Thể loại giao hưởng (Symphony)
I. GIỚI THIỆU
Giao hưởng là một thể loại
tác phẩm quy mô dành cho dàn nhạc (hoặc dàn nhạc với giọng hát) và thường có
nhiều hơn một chương. Thuật ngữ “giao hưởng” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có
nghĩa là “cùng nhau phát ra âm thanh.” Ý nghĩa này của thuật ngữ “giao hưởng”
đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử âm nhạc. Ý nghĩa của nó theo cách hiểu
của chúng ta ngày nay đã được định hình từ nền âm nhạc Đức và Áo trong suốt đầu
thế kỷ 18.
II. NGUỒN GỐC
Thuật ngữ giao hưởng xuất hiện
lần đầu tiên vào năm 1597 với vai trò là tiêu đề các tác phẩm của nhà soạn nhạc
thành Venice Giovanni Gabrieli, đó là những tác phẩm nhạc lễ cho giọng hát và
nhạc cụ, có tên gọi “Sacrae symphoniae”. Khi đấy, từ “symphoniae” đã được
dùng để chỉ “sự cùng nhau diễn xướng” của các giọng hát và nhạc cụ. Tuy nhiên,
việc Adriano Banchieri cho ra mắt một bản Giao hưởng nhạc cụ mà không có giọng
hát vào năm 1607 đã vạch ra một xu hướng mới quan trọng trong lịch sử giao hưởng.
Năm 1619, nhà soạn nhạc và lý thuyết âm nhạc người Đức Michael Praetorius đã viết
trong tập tiểu luận của ông về các hình thức âm nhạc đương thời (Syntagma
musicum, Vol. III) rằng, một bản giao hưởng là “một tác phẩm hòa tấu chỉ của
các nhạc cụ mà không có bè giọng hát – loại tác phẩm này được những người Ý khởi
xướng.” Từ giao hưởng cũng được áp dụng cho phần mở đầu bằng nhạc cụ hoặc phần
ngưng nghỉ trung gian (interlude) trong các hình thức âm nhạc như cantata,
opera và oratorio. Một ví dụ đáng chú ý là “Giao hưởng Đồng quê” trong tác phẩm Messiah (1742)
của George Frideric Handel.
Là một phần mở đầu bằng nhạc
cụ, sinfonia (tên tiếng Ý của symphony) đã trở thành một phần
quan trọng của nền opera Ý thế kỷ 17, chẳng hạn như “sinfonia avanti l’opera”
trong các tác phẩm của Alessandro Scarlatti. Vào khoảng năm 1700, những
overture opera được gọi là các sinfonia này đã có hình thức cấu trúc ba phần hoặc
ba chương. Chương đầu nhanh, chương thứ hai chậm và chương thứ ba có tính nhạc
nhảy – thường là một minuet.
Không chỉ được liên hệ
một cách hữu cơ với các opera, các overture này cũng được trình diễn như các
tác phẩm hòa nhạc và các nhà soạn nhạc Ý như Tomaso Albinoni, Giovanni Battista
Sammartini và Antonio Vivaldi đã bắt đầu viết những sinfonia độc lập cũng theo
hình thức nhanh-chậm-nhanh. Cấu trúc chương thứ nhất của của kiểu giao hưởng
này đã sớm sử dụng hình thức sonata, và những tiền thân khác nhau của hình thức
sonata hoàn chỉnh sau này cũng được định hình trong sự phát triển của thể loại
giao hưởng.
Một ảnh hưởng quan trọng
khác đối với nền giao hưởng Ý là intermezzo, một hình thức âm nhạc được
phát triển ở Naples. Các giai điệu trong các intermezzo bao gồm sự kết
hợp của các motif ngắn gọn, rõ ràng, được đệm bởi các phép hòa thanh đơn giản,
trái ngược với những giai điệu trau chuốt và phép hòa thanh phức tạp thường thấy
trong âm nhạc trước đó. Sự phát triển này đem lại cho các nhà soạn nhạc những
“chất liệu nguyên sơ” – những chủ đề để họ có thể tái kết hợp, tái hòa
thanh và phát triển chúng trong hình thức sonata.
Đến năm 1740, giao hưởng đã trở
thành thể loại trung tâm của âm nhạc cho dàn nhạc. Những trung tâm lớn cho thể
loại này là các thành phố Mannheim và Berlin của Đức, cùng với thủ đô Vienna của
Áo. Nhà soạn nhạc người Bohemia Johann Stamitz đã mang lại danh tiếng quốc tế
cho dàn nhạc ở Mannheim khi để họ trình diễn các giao hưởng của ông. Stamitz đã
là người đầu tiên thêm chương thứ tư vào một bản giao hưởng, đó là một chương kết
nhanh, nối tiếp chương minuet. Các chủ đề hai trong các chương sonata của
ông cũng thường bộc lộ tính chất tương phản rõ rệt.
Ở Berlin, các nhà soạn
nhạc Johann Gottlieb Graun và C.P.E. Bach (con trai J.S. Bach) cũng đã viết những
giao ba chương với những tương phản chủ đề rõ rệt và nhấn mạnh sự phát triển
cũng như sự biểu lộ cảm xúc.
Các giao hưởng bốn
chương đã thống trị ở thành Vienna, với chương đầu được quan tâm một cách đặc
biệt. Các nhà soạn nhạc ở đây sử dụng nhiều hơn các nhạc cụ hơi và quan tâm đặc
biệt tới sự gắn kết giai điệu; chẳng hạn, phần chuyển tiếp giữa các chủ đề có
thể thể được cấu thành từ các đoạn ngắn của chủ đề chính. Trong số các nhà soạn
nhạc thành Vienna khi ấy có Georg Matthias Monn và Georg Christoph Wagenseil. Một
người con trai khác của J.S. Bach là J.C. Bach cũng có tầm ảnh hưởng lớn, ông vốn
học ở Ý là đến làm việc ở London, các giao hưởng của ông mang đầy sự sáng sủa của
những giai điệu Ý.
Vienna là nơi mà nền giao hưởng
thế kỷ 18 vươn đến đỉnh cao. Đó là thời điểm cuối thế kỷ 18, với các tuyệt tác
của Joseph Haydn, Wolfgang Amadeus Mozart và Ludwig van Beethoven. Haydn, nhà
giao hưởng Vienna vĩ đại đầu tiên, đã không ngừng thử nghiệm với những kỹ thuật
và đạo cụ mới trong sáng tác cho dàn nhạc. Ông đã sáng tác 104 bản giao hưởng
và quá trình đó đã kéo dài và mở rộng hình thức giao hưởng. Những phần mở đầu
chậm thường đi trước trong các chương một, các chương sonata thường tránh sự
tương phản chủ đề; các chương kết, hình thức sonata hoặc rondo, có sức sống và
sức nặng chưa hề thấy trong các sáng tác của những nhà soạn nhạc trước đó.
Haydn thường sử dụng phép đối âm, gắn kết nó vào trong phong cách giao hưởng.
Những đặc trưng tiêu biểu này thậm chí vẫn có mặt cả trong những giao hưởng
khác thường như Giao hưởng “Tiễn biệt” (1772) – trong đó các nhạc công dần dần
dời khỏi sân khấu cho đến những phút cuối cùng của tác phẩm.
Mặc dù Haydn thường được
gọi là cha đẻ của giao hưởng, nhưng thể loại này thực ra đã có sự khởi đầu ở Ý
và Đức. Haydn đã phát triển thể loại này dưới dạng bốn chương, đem lại cho nó
cái được gọi là hình thức cổ điển, đưa nó đến một đỉnh cao mới của âm nhạc.
Haydn và người bạn thiên tài của ông – Wolfgang Amadeus Mozart đã tạo ảnh hưởng
lẫn nhau trong kỹ thuật giao hưởng. Mozart, một trong những bậc thầy giao hưởng
vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã sáng tác 41 bản giao hưởng với tính chất sáng
tạo kỳ diệu. Trong những giao hưởng nổi tiếng nhất của ông có Giao hưởng
Linz (1783), Prague (1786),Haffner (1782); và ba bản giao hưởng
cuối cùng: Mi giáng trưởng, Son thứ và Jupiter (1788), đưa thể loại
giao hưởng vĩnh viễn trở thành một thể loại lớn với tính chất biểu hiện sâu sắc.
Trong chín bản giao hưởng của
mình, Ludwig van Beethoven đã đưa ra khái niệm về các mối quan hệ chủ đề giữa
các chương. Trước thời Beethoven, các chủ đề trong mỗi chương là độc lập với
nhau. Beethoven đã mở rộng một cách lớn lao và sâu sắc những khả năng biểu hiện
của thể loại giao hưởng và đem lại cho nó khả năng khắc họa những cảm xúc phong
phú và mãnh liệt. Khả năng biểu hiện lớn này đã có mặt ở mức độ đáng kể trong
hai bản giao hưởng đầu tiên của ông, và nó đã trở nên đặc biệt nổi bật trong
Giao hưởng số 3 giọng Mi giáng trưởng (1805), thường được biết đến với cái tên
“Eroica” (“Anh hùng” – đã từng được dự định đề tặng Napoleon). Tuyệt tác này có
một chương đầu cô đọng, tràn đầy sức mạnh sáng tạo, một chương hai sâu sắc dưới
dạng một hành khúc tang lễ, một chương ba scherzo sôi nổi, và một
chương kết dưới dạng các biến tấu trên một chủ đề. Nếu như trước đó, chương ba
thường là một minuet, thì trong các giao hưởng của Beethoven, chương ba trở
thành một khúc scherzo sống động.
Trong Giao hưởng số 5
giọng Đô thứ (1808) của mình, Beethoven đã đưa vào một motif nhịp điệu và giai
điệu 4-nốt, nó có vai trò thống nhất các phần tương phản của tác phẩm. Giao hưởng
số 6 giọng Fa trưởng (1808), được biết đến với cái tên “Đồng quê”, đã mô tả những
cảm xúc nảy sinh khi nhà soạn nhạc hồi tưởng lại những cảnh thôn dã. Nó sử dụng
một số kỹ thuật của âm nhạc chương trình, kể một câu chuyện đơn giản và mô phỏng
những âm thanh như tiếng chim và tiếng sấm sét. Giao hưởng số 9 giọng Rê thứ
(1824), được coi như một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của Beethoven, kết
thúc bằng một chương hợp xướng dựa trên bài thơ “An die Freude” (Hướng tới
niềm vui) của nhà thơ Đức Friedrich von Schiller.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Lãng
mạn trong âm nhạc mang lại hai xu hướng đối lập nhau trong sáng tác giao hưởng:
xu hướng thứ nhất là sự gắn kết vào giao hưởng những yếu tố của âm nhạc chương
trình, và xu hướng thứ hai là sự cô đọng các ý tưởng của hình thức cổ điển, với
những giai điệu và hòa âm điển hình của thế kỷ 19. Những minh họa nổi tiếng cho
xu hướng thứ nhất là nhà soạn nhạc Pháp Hertor Berlioz và nhà soạn nhạc Hungary
Franz Liszt. Những giao hưởng của họ dựa trên những ý tưởng văn học (hoặc phi
âm nhạc) nhất định, chúng được gọi là các thơ giao hưởng. Yếu tố giai điệu
lặp đi lặp lại trong Giao hưởng Ảo tưởng (1830) của Berlioz là một
thí dụ, nó diễn tả người phụ nữ đã ám ảnh những giấc mơ của nhà soạn nhạc. Toàn
bộ bản giao hưởng diễn tả sự say đắm đến cuồng dại của nhà soạn nhạc đối với
người phụ nữ này.
Trái lại, nhà soạn nhạc
người Áo Franz Schubert, về cơ bản đã sử dụng lối tiếp cận hình thức cổ điển
trong sáng tác giao hưởng, tuy nhiên, các giai điệu và hòa âm của ông mang tính
chất lãng mạn tuyệt hảo. Những giao hưởng nổi tiếng nhất của ông là Giao hưởng
“Bỏ dở” (1822) và Giao hưởng Lớn (1828). Các giao hưởng của những nhà soạn nhạc
Đức Felix Mendelssohn và Robert Schumann diễn tả đặc trưng hòa âm
phong phú của chủ nghĩa lãng mạn. Những giao hưởng nổi tiếng nhất của
Mendelssohn là Giao hưởng Scotland (1842), Giao hưởng Ý (1833), và Giao hưởng
“Cải cách” (1841), chúng hơi chứa đựng các yếu tố của âm nhạc chương trình
thông qua ý nghĩa của các tiêu đề. Các giao hưởng nổi tiếng của Schumann, bao gồm
“Mùa xuân” (1841) và “Sông Rhein” (1850) yếu về cấu trúc nhưng lại giàu giai điệu
và nhạc tố lãng mạn.
Thành công nhất trong
sự kết hợp hình thức cổ điển và phong cách lãng mạn là bốn bản giao hưởng của
Johannes Brahms. Những giao hưởng này vẫn giữ hình thức cổ điển trong cấu trúc
rất chặt chẽ của chúng, nhưng lại mang tính chất sâu sắc, triết lý trong sự biểu
hiện cảm xúc lãng mạn.
Nhà soạn nhạc
Nga Peter Tchaikovsky sáng tác sáu bản giao hưởng, với tinh thần là
âm nhạc chương trình, chúng gắn kết những cảm xúc mãnh liệt với những chất liệu
âm nhạc dân gian Nga, và đặc biệt là trong ba giao hưởng cuối cùng có một sự
phát triển âm nhạc sâu sắc.
Các nhà soạn nhạc Áo
Anton Bruckner và Gustav Mahler chịu ảnh hưởng lớn của nhà soạn nhạc kịch opera
Richard Wagner. Chín giao hưởng của Bruckner khai thác những hiệu quả dàn nhạc
lớn và đạt được tính thống nhất trong sự tranh đua giữa các mẫu hình nhịp điệu
và giai điệu. Mahler đã mở rộng một cách đặc biệt độ dài của giao hưởng và thường
xuyên thay thế những hình thức của nó bằng những đoạn thanh nhạc. Mahler đã nhấn
mạnh màu sắc, hay âm sắc của những nhạc cụ riêng lẻ và ông đã thử nghiệm kết
thúc một bản giao hưởng bằng một âm điệu khác với âm điệu mở đầu. Trước đó, việc
mở đầu và kết thúc một bản giao hưởng bằng cùng một âm điệu giúp nó đạt được sự
thống nhất hoàn chỉnh. Mahler đã mong ước rằng các giao hưởng của ông “chứa đựng
thế giới”, và ông đã gắn kết các ý tưởng tôn giáo và triết học về những khát vọng
của con người và sự đấu tranh của loài người chống lại định mệnh. Nhà soạn nhạc
người Czech Antonin Dvorak nổi tiếng với tài năng sử dụng các giai điệu dân
gian, như được thể hiện qua bản giao hưởng có tiêu đề “Từ Thế giới Mới” (1893)
của ông.
Các nhà soạn nhạc Pháp
như Vincent d’Indy và Camille Saint-Saens, các nhà soạn nhạc Nga như Alexander
Borodin và Nikolai Rimsky-Korsakov cũng viết nhiều bản giao hưởng nổi tiếng.
Giao hưởng Rê thứ của nhà soạn nhạc Pháp-Bỉ César Franck cũng là một ví dụ cho
xu hướng “cấu trúc hình trụ” của thế kỷ 19, đó là xu hướng gắn kết các chương
khác nhau bằng sự lặp đi lặp lại các chủ đề và motif.
Trong suốt thế kỷ 20, một số
các nhà soạn nhạc như Charles Ives (người Mỹ) và Carl Nielsen (người Đan Mạch)
đã bám sát hình thức giao hưởng như những phương thức sáng tạo mang tính cá
nhân cao. Cả hai người đều đã thử nghiệm với những phép đa âm và nhiều kiểu
sáng tác hiện đại khác. Nhà soạn nhạc Phần Lan Jean Sibelius đã đem lại sinh
khí cho giao hưởng với hướng đi ngược lại với Mahler. Sibelius đã cô đọng một
cách chặt chẽ các chất liệu chủ đề và các quá trình phát triển. Ông đã từng
chuyển từ cấu trúc 4 chương truyền thống sang cấu trúc ba chương trong Giao hưởng
số 5 (1919) của mình, và cuối cùng là chuyển về một chương trong Giao hưởng số
7 (1924). Trong chín bản giao hưởng của mình, nhà soạn nhạc Anh Ralph Vaughan
Williams đã tiếp tục truyền thống của Dvorak trong việc đi theo phong cách dân
tộc đặc trưng, rút ra từ âm nhạc dân gian, đặc biệt là trong Giao hưởng số 3 –
được gọi là “Đồng quê” (1921) và Giao hưởng số 5 (1943).
Những nhà soạn nhạc
khác, đi theo các ý tưởng của chủ nghĩa tân cổ điển, đã tránh sự biểu hiện cảm
xúc của chủ nghĩa lãng mạn và sửa đổi hình thức giao hưởng để đưa vào đó những
xu hướng hòa âm, nhịp điệu và kết cấu của thế kỷ 20. Nhà soạn nhạc Nga Sergey
Prokofiev đã viết Giao hưởng số 1 của ông (1916-1917), được gọi là Giao hưởng
“Cổ điển” theo phong cách của Haydn. Những ví dụ khác của chủ nghĩa tân cổ điển
được tìm thấy trong các giao hưởng của nhà soạn nhạc gốc Nga Igor
Stravinsky và những nhà soạn nhạc Mỹ như Aaron Copland, Roy Harris, Walter
Piston và Roger Sessions. Nhà soạn nhạc Áo Anton von Webern, với kỹ thuật của hệ
12 âm, đã sáng tác một bản giao hưởng sơ lược, có thể được trình diễn trong 11
phút. Giống như “Kammersymphonie” (“Giao hưởng Thính phòng”, 1906) của người đồng
hương Arnold Schoenberg, nó diễn tả xu hướng cô đọng của thế kỷ 20 cũng như tính
tiết kiệm trong hình thức và chất liệu.
Các giao hưởng của nhà
soạn nhạc Nga Sergey Rachmaninov là lãng mạn và cổ điển về hình thức. Những tác
phẩm có giá trị đặc biệt thuộc về một nhà soạn nhạc Nga khác là Dmitri
Shostakovich, các giao hưởng của ông thường đồ sộ về quy mô và đôi khi mang
tính chất chương trình. Họ đã nối tiếp truyền thống của Mahler khi đem lại cho
giao hưởng sử biểu hiện nội tâm đầy xáo động của chính bản thân nhà soạn nhạc.
Trong giai đoạn sau Thế
Chiến II, nhiều nhà soạn nhạc tiếp tục coi giao hưởng như một phương tiện cho
những tuyên ngôn quan trọng nhất của họ. Bốn giao hưởng của nhà soạn nhạc Anh
Sir Michael Tippett phản ánh từng thời kỳ khác nhau trong sự phát triển phong
cách của ông, trong khi đó, Giao hưởng Turangalila (1948) của Olivier
Messiaen (Pháp) là một tổ khúc lớn 10 chương xoay quanh một vài chủ đề trung
tâm.
Những người Mỹ viết
giao hưởng vào cuối thế kỷ 20 và đầu 21 bao gồm Philip Glass, John Coregliano
và Eileen Taaffe Zwillich. Ở châu Âu có Sir Peter Maxwell Davies (Anh);
Arvo Pärt (Estonia); Einojuhani Rautavaara (Phần Lan); Hans Werner Henze (Đức);
cùng các nhà soạn nhạc Ba Lan Henryk Górecki, Witold Lutosławski, và Andrzej
Panufnik.
Trần Trung Dũng dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét