Âm nhạc: Thể loại Tổ
khúc (Suite)
Tổ khúc (Suite) là một bộ các tác phẩm khí nhạc được sắp xếp
theo thứ tự nhằm để biểu diễn riêng một mạch. Trong thời kỳ Baroque, tổ khúc là
một thể loại khí nhạc bao gồm một số chương có cùng điệu thức, một vài hay tất
cả dựa trên các hình thức và phong cách vũ khúc (các thuật ngữ khác dành cho
nhóm các vũ khúc thời Baroque gồm có Partita, Overture, Ordre và Sonata da
camera).
Việc ghép đôi các vũ khúc ít nhất cũng đã có từ thế kỷ 14
nhưng các nhóm tác phẩm được gọi là tổ khúc được biết đến sớm nhất là suyttes
de bransles của Estienne du Tertre (1557). Tuy nhiên chúng chỉ tạo thành
chất liệu thô cho một chuỗi các vũ khúc hơn là một chuỗi thực sự được chơi trên
thực tế. Phần lớn các nhóm vũ khúc từ những năm 1840 tới cuối thế kỷ đó đều là
những cặp tác phẩm, một điệu pavan hay passamezzo đi cùng một điệu galliard hay
saltarello. Sự thôi thúc ghép nhóm kiểu tổ khúc có vẻ như bắt nguồn từ nước Anh
tại thời điểm bước ngoặt thế kỷ, với William Brade và Giovanni Coprario, nhưng
xuất bản phẩm đầu tiên của nhóm các tác phẩm kiểu tổ khúc với tư cách là các
tác phẩm được ghép lại một cách đồng bộ làNewe Padouan, Intrada, Däntz und
Galliarda (1611) của Peuerl mà bốn vũ khúc trên tiêu đề trở đi trở lại
trong mười “suite” được thống nhất bằng điệu thức và chất liệu chủ đề. Banchetto
musicale (1617) của Schein bao gồm 20 chuỗi paduana, gagliarda, courente, allmande và tripla được
thống nhất một cách tương tự.
Sự phát triển của tổ khúc “cổ điển”, gồm có allemande,
courante, sarabande và gigue theo trình tự đó (A-C-S-G), diễn ra trong hai giai
đoạn. Giai đoạn đấu đối với nhóm A-C-S có lẽ được thực hiện bởi những người
chơi đàn lute ở Paris hay những bậc thầy nhạc vũ khúc ở triều đình Pháp, những
nhóm đầu tiên mà có thể xác định ngày tháng một cách chắc chắn kiểu như thế xuất
hiện trong Tablature de mandore de la composition du Sieur Chancy (1629).
Vũ khúc gigue chỉ được chấp nhận một cách thưa thớt khi nó bắt đầu xuất hiện
trong những cách sắp xếp tổ khúc sau năm 1650 và ban đầu nó hiếm khi có được vị
trí cuối cùng cổ điển. Froberger chỉ để lại duy nhất một tổ khúc A-C-S-G thật sự;
cấu trúc A-G-C-S thông thường của ông được các nhà xuất bản đầu tiên của ông
thay đổi trong các năm 1697 -98 cùng thời gian mà quy tắc được Buxtehude, Böhm
và Kuhnau xây dựng cho các nhà soạn nhạc Đức. Ở nước Anh, tổ khúc với vũ khúc
gigue rất hiếm (chẳng hạn như vũ khúc gigue không xuất hiện trong các tổ khúc của
Purcell) và ở nước Pháp trong thời trị vì của Louis XIV, thường thì các tổ khúc
cho đàn viol và harpsichord đi theo nhóm A-C-S-G cùng các vũ khúc khác. Các đặc
trưng trong tổ khúc cho đàn harpsichord của L. Couperin, D’Angelbert và các nhà
soạn nhạc khác bao gồm Prélude không nhịp và xu hướng xếp các tác phẩm đã có với
nhau (đôi khi do các nhà soạn nhạc khác nhau viết). Chỉ có năm tổ khúc cổ điển
hoặc ít hơn thế trong số 27 ordres của François Couperin – trong mỗi
ordre số 1, 2, 3, 5 và 8 bao gồm năm hoặc mười khúc nhạc. Các ordre khác gồm
các nhóm liên kết theo chương trình và pha tạp.
Người Pháp cũng sử dụng tổ khúc cho hòa tấu và dàn nhạc.
Tổ khúc cho dàn nhạc thường được tạo bởi một nhóm tác phẩm từ các nguồn thể loại
khác (đặc biệt là các opera và ballet của Lully). Nhiều tổ khúc bắt đầu bằng một
overture và “overture-suite” (tổ khúc overture) được các nhà soạn nhạc Đức như
J.S. Kusser, J.C.F. Fischer và Georg Muffat tiếp quản một cách hăng hái.
Telemann khẳng định đã sáng tác không ít hơn 200 tổ khúc, nhưng bốn tổ khúc cho
dàn nhạc của Bach và các tác phẩm “Nhạc nước” và “Âm nhạc dành cho các lễ hội
pháo hoa hoàng gia” của Handel tỏ ra là minh chứng hay nhất của thể loại này.
Trong các tổ khúc khác của mình, cả Bach và Handel thường
theo mô hình Prelude-A-C-S-X-G (trong đó X là một hay nhiều vũ khúc hoặc cặp vũ
khúc thêm vào). Các tổ khúc cho đàn phím của Handel, lên tới khoảng 22 tổ khúc,
phần lớn được soạn từ các tác phẩm đã có. Bach tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến thể
loại này, với 6 tổ khúc cho cello, 3 partita cho violin solo và các bộ 6 tổ
khúc Anh, tổ khúc Pháp và partita cho harpsichord. Bach sử dụng tổ khúc như một
khối kiến trúc theo một tổng thể lớn hơn, sắp xếp từng tổ khúc để tạo ra khác
biệt nào đó – hoặc tạo ra cùng loại tổ khúc nhưng theo một cách khác – vì thế bộ
tác phẩm là một kiểu liệt kê tổ khúc dành cho phương tiện diễn đạt cụ thể đó.
Sau năm 1750, các thể loại sonata, giao hưởng và
concerto bắt đầu lất át các chức năng của tổ khúc. Việc viết một tổ khúc trở
thành một bài luyện tập cổ xưa, như các tổ khúc K399/385i của Mozart và các tổ
khúc à l’antique mãi về sau của Ravel, Debussy, Strauss, Hindemith và
Schönberg. Trong thế kỷ 19 tiêu đề ‘tổ khúc” ngày càng được sử dụng nhiều hoặc
là đối với một bộ tuyển chọn cho dàn nhạc từ một tác phẩm lớn (đặc biệt là ballet
và opera) hoặc là đối với một chuỗi các khúc nhạc kết nối với nhau một cách lỏng
lẻo bằng một chương trình mang tính mô tả (ví dụ như tổ khúc “Những hành tinh”
của Holst) hay bằng một chương trình ngoại lai hoặc mang tính dân tộc chủ nghĩa
(như trong một số tổ khúc của Grieg, Sibelius, Tchaikovsky và Rimsky-Korsakov).
Sự độc lập đối với các hình thức vũ khúc có nghĩa là thể
loại này có thể được cho là bao gồm các tác phẩm không được gắn tiêu đề “tổ
khúc”, kể cả các bộ liên khúc cho piano của Schumann, “Năm tác phẩm cho dàn nhạc”
của Schönberg và Momente của Stockhausen.
Ngọc Anh dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét