. Vẫn thói nào tật nấy. Mất bò mới lo làm chuồng. Phải gắng vậy ! Phải gắng vậy ! Nếu buông xuôi, thì ông chỉ là anh đồ gàn làm khổ vợ con và lúc chết xuống suối vàng đâu dám gặp mặt tổ tiên. Ở đời đâu phải ai cũng “tam thập nhi lập”, đâu thiếu người ngoài bốn mươi mới nên danh phận, chớ nào chỉ mình ông. Phải gắng thôi! Phải gắng thôi!.

Chương 5
Cư tang mẹ chưa xong, Nguyễn Công Trứ đã được thăng Tham tán quân vụ Bắc thành, Hình bộ thị lang ở tào hình và tham gia dẹp giặc Phan Bá Vành. Với tuổi "tri thiên mệnh", nhiều người tưởng đã mỏi gối chồn chân, nhưng với Nguyễn Công Trứ vẫn thấy mình còn... trai chán. Đứng bên nấm mộ của mẹ cùng khói nhang trầm thoang thoảng, Nguyễn Công Trứ thấy lòng ấm lại. Dù sao, ông cũng trả được cái hiếu với quê hương, tổ tiên, cha mẹ. Về đời sống vật chất cũng chưa phải là dư dả, nhưng về đời sống tinh thần vào những năm cuối đời, thân mẫu ông khá bằng lòng. Ai trồng lúa chẳng mong tới ngày gặt lúa và còn chi sung sướng hơn là ôm về nhà những bông lúa trĩu tay? Mẹ ông đã ôm được những hạt vàng ấy vào lòng, khiến ông cũng thấy thanh thản. Tội nghiệp. Hơn hai mươi năm mất chồng, mười sáu năm nhìn thằng con lận đận trên đường tìm kiếm công danh, cộng với cái nghèo cái khó của gia đình có thêm những miệng ăn, thêm những lo toan mới, thân mẫu ông đứng vững được với những con cháu quả là người đàn bà có nghị lực phi thường. Chính bản thân ông có lúc không còn tin vào mình: Việc đời đã chắc chắn đâu, Lỡm lờ con tạo một màu trêu ngươi. Nhưng rồi nghĩ tới tổ tiên, cha mẹ, vợ con, ông lại quyết vượt lên từ khó khăn, buồn chán để thử thách “con tạo xoay vần”.
Và ngày mong đợi đã đến!
Tứ thập nhi bất hoặc (Được bốn mươi tuổi, tâm trí ta sáng suốt, hiểu rõ việc phải trái, đạt được sự lý chẳng còn nghi hoặc – Khổng tử). Nguyễn Công Trứ vững tin vào kỳ thi đang cận kề. Kỳ thi này mà hỏng tiếp là coi như hết đời. Và ông sẽ không biết ăn nói sao với tiền nhân khi giã từ cuộc sống, còn trước mắt là mẹ già cùng vợ con. Cách đây mấy năm, vợ ông đã khóc khi đọc được câu đối của ông dán ở thư phòng:
Anh em ơi ! băm sáu tuổi rồi, khắp đông tây nam bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác
Trời đất nhẽ, một phen này nữa, xếp cung kiếm cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh.
Tuy cuộc sống gia đình luôn gặp khó khăn, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, nhưng vợ ông chưa bao giờ để ông lộ rõ cái nghèo, cái thiếu trước bạn bè. Chưa có khi nào cô ta trách hờn khi ông đi chơi đây đó những mấy ngày liền, kể cả những lúc cùng bạn bè đón cô đầu về nhà hát xướng thâu đêm. Nào có ai ngờ cháu gái của Hồng Trạch hầu về làm bạn đời với với con trai một của Đức Ngạn hầu lại vất vả đến thế. Họ Nguyễn làng Uy Viễn của ông cũng thuộc hàng tộc to họ lớn, nhưng vẫn chưa sánh vào đâu với họ Đặng của Hồng Trạch hầu. Ông là cháu ngoại của ngài Cảnh Nhạc bá – họ Nguyễn ở Thượng Phúc (Hà Đông), nhưng cũng “mang tiếng” cháu ngoại họ Đặng của Hồng Trạch hầu, bởi trước đây, thân phụ của ông từng là rể của dòng họ Đặng. Nếu người mẹ trước không qua đời, thì thân phụ của ông sẽ không tục huyền với người con gái thứ hai của ngài Cảnh Nhạc bá và không có ông bây giờ. Và ông tơ bà nguyệt khéo xe, 14 tuổi, ông lại gõ cửa vào làm rể nhà họ Đặng.
Thấy vợ ông vất vả vì chồng con, nhiều người mượn cớ ru con, hát mỉa:
Ai ơi, chớ lấy học trò,
Dài lưng, tốn vải, ăn no lại nằm.
Mỗi lần nghe như vậy, vợ ông không khỏi buồn lòng. Ông biết, nhưng hơi đâu phiền miệng lưỡi thế gian. Một hôm đang ôm con nằm trên chiếc võng tre ở đầu hè, những lời lẽ ấy theo gió đưa lại, vợ ông cau mày ra chiều bực tức. Ông tủm tỉm cười, nhón chân đẩy chiếc võng, hát đáp lại:
Dài lưng đã có võng đào,
Tốn vải đã có áo bào vua ban.
Vợ ông nghe vậy liền hứ một tiếng và nguýt yêu chồng.
- Nói nghe phát ham ! – Vừa nói, cô vừa chuyền đứa con đang thiu thiu ngủ qua tay chồng.
Nguyễn Công Trứ nhìn dáng vợ đi với nụ cười tươi tắn. Ông biết trong lòng vợ mình đang rộn lên niềm vui mới. Công thành danh toại, áo mũ vua ban chưa cần biết tới, chỉ cần mấy lời đối đáp như vậy là đã thỏa lòng. Mặc dù, chữ nghĩa đâu đem nói tay đôi với đàn bà, nhưng cũng phải cho họ biết chồng ta bụng đầy chữ và ta chịu cực chịu khổ nuôi chồng ăn học không phải vì phước mỏng, phận hèn, mà vì cái nghĩa lớn ở đời. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, đâu phải cô gái nào lớn lên cũng được đầu ấp tay gối với người bụng đầy chữ đâu. Dù cho ruộng cả ao liền, không bằng cái bút cái nghiên anh đồ...
Nguyễn Công Trứ cười thầm trong bụng, nhón chân đẩy tiếp chiếc võng dỗ con vào giấc ngủ. Ngẫm lại, ông thấy mình đã vướng vào thói tục của đàn bà. Ông đặt nhẹ con xuống võng, rồi đi vào phòng học lấy giấy bút đề ngay câu đối:
Mạc vị khốn hành phi ngọc nhữ
Cảm tương bần tiện cố kiên nhân
Nghĩa là:
Vận khó trời còn trau chuốt ngọc
Lúc nghèo ta có lụy chiều ai
Dán câu đối lên, Nguyễn Công Trứ ngắm tới ngắm lui, đọc đi đọc lại, rồi cầm sách ra bờ tre ôn bài.
Mấy ngày nay, Nguyễn Công Trứ biết vợ vất vả lắm. Vừa chạy ăn từng bữa, vừa lo kiếm tiền cho ông có quần áo, bút mực... để đến ngày hoàng đạo ông lên đường ứng thí.
Nhìn dáng hao gầy của vợ, Nguyễn Công Trứ cảm thấy xốn xang trong lòng. Ông đâm ra hối hận những giây phút vui chơi quá đà của mình. Ông lẳng lặng ra sau nhà rửa mặt, sửa lại áo quần rồi nhẹ nhàng qùy xuống sau người mẹ già khi hương đèn bàn thờ gia tiên rực sáng.
Thương lắm! Ơn cha nghĩa mẹ cao dày! Nguyễn Công Trứ rưng rưng nước mắt khi nghe lời cầu khẩn của mẹ già trước linh vị tiền nhân:
(...) Kính nghĩ tiên linh ta,
Kiệm cần gây cơ nghiệp, trung hậu giữ gia thanh.
Qua cuộc biển dâu, dầm sương dãi gió,
Vững tay chèo lái, vượt thác băng ghềnh.
Đời càng vững cây bền gốc,
Ngày thêm thắm lá tươi cành.
Con cháu nhiều bề thành đạt,
Tổ tiên muôn thuở hiển vinh.
Nhân ngày trưởng nam lai kinh ứng thí,
Ngưỡng mộ tôn linh,
Dâng bày lễ nhỏ,
Ngưỡng vọng tổ tiên ban phúc ấm,
Độ trì con cháu, mã đáo thành công (...)
Nguyễn Công Trứ xì xụp lạy theo mẹ. Những lúc thế này, ông mới ý thức hết thế nào là "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Dù có lớn tới đâu, có nên bề gia thất, nói chung có là... gì chăng nữa, con vẫn nhỏ nhoi trước mẹ.
Mọi người trong nhà muốn ông được thư giãn tinh thần, nhưng nào có được gì. Lễ vật dọn xuống, ai cũng muốn dành hết cho ông, song ăn sao ngon miệng, khi thấy trong ánh mắt mẹ già, và ánh mắt những đứa con thơ như muốn nuốt chửng tất cả. Tội nghiệp ! Nhớ tới gương mặt xanh xao của vợ, ông không cầm được nước mắt. Ông vùng dậy mài mực, lấy giấy bút thay mặt vợ viết câu đối dán lên cột:
Nhờ trời phù hộ chồng tôi, miếng khoa giáp ăn xanh phường sĩ tử
Ơn chúa yêu vì bố nó, nợ trần hoàn trang trắng mặt nam nhi.
Như giãi bày được nỗi niềm thầm kín bấy lâu, Nguyễn Công Trứ thấy lòng nhẹ hơn và còn nhận ra rõ hơn
trách nhiệm của người con, người chồng, người cha trong gia đình. Dẫu biết mỗi đời người đều có số phận
riêng, nhưng ông tin và cũng không muốn bằng lòng với số phận. Ông muốn dùng tất cả nghị lực để vượt qua số phận đã an bài. Tận nhân lực tri thiên mệnh. Chưa làm việc gì hết sức mình mà trách trời than đất, thì có tội với trời đất. Trời đất nào có bỏ ai, chê ai ?
Nguyễn Công Trứ đang chìm đắm vào dòng suy nghĩ mới, thì người vợ đảm đang của ông đã đứng bên cạnh từ lúc nào và níu chặt cánh tay ông.
- Thầy nó hiểu được lòng em thế là đủ rồi. – Mặt vợ ông hồng lên và vùi đầu vào ngực chồng, nói nhỏ: - Thiếp chúc chàng thượng lộ bình an, mã đáo thành công.

Trên căn trung, thân mẫu ông lại ra đứng lặng trước bài vị của chồng và tổ tiên nhà chồng. Ông biết mẹ đang gửi lòng thành vào làn khói nhang vòng vèo, những mong tổ tiên phù hộ cho thằng bé Củng của bà ứng thí kỳ này sẽ được bảng hổ đề tên. Thực ra, bao năm qua, ông chưa bao giờ bị thân mẫu quở mắng, hoặc vợ than phiền về cái thú mê hát cô đầu của ông. Nhưng có nhiều đêm thấy mẹ van vái đất trời khiến ông có muốn đến với tiếng trống chầu, tiếng đờn kìm réo rắt cùng những cô đào đủ sắc thừa thanh cũng không thể nào cất bước nổi đôi chân ra khỏi bờ giậu. Những lời van vái của mẹ với đất trời không ai nghe rõ, nhưng với tấm lòng của người con, ông hiểu hết, nghe hết.
Giờ lên đường đã tới. Căn nhà trở nên yên ắng lạ thường. Nhìn lại thấy vợ con quấn quýt, Nguyễn Công Trứ tự trấn an bằng tràng cười và lấy đôi bàn tay gõ lên bàn, bắt nhịp:
Cùng đạt có riêng chi mệnh số,
Hành tàng nào hẹn với văn chương.
Đường công danh sau trước cũng là thường,
Con tạo hóa phải rằng ghen ghét mãi.
Duyên ngư thủy còn dành cơ hội lại,
Quyết tang bồng cho phỉ chí trượng phu.
Trong trần ai, ai kém ai đâu ?
Tài bộ thế, khoa danh, ờ lại có.
Thơ rằng: “Độc thư thiên bất phụ
Hữu chí sự cánh thành"(1)
Giang san đành có cậy trong mình,
Mà vội mỉa anh hùng chi bấy nhẽ.
Đã sinh ra ở trong phù thế,
Nợ trần ai đành cũng tính cho xong.
Nhắn lời nói với non sông,
Giang san hầu dễ anh hùng mấy ai.
Thanh vân trông đó mà coi.
(1) Trời không phụ người đọc sách
Người có chí thì nên
Cả nhà đều cười vui vẻ. Nguyễn Công Trứ lần nữa lại lạy gia tiên, từ tạ mẹ già. Vợ ông đi theo ra khỏi bờ
giậu, khoát tay nải lên vai chồng. Nguyễn Công Trứ cầm lấy tay vợ, bóp nhẹ, nói đủ hai người nghe:
- Tới giờ lên đường rồi. Mẹ con ở nhà mạnh khỏe, chăm sóc bà hộ tôi và chờ tin vui.
Miệng nói, chân xăm xăm bước đi, Nguyễn Công Trứ không dám quay đầu lại. Ông biết lần đi này, mọi người đều trông chờ vào ông. Rủi thời... Vâng, sẽ không còn con đường nào khác là lao vào cuộc hành lạc để chắt lấy ở đấy những an ủi chua chát nhằm đắp vào thân xác muôn nỗi đớn hèn gây nên bởi cái túng cái nhục. Đã ngoài tứ tuần rồi chứ còn trẻ đâu. Song Nguyễn Công Trứ vững tin ở bản thân. Mười hai năm qua, mười hai năm đói nghèo túng quẫn đã nung nấu ý chí vượt khó của ông. Nhớ lại trước khi ứng thí lần thứ nhất, ông rất lạc quan:
Chửa chán ru mà quấy nữa đây?
Nợ nần dan díu mấy năm nay!
Mang danh tài sắc cho nên nợ,
Quen thói phong lưu hóa phải vay.
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt,
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay.
Còn trời, còn đất, còn non nước,
Có lẽ ta đâu mãi thế này.
Nhưng cái tài nghệ sĩ không hợp với cửa Khổng sân Trình. Xưa nay, xuất xử thường hai lối, song có xuất mới mạnh miệng nói đến xử, chớ xuất không được, thì có nói hay đến đâu, đúng đến đâu cũng không ai nghe và không ít người sẽ cho là thứ đồ gàn. Trò đời là thế. Vai mang túi bạc lè kè, nói quấy nói quá, ai nghe cũng ừ. Đã không có lợi thì phải có danh, chớ lợi rằng không, danh lại chẳng có thì khó thuyết phục được ai. Những người thân quen của ông cho đó là trò đời phải thế. Vâng phải thế. Bởi đó là sự thách thức để con người vượt qua được chính mình, nếu không có cửa ải nghiệt ngã ấy thì cuộc đời đáng chán xiết bao.
Được ăn được nói, được gói được mở, không phải chỉ dựa vào ba câu thơ ngông nghênh mà xong. Ngạo mạn, khinh đời thì đời cũng trả lại cho ta cái giá không rẻ và cuối cùng đời ta gánh chịu, gia đình, dòng họ ta gánh chịu. Đời vẫn là đời, cuộc sống vẫn tuôn trào, bốn mùa hoa lá vẫn sinh sôi, chớ không vì mấy bài thơ ngông nghênh của chàng cuồng sĩ mà thay đổi.
Ra đi lần này, Nguyễn Công Trứ biết nhiệm vụ mình lớn lắm. Ngoài việc trả nghĩa cho quê hương, tổ tiên, chòm xóm, ông còn phải giúp vợ con tránh khỏi cái cảnh "Nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa". Nhớ tới mẹ già, vợ con những năm qua mà ứa nước mắt:
Chiều ba mươi công nợ rối canh thân, ước những mười năm dồn lại một
Sớm mồng một rượu chè tràn qúy tỵ, trông cho ba bữa hóa ra mười.
Người dân quê ông, gia đình ông... đâu phải hạng lười nhác gì cho cam. Một nắng hai sương nào ai quản ngại, nhưng cái đói cái nghèo cứ bám dai như đỉa đói. Không lấy vợ sinh con thì bất hiếu. Nhiều con hơn nhiều của. Ai cũng khen nhà ông có phước. Con một cháu bầy. Ông không dám phủ nhận cái phần phước ấy, nhưng ông đã nhìn ra được cái đói cái nghèo xuất phát từ nơi ấy. Đất đai muôn đời vẫn chừng đó, nhưng con người cứ mắc tính ưa sinh sôi nẩy nở kiểu phước ấm con một cháu bầy thì chẳng khác nào giành nhau sự đói nghèo. Nhưng biết làm sao được, một khi trời kêu ai nấy dạ. Nguyễn Công Trứ lại thở dài. Nghĩ cho cùng, Cái hình hài đã chắc thiệt chưa, Mà lẽo đẽo khóc sầu chi rứa mãi. Đã mang tiếng ở trong
trời đất, Phải có danh gì với núi sông.
Từ khi triều Nguyễn dựng đế nghiệp, cả huyện Nghi Xuân chưa có ai thành đạt trên đường khoa cử. Nổi tiếng như họ Nguyễn ở làng Tiên Điền dường như cũng không có ai văn hay chử tốt ngoài Tố Như tiên sinh. Cách đây mấy năm, Tố Như được cử đi sang Tàu, nhân dân cả vùng Hoan Châu nói chung, huyện Nghi Xuân nói riêng cùng tưởng chừng như chính mình được đi sứ. Chính bản thân Nguyễn Công Trứ cũng vững
tin mảnh đất sản sinh nhân tài và đã lấy làm hãnh diện là con dân của quê hương.
Khi được tin Nguyễn Công Trứ không những đỗ kỳ thi Hương mà còn đỗ đầu, ai nấy đều vui mừng, hào hứng. Bởi hai mươi năm thay mệnh trời dẫn dắt con dân, triều Nguyễn chỉ mới tổ chức được kỳ thi Hương chớ chưa có kỳ thi nào khác, nên đỗ được kỳ thi này là danh giá lắm, huống gì được đỗ đầu như ông. Sự học chẳng bao giờ phí cả. Và ông tin không bao lâu nữa, Hoàng triều sẽ tổ chức đầy đủ hơn các kỳ thi, bởi thánh nhân đã dạy: Nhân tài quốc gia chi yên khí, khoa mục sĩ tử chi thản đồ (Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, mà khoa cử là con đường rộng mở của học trò). Đúng là chẳng có gì vui hơn đại đăng khoa. Bao khổ cực dồn nén theo tháng ngày bỗng dưng tiêu tán sạch, thay vào đó là niềm vui rộng mở không chỉ ở bản thân người đỗ đạt mà còn ở những người thân. Thậm chí, từ quan tri huyện cho đến những người dân quê suốt một đời lam lũ chưa hề biết Nguyễn Công Trứ là ai cũng rạng rỡ nét mặt. Quê mình có người đỗ giải nguyên đấy ! Vâng, địa linh sinh nhân kiệt mà. Thái bình rồi, hễ không học thì thôi, còn đã học thì sớm muộn gì bảng hổ cũng đề tên...
Đại loại những câu như vậy, Nguyễn Công Trứ nghe nhiều lần vẫn không thấy chán. Lúc này, ông mới thấy hết được giá trị của chữ nghĩa thánh hiền. Tố Như tiên sinh người ở làng Tiên Điền và bản thân ông chưa nuôi ai bữa cơm nào, chưa giúp ai bữa khoai nào, vậy mà nhân dân cả làng cả huyện mừng vui. Qúy lắm. Thương lắm. Càng nghĩ, Nguyễn Công Trứ càng thấy trách nhiệm mình với quê hương nặng hơn so với những gì ông đã nghĩ lâu nay.
- Thiếp còn mấy đồng, sáng mai chàng lấy đi vui chơi với bạn bè vài ngày.
Nguyễn Công Trứ trở mình, kéo vợ vào lòng. Tội nghiệp, chẳng biết chạy vạy thế nào, nợ nần tới đâu mà mấy ngày qua ông được sắm thêm giày thêm áo. Bà con đến chúc mừng lúc nào cũng có chè ngon, có cau trầu têm sẵn. Đành rằng xấu lá xấu nem, nhưng thấy mẹ già và vợ con khổ quá ông chẳng an tâm. Trước đây, thực lòng, ông không để ý mấy, bởi cái buồn, cái chán vây chặt lấy ông. Thói ngông nghênh của ông là thói ngông nghênh của anh nhà nho bất đắc chí đang cố vượt qua được chính mình.
Người ta ở trong phù thế,
Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên.
Đem bẩm trời, trời cũng phải khuyên,
Khuyên khuyên chữ anh hùng yên sở ngộ.
Thơ rằng: "Tạo hóa có ghen chi mệnh số,
Giang san nào oán với văn chương".
Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang,
Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước.
Sóng vỗ lớp sau như lớp trước,
Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu.
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu,
Trần ai ai biết công hầu là ai.
Bao giờ rõ mặt mới hay...

Khoác lác một chút. Huênh hoang một chút. Tất cả cũng chỉ để thỏa mãn chút tự ái vặt chớ nào có ích lợi gì. Cha chết không bằng hết ăn. Cái vòng danh lợi quay tít mù khiến con người chẳng được yên. Nguyễn Công Trứ mỉm cười trong đêm, nói:
- Tôi vui lắm, thỏa mãn lắm rồi. Mẹ nó cứ giữ số tiền ấy rồi bàn với bà sắm mâm cơm tạ ơn tổ tiên, nội
ngoại cho phải đạo.
Bà Minh đưa tay bịt miệng chồng.
- Thầy nó đừng lo. Hai bên nội ngoại cũng đã tính cả rồi, thậm chí dân làng Uy Viễn còn bàn việc giúp ta sửa lại căn nhà để xứng đáng với người đỗ đầu trường Nghệ, mở ra tia hy vọng cho con em họ sau này. Bà con họ nói, thầy nó khai mạch cho làng, nên làng phải có trách nhiệm.
Nghe vợ nói, Nguyễn Công Trứ ứa nước mắt. Thì ra, những người dân quê củ mỉ củ mì như thế họ lại rành mạch đâu ra đấy. Ai có công với làng với xóm, dù chỉ một chút tiếng thơm, họ đều ghi lòng tạc dạ. Đúng là thức đêm mới biết đêm dài, sống lâu mới biết lòng người ra sao. Hồi công chưa thành, danh chưa toại, ông cứ trách đời trách người mà có lúc... quên trách mình.
Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại,
Đã có đồng tiền, dở hóa hay.
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
Hẳn hoi không hết một bàn tay.
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa,
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nguyễn Công Trứ định nói vài lời với vợ thì gà đã gáy sang canh và bà Minh đã chìm sâu vào giấc ngủ. Ông nhẹ nhàng sửa lại cái đầu của vợ trên cánh tay của mình và nhìn vào màn đêm với nụ cười vui. Ông tin chắc mấy đêm qua và cả đêm nay, trong giấc mộng nếu có, bà Minh sẽ không có những giấc mộng dữ. Thực ra, cuộc đời cũng khá đơn giản nhưng con người tự tìm lấy cái rắc rối đó thôi. Khôn – dại, vui – buồn... ngó thế mà có khi cả một đời người vẫn chưa ngộ được. Chính ông đã có lúc phải than thầm:
Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu,
Trông gương mà thẹn với hàm râu.
Có từng gian hiểm mình càng trí,
Song lắm phong trần lụy cũng sâu.
Năm ấy đã qua thời chẳng lại,
Lộc kia có muộn mới còn lâu.
Khi vui diễu cợt mà chơi vậy,
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu!
Nói chung, buồn thì buồn, nhưng ông cố tự động viên mình. Giỏi như Khương Tử Nha mà phải quá tứ tuần mới thành đạt, huống gì là ông. Hơn nhau ở chỗ là cái trí và cái tài khi hữu sự. Ông không dám chê ai, nhưng ăn cơm vua hưởng lộc nước mà chẳng giúp được gì cho nước cho dân thì chẳng thà làm anh dân cày có ích hơn. Ông tin mình không phải hạng người như thế. Ông tâm nguyện, dù gặp phải hoàn cảnh nào cũng cố mà sống cho ra người để xứng đáng với tấm lòng tin yêu của những người dân quê ông và của người thân, ít ra cũng là tấm gương sáng cho con cháu noi theo.
Khi tiếng heo kêu ở đầu hè, Nguyễn Công Trứ mới thức giấc và biết vợ mình đã đi chợ từ lúc trời chưa rõ mặt người.
Giấc ngủ ngon thật!
Chương 6
Họp tới họp lui những mấy ngày mà kế hoạch quân cơ cũng chưa ổn. Nguyễn Công Trứ cứ yên lặng ngồi nghe. Vì đây là lần đầu tiên ông vừa làm Tham tán quân vụ, vừa làm Binh bộ thị lang, lại vừa coi sóc Tào Hình. Đi ra tướng võ, đi vào tướng văn rất hợp với chí nguyện của ông. Nhưng cái danh chỉ đủ để lòe người, quan trọng vẫn là cái thực. Phải hăm hở ra tài kinh tế. Hăm hở, ai cũng hăm hở cả, song tài cán ra sao phải thể hiện bằng công việc, không chỉ có những người hôm nay luận công, luận tội, mà cả đến thế hệ mai sau. Ông cha vô tội, quê hương vô tội, ấy mà làm không khéo để đời sau chê trách là đắc tội với quê hương, với tổ tiên. Nhớ lại sau khi thi rớt khóa thi đầu tiên của triều Nguyễn (khóa Đinh Mão, 1807), ông đã nuôi chí, và sáu năm sau, khóa thi hương năm Qúi Dậu, 1813, ông đã đặt bút viết trước khi lều chõng lên đường:
Anh em ơi, băm sáu tuổi rồi, khắp đông tây nam bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tứ xác
Trời đất nhẽ, một phen này nữa, xếp cung kiếm cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh.
Khóa này tuy chỉ là ất bảng (tú tài), song Nguyễn Công Trứ vẫn tự tin. Hơn mười năm đi qua, Nguyễn Công Trứ vẫn không mất niềm tin ấy. Khi còn là chức biên tu Quốc sử quán (Minh Mệnh thứ 2, 1821), ông đã chú ý cuộc khởi nghĩa của nông dân do Phan Bá Vành lãnh đạo. Có lửa mới có khói. Với ông, đây là hệ quả tất yếu của một triều đại chưa mấy ổn định, cùng với việc quản lý một dải đất quá rộng so với các triều vua khác trong lịch sử nước nhà. Ông đã nhìn ra việc ấy lúc Gia Long thống nhất sơn hà, nên đã có suy nghĩ và đón xe vua khi vua Gia Long ra Bắc để chịu sự thụ phong của nhà Thanh (1803) để dâng “Thái bình thập sách”. Nội dung chưa được gọi là hoàn chỉnh lắm so với thực tế đất nước, nhưng về mặt cơ bản ông vẫn còn thấy dùng được.
Giữ lòng trung ái
Chăm đạo dâu con
Mở mang học hành
Chuyên cần nghề nghiệp
Phát triển nông tang
Trừ bỏ dị đoan
Sửa đổi phong tục
Thanh thải tham tàn
Tiến cử tài đức
Giữ nghiêm luật lệ
Nông dân nghèo khổ theo Phan Bá Vành, và Phan Bá Vành làm loạn cũng chẳng qua quan không ra quan, dân chẳng ra dân. Một phần do thiên tai lụt lội, một phần do những người được gọi là "cha mẹ dân" thiếu trách nhiệm, khiến cuộc sống của họ ngày càng đi vào ngõ cụt. Nếu không có nạn đói năm Tân Sửu (1821), thì chưa chắc Phan Bá Vành đã tập hợp được đội quân đông đảo như vậy. Trên trời có ông sao Rua, Ở làng Minh Giám có vua Ba Vành. Một anh nông dân của thôn Nguyệt Lãm, làng Minh Giám (huyện Vũ Tiên, trấn Nam Định) được nhân dân tôn sùng và trực chiến với quan quân triều đình những năm sáu năm nay không phải là chuyện đơn giản. Khi bàn tới việc này, nhiều người cho đó là đội quân ô hợp liều mình, ông chỉ cười thầm. Hạ thấp địch đồng nghĩa với hạ thấp mình, và không xứng đáng ăn cơm vua hưởng lộc nước. Ông tin những người có quan tâm tới cuộc nổi loạn này, không ai không biết bài vè được truyền tụng trong nhân gian:
Quân ngài khéo kiếm
Chọn những quân ròng
Xứ Bắc cũng lắm
Xứ Đông cũng nhiều
Không riêng ngoài trấn, trong triều
Cả từ mường mán cũng theo mà về.
Dĩ nhiên, ta không loại phần "tô vẽ" của những quân sư, nhưng không thể cho đó là đội quân ô hợp liều mình. Đánh giá thấp anh nông dân Phan Bá Vành là tự giết mình. Ngay từ những ngày đầu, quân của Phan Bá Vành đã tiến đánh các huyện Tiên Minh và Nghi Dương, và triều đình đã tung ra cả một đội quân lớn, có thủy đội lấy ở Nghệ An, Thanh Hóa ra phối hợp còn chưa ăn thua gì, lại còn để y ta liên kết với Thủ ngự sứ (một chức quan võ nhỏ thời nhà Nguyễn) Vũ Đức Cát ở cửa Ba Lạt và Phan Bá Vành thu lượm hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Thế lực của Phan Bá Vành ngày càng lớn mạnh, mở rộng ra cả vùng Nam Định, Thái Bình đã cho thấy Phan Bá Vành không phải không có thực tài. Thống chế Trương Phúc Đặng, trấn thủ Sơn Nam Hạ Lê Mậu Cúc, danh tướng đất Bắc, phò mã của Hoàng triều còn phải chịu thua, đủ thấy việc dẹp loạn Phan Bá Vành không đơn giản như một số người nghĩ. Nhìn vào bản họa đồ, Nguyễn Công Trứ thấy đây là vùng đất bồi khá rộng, có khi đến cả ngàn mẫu. Khi nước triều lên, thì đây là biển nước mênh mông. Khi nước triều xuống, thì đây là bãi lau sậy bạt ngàn. Nơi ấy chắc chắn có những kênh rạch chằng chịt, thuận lợi cho những vạn chài di động và chính những kênh, rạch ấy nuôi sống đội quân của Bá Vành. Đất nước ông bà nào có bỏ bê ai. Xưa kia, Triệu Quang Phục cũng đã dựa vào đầm Dạ Trạch mà đánh quân xâm lược những mấy năm liền, khiến cho bọn giặc ăn không ngon ngủ không yên, chớ nào phải chuyện giỡn chơi. Danh tướng Lê Mậu Cúc chết, thống chế Trương Phúc Đặng bị vua Minh Mệnh giáng bốn cấp, lột áo mũ, không cho lính hầu, đến nỗi xấu hổ quá, thừa lúc đêm vắng nhảy xuống hồ tự vận, cho thấy việc muốn thắng Phan Bá Vành không chỉ có binh ròng tướng mạnh là đủ. Và nếu có thắng bằng binh ròng tướng mạnh thì quân sĩ đôi bên ắt phải thiệt hại nhiều, mà họ có tội tình chi.
Đảo mắt nhìn khắp những người có mặt, từ quan Hiệp Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Hữu Thận, đến Thống quản Phạm Văn Lý, Binh tào Thân Văn Duy, v.v... Nguyễn Công Trứ không thấy ai có khả năng một chọi một với Phan Bá Vành. Nguyễn Công Trứ biết họ đang lo lắng. Nuôi quân ba năm dụng một giờ. Họ hưởng ơn vua lộc nước bao năm để bây giờ nhận liên tiếp mấy đạo dụ của vua mà chưa giải quyết được gì. Ghẻ nhọt bây giờ đã lở loét, hôi thối rồi, không chịu khó chữa trị có khi lụy tới thân. Nguyễn Công Trứ thở dài thật khẽ.
Thượng thư Nguyễn Hữu Thận, Hiệp Tổng trấn Bắc thành nhìn Nguyễn Công Trứ hỏi:
- Tướng quân Uy Viễn có cao kiến gì trong vụ này?
Nhìn khắp mọi người một lượt, rồi nhìn vào tấm họa đồ, Nguyễn Công Trứ vừa đưa tay chỉ, vừa nói:
- Giặc Bá Vành đang ở đây. Từ cửa sông Trà Lý, sông Lân, chúng có thể đi sâu vào đất liền, vừa liên lạc được cửa Ba Lạt, vừa ngược cửa Thái Bình, cửa Vạn Úc, lên cửa Nam Triệu hoặc xuống cửa Đáy, cửa Lạch Trào... Nói chung, về mặt địa lợi, ta yếu thế hơn Bá Vành. Do đó về mặt nhơn hòa, chúng ta phải tiếp tục khoan sức dân. Lúc này, quan địa phương nào nhũng nhiễu dân lành, ta cứ xử mạnh tay trước, báo về triều đình sau. Được vậy, ta mới hi vọng nắm phần thắng.
Ngừng một chút, Nguyễn Công Trứ vừa nhíu mày, vừa theo dõi phản ứng của những người có mặt, rồi điềm tĩnh nói:
- Bẩm quan lớn, hạ chức nghĩ, đứa khôn mạnh dỗ, đứa ngạo mạnh cho ăn. Muốn dẹp yên giặc Bá Vành, chúng ta phải dựa vào dân. Ức Trai tiên sinh đã từng dạy: Lật thuyền mới thấy dân như nước. Chúng ta càng xa rời dân thì khí thế của giặc càng lên cao. Tóm lại, theo ý hạ chức, muốn phá giặc Bá Vành, chúng ta phải dùng trí hơn dùng sức.
Mọi người đăm chiêu suy nghĩ. Có người gật gù ra vẻ tâm đắc. Có người làm ra vẻ chưa bằng lòng lắm với ý kiến đề xuất của ông. Hồi lâu, Tham hiệp Nghệ An Nguyễn Đức Nhuận lên tiếng, phá tan bầu không khí yên tĩnh mà có phần căng thẳng:
- Ý kiến các ngài đều sai, nhưng...
Trừ Nguyễn Công Trứ, mọi người như chợt tỉnh cơn mơ, đổ dồn ánh mắt vào quan Tham hiệp Nghệ An.
Nguyễn Đức Nhuận chờ mọi người tập trung chú ý mới nói tiếp:
- Vụ này dùng sức thì như chúng ta đã biết, còn dụng trí cũng chưa chắc đã thành công. Nghĩa quân Ba Vành đâu đâu cũng có, kể cả các huyện Giao Thủy, Chân Định, Vũ Tiên, Kiến Xương và cả vùng Thiên Trường. Hạ chức nghĩ, nếu chúng ta chỉ sai một ly ắt đi một dặm, và không khéo chúng ta trở thành những Trương Phúc Đặng.
Ý kiến mà chẳng ý kiến. Đầu quân thì ở sông Bo, Cuối quân còn ở bến đò kênh Kem. Điều đó, hỏi đứa trẻ chăn trâu cũng biết, cần gì phải nói. Nguyễn Công Trứ thở dài chán ngán. Ông chú ý khi Nguyễn Đức Nhuận nhắc tới cái chết của Trương Phúc Đặng, ai nấy đều đổi sắc mặt. Thế đấy ! Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Binh pháp từ xưa đã dạy rồi, ấy mà cả buổi, ông chưa nghe ai nói gì đến điểm mạnh, điểm yếu của quân tình Bá Vành. Nguyễn Công Trứ thất vọng trước lớp người mà trước đây ông đã đánh giá tốt về họ. Nhân vô thập toàn, nhưng thiếu nhân cách là thiếu tất cả. Trước khi vào cuộc họp bàn, ông đã dự kiến đến ý kiến của từng vị quan lớn nhỏ có mặt, song kiểu ý kiến cho có ý kiến thì ông không thể hình dung ra nổi. Nguyễn Công Trứ thở dài và khẽ nhếch môi cười. Hào khí của hôm nào đã tắt, thậm chí đã nguội lạnh trong ông. Mấy ngày qua, các cô đầu xứ Bắc đã sử dụng bài hát nói của ông như một lời mời mọc khách. Bởi đó không chỉ là cái chí của ông mà còn là cái chí của những người trai đất Việt.
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kỳ.
Trót sinh ra thì phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
Đố kỵ sá chi con tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,
Làm cho rõ tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không chẳng lẽ lại về không.
Nhưng được những gì? Tình trạng này kéo dài, và ông chỉ còn biết thả tài trí của mình vào những nhà hát cô đầu, thả hồn mình theo những tiếng "tom", tiếng "chát", thì không như Lê Mậu Cúc cũng thành Trương Phúc Đặng. Chuyện đã xảy ra trước mắt chớ phải chuyện thần tiên ma qủi gì mà nghi với ngờ. Nếu cần,
ông buộc phải lai kinh yết kiến Hoàng thượng tâu trình kế sách, trước là để an mình, sau là để an dân.
Loạn lạc, chiến tranh xảy ra, ai cũng khổ, nhưng khổ nhất vẫn là những người dân nghèo. Ông nghĩ, đây
cũng là cơ hội để thực hiện cái ước mơ được “xênh xang hội gió mây". Miếng cơm bà Phiến Mẫu đã lớn, huống gì ơn vua lộc nước. Hàn Tín đâu có mạnh hơn Tây Sở Bá Vương, ấy mà Hàn Tín cũng đã phá thành đoạt lũy đẩy Hạng Võ vào cửa tử, khiến Hạng Võ phải tự cắt đầu tại bến Ô Giang. Nực cười châu chấu đá xe, Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng, nhưng đội quân của triều đình hiện nay đâu phải là châu chấu. Lúc này, Nguyễn Công Trứ mới thấy việc làm của nhà nho quân tử đã khó, còn trở thành bậc nho tướng còn khó hơn bội phần.
So với bạn đồng sự, con đường công danh của ông phải nói là hanh thông. Từ chức hành tẩu nhỏ hàm bát phẩm, chỉ sau bảy năm, Nguyễn Công Trứ đã kinh qua các chức Tri huyện, Lang trung, Tư nghiệp, Thừa thiên phủ thừa, Tham hiệp Thanh Hóa, và bây giờ (Minh Mệnh thứ 7, 1826) là Binh bộ Thị lang (chánh tam phẩm). Không thân thế, không luồn cúi mà được vậy thì không hanh thông là gì? Nhớ lại khi làm Tham hiệp Thanh Hóa, ông xin về chịu tang thân mẫu; thời hạn chưa hết, ông phải giã từ vợ con, làng xóm để trở lại kinh đô nhận chỉ dụ mới. Sau những lời chia buồn của đấng thiên tử, ông được cử về lại Thanh Hóa để an dân.
Trên đường nhậm chức, Nguyễn Công Trứ ngã bệnh phải nhờ vào các quan sở tại. Lo lắng sợ không đảm bảo nhật kỳ, Nguyễn Công Trứ một mặt nhờ tìm danh y chẩn bệnh, hốt thuốc, một mặt nhờ quan sở tại biểu tấu về kinh trình bày sự việc. Tưởng chỉ có thế với tinh thần trách nhiệm của một hạ quan đối với triều đình, ai ngờ chỉ mấy ngày sau, quan sở tại phải qùi thay ông tiếp nhận chiếu chỉ của vua:
“Nay nghe tin Nguyễn Công Trứ đi đường chẳng may bị bệnh, chẳng hay đã lành hay chưa? Lòng trẫm luống những bất yên, vậy đã phái một tên thị vệ, đem theo một viên ngự y, lập tức bắt trạm đi tới nơi điều trị, cốt được mau lành. Còn Nguyễn Công Trứ thì cứ an tâm mà uống thuốc, bất kỳ một tháng, hai tháng. Khi nào trong mình mười phần khỏe mạnh mới được ra đi, chớ nên vội vàng. Trời   mùa đông lạnh lẽo, nếu đau yếu lại, ấy là phụ cái lòng quyến cố của Trẫm" (1).

(1) Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn hóa, H, 1983, trang 98.
Nhìn quan ngự y bên cạnh quan thị vệ và đoàn tùy tùng của trạm dịch, Nguyễn Công Trứ xúc động trước tấm lòng của Thiên tử. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đó là cách xử thế ở đời, và đã có mấy người làm được, huống gì một đấng quân vương. Không chỉ những lời nói suông, thiên tử còn cử cả ngự y mang theo thuốc qúi đến tận nơi để chăm sóc một viên quan nhỏ như ông. Ơn vua lộc nước lớn lắm, lớn lắm...
Nhờ thầy hay, thuốc qúi đem sẵn từ kinh đô tới, nên chẳng mấy ngày Nguyễn Công Trứ đã bình phục. Nguyễn Công Trứ vui vẻ mở tiệc khoản đãi quan ngự y và các quan sở tại đã giúp đỡ ông trong những ngày vừa qua, rồi tự tay thảo tờ biểu về kinh tạ ơn thánh đế.
Trong lúc chuẩn bị lên đường về nhiệm sở, thì Nguyễn Công Trứ lại nhận chỉ dụ mới. Ân tứ lớn quá! Nguyễn Công Trứ không phải nhậm chức ở Thanh Hóa, mà được triều đình thăng chức và phải gấp rút lên đường thẳng ra dinh Tổng trấn Bắc thành. Từ tòng tứ phẩm qua mấy ngày bệnh được thăng lên hàng chánh tam phẩm chẳng phải trong cuộc đời ai cũng thường gặp. Ngày xưa với Hàn Tín, miếng cơm bà Phiến Mẫu còn lớn thay, huống gì ơn mưa móc mà bản thân ông, gia đình, dòng họ, tổ tiên, làng xóm... được hưởng bấy lâu nay. Ăn cây nào rào cây ấy cũng là cái đạo làm người, đâu thể có phước cùng hưởng, có họa thì... bỏ chạy lấy thân. Hàn Tín bị Lã Hậu róc thịt làm mắm, nhưng nhân cách của ông ta thì để đời khi ông ta từ chối lời khuyên của Khoái Triệt. Dĩ nhiên lúc ấy và cả bây giờ vẫn có người cho Hàn Tín dại. Song cái khôn cái dại ở đời biết sao cho phải. Với ông, cái quan trọng là mình có xứng đáng làm người ở cõi đời này hay không. Phú qúi, quyền lực... dù có trùm thiên hạ mà mỗi khi tự vấn lương tâm ta thấy thẹn thì tất cả đều bằng thừa. Để phân biệt được giữa con người và con thú, theo ông, chỉ có phân biệt được qua nhân cách. Và nhân cách xuất phát từ đạo làm người. Nghĩ tới đó, ý thơ lại vụt trào lên trong ông.
Ông vội lấy giấy bút ghi liền một mạch:
Giang san bất thiểu anh hùng khách,
Gánh càn khôn đeo nặng kẻ rừng nho.
Thiên phú ngô, địa phú ngô,
Thiên hạ sinh ngô nguyên hữu ý.
Dã thị giang san chung tú khí,
Quả nhiên đài các xuất danh công.
Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,
Cờ báo tiệp giữa trời nam bay bướm nhẹ.
Tài bộ thế mà công danh lại thế,
Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong.
Dồi dào thiên tử vạn chung,
Khanh hầu xa mã tướng công lâu dài.
Trần ai ai dễ biết ai.
Mọi việc cứ lần lượt lướt qua trí nhớ ông một cách rõ ràng. Và ông thấy rằng, nếu đống lõa với những gì gọi là nhu nhược, thì có lỗi với mọi người, nhất là đối với những người đã đặt niềm tin vào ông. Việc khởi loạn của Phan Bá Vành đúng hay sai hồi sau sẽ luận, còn hiện tại cần phải dẹp. Ông chỉ muốn giang san thu về một mối, mọi người yên ổn làm ăn. Trời có lúc mưa lúc nắng, mùa có lúc được lúc thua. Nghèo đói không ai muốn, nhưng không vì nó mà ngồi chửi trời than đất. Lịch sử dân tộc là lịch sử chiến tranh, hết chiến tranh chống ngoại xâm, tới chiến tranh bè phái. Từ lúc mở mắt chào đời tới nay, ông thấy đây đó nào có ngày nào được yên. Và dân đen nào có tội tình gì phải chịu máu đổ đầu rơi phục vụ cho sự bực tức, nổi hứng nhất thời của ai đó. Chính nghĩa ở những cuộc khởi dậy này là gì ? Chẳng ai biết, kể cả những người khởi xướng.
Hiệp Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Hữu Thận lên tiếng, phá tan bầu không khí nặng nề đang bao trùm cuộc họp:
- Nhứt dạ sinh bá kế, nhưng tới nay đã không biết qua bao đêm ngày rồi mà chúng ta chưa có kế sách gì hay so với kế sách của quan Binh bộ thị lang vừa trình bày. Do đó, bổn quan giao toàn quyền vụ việc này cho quan Binh bộ thị lang quyết định. Kể từ nay, mọi người từ bổn quan trở xuống đều do sự điều động, xếp đặt của quan Binh bộ thị lang trong kế hoạch dẹp giặc Phan Bá Vành. Nếu ai có kế hoạch gì khác thì đề xuất, còn không thì sau buổi họp này, quan Binh bộ thị lang cứ việc tiến hành. Ở Kinh đô, thánh thượng đang ngóng chờ tin vui của chúng ta, chớ không phải chờ chúng ta bàn cãi, mặc cho giặc lộng hành.
Nghe vậy, mọi người có mặt đều yên lặng, ngước nhìn Nguyễn Công Trứ. Họ nghĩ, Nguyễn Công Trứ là vị quan được nhà vua biệt đãi và chắc kế sách ấy có khi cũng do nhà vua vạch ra, mượn miệng Nguyễn Công Trứ phát ngôn. Do đó, khôn ngoan nhất trong lúc này là thuận theo ý ông ta. Nghĩ vậy, ai nấy đều nhìn Nguyễn Công Trứ với nụ cười khá tươi, rồi đứng dậy chào tạm biệt và hứa sẵn sàng hợp tác.
Chờ mọi người ra về hết, Nguyễn Công Trứ mới ngồi lại bàn kỹ hơn, chi tiết hơn kế hoạch đối phó giặc Phan Bá Vành với quan Hiệp Tổng trấn Bắc thành.
Thượng thư Nguyễn Hữu Thận gật gù tâm đắc những gì mà vị giải nguyên trường Nghệ năm nào vạch ra. Nhưng với ông, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Đầu cha lộn xuống chân con, Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. Trước đây mấy ai nghĩ, nhà Tây Sơn với quân hùng tướng mạnh như thế mà chỉ tồn tại có mười bốn năm?
Nhìn viên hạ quan ra về, Hiệp Tổng trấn Bắc thành dấy lên niềm lạc quan hơn lúc nào hết. Nghe cặn kẽ kế sách dẹp loạn của Nguyễn Công Trứ, ông thấy thiên tử đã chọn đúng bậc văn võ toàn tài. Được người giúp việc như Nguyễn Công Trứ, ông thấy yên tâm. Thật lòng, trước đây ông chưa tin tưởng mấy. Một người mà vừa làm Tham tán quân vụ, vừa làm Binh bộ thị lang, vừa coi sóc Tào hình, ông nghĩ do được lòng quyến cố của vua, nhưng qua buổi làm việc này ông thấy Nguyễn Công Trứ hoàn toàn xứng đáng những chức vụ ấy. Và từ đó suy ra, ông thấy thiên tử có chiếu cố tới ông. Lạy trời, kế sách dẹp loạn của Nguyễn Công Trứ được như ý thì ông cũng được vinh dự lây. Phải tạo điều kiện cho kế sách này đi đến thắng lợi. Thượng thư Nguyễn Hữu Thận chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng với niềm vui rộng mở.

Vũ Gia
Theo http://www.vnmilitaryhistory.net/






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lời tạ lỗi muộn màng

Lời tạ lỗi muộn màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi m...