Trong dòng thơ Việt Nam ở
thiên niên kỷ 20, thơ Hoàng Cầm là những giọt nước trong veo nhưng mặn chát vị
đắng, vị của thuốc mang tên Hoàng Cầm. Gặp anh đầu thập niên 80 kỷ
trước, liên hệ trân quí này hẳn đã ảnh hưởng đến nghiệp viết của tôi, và
hàng năm, cứ dịp Tết tôi lại điện thoại thăm hỏi chúc tụng anh. Mỗi lần, anh lặp
đi lặp lại ‘’ cố về, để anh em còn gặp nhau…’’. Tết năm ngoái, đứa cháu anh trả
lời: ‘’ông cháu nay chẳng còn nhớ gì nữa rồi!‘’ Cho nên, tuy tin anh về
một cõi khác không đột ngột, nhưng sao vẫn rất đỗi đau lòng. Thơ Việt Nam lại vắng thêm một cái bóng khổng lồ, bóng anh.
Xin chép dăm câu thơ anh làm
trên gường bệnh gửi tôi :
Thì em cứ đi
đã quá vòng định mệnh
Sao còn loanh quanh bên số
phận của rừng
Tưởng đã đến một tầng sâu
giun bướm
Hóa ra còn con dế vẫn dưng
dưng
Và, thay nén nhang thắp lên
tưởng nhớ anh trong ngày giỗ đầu, tôi xin trích đoạn những gì
tôi viết về anh.
Thế đấy. Anh chép miệng
cười. Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt. Anh bảo: «...tên
nó vận vào người», lại rót rượu. Ðó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng
óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm. «Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đã cả
năm rồi», anh lại cười, tay với điếu cày. Tiếng nước reo sòng sọc. Mùi
thuốc lào hăng hắc xông lên. Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim. Tôi
ngắm anh. Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào
hoa.
Anh quả là một người hào
hoa.
Chị đi đâu về. Tôi đứng
dậy. Chị bảo «...à, chú đấy à !». Rồi chị ra ngồi, tay rót nước. Tôi nhìn chị. Chị quả là một người đàn bà đẹp. So với người Hà Nội
những năm đó, chị đỏm dáng. Có lẽ chị biết là mình đẹp.
Tôi đưa ly rượu lên môi,
bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đã hẹn tôi rồi không đến một năm
xưa. Tôi nhìn anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này. Tai
tôi lại văng vẳng tiếng cười ròn rã của họa sĩ Hoàng lập Ngôn «... muốn thì đi
với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !» Ngồi trên chiếc ghế đẩu
chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ. Anh ngâm một
cách ngâm lạ lùng. Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ.
Như hát chầu văn. Như rủ người nghe nhập đồng.
Quái lạ. Lời thơ lại
vượt khỏi tầm trí tuệ. Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần
thánh. Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở
lớp thứ tám. Vâng, hiểu thì chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn.
Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm. Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa.
Nó thành những tác động tâm - sinh lý. Nhịp tim không còn đều đặn đẩy máu
đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể bình thường. Nhịp thở
không còn đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ
gì. Còn lớp tám? Tôi phải nói thế nào? Tôi biết như
kẻ có lòng tin vào Thượng Ðế, nhưng làm sao nói đây?
Tôi lẩm nhẩm «... Ta
soi. Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú. Ngủ say rồi đôi cá đòng đong». Ở
tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy
lùi lại những vì sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt. Cúi xuống,
cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi mình trong lạch nước, và an bình
thay, đôi cá đòng đong còn nhỏ bé hơn nữa đã ngủ say rồi. Từ vô cùng lớn,
chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ. Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác
đạp lùi tinh tú. Hình ảnh đó còn bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá
lên cao. Hòn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do,
lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lý kiếp người của
Camus. Lăn đá là hình phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi
đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một vì vua
mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo. Văn minh
nằm ép dưới quyền lực. Còn luân lý, luân lý đã nhiều lần chùn bước trước
sức mạnh trong lịch sử nhân loại.
Hình ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đòng đong ngủ say. Con người
cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội
quay về tìm an nhiên bằng giấc ngủ của đòng đong. May thay, đòng đong vẫn có
đôi. Ðó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải
chăng Ðông khác Tây là vậy? Nhưng thế thì sao «nó vận vào người»được
nhỉ?
Buổi sáng hôm ấy lành lạnh
gió. Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy
tấm ảnh cũ ra nhìn. Ảnh có cụ Sìn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người
đã khuất. Có anh. Có Duy. Có tôi. Những người vẫn
còn. Có chị Băng, dĩ nhiên. Còn có T và L, hai cô gái nuôi của cụ
Sìn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi. T kéo violon
cho dàn nhạc giao hưởng. Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm.
Còn L, cô dạy học ở Hải Phòng, nhưng nay đã lưu lạc đâu đâu bên Hòa Lan rồi.
Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột
xích. Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm. Tôi bảo
«Chẳng biết các ông ấy gặp nhau thì thế nào nhỉ ?». Khi mời anh, Duy chỉ
nói «...anh lên xem bức tranh cụ Sìn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !». Khi mời
Văn Cao, tôi chỉ nói «...cụ Sìn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh thì
thôi không đình đám nữa. Cụ yếu lắm rồi...». Chúng tôi đều biết là
từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp
nhau nữa. Lý do? Tôi kêu lên «...miễn bàn !». Cả nước
hòa hợp hòa giải. Văn hóa thì thế. Một dúm tác phẩm. Dăm ba
ông đứng đầu, ông nọ tránh không nhìn mặt ông kia. Con cháu sau này trông
vào thì sẽ nghĩ gì ? Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ «Cho tôi đi với !»
rồi hồn nhiên tiếp «...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !»
Tôi không hề hỏi đến
lúc là đến lúc nào. Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là nên ,
thế nào là không nên . Bữa ăn nhà cụ Sìn khá vui vẻ.
T và L chạy lên chạy xuống. Cụ bà đi vào đi ra. Tôi vui trong bụng,
chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ý các anh tránh
nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện. Văn Cao thích làm dáng, đôi
khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch. Còn anh, anh hồn
nhiên. Cụ Sìn mang bức tranh cũ ra. Bức tranh không có khung,
vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đọâi mũ có
đính sao. Cụ Sìn lại khà khà móm mém bảo «...lính Vệ quốc đẹp thế đấy
!». Anh mơ màng «...đẹp và trẻ. Có lẽ đẹp vì trẻ...», mắt nhìn T và
L đang cúi xuống thẹn thùng. Quả thế. Tôi cũng nhìn. Cô giáo ở
Hải Phòng đằm thắm hơn. Cô nhìn lại rồi chạy vụt đi. Cô nhạc sĩ vĩ
cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại mơ màng chút u uẩn than
tro. Cô làm vẻ thản nhiên, nhìn về phía sân, nơi nước ao đã tràn lên mấp
mé ven bờ.
Buổi trưa hôm đó qua đi, rất
nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông. Cõi nhân duyên chập chờn oái
oăm. Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này. Và chia với chúng
tôi. Mỗi kẻ một vẻ đời. Làm lính. Làm thơ. Kéo
đàn. Dạy học. Ðến từ một bờ Ðại Dương xa lắc bên kia. Lên từ
Cảng, quê hương của người tài tình thõng một câu thơ nhập «Sinh ra tôi đã có Hải
Phòng...» cho bản trường ca Những người trên cửa biển dính dấp
đến vụ quyền lực hãm và hiếp văn học vào năm 1956. Ðè xuống rồi nằm lên dăm ba
tờ báo để che bớt đi cái ê chề có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở
phì phò, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời
«...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo gì !». Chữ đéo không
thừa. Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa.
Con gái nhà lành thì dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ
dẫu còn trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán
của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ còn lâu vẫn là một nước
có rất nhiều nông nô. Nhưng chuyện đã xưa rồi. Bây giờ khác, người
cày có ruộng và công bằng ra thì người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng
một xã hội tươi đẹp. Có lẽ chính vì vậy là đã đến lúc các ông ấy nên gặp
nhau? Tôi ngây thơ nghĩ thế. Còn anh, hồn nhiên như anh, chắc anh
cũng nghĩ thế. Cụ Sìn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đã
cao.
Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi. Hẳn vô
tình. Giá mà cố ý nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Ðêm hôm đó,
tôi ngủ lại nhà cụ Sìn với Duy. Hai đưa lau sàn xi măng đã lên dầu mồ hôi
sáng bóng rồi mắc màn. T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.
Tiếng ễnh ương bờ ao.
Vẫn gió. Gió xào xạc. Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu
xanh biếc. Tiếng cụ Sìn ho. Tiếng đập muỗi. Tiếng thở dài nhè
nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy. Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay
thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ còn là một
hòn bi ve óng ánh màu hy vọng một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc
tôi. Thú thật, tôi đã là một kẻ có niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ,
tôi vẫn cố gắng tin và còn hy vọng nên mới viết được những giòng chữ này, dẫu rằng
đôi khi bóng tối có lúc đã bao trùm cả đời tôi lẫn đời những người tôi
yêu.
Hình như ai thò tay sang nắm
lấy tay tôi. Tôi để yên, lòng ngậm ngùi, vờ ngủ. Cho đến nay tôi vẫn
chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T. Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đã đi
ra bến xe về Hải Phòng. Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Ðại Dương
bên kia. Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu: Em đi
rón rén trời chưa sáng. Bước động ao bèo bỗng hóa sông
Thuở đó anh biết tôi yêu thơ. Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp.
Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng. Là như bị thôi miên. Là buông hết, và
thả luôn đời mình vào cái mình yêu, hệt như những kẻ tử vì đạo. Cái đẹp,
gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là
người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang hình tượng Ðức Chúa đóng đinh
trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm vì lòng tham tàn cộng
thêm sự ngu muội.
Tôi đến chơi với anh như đến
với cái đẹp. Người ta chặc lưỡi «...giao du phải cẩn thận.» Tôi bảo
«Nếu phải xin phép thì cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên
giao du !». Người ta trừng mắt. Tôi quay lưng đi. Người ta
cho là tôi thách thức quyền lực. Tôi thì không. Vì tôi nghĩ, rất
ngây thơ, là đã «đến lúc» vì bây giờ chỉ có ta, và ta phải «cùng
nhau» góp tay vào xây lại một mảnh đất đã quá đọa đầy. Ðòi hỏi của
hai từ ghép «cùng nhau» là phải xóa đi lằn ranh dĩ vãng đã chia nhau
ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng. Những mảng băng rời
trôi mỗi mảng một hướng. Nước ơi, chỉ có tình của nước mới làm tan những
mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia. Người ta lắc đầu nghi ngại. Tôi đến
chơi với anh. Với Trần Dần, Lê Ðạt. Với Ðặng Ðình Hưng. Người
ta nhăn mặt «Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à ? ». Tôi giật
mình. Thì ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đã trải và cái đẹp !
Nhưng tôi đã thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một
góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.
Anh biết tạng tôi, cái tạng
con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời. Tôi
không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà thò qua màn nắm lấy tay tôi ở
chiếu bên. Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men
Quê và Bốn câu thơ. Anh kể :
«... Tên nàng cũng là Yến.
Chúng mình lên đồi, mặt đất xanh rì, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn
bà. Nắng đã bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa
xa. Ngả mình nằm xuống thảm cỏ, nàng nhìn, cái nhìn như bảo ban. Bỗng
nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu mình kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn
cuồng nhiệt. Khi buông nàng ra, mình đọc «Một con bướm lửa đậu môi».
Nàng nắm hai tay mình kéo ra, miệng thầm thì «Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm».
Nhìn lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, mình tiếp «Ba
làn mây lửa về thăm». Nàng như say sóng, ôm choàng lấy mình để giữ thăng
bằng trong một cơn bão biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay
quơ lên, miệng thở dốc. Mình lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn
nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt. Nàng ngước
mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm «... Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang».
Hai mươi năm sau, tôi vẫn
nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật. Nó
có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai
cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác...
Tôi tin lời anh. Anh hồn nhiên nhận mình là người may mắn. Như vậy
cái gì có thể lại «vận vào người» anh?
Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những
người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của
nàng Thơ. Hiện tượng này nằm dưới tầng ý thức của chính anh. Thậm
chí, nó nằm ngoài anh, và chính vì thế mà anh kể là thơ anh «... vài ba
câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng
vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc... mà tôi xin gọi
là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được.».
Vâng, nghe đâu anh chép được
nguyên bài Lá Diêu Bông. Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi «Thơ
mình được mấy bài ?». Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Ðợi mùa, Cây
tam cúc, Quả vườn ổi. Ðó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết
hát và biết im lặng. Tôi đáp «năm, sáu bài...». Anh cười «...thế là
lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !» và hồn nhiên nói tiếp «... à, em mới kể có
năm thôi !». Thật ra còn bài U gì anh làm gửi cho Ðặng Ðình
Hưng. Bài Ðợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú,
thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng thì đẻ vào tổ sáo hay
tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về :
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
Dãy tre xa giấu biệt giải
khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày đã quăng
sau núi
Hàng tre nhà
yếm trả
Mẹ về
lều dột đón mưa đêm
Thì chị đi
mấy lối
chân chim
Ðể Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu
hú gọi
Câu bốn và năm trong đoạn
này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức
nở nghẹn lại. Tôi xin trích thêm một đoạn :
Em bước vào đình
ôm cột bốn người ôm
Em rẽ sang chùa
lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một, chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi lòa
lõa thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu
non
Giữa câu bốn và năm trong đoạn
này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng (đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có
chữ nào ). Và đây là đoạn cuối:
Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác chôn
niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân
chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng
Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre
Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương
nhu
Bao giờ Mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
Khấn thầm như gặp Chị
Mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm
như mẹ lỡ đò ngang
Miệng hé hạt na nhòa bến vắng
Cổ tay tròn đẫn mía gie
Không
Bầu mẹ không tròn
Bưởi Chị không hoa
Ðã hết năm tu hú gọi rừng
già
Ðã sang mùa
tu hú ngủ rừng xa
Hai câu cuối cùng, thơ là
thơ biết hát. Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên
hai lần. Còn thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần.
Mời bạn tìm, xem sao.
Ðiều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên: Thơ hay là Thơ có tác
động sinh lý lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim. Chính tác động đó ảnh
hưởng đến tâm lý, tạo ra cái đa dạng của thất tình : buồn, vui, bâng khuâng, bực
dọc, phẫn nộ... Ðã nói đến nhịp, là nói về nhạc. Thơ hay không phải
chỉ một câu hay. Thơ hay, không phải một chữ hay. Trò kén chữ cho
khéo là trò kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười
cợt, xong lễ thì ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa.
Thơ hay là thơ nhìn dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lý gây lên thất tình. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần thì thật ra thừa, và điệu, rất sáo mòn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn (nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam vì mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những «Bầu Mẹ không tròn, bưởi Chị không hoa». Cũng vì vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ Làng. «Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...». Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non». Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng
Thơ hay là thơ nhìn dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lý gây lên thất tình. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần thì thật ra thừa, và điệu, rất sáo mòn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn (nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam vì mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những «Bầu Mẹ không tròn, bưởi Chị không hoa». Cũng vì vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ Làng. «Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...». Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non». Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng
Năm 1982 là một năm đầy oan
trái nghiệp nghiệt. Ngẫm lại, hình như những vết chém phi lý và vô nghĩa,
những vết chém không làm sao tìm được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng
của nó. Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của
máu ứa ra từ những vết chém đó. Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong
lao ngục. Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần cửa
sắt chấn song.
(…) Về Hà Nội lần này, tôi gần
như tuyệt vọng : thế quyền đã «co cụm» lại sau Ðại Hội IV, vẫn khăng khăng một
thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đã trình bày về phương
thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị
chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền. Chống lại niềm tuyệt vọng,
thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào
tình yêu. Hay bất cứ gì đồng dạng với tình yêu. Anh cho tôi một món
quà mừng cái tình yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh hì hục chép tay
trên một quyển vở học trò. Tôi vào Sài Gòn trước khi bay sang Pháp.
Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra. Tập thơ Về
Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi
đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ «chống đối» ra nước ngoài.
Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối gì cả : nhà xuất bản Văn Học
đã in nó năm 1994. Còn bắt anh, họ bắt vì lý do gì rồi giam cầm anh một
thời gian khá dài ? Bán rượu ? Hút thuốc phiện ? «Hủ hóa» Việt
Kiều ? Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc.
Báo loan tin anh bị tù. Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra. Cứ thế,
tôi khóc. Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt. Duy có một người
da đen đến chìa cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói «Bonne chance !»
Sau đó, tôi có xin về nước,
nhưng người ta không cấp thị thực nhập cảnh, bảo có lệnh cấm. Lệnh
miệng. Và chịu. Eo ôi !
(…) Năm
1988, giải tỏa lệnh cấm. Dĩ nhiên, Ðại Hội VI đã Ðổi Mới Tư Duy, và thấp
thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy thì
những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội. Tôi, con gà gáy trước khi trời
sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng
đã vội khập khiễng đi tìm rạng đông.
Tôi men ngách vào nhà anh, số
43 Lý Quốc Sư. Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu thì dẹp rồi. Cháu nội gọi
ông, anh từ gác xép leo xuống. Anh đây. Anh gày gò, tóc bạc gần hết
đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đã khuyết một cái. Anh ngẩn ngơ nhìn.
Tôi ôm lấy anh. Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Giữa chúng tôi là bốn năm
tù của anh. Tôi nói «... có điều gì khúc mắc anh cứ hỏi». Anh bảo
«... giá em về trước hai năm thì anh em mình chẳng được thế này đâu». Tôi
im lặng. Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực
hư. Tôi hỏi «Tập thơ anh chép cho em, anh đã lấy lại rồi chứ ?». Anh
cười, cái cười đau xót. Ðó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù thì
anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến.
Nước mắt ứa ra, anh kể :
«... đêm hôm đó, anh đang chập
chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn.
Mở cửa màn, con bướm chui vào. Anh linh cảm, anh biết, anh khấn. Bướm
bay rồi đậu lên bàn thờ. Anh lại khấn «Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ
thân con». Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu
âm dương cách trở».
Nắm tay anh, tôi không muốn
để anh mất mát thêm bất cứ gì. Sau, tặng tôi tập thơ Men Ðá Vàng, anh viết
«...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc».
Ðấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc. Và hạnh phúc của nhà thơ lúc
nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng,
nhưng xa lơ xa lắc, kẻ bình thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt
được.
Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc. Anh nghiêm mặt bảo «...cái
vốn từ của cậu chưa đủ. Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều. Rồi đọc cô
tổ Xuân Hương...» Tôi cãi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá,
hay điển tích quá thì đều là «quá tải». Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Ðạt.
Anh Ðạt khéo kết chữ cũ cho ra mới. Còn anh Dần, anh đi tìm chữ mới, đang
thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ. Anh quay hỏi
«...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào ?» Anh Ðạt lý giải. Còn anh
Dần, anh nhìn tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, «cứ làm !».
Cãi thế, nhưng tôi về tôi
nghĩ. Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều. Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân
Hương. Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập. Rồi tôi dịch lại
hai trăm bài thơ Ðường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi
lại dùng thể lục bát. Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Ðặng Trần
Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Ðiểm. Ðấy, chỉ
một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đã đổ mồ hôi như vậy. Chuyện này,
tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe. Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ
anh. Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa. Song có ân ái được với
nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.
Hợp rồi tan. Tôi lại
phải ra đi. Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe «...lại anh thêm dăm
phút». Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn. Và khi
chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc. Tôi nhìn theo anh trong bóng
đêm. Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm.
Bóng anh mãi cũng xa dần rồi mất tăm. Lúc ấy tôi cũng khóc.
Chúng tôi là những kẻ mau nước
mắt.
Là một người có tự do, tôi lại
càng hiểu thế nào là tù ngục. Những năm anh tù tội nằm trong trại
giam lại ám ảnh tôi. Anh tội gì? Ai có quyền cướp sống dăm ba
năm một đời người? Nhân danh ai, nhân danh gì? Và hẳn anh rồi không
có tội nên anh mới được phục hồi «hội tịch» vào năm 89 !
Phục hồi, chắc cũng trả cho
tí tiền. Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng
chuyện trò duy nhất với những tội nhân. Riêng anh, loại tội nhân có cái tội
là chót làm nhà thơ. Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay. Nhưng hình
như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ. Ðó là một điều đáng hãnh
diện. Ðồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan
nghiệt - hạnh phúc.
Thôi im đi, tiếng hát ngọng
nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc. Thôi im
đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo.
Hãy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của tình bạn,
những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện...
Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đã
tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ÐÐ..., yêu vân vân và
vân vân. Tôi mừng, ông ấy vẫn đó. Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân
trở lại Hà Nội. Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con
trai lớn của tôi.
Lại men cái ngách 43 Lý Quốc
Sư. Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn còn
một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng. Bây giờ, không ai réo tên
nhau. Phải bấm chuông. Tôi hồi hộp. Cửa mở. Anh thò đầu
nhìn, mắt nhắm mắt mở. Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây. Anh còm xuống.
Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả. Anh cười. Ở một cái tuổi
nào đấy, cười làm sao thì cũng như hơi mếu máo. Anh ngồi xuống ghế salon
bọc simili-cuir. Bàn kính. Nhà lát gạch hoa. Thế thì đâu rồi
những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện ? Thế thì đâu rồi cái điếu
cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bấc vặn thật thấp li ti đốm
cháy ? Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm gì. Leo
gác hai, anh đẩy cửa. Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước
nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ. Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào.
Rồi dăm chiếc đóm. Tôi ngồi sụp xuống đất. Tôi bắt đầu nhận ra
anh. Anh cười. Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.
Về, tôi hẹn đến đưa anh đi
ăn cơm trưa với Việt ngày mai. Khi bố con tôi đến thì người nhà anh bảo
anh ốm lắm. Chúng tôi lại leo gác hai. Trong phòng, anh co quắp
trên chiếc chiếu giải trên sàn, mình đắp chăn. Tôi cúi xuống nhìn.
Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn. Anh không nhận ra tôi.
Anh phải vào viện. Năm
ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương. Anh bị xưng phổi sau
cái chuyến đi «trình diễn» thơ ở Thái Bình thì phải. Mỗi chuyến đi thế,
cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ. Lộc thơ chỉ
có thế, và phải chờ những ngày cuối năm. Chúng tôi đến thì đã có dăm ba
phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội. Anh lại khều tôi, miệng cười rất
tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi «...trông được chứ
nhỉ !». Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, «Bác về là sẽ hỏi
cô ta làm vợ». Ngớ ra, Việt không hiểu nhìn tôi dò hỏi. Anh tiếp tục,
rất chân thành, «Mais oui, je vais lui demander sa main... C’est sur».
Sau, con tôi cứ cười, bảo «...quả bác ấy là nhà thơ. Un poète-fou !»
Ðúng đấy. Có nhà thơ
nào không điên? Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn «Ông ấy
nỡm lắm. Già thế mà lên tivi cứ nói tình yêu này, tình yêu kia...
Nghe ngượng đỏ cả mặt!». Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, vì anh ấy sống
phút nào là chong mắt tìm một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái
với nàng Thơ. Nỡm ư ? Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta
có tất cả nhưng không còn yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh
rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả tình yêu và đam mê. Chúng ta có
tất cả đấy, nhưng lại không còn gì ngoài cái hành trình của những người không
tim trong thiên hà mênh mang kia. Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành trình
đó anh cứ đi một mình. Chúng tôi xin ở lại.
Chúng tôi ở lại. Với nghiệp dĩ của những kẻ tin rằng hoang tưởng chẳng thừa
trên cõi người. Thiếu, thiếu vô cùng, hoang tưởngnhư nước trong sa mạc. Và ảo ảnh
một cái hồ long lanh nhấp nhoáng sau những đụn cát vàng cháy là lý do để không
bỏ hành trình đến sự sống. Hoàng Cầm len vào tiểu thuyết Trăng Nguyên Sơ của
tôi. Nhân vật ‘‘hắn‘‘ trong trích đoạn cuốn tiểu thuyết đẻ non, mới in thì
không được phép phát hành, đi tìm bảo vật bảo quốc hộ dân hòng giải phép
trấn yểm đất Đại Việt của tay phù thủy Cao Biền phương Bắc:
(…) Lần theo bản
đồ chi chít tên đường, tôi tìm được phố Lý Quốc Sư. Trước mặt một quảng trường,
Nhà Thờ nghễu nghện chọc trời, tường xám xịt dấu vết những tháng năm không chăm
sóc tu bổ. Dưới nắng rừng rực chực bốc lửa, tôi vội bước, nhìn số nhà rồi rẽ
vào một cái ngách. Chục năm trước, tôi có đến đây một lần nhưng bây giờ chẳng
còn nhận ra gì nữa. Quán rượu ngày xưa giờ là căn nhà ba tầng bằng gạch, cửa sắt
khóa bằng một sợi dây xích sắt to bằng ngón tay cái. Tôi bấm chuông. Một đứa bé
ra bảo: "Ông cháu đau, không xuống được!". Tôi nhờ cháu lên gác báo,
khẩn khoản dặn: "Cháu cứ nói thế, chắc ông cho gặp!". Quả vậy. Uốn
người, tôi leo một cái cầu thang hẹp, bậc không đều, cao thấp khó lường.
Nhà thơ ngước mắt nhìn tôi.
Ông ta đây sao? Mười lăm năm trước, ông đã đứng tuổi nhưng vẫn cường tráng mặc
dầu khi tôi gặp, ông mới bị quản chế đâu gần ba năm vì cái tội chính thức là…
bán rượu lậu. Nay, tóc ông bạc phau, móm mém, mắt lờ đờ, nằm nghiêng phì phò thở.
"Nhà thơ chắc không nhận
ra... tôi!"
Ông lắc. Tôi nhắc lại buổi
tôi gặp ông với hắn cách đây mới thế mà đã mười lăm năm. Ông mỉm cười:
"Lâu nhỉ! Mình trí nhớ
kém rồi... Lại mới ngã cầu thang, xương chậu bị vỡ, ngồi lên không được! Xin lỗi
phải tiếp khách trong cái thế khó coi này!", ông khẽ cười.
Hỏi ông đã gặp hắn chưa, ông
nhắm mắt, đáp:
"Bao giờ về cậu ấy cũng
đến thăm tôi. Sau dịp Tết vừa qua, cậu ấy từ Đà Nẵng vào..."
"Anh ấy có nhắc sẽ đi
tìm chùa Báo Thiên... Thưa nhà thơ, chùa ấy ở đâu?"
"À... Chùa xây cuối đời
Lý, bị phá thế kỷ trước mất rồi... Người Pháp xây Nhà Thờ Lớn ngay trên
móng nhà chùa, ở góc phố. Làm gì còn chùa Báo Thiên? Khi cậu ấy hỏi, tôi đã bảo
vậy!"
Tôi cân nhắc, rồi ngập ngừng:
"Nhà thơ có biết anh ấy
đi tìm gì không?"
"Biết..."
"Nhưng đó là một niềm
hoang tưởng..."
Tôi nhẩn nha kể lại cho nhà
thơ nghe nội dung những bức e-mail tôi nhận được và kết luận:
"Sợ anh ấy hoang tưởng ở
mức bệnh hoạn... Cho nên tôi mới về gấp!"
Nhà thơ mỉm cười, từ tốn:
"Đừng sợ. Một thứ vật
quý hiếm như vậy, có hoang tưởng thì cũng tự nhiên thôi. Vả lại, người nghệ sĩ
nào chẳng hoang tưởng. Động cơ tái tạo mọi hiện thực phải giẫy bỏ để giải phóng
sáng tạo... Hoang tưởng càng lớn thì khả năng nghệ thuật càng cao. Như cái nghiệp
ấy mà!"
Ngưng lại lấy hơi, nhà thơ
thều thào tiếp:
"... Thế là tháng nay
không thấy mặt, chẳng hiểu đã tìm ra chưa, rõ cơ khổ!"
Ra đường, tôi vòng lại Nhà
Thờ. Đứng dưới mái hiên một cửa hàng bán mỹ nghệ cho khách du lịch, tôi
ngước nhìn cây thập tự cao vút chọc vào nền trời sáng lóa mắt, tưởng tượng cảnh
xe bò chở tượng Phật đi để lấy tượng Chúa thay vào thế chân trong một cuộc thay
nhà đổi chủ.
Thế quyền và tâm linh phải
chăng là hai mặt một đồng xu trong một thể cân bằng không bao giờ ổn định. Đồng
xu quay sau cái búng tay của tên phù thủy biến chuyện đời thành trò ảo thuật
quay tít thò lò, và tiếng hô: "Nào đặt cược nào, sấp hay ngửa!".
Bây giờ, trên đầu hai thứ
tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu. Chẳng hạn loại khẩu hiệu như «... tất cả
cho mai sau», hoặc «Tự do hay là chết». Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc,
tôi rất do dự khi đụng vào cái chết. Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất
cả. Nó đèo bồng trên lưng tự do. Và càng tự do thì gánh nặng càng
nhiều. Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm gì và sống ra sao với
cái tự do đó. Cho những người theo đòi nghiên bút, làm gì là viết
gì. Sống ra sao đồng nghĩa với ý thức trách nhiệm thế nào với người và với
mình.
Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ,
có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ. Anh ta viết kèm «... kể từ nay,
tự do không còn là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết. Con người biết tự
mình cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an. Chúng
ta có quyền hy vọng...». Anh ta kể ra hoài bão thực hiện một bộ tiểu thuyết
về bức tường mà không còn sợ hãi gì nữa. Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết
gì được. Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đã viết là viết trước ngày bức
tường sụp đổ. Từ đó, anh chịu. Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được
vài trang. Còn hai trăm trang kia, anh đã lặng lẽ viết trong nỗi lo
âu. Lo và sợ. Ðến độ vợ con anh cũng không hay biết. Tôi lại
hỏi, tại sao, tại sao thế. Anh buồn bã trả lời «...ngày trước, tôi viết
chống một cái gì để cho một cái gì khác chưa có. Nó thật rõ ràng.
Bây giờ ư ? Cái gì đó chưa có đã thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ
nên tôi không còn định hướng viết cho cái gì được nữa. Có nhà
xuất bản bảo tôi, hãy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết,
vừa dễ bán. Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới.
Tôi đã thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi. Tôi không muốn là một nhà văn
vô trách nhiệm...».
Nhưng trách nhiệm đó là
gì? Có lẽ với anh là ca ngợi Tình Yêu chăng? Chỉ năm ngoái tôi mới
được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại. Sách in
lem nhem, bìa photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản
Văn học in năm 1994. Tôi cầm cuốn sách, lòng ngậm ngùi. Những vần
thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị tình phụ trong nền kinh
tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ? Đó là những vần thơ tình rất đẹp.
Tình yêu Kinh Bắc. Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành. Rồi anh đi
liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng. Lỡ làng,
bến tình không người đợi. Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu.
Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị
lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả
ương. Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng... Lỡ làng, quan
đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi. Lỡ làng, em
đứng nhìn theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái
với nàng Thơ. Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ. Lỡ
làng, là đời anh. Bởi anh biết yêu. Biết yêu là yêu đến cuồng dại
(…)
Ðể kết một cuốn sách đọc
lâu rồi nên tôi đã quên tên, André Breton - một cột sống trong phái siêu thực -
viết «Je vous souhaite d’être follement aimée.» (Xin chúc bạn được yêu
đến cuồng dại). Ðược yêu thôi ư? Cũng tạm. Nhưng tôi, tôi chúc anh
khác, chúc anh hơn vậy nhiều. Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại, với
chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ.
Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết Yêu là hành động, và cho một
nhà thơ, Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ có nghĩa.
Những con chữ đẹp. Những con chữ có đời sống. Muốn đẻ ra
chúng, thì có hề chi những cơn đau trở dạ. Thì có hề chi những lỡ làng.
Tôi nhớ đã hỏi anh Hoàng Cầm,
tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa gì? Anh cười, có chút gì như
là chua xót,«Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người».
Hoàng Cầm còn vận
vào thành một vị thơ. Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng
cũng xót xa nhất của dòng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20. Cơn mây mưa giữa nàng
Thơ và Anh đã sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp - hạnh phúc như vết
chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva
Nhưng hề chi, có hề chi.
Chép lại, như để khép một vết
thương, dăm câu viếng anh:
Ánh
sao vun vút
băng qua Thiên hà
mông
mênh
mưa Thuận Thành nhe nhẹ
ướt
tà váy Đình Bảng gió lộng
bồng bềnh
Bây giờ…
những giấc mơ vuột khỏi tầm tay
chiều hoang quả rụng, chẳng ai hay
Bây giờ
tiếng tu hú gọi bình minh khản cổ
tiếng con chào mào hót muộn ngày mai
Nhưng thôi…
Bây giờ
xin Anh cứ
yên ả nằm nghiêng
trên giải sông Ngân
một dòng phẳng lặng
chảy xuôi đến an nhiên,
nơi chắc không cần nước mắt.
*Trích
một phần từ ‘’Một vị thuốc đắng, một vị thơ‘’ đã in
trong ‘’Những con người, những bóng ma’’, NXB Văn Mới, California, 2006,
và một phần từ tiểu thuyết Trăng Nguyên Sơ, NXB Lao Động và Trung
Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2008.
Nam Dao
Nguồn: Bài in trong tuyển tập Thơ Hoàng Cầm do
Công ty Nhã Nam phát hành tháng 4/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét