Thời buổi hiện đại như
ngày nay, nhịp sống luôn hối hả, tấp nập cuốn con người vòng xoáy của cuộc sống
sinh tồn nhưng dù vậy người Việt Nam cũng không lãng quên đi Tết cổ truyền của
Việt Nam, một phong tục tập quán tốt đẹp mang đậm giá trị văn hóa đa sắc màu.
Mỗi khi tới dịp tết đến xuân về nhừng người con xa quê, ai ai cũng đều thu xếp
việc làm, việc hoc...thật chu đáo để tranh thủ từng phút giây về đoàn tụ với
gia đình cùng gia đình vui đón xuân rất vui vẻ và hạnh phúc.
Tết Việt Nam mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc mà ít có quốc gia nào có được. Dù trải qua bao
nhiêu biến động của lịch sử, của thời gian nhưng người Việt Nam vẫn giữ được những
phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc trong ngày tết. Sau đây là một số phong
tục tập quán tiêu biểu trong ngày Tết của người Việt Nam. Ngoài ra còn có một số
phong tục tập quán khác cũng rất phong phú và mang đậm bản sắc văn hóa của người
Việt Nam, các bạn tham khảo thêm nhé!.
Phong tục trang hoàng nhà cửa ngày Tết:
Ðể chào đón năm mới, mọi gia đình đều dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ,
ngăn nắp, và trang hoàng lại căn nhà của mình cho thật đẹp. Có nhiều gia đình
còn sơn mới nhà, cửa. Các đồ dùng như bàn, ghế để tiếp khách, tủ thờ, tủ trong
phòng khách đều được lau chùi cho sạch bụi.
Các chân đèn, lư hương trên bàn thờ đều được chùi cho thật bóng.
Trên tường được treo, dán những loại tranh tết. Trong nhà hoặc ở sân trước được
chưng các loại hoa có màu sắc rực rỡ tươi sang như cúc vàng, vạn thọ, thược dược,
hoặc cây quất (tắc) với những chum trái vàng tươi. Đặc biệt có hai loài hoa chỉ
tết mới nở đó là mai vàng ở miền Nam và đào hồng, đỏ ở miền Bắc.
Ngoài hoa, còn có chưng trái cây, xếp thành một dĩa lớn. Bên cạnh
những trái cây thường có như chuối, cam, bưởi, quít, người ta còn chưng một dĩa
gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, hay sung, và hai trái dưa hấu thật đều.
Không chỉ trang hoàng làm đẹp nhà cửa mà con người cũng được làm
đẹp. Ngày tết ai cũng ăn mặc quần áo mới, đẹp để tiếp khách hay đi ra đường.
Ngày nay, người Việt dù sống ở nước ngoài vẫn giữ tục lệ này.
Phong tục cúng ông Táo:
Ông Táo là thần bếp, được Trời (hay Thượng đế) giao trách nhiệm
theo dõi tất cả những việc xảy ra trong nhà. Hằng năm, ngày 23 tháng chạp ông
Táo phải lên trời để trình cho Thượng Ðế các việc ghi nhận để Thượng Ðế xét thưởng
hay phạt gia chủ. Vào ngày 23 tháng chạp, nhà nào cũng quét dọn bếp sạch sẽ và
làm lễ cúng tiễn ông Táo về trời, nhờ ông báo cáo điều tốt để Trời cho gia đình
được bình an, may mắn trong năm tới. Theo lệ, lễ cúng ông Táo được đặt trong bếp,
và phải có một con cá chép vì tục truyền rằng ông Táo cỡi cá chép để về trời.
Ngày nay, tuy không còn lò bếp như xưa, nhưng người Việt vẫn giữ tục lệ này.
Ngay cả những người Việt sống ở hải ngoại, nhiều gia đình vẫn
cúng ông Táo vào đúng ngày 23 tháng chạp. Các tờ báo, tạp chí, cuối năm đều có
thông lệ viết một bài báo cáo mọi việc trong năm, gọi là sớ Táo quân. Các buổi
liên hoan hay văn nghệ mừng xuân, người ta vẫn thường biểu diễn cảnh ông Táo về
thiên đình kể chuyện dân gian cho Thượng Ðế nghe.
Phong tục chúc Tết:
Chúc tết hay mừng tuổi là nói những lời cầu mong tốt lành cho
người khác trong những ngày đầu năm. Trong gia đình, sáng mồng một thì con cái
chúc tết cho cha mẹ và ông bà (nếu cùng sống chung). Con cháu mà chưa có gia
đình thì cũng được ông bà, cha mẹ chúc lại và cho một món tiền đựng trong một
phong bì đỏ gọi là lì xì. Tiền lì xì thường là những tờ giấy bạc còn mới.
Trong ba ngày đầu năm, hay còn gọi là ba ngày tết, người ta đi đến
nhà bà con, bạn bè, để chúc những điều tốt lành cho năm mới. Ngay cả với những
người mới gặp cũng vẫn vui vẻ và chân thành chúc nhau. Khi có người quen đến
nhà chúc tết thì chủ nhà phải tiếp đãi vui vẻ, thân mật và đãi ăn uống. Tục lệ
này nói lên sự quan tâm và tình thân giữa con người với nhau, dù là thân hay
sơ. Ngày nay, tuy sống ở nước ngoài, người Việt vẫn giữ tục lệ đáng yêu này.
Mồng một thì tết nhà cha, Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
(nghĩa là ngày mồng một về chúc tết cha mẹ hay là bên nội, ngày
mồng hai về chúc tết cha mẹ vợ hay là bên ngoại; còn ngày mồng ba thì phải đi
chúc tết thầy giáo).
Phong tục cúng tết:
Tết là một thời gian thiêng liêng trong đời sống người Việt. Ðó
là dịp đoàn tụ gia đình, cả người sống lẫn người đã chết. Những người đi làm,
đi học xa quê hương, xa gia đình đều tìm đủ mọi cách để về ăn tết với cha mẹ, với
gia đình.
Chiều ba mươi tết (hoặc ngày 29, nếu tháng chạp thiếu), người ta
cúng để mời linh hồn tổ tiên và những người thân đã mất về ăn tết cùng con
cháu. Ðúng giữa đêm trừ tịch, lúc chuyển từ năm cũ sang năm mới thì cúng giao
thừa để tiễn năm cũ và đón năm mới. Lễ cúng này được bày ngoài trời hay trước cửa
ra vào để cúng trời đất, cầu xin bình an may mắn. Thông thường, đúng giờ giao
thừa thì các chùa đều gióng chuông báo hiệu, và rồi mọi nhà đều đốt pháo. Ðến
ngày mồng ba thì cúng đưa tức tiễn đưa linh hồn những người mà ta đã mời về ăn
tết chung. Về mặt nghi lễ, ngày tết đến đây là chấm dứt. Ở nước ngoài, nhiều
gia đình Việt vẫn còn giữ tục lệ này, chỉ không thể đốt pháo mà thôi.
Phong tục biếu Tết:
Biếu tết là tặng quà cho người khác ăn tết. Ðây là dịp để nhớ ơn
những người đã từng giúp mình, để tỏ lòng yêu kính đối với người trên, tỏ lòng
quan tâm thương mến với họ hàng, bạn bè. Thông thường thì:
bà con thân thiết biếu tết lẫn nhau
con rể, con dâu biếu tết cha mẹ vợ/chồng
học trò biếu tết thầy cô
bạn bè biếu tết lẫn nhau
con nợ biếu tết chủ nợ
bệnh nhân biếu tết thầy thuốc
Việc biếu tết thể hiện tấm lòng biết ơn, hoặc yêu thương chân
thành, hoặc quan tâm thương mến, nên rất đáng quý. Ngày nay, chúng ta vẫn còn
giữ tục này. Tuy nhiên, đừng lợi dụng việc biếu tết này để hối lộ, mua chuộc.
Phong tục xuất hành:
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm mới. Người ta
tin rằng hướng đi này sẽ có ảnh hưởng tới tương lai của mỗi người trong năm sắp
tới. Cho nên, theo tuổi tác của mình, mỗi người xem sách lịch do những nhà bói
toán viết ra để chọn hướng đi và giờ bắt đầu cho thích hợp. Tục lệ này có vẻ
hoang đường, ngày nay nhiều người không còn tin theo. Hơn nữa, cửa nhà và đường
sá ngày nay được xây dựng theo phương hướng cố định, chúng ta khó mà chọn được
hướng đi như trong sách lịch nói.
Phong tục xông đất:
Xông đất là người đầu tiên bước chân vào nhà của người nào đó.
Người ta tin rằng tuổi tác của người khách đầu tiên có ảnh hưởng đến tương lai
của chủ nhà. Vì thế, từ trước tết, chủ nhà thường chọn người quen biết nào mà
có tuổi hợp với mình theo sách tử vi để mời họ đến xông đất cho mình. Tục lệ
này cũng có vẻ hoang đường, ngày nay nhiều người cũng không tin theo nữa.
Phong tục hái lộc:
Trong đêm giao thừa, người ta đi lễ chùa để cầu xin đức Phật ban
cho điều tốt lành trong năm mới. Sau đó, trong đêm tối trên đường về sẽ bẻ đại
một cành lá cây nào đó. Nếu bẻ được một cành lá tươi tốt, đầy đủ thì đó là điềm
may mắn cho suốt năm tới. Tục này ngày nay ít còn người làm vì bẻ cây của người
khác là việc phá hoại, vừa không tốt vừa có thể gây phiền toái về mặt pháp luật.
Phong tục kiêng cử:
Kiêng (hay kiêng cử) là những điều không được làm. Trong những
ngày tết, những điều gì xấu đều phải kiêng. Sau đây là một số điều thường được
kiêng:
Không quét nhà, đổ rác ngày tết (vì sợ quét, đổ đi những điều may mắn)
nói những điều tục tĩu
mặc quần áo trắng (sợ có tang)
nói tới những chuyện chết chóc, nói những điều xui xẻo
Những điều kiêng cử này đều có vẻ hoang đường, ngày nay tuy nhiều
người không tin nữa, nhưng một số đông khác vẫn còn giữ.
Tết Việt Nam chứa đựng và mang đậm bản sắc của dân
tộc. Trải qua bao biến động của lịch sử, của thời gian nhưng người Việt vẫn gìn
giữ được những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc trong ngày tết.
Chợ Tết:
Chợ Tết có không khí khác hẳn với những phiên chợ thường ngày
trong năm. Mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết thường không phải để “có cái ăn” mà
đó là thói quen, là dậy lên không khí ngày lễ hội. Chợ Tết được bố trí ở những
bãi đất rộng, có thể chợ được thành lập ngay nơi chợ thường ngày vẫn diễn ra
chuyện bán mua. Nhưng trong chợ Tết, gần như tất cả “món ngon vật lạ” đều được
bày bán. Không khí Tết thấm đượm thật sự vào những ngày này bởi cảnh người mua
hàng nặng trĩu giỏ.
Trong chợ Tết, người ta mới bày bán những thứ mà quanh năm không
thấy bán. Ví dụ như lá dong, lá chuối để gói bánh chưng, củ kiệu, đu đủ làm
dưa. Người ta bán những chiếc tháp làm bằng bánh in bao giấy màu, những chiếc
bánh ly bằng bột nếp hoặc bánh ngũ sắc dùng để chưng lên bàn thờ. Chợ còn bán
những thứ không ăn được, nhưng vô cùng cần thiết cho ngày Tết như phong bao lì
xì, giấy dán và bây giờ phong trào viết chữ ngày Tết đang phục hồi trở lại.
Nhưng cái thú mua sắm trong ngày Tết vẫn là chuyện đương nhiên, gần như không một
nhà nào lại không “đi sắm Tết”.
Dẫu rằng cách ăn, cách chơi Tết trải qua bao năm đã thay đổi cho
phù hợp với cuộc sống. Điều độc đáo ở chỗ là dù nhà giàu hay nghèo, nhu cầu mua
sắm ngày Tết là điều không thế thiếu.
Cây nêu ngày Tết:
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo
nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng,
bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện
về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng
những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm
nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai… Người ta tin rằng những
vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo
hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ
tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở
cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không mạy. Cây nêu
thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày
này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn
về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây
nêu được hạ xuống.
Câu đối tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học
cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân
ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những
tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ.
Hoa tết
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây
đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ
ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu
nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hoặc cây mai
vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng
còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ
hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng
trưng cho sự phát triển nòi giống.
Màu của ngày Tết
Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn
là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt
Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt
dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa
ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v... Trước đây khi pháo còn được cho
phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ
giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng"
mới thôi!
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Lễ tổ tiên ngày tết
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về sum họp
dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước bàn thờ, thăm lại
ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh
sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông
thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giếng nước, mảnh sân
nhà. "Về quê ăn Tết" đã trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành hương về
nơi cội nguồn.
Sắp dọn bàn thờ – Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ
tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải).
Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau.
Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây
đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối
xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ
bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng
mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần
năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc
khuỷu, vươn lên trong bát hương.
Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử
chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng
đáng với ''bề trên''. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo
đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách
bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu
thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn...Nhiều
gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm
ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có
ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước
thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con
cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Dọn cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng
gia truyền, dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp gạo nấu
tinh khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, heo... Nấu nướng thơm ngon đặt lên
cúng trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ gìn truyền
thống ''dĩ nông vi bản'' và đem sức lao động cần cù làm ra thành quả từ lòng đất
quê hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn hóa truyền thống góp phần bảo
tồn di sản tinh thần và đạo đức trong đời sống con người lưu truyền tự ngàn
xưa.
Xuất hành và hái lộc ngày Tết : "Xuất hành" là đi ra
khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước
khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp
được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi
lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy
may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay
cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc
ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới.
Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục
hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ
nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng , làng xóm những lời chúc
tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều
thành công...; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau "tai qua nạn
khỏi" hay "của đi thay người" nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy
cái phúc, hướng về sự tốt lành.
Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu
tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng.
Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy ngày mồng
Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày
xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1
tuổi).
Lì xì:
Lì xì ngày Tết (利是,
phát âm theo người Quảng Đông: lishi): người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ
trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với
những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng
bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hoá thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để
xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu.
Xin chữ đầu xuân:
Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điềm lành, việc lành
trong ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất.
Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy.
Việc mang ý nghĩa này có ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước.
Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn... ta thường
bắt gặp những gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người
cho chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn là chữ Nho, lại có thêm cả chữ Ta nữa.
Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút
mà tặng lại cho người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội
dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Chưa có ai bán chữ, chỉ có người
mua giấy để xin chữ. Người cho chữ vẫn có lộc nhưng tinh tế hơn. Việc tưởng như
không bình thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy
đồ không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản
và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.
Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó
đang trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà
Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng
văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người qua lại.
Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Miếu Văn, khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn
giao cắt với đường Trần Hưng Đạo... Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát
huy. Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những
con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét