Quen biết Chinh Văn đã lâu, nếu có ai hỏi điều gì
đọng lại trong tôi về người bạn hiền hòa này? Thú thật, tôi không
thể trả lời ngay được. Chinh Văn thuộc loại nếu ta chưa
hiểu rõ về anh, không nên vội vã nhận xét. Thậm chí, tôi có cảm
giác nếu đặt câu hỏi trên với chính Chinh Văn, có lẽ anh cũng phải
cân nhắc chẳng kém gì tôi. Mặc dù thế, một cách chân tình, hình
ảnh một Chinh Văn thỏ thẻ lý sự tạo cho tôi một cảm giác an lành.
Mặc dù cuộc đời của anh như tôi được biết, đáng để nổi giận, đáng
để uất hận. Cuộc đời trao cho ta bao nhiêu thú vui, cũng trao cho ta
bao nhiêu phiền lụy. Phải tự biết quân bình để sống. Phải chăng
Chinh Văn đã đạt được sự an hằng sau những mất mát anh phải gánh
chịu.
Trên đây tôi vừa phác họa về một Chinh
Văn quen biết. Thế còn một Chinh Văn thi sĩ? Đây là một vấn
đề tế nhị và rất nhạy cảm. Một cách khái quát, chúng ta làm thơ
hay, chưa hay, hoặc dở. Thành công hay thất bại. Chinh Văn là một
trường hợp khác. Năm 1976, thành phố xuất bản một giai phẩm chào
mừng đại hội IV, Chinh Văn có một bài thơ đăng trong đặc san, tôi có
một truyện ngắn. Sau đó bài thơ Chinh Văn được Hoàng Hiệp phổ nhạc.
Thông thường một bài thơ được phổ nhạc phải là một bài thơ hay (tôi
nói về thơ phổ nhạc những năm của thập niên 70 trở về trước. Tiêu
chuẩn để một bài thơ được phổ nhạc ngay nay đã khác nhiều lần
lắm, có khi nằm ngoài lãnh vực nghệ thuật). Theo tôi, bài thơ Hát lên
tiếng chim ngày mới không thành công nếu xét trên quan điểm thuần
túy thi ca, nhưng nếu trao thi ca cho một sứ mệnh nào đó thì bài
Tiếng chim… của Chinh Văn đã đáp ứng được những yêu cầu của thời ky
bài thơ ấy xuất hiện. Và, nó được phổ nhạc cũng bởi lẽ đó. Thế
cho nên tôi tiếp tục chờ đợi một Chinh Văn thi sĩ tự khẳng định
mình.
Tôi đã chờ, tiếp tục chờ… phải mất 25 năm sau sự
chờ đợi của tôi mới được Chinh Văn thỏa mãn bằng thi phẩm: Giữa
đôi bờ hư thực. Phần đầu tiên của thi phẩm đã thỏa mãn sự kỳ vọng
của tôi. Thơ ở phần trên của Chinh Văn ít lời, nhiều ý, giàu ẩn
dụ, cảm xúc và một ít đau xót. Quá khứ chưa buông tha anh? Chúng ta
hãy cùng đọc, cùng xót xa với Chinh Văn:
Vượt trùng dương ta đến đây
để nói với em rằng
- cuộc đời này thật dễ ghét
nhưng khi mặt trời mọc
chiếu vào thân cây này
khiến thân cây nức nở
và một bông hoa mãn khai
ta khóc
mà xin em
ở lại
Bài thơ đẹp như một bông hoa mãn khai nhưng cũng tội
cho cái nòi thi sĩ. Hoặc như bài thơ Chưa chi dưới đây, khi đọc xong,
tôi không nén nổi tiếng thở dài:
Chưa chi
ngày đã tắt
tôi đứng đây
từ khi ra đời
đến khi nhắm mắt
một mình
trên trái đất
chưa chi
ngày đã tắt.
Hình như tôi vừa ném cái gì đó vào không trung, nó
mất hút, và cùng với Chinh Văn, tôi thảng thốt: Chưa chi ngày đã
tắt! Nếu cứ tiếp tục làm thơ như thế, tôi xin chắc Chinh Văn ung dung
tự tại với thơ mình. Nhưng Chinh Văn không muốn hoặc không thể ngừng
ở đó, điều này báo hiệu bằng bài Lên đỉnh Kilimanjaro:
Con gấu chết trênh đỉnh Kilimanjaro
tìm gì
một mình
lên cao đến vậy
tuyết và khí trời tinh anh
Phải, tuyết và khí trời tinh anh và không thể thiếu
mặt trời đỏ rực, một mặt trời soi đường cho thế giới đại đồng.
Nó khác xa thế giới đại đồng của tác giả Biển cỏ: điều cần
thiết và vĩnh cửu, đó là tình yêu của con người với con người.
Không là gì khác. Không thể phủ nhận những cảm xúc thi ca của Chinh
Văn đã mở rộng đến mọi biên giới, chủng tộc, xoay quanh trục quan
điểm tách rời khỏi nàng thơ muôn thuở. Khi đã được trang bị lý
tưởng rồi, thơ có thể vượt qua cảm xúc:
chúng: bóng tối
ta: mặt trời
làm sao che nổi mặt trời
- hừ!
(Niềm tự hào chính đáng, Giữa đôi bờ hư thực)
mùa xuân cây nẩy lộc
lộc biếc nhờ nắng mai
lý tưởng như mặt trời
mời ta vươn tới mái
(Mặt trời và lộc biếc, Giữa đôi bờ hư thực)
Khi đã gọi là thi ca, dù chuyển tải lý tưởng gì
cũng không được phép truất phế những gì thuộc thi ca, chính bởi lẽ
đó, bất chấp không gian, thời gian, thi ca vẫn tồn tại. Ở những
đoạn “thơ” trên, chỉ có ý nghĩa và thái độ của ngôn từ được gọi
là thơ. Ở đây, tôi thuần túy nói chuyện về thơ. Đã làm thơ mà vị
trí thơ là bị xếp vào hàng thứ yếu, dứt khoát “thơ ấy” không hay
được. Thơ không thể là vè, lại càng không phải là truyền đơn, khẩu
hiệu.
Hình như tôi vừa sa đà chốn thụy ngôn, mê ngôn, thấy
hình mà không thấy ý, thấy chữ mà không thấy nét. Loạn tâm sinh
bất an làm sao có thường lạc? Thơ và đạo tưởng như bóng với hình
nhưng chẳng thể là suối cùng nguồn. Thi phú trong tay Lý Thường
Kiệt, Nguyễn Trãi trở thành hịch, đại cáo. Trong lịch sử chúng ta
có bao nhiêu Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi? Tôi rất tiếc khi phải
viết những dòng này. Một người có lý tưởng là một người… lý
tưởng nhưng, thơ lý tưởng e rằng chỉ còn lý tưởng.
Tôi nhớ khoảng năm 1978, Chinh Văn có hai lít đế Gò
Đen, anh rủ tôi và Dương Trữ La đả thành sầu. Hoàn cảnh chúng tôi
lúc ấy quả thật đang bị thành sầu vây khốn, Dương Trữ La thấy rượu
như lân thấy pháo, đế Gò Đèn danh bất hư truyền, rượu còn lai láng
tôi và Dương Trữ La đã ngọa sa trường. Ngày ấy, tôi và Chinh Văn còn
có mối quan hệ khá gần gũi. Viết được cái gì mới tôi đều đưa
Chinh Văn đọc, anh khuyến khích tôi cứ tiếp tục viết. Khi tôi đã
viết chẳng gì có thể cản. Chẳng có gì thúc ép nổi khi tôi không
muốn viết. Không thành thật với chính mình làm sao thành thật với
đời. Tôi rất dị ứng với những loại giả… Thơ mà cũng giả thì cuộc
đời này buồn quá!
Viết đến đây, tôi cảm thấy tiếc tiếc một cái gì
đó, và tôi lật lại những trang đầu của Giữa đôi bờ hư thực,
cảm thấy như hồn mình chùng xuống khi gặp lại cảm xúc tưởng như
đã bay xa:
em
ta cùng nhau đi trên đường dài
mà không hề nắm tay nhau
chỉ chiếc bóng
đôi khi hòa làm một
Ôi, sao mà cô đơn, một sự cô đơn cần thiết. Xin mãi
cứ là thơ, đừng là gì khác. Thơ ơi!.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét