Hoàng Cầm - Một đời “nhớ tiếc”,
Nhà thơ Hoàng Cầm bên bờ sông Đuống (ảnh chụp năm 2000)
Là nhà thơ được yêu mến bậc
nhất trong đời sống thơ đương đại, gần một năm sau khi lìa trần, Hoàng Cầm vẫn
là một hồ sơ chưa được bạch hóa. Cả về đời lẫn về thơ.
Về đời, tuy ông đã kể khá
nhiều với người hâm mộ, với giới truyền thông, nhưng tiếc thay phần lớn chỉ là
những câu chuyện tình đã được thi vị hóa và huyền thoại hóa trước tiên bởi
chính người kể và khuyếch đại sau đó bởi người nghe, trong khi phần quan trọng
nhất trong văn nghiệp cùng những hệ lụy của nó lại chưa có cơ hội trình ra ánh
sáng. Về thơ, có thể nói ngoài những tác phẩm tình ý rõ ràng như Đêm liên
hoan, Bên kia sông Đuống..., thành tựu lớn nhất của ông là Về Kinh Bắc chưa
được hiểu và phân tích đến nơi, một phần do tính chất mơ hồ, đa diện, đa nghĩa
của một số bài quan trọng, mà chính tác giả cũng nói rằng mình không minh định
được, ông còn sẵn sàng khoác thêm một màn sương khói hư hư thực thực bằng những
câu chuyện kiểu như bài thơ ra đời từ tiếng ai văng vẳng trong đêm…
Lại nữa, truyền thông nước
ta góp phần lớn vào việc làm cho công chúng cảm nhận Hoàng Cầm một cách phiến
diện. Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất,
ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai loại
tình: tình quê hương quan họ và tình “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến
thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức văn
chương.
Có lẽ đây là dịp để, sau những
tràng vỗ tay ồn ào cũng như những vòng hoa thương tiếc, cả sau khi những ân oán
thời cuộc thường chi phối sự nhìn nhận tác giả và tác phẩm đã lùi xa vừa đủ, ta
có điều kiện lắng xuống, tịnh tâm để nhận diện con người và thơ Hòang Cầm một
cách thuần túy hơn.
Tôi chưa dám nói về kịch
thơ, truyện thơ Hoàng Cầm, ở đó ngay từ Kiều Loan, và sau đến Người
con gái nước Tần, Trương Chi, tài năng của một nhà soạn kịch sóng với
tài năng của người nhuần nhụy ngôn ngữ thơ đảm bảo giá trị cho những tác phẩm
thuộc một thể loại sân khấu tiếc rằng vì hoàn cảnh lịch sử đã không được nuôi
dưỡng. Tôi tự hạn chế trong lĩnh vực THƠ viết hoa.
Điều đầu tiên tôi muốn nói,
Hoàng Cầm đa dạng hơn những gì công chúng quen nhìn thấy.
Ở nửa cuối cuộc đời, người
ta dễ thấy ông, mà ông cũng thường tự nhận, là con người dễ dãi, uỷ mị, thậm
chí nhu nhược, có gì đó nữ tính,“theo dòng mẫu hệ”. Có thể trong sâu xa con người
ông phần “âm” có sẵn đã nổi lên do hoàn cảnh khốn cùng ông bị đẩy vào, trong
hoàn cảnh ấy cái “âm”, cái “ẩn” có tác dụng bảo toàn, che chở. Cũng nên lưu ý đến
tính nữ ở những vai nam trong quan họ hay chèo, một đặc trưng văn hóa dân gian
đồng bằng Bắc Bộ mà Hoàng Cầm thấm đẫm. Vì thế người ta dễ quên đi gương mặt
hùng của anh bộ đội Hoàng Cầm trong tấm ảnh mũ nan áo trấn thủ chụp ngày mới giải
phóng thủ đô, quên đi giọng ngâm thơ sang sảng trên đài phát thanh của một
Hoàng Cầm trong Đêm liên hoan “Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng/ Ta muốn
hét cho vỡ toang lồng ngực/ Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn”. Mê mải
những “em mặc yếm thắm em thắt lụa hồng” bên kia sông Đuống, tabỏ qua
những anh “bộ đội bên sông đã trở về/ Con bắt đầu xuất kích/ Đồn giặc bắt
đầu run trong sương/ Dao lóe giữa chợ/ Gậy lùa cuối thôn.” Cũng như khi
cùng tác giả trở về Kinh Bắc, bị ám ảnh quá nhiều vì cái lá Diêu
Bông, cỗ bài tam cúc chị chị-em em, người ta không mấy quan tâm đến tâm trạng
bi phẫn Trăng lên chém đầu ngọn gió, Cành si bưng chậu máu chát chao…Người
ta cũng tránh nhắc đến dũng khí của một nhân vật chủ chốt Nhân Văn – Giai Phẩm,
người quyết định công bố Nhất định thắng và sau đó khẳng khái bênh vực
tác giả của nó (Con người Trần Dần).
Tất nhiên thơ Hoàng Cầm cũng
đa dạng như con người ông. Và thay đổi khá nhiều theo theo thời gian, hoàn cảnh.
Không thể nhận ra tác giả những lời thơ lãng mạn tuổi 20 “Những khoảng chiều
buồn phơ phất lại/ Anh đàn em hát níu xuân xanh” trong những giai đoạn
kháng chiến, đầu hòa bình. Nhưng đến những năm tháng của tuổi 70, 80 thì ta nhiều
lúc bắt gặp ông trở lại nhạc điệu, thi ảnh, và cả ngôn từ của thời “vớt mắt
em về bến hoá sinh”. Vâng, ở cái tuổi xưa nay hiếm, Hoàng Cầm vẫn chạy
theo những mối tình đơn phương, ảo vọng, vẫn “níu xuân xanh” với hết
sinh lực (không còn bao nhiêu) và thi lực (vẫn tràn đầy).
Giữa hai đầu lãng mạn đầu đời
và “níu lãng mạn” cuối đời, ta có Hoàng Cầm thơ kháng chiến lượng không nhiều
mà nổi đình đám chỉ cần với một Bên kia sông Đuống. Một Hoàng Cầm thơ
trữ tình phê phán sắc sảo và cay độc thói quan liêu đạo đức giả: “Rúc đầu
vào nách vợ/ Hút hít như chó con…Mắt thầy nhắm nghiền lại/ Thầy đọc kinh giáo
điều… Dao ngọc với gươm vàng/ Chém nát nhừ trận gió…”, “Diễn văn cót két
chân giường mới/ Gặm hết tình yêu hết ước mơ. Ta có cả một Hoàng Cầm biết
tụng ca anh hùng với những hình tượng sáng tạo “Anh đứng là lưỡi cày/ Anh
nằm là dòng mương/ Anh ngồi là cót thóc/ Anh đi là con đường”. Rất ít người
để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một
không hai trong thơ Việt Nam (U gì, tặng khối u của Đặng Đình Hưng) đầy bi
phẫn kinh hoàng ác mộng: “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân
đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông
thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung
rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim
cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao”… “lố nhố nhiều u gì sau
xe hình mắt lé mã tấu trùng trùng răng chuột mặt nạ người đẹp ngọt xớt thanh xà
nép lá bồ đề”.
Về Kinh Bắc
Nhưng có thể nói, tác phẩm gắn
chặt nhất với tên Hoàng Cầm truyền lại cho hậu thế phải là Về Kinh Bắc. Hoàn
cảnh ra đời tối ưu cho một kiệt tác: tác giả bị dồn đẩy vào tâm thế chìm đắm
hoàn toàn trong thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là
năng lượng giải thoát độc nhất (“cô đơn là cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng”
– Đặng Đình Hưng); tác giả đang ở độ chín tới của tuổi tác và tài năng.
Về Kinh Bắc là tổ khúc
tám nhịp hồi quang một vùng văn hóa lịch sử, trên nền ấy nổi lên nhịp Năm gửi gắm
tâm sự của một đứa “Em” (không) gửi tới “Chị”, người mà “Em” thầm yêu, cả tin,
rồi vỡ mộng, nhưng chẳng dám thốt ra lời gì hơn là nỗi lòng bơ vơ, ngậm ngùi,
có chút hờn trách.
Hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc.
Với những chớp lóe ấn tượng thật gợi cảm trong nhịp Một, cũng là khúc dạo
(prelude) của một đại tổ khúc, gồm năm đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - lướt
nhanh một Kinh Bắc huyền tích (Néo Đông Triều khép mở gió kỳ lân/ Chớp rạch
dáng tiên vén xiêm xõa ngủ…), Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt
mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại…Gió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu
thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc
lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai
đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân
gian giàu bản sắc (Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai nhảy
vào đám lửa giỗ đầu… Kèn già lam ai tập thổi/ Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ
tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…). Với lịch sử bi
hùng được kể trong ba nhịp Hai, Ba, Bốn. Với chân dung những người con gái đa
tình, đa truân trong nhịp Năm. Với phác hoạ những hội hè trong nhịp Sáu. Có thể
nói Về Kinh Bắc cùng với truyện thơ Tiếng hát quan họ và
nhiều bài thơ lẻ cuối đời cho thấy Hoàng Cầm là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm
Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico
Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) và romance.
Nhưng cũng phải nhận rằng, Về
Kinh Bắc in đậm vào dư luận và sống trong lòng công chúng phần nhiều ở
chùm thơ đặc biệt trong nhịp Năm: bộ ba Cây, Lá, Quả (Cây Tam cúc, lá Diêu
bông, Quả vườn ổi), mở rộng là bộ bốn (Cây, Lá, Quả, Cỏ - Cỏ Bồng thi). Không
nói tới việc số phận đoạn trường của chùm thơ này kéo theo số phận đoạn trường
của tác giả đã góp phần không nhỏ làm cho chúng nổi tiếng và được yêu mến, “đến
hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ
ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một
liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên
sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi
thì chuếnh choáng ngậm ngùi.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao
Động 1991).
Ngoài chùm thơ trên, có Về
với ta, một bài làm thanh cả nhịp cuối, nhịp kết của tập thơ. Không nổi tiếng
với công chúng rộng, nhưng bài thơ được đánh giá cao trong giới bạn thơ của tác
giả và cũng là một trong những bài tâm đắc nhất của ông. Tôi nghĩ bài này chứa
đựng những gì là Hoàng Cầm nhất.
Về mặt thi pháp, thực ra Về
Kinh Bắc chưa tạo dựng một thi pháp nhất quán rõ rệt như ở Trần Dần, Lê Đạt,
nhưng nó rất riêng một lối thơ Hoàng Cầm của thời kỳ này, cũng là lối thơ Hoàng
Cầm nhất.
Trước tiên là một nhạc điệu
Hoàng Cầm: dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt. Có thể nhận ra tất cả hồn quan
họ ngân nga trong ấy. Thứ nhạc này khiến cho thơ tự do không vần của tác giả,
trong khi theo sát diễn biến của từng tâm trạng cụ thể, thậm chí còn du dương
hơn lối thơ vần điệu (cuối đời tác giả hay tự hát thơ của mình trong những cuộc
gặp gỡ bỏ túi). Ta có thể gọi nó là “điệu tâm hồn Hoàng Cầm”.
Rất rõ một lối tạo hình
Hoàng Cầm: xen tả với gợi, xen ấn tượng, biểu tượng với khắc hằn xuất biểu. Ở
những bài thành công nhất, việc sử dụng biểu tượng gửi gắm những tâm ý không
nói ra được (có thể là “tàn dư” của thủ pháp “biểu tượng hai mặt” thời Nhân Văn
– Giai Phẩm nhưng đã từ tầng lý trí chìm xuống tầng sâu tiềm thức, bộc phát,
nên sức ám ảnh rất cao), kết với sức gợi và ám của nhạc thơ, cho ta một Hoàng Cầm
của thi pháp tượng trưng thời mới – tôi tạm gọi là “tân tượng trưng”.
Hoàng Cầm cũng có một kiểu dắt
dẫn tuyến thơ: Một cách mở đầu hầu như bao giờ cũng tự phát từ sự mách bảo của
tiềm thức, bản năng, không từ sự lập ý (cho nên ông hay nói về tiếng người
trong đêm đọc câu thơ mở đầu cho bài thơ của mình), rồi phát triển bài thơ xen
kể với tả, và cấu trúc bài thơ không bao giờ thiếu kịch tính.
Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm tài
hoa óng chuốt bay bướm nhưng vẫn tự nhiên, tuy cũng có những lúc hơi lạm phát
vàng son song ít khi rơi xuống sáo mòn.
Có một nét rất riêng Hoàng Cầm
nữa: sự tạo dáng ký thác tâm trạng trong các bài thơ. Ngay từ Bên kia sông
Đuống, cái dángnghiêng nghiêng của con sông đã ám ảnh bao nhiêu người
yêu thơ ông (có nhà nghiên cứu còn ngây thơ thử đi đo độ nghiêng của sông Đuống
thực!). Trong một lần chở xe đạp nhà thơ trên phố dịp ông vào Sài Gòn lần đầu,
tôi bỗng “phát hiện” cái thế nghiêng nghiêng của con sông có lẽ là từ
cái dáng nằm nghiêng nghiêng của chính tác giả trong cái đêm trằn trọc
nhớ về con sông quê sa vào tay giặc. Cái dáng này cũng như tiên cảm sự chông
chênh của đời ông! (Đứng không yên ổn, ngồi không vững vàng – Kiều). TrongVề
Kinh Bắc, ta gặp cái dáng bơ vơ Em đứng nhìn theo em gọi đôi, lạc
lõng Từ đấy em đi khắp sông khắp núi/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới
diêu bông, lủi thủi Lẽo đẽo em đi vườn mai sau/ Cúi nhặt chiều mưa
dăm quả rụng, bị du đưa như trong cơn mộng du Chị đưa em đến chốn
này/ Cheo leo mỏm đá, chết đứng không trói mà không đi… em vọng ai
đâu mà hóa đá… kìa rau muống dại kín em rồi…
Bao trùm tất cả, Về
Kinh Bắc dựng lên một không khí, một thế giới Hoàng Cầm. “Thế giới thơ
Hoàng Cầm như một cõi mơ giữ nguyên những cái không hề có thật, cái “lá
diêu bông” là cái lá gì, “cầu bà Sấm bến cô Mưa” là ở đâu, nhưng
cứ ngỡ như là thật; có những chất liệu bình dị của vùng quê Kinh Bắc một thời vừa
đủ xa để nhớ tiếc, cỗ bài tam cúc đôi cá đòng đong... nhưng lại kết thành hư ảo
hàm chứa một cái gì bí ẩn. Hoàng Cầm thuộc nòi thi sĩ giao tiếp được với người
âm, biết cách gọi về những gì đã mất, đẩy cái trước mắt ra xa vời, nên thơ anh
ám ảnh như mộng triệu đòi được giải mã.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa
Thuận Thành,báo Lao Động 1991). (Tác giả rất tâm đắc ý cuối này, ông
lấy nó khi viết Chân dung tự thú năm 1994: “Gọi chiều xưa trở lại/
Đẩy chiều nay về xa/ Thường trò chuyện với ma/ Như với người đang sống”).
Về Kinh Bắc là tập thơ
được Hoàng Cầm sáng tác trong mùa Đông-Xuân 1959-1960 tại nhà riêng (43 Lý Quốc
Sư Hà Nội), sau khi ông bị kỷ luật vì vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Bản thảo sau đó
được ông chép tặng một số rất ít người quý mến mà số lượng ngày càng tăng dần,
nhất là sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Tuy có tiếng xì xầm về những “ẩn
ý” oán trách xã hội của một số bài trong đó, nhất là bài Lá Diêu bông, nhưng
chưa hề có nhận định hay kết luận chính thức nào của các cơ quan hữu trách về tập
thơ, cũng chưa hề có một quyết định nào không cho phép lưu truyền nó. Nhưng đến
khoảng cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, khi một số bài thơ do Hoàng Cầm
chép tặng được truyền ra hải ngoại, thì Về Kinh Bắc đã “thành vấn đề”
đối với “các cơ quan chức năng”.
Năm 1982, một nhà văn người
Việt từ Canada về xin nhà thơ chép tặng toàn bộ tập thơ để mang đi. Cùng lúc
đó, tình cờ tôi từ Sài Gòn ra, cũng xin ông chép tặng để mang vào. Trong bối cảnh
ấy vụ án Về Kinh Bắc ra đời với mục tiêu phá vỡ từ trong trứng một âm
mưu“lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.
Tháng 8 năm 1982, tôi – người
mang tập bản thảo do Hoàng Cầm chép tặng với phụ bản tranh của hoạ sĩ Bùi Xuân
Phái và bìa của nhạc sĩ Văn Cao – bị bắt, ngay sau đó là tác giả của nó.
Trong quá trình điều tra, vì
quá yếu mệt, để mong sớm được ra, nhà thơ đã nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ
qua một số bài thơ trong tập và ông tỏ lòng ăn năn hối lỗi. Điều trớ trêu là,
sau khi có lá thư thỉnh nguyện của một số trí thức Pháp gửi về xin trả tự do
cho nhà thơ, ông lại bị kéo dài thời gian giam giữ. Ông được “tạm tha” sau 16
tháng “giam cứu” (giam giữ để điểu tra) tại Hỏa Lò (nhà tạm giam Hà Nội) và Trại
tạm giam của Bộ Nội vụ - từ cuối tháng 8 năm 1982 đến cuối tháng 12 năm 1983.
Thời gian bị giam giữ đã ảnh
hưởng nặng nề đến sức khỏe tinh thần của Hoàng Cầm. Phải đến hàng năm sau, nhờ
sự động viên của bạn bè, ông mới dần hồi phục.
Sau Đổi Mới, một số bài
trong Về Kinh Bắc được công bố trong vài tập thơ của Hoàng Cầm (Mưa
Thuận Thành, Lá Diêu bông, Bên kia sông Đuống), trong đó có những bài quan trọng
nhất mà dăm năm trước đây còn bị coi là “phản động”. Đến năm 1994 thì Về
Kinh Bắc được xuất bản. Trong giải thưởng Nhà nước về VHNT trao cho Hoàng
Cầm năm 2007, tuy Về Kinh Bắc không được nêu danh, nhưng có những tập
thơ kể trên.
Sau Về Kinh Bắc, thơ
Hoàng Cầm không còn tập trung được sức mạnh vào một tác phẩm lớn, không còn giữ
được nhạc điệu rất riêng, nhưng thế giới thơ Hoàng Cầm vẫn hiện diện một phần ở
tâm trạng tải trên hàng trăm bài thơ lẻ. Một tâm trạng tha thiết đòi yêu, níu
yêu, không cam chịu, nhưng không giấu được tiếng thở hắt phẫn chí, ngậm đắng,
nuốt cay: Gió cấp ba thổi méo thân hình… Vào tim dao khía bịa ra cười… Thứ
thuốc mà ông mang tên càng già càng đắng.
Cuộc đời và thi nghiệp của
Hoàng Cầm là một trường hợp điển hình cho điều mà tôi coi là một trong những
“bí quyết” thành công trong văn giới Việt Nam đương đại. Đó là sự “nằm giữa”. Nằm
giữa con người thi nhân và con người chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), con người
Hoàng Cầm là một mẫu lý tưởng ngấm ngầm cho một bộ phận trí thức văn nghệ sĩ;
thất bại trong cuộc đời tranh đấu phủ thêm hào quang cho thi nghiệp của ông. Nằm
giữa lối sáng tác truyền thống coi cảm hứng từ chính cuộc đời mình là động lực
tự nhiên với ý thức về sự làm mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn
mang tinh thần cách tân quyết liệt. Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm
đà tâm thức tập thể và một chân trời tự do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương
Tây. Nằm giữa kể chuyện và giãi lòng. Nằm giữa thực và mộng, lộ và ẩn, hình ảnh
và biểu tượng, huyền thoại và chuyện thật, văn chương và thế sự. Thơ Hoàng Cầm
dễ lan truyền mà không bình dân, đáp ứng tâm lý thưởng thức của công chúng
trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá đặc biệt, khi văn nghệ đang
chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó; trong cảnh tranh tối
tranh sáng, tiếng xì xào lắm khi còn mạnh hơn lời bình chính thức.
Ngẫm lại một đời thơ ông,
tôi thấy ngay từ thưở 20 đến khi về cõi, ông như không thôi bị ám ảnh bởi cái
nhu cầu nội tâm sâu xa đọng trong một chữ NÍU.
Những khoảng chiều buồn phơ
phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Bao nhiêu tha thiết hàm chứa
cái gì bất lực, tội nghiệp trong câu thơ từ 70 năm cũ dự cảm một điều quý báu
nhất sắp vuột khỏi tay.
Đời ông là cả một đời nhớ
tiếc những cái đã mất ấy (“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao xót xa
như rụng bàn tay”), mà ông chỉ hòng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân
xanh. Níu một mối tình ảo, níu một thời trầu cay mà đỏ, níu màu
dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu lòng
ta cũng vì thế.
Hoàng Hưng
Bán đảo Tân Phong mùa trăng
tháng 3/2011
Nguồn: Bài in trong tuyển tập
Thơ Hoàng Cầm do
Công ty Nhã Nam phát hành tháng 4/2011
Theo http://amvc.free.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét