Miền quê ấy có tiếng sáo diều vi vút, có đêm trăng khuyết
trăng tròn, có sóng lúa lao xao mỗi chiều mỗi sớm, con đê như cánh tay dài ôm lấy
thôn xóm ruộng đồng và dòng sông bốn mùa ngập nước. Người dân nơi đây hiền hoà
sống bên nhau từ bao đời nay, đã làm ra một loại bánh nổi tiếng: Bánh gai Ninh
Giang.
Người Ninh Giang đôn hậu, chịu thương chịu khó, thành đạt
trong nhiều lĩnh vực ở mọi miền đất nước, những cô gái xinh xắn, duyên dáng được
Trường Múa Việt Nam đào tạo để trở thành diễn viên trong các đoàn nghệ thuật
chuyên nghiệp. Miền quê ấy cũng có những tên tuổi mà tác phẩm của họ sẽ còn lại
với cuộc đời như Phù Thăng, và sau này như Nguyễn Duy Độ, Lê Quân...
“Phố huyện của tôi, phố huyện nhỏ thôi...”. Nhạc sĩ Lê Quân kể cho người nghe về một phố huyện thân thương, nơi đó anh đã lớn lên cùng với bạn bè đầy ắp kỷ niệm. Khi đất nước lâm nguy, những chàng trai Ninh Giang lại lên đường nhập ngũ, cống hiến cả tuổi thanh xuân để giành lại độc lập tự do. Một ngày trở về thăm quê, anh bàng hoàng thốt lên “Quê mẹ ơi sao đồng xanh thế? Cánh cò ơi sao lả lơi thế?...”. Cánh đồng ấy anh đã đi qua từ thời nhỏ dại, vẫn còn đây mô đất tập đánh trận giả năm nào, những lần đuổi trâu chạy tán loạn trên đường, trò nghịch ngợm ấy đã làm cho lũ trẻ làng cười như nắc nẻ. Hôm nay cánh đồng quê anh xanh hơn mọi ngày, xanh như chưa bao giờ xanh thế, và những cánh cò chao nghiêng, uốn lượn mềm như câu hát “Tình thư hạ vị” rộng dài như “Đường trường chim thước" trong đêm Chèo cổ sân đình.
Cánh cò lả lơi, cánh cò lơi lả như giọt sương sớm đọng trên ngọn cỏ, như lời tỏ tình vụng về của cậu trai làng với cô gái cuối thôn, chuyện về đêm mưa soi đèn bắt ếch, chuyện lấy chạc ổi làm súng cao su. Cánh cò của thời đánh khăng đánh đáo ấy như dòng nước mát sông quê chảy vào tâm hồn anh khi đã lớn, để càng
“Phố huyện của tôi, phố huyện nhỏ thôi...”. Nhạc sĩ Lê Quân kể cho người nghe về một phố huyện thân thương, nơi đó anh đã lớn lên cùng với bạn bè đầy ắp kỷ niệm. Khi đất nước lâm nguy, những chàng trai Ninh Giang lại lên đường nhập ngũ, cống hiến cả tuổi thanh xuân để giành lại độc lập tự do. Một ngày trở về thăm quê, anh bàng hoàng thốt lên “Quê mẹ ơi sao đồng xanh thế? Cánh cò ơi sao lả lơi thế?...”. Cánh đồng ấy anh đã đi qua từ thời nhỏ dại, vẫn còn đây mô đất tập đánh trận giả năm nào, những lần đuổi trâu chạy tán loạn trên đường, trò nghịch ngợm ấy đã làm cho lũ trẻ làng cười như nắc nẻ. Hôm nay cánh đồng quê anh xanh hơn mọi ngày, xanh như chưa bao giờ xanh thế, và những cánh cò chao nghiêng, uốn lượn mềm như câu hát “Tình thư hạ vị” rộng dài như “Đường trường chim thước" trong đêm Chèo cổ sân đình.
Cánh cò lả lơi, cánh cò lơi lả như giọt sương sớm đọng trên ngọn cỏ, như lời tỏ tình vụng về của cậu trai làng với cô gái cuối thôn, chuyện về đêm mưa soi đèn bắt ếch, chuyện lấy chạc ổi làm súng cao su. Cánh cò của thời đánh khăng đánh đáo ấy như dòng nước mát sông quê chảy vào tâm hồn anh khi đã lớn, để càng
mê say hơn tiếng trống đế, tiếng sáo tre dưới ánh đèn chai rộn
rã năm nào, và anh viết “Lả lơi trống chèo, lả lơi chiếu chèo...”. Trước mắt ta
là màu xanh tĩnh lặng của lúa của tre, cao hơn là màu trắng của cánh cò lơi lả,
là nắng gió và mây trời. Lê Quân đã vẽ bức tranh quê đẹp như thế, có tĩnh có động,
có xa có gần, có màu nóng màu lạnh, có quãng 2 quãng 4 của thang âm ngũ cung với
những hồi ức trong sáng một thời đã qua. Ca khúc của anh giàu âm hưởng dân tộc,
những hợp âm bậc I nối tiếp với bậc IV đan xen nhau trong câu hát, gắn kết bởi
một nốt chung giống như sợi dây vững chắc được căng ra để treo vào đó những màu
âm lóng lánh, kết hợp với những quãng nhảy có dụng ý từ nghiên cứu các trổ
trong làn điệu Chèo truyền thống không cần phản hồi mà vẫn tự nhiên, gần với
ngôn ngữ đa âm trong tiếng Việt.
Sự cân xứng giữa nhạc và lời trong ca khúc quan trọng lắm. Có người viết được nhạc hay nhưng lời dở, có người làm được lời hay nhưng nhạc lại trúc trắc. Lê Quân dung hoà được cả hai mặt này. Ngoài viết nhạc, anh còn vẽ tranh, làm thơ, làm phim, viết truyện... Tranh của anh đã đến Hồng Kông, Singapore, Pháp, Ý... Sắc màu hội hoạ hoà vào xúc cảm âm nhạc trong anh để những ca từ cứ lung linh như bảng màu chờ nét bút tài hoa của người hoạ sĩ. Dù là một giọt mưa trên khung cửa, hay nỗi buồn của mùa thu, dù dữ dội như sóng xô những ngày biển động hay vẻ đẹp của một bông hoa, anh luôn cẩn thận đặt vào đó những rung động chân thực của người nghệ sĩ.
Cuộc đời còn vô vàn điều trăn trở, có người giàu kẻ nghèo và biết bao mảnh đời không được may mắn. Lê Quân đã thương cảm một em nhỏ lang thang giữa ngày mùa đông rét buốt. Anh gọi “Bé à, bé ơi! Chiều muộn rồi nhà ai tiếng mẹ gọi con, nhà ai nồi cơm vừa chín thơm thơm. Trời vào khuya, chiếc ca con em đựng niềm hy vọng, đựng ấu thơ và những giấc mơ con...”. Tình thương gửi vào câu hát để ca sĩ Việt Hoàn thay anh nói với mọi người: Hãy dang tay cứu giúp một tuổi thơ không nơi nương tựa. “Hiên nhà ai đêm nay có lạnh? Gió ngoài đường có rét không em?” Đó là câu hỏi dành cho mỗi chúng ta, cho những tấm lòng biết sẻ chia tương thân tương ái. Câu kết bài hát như hơi ấm của bếp lửa, như miếng cơm nóng cần cho những kiếp đời đang mong được giúp đỡ chở che “Bé à, bé ơi! Về đây tình người”.
Dòng sông quê anh đẹp lắm, phẳng lặng chảy qua phía sau vườn. Nhà thơ Thụy Kha đã lãng mạn gọi khúc sông ấy là “Khỏa thân cong...”. Chúng tôi thường về thăm căn nhà tuổi thơ của anh mỗi năm. Mẹ ngồi đây nghe tiếng bước chân Lê Quân đi qua khoảng sân hẹp. Mẹ vui lắm khi biết có những bạn bè của con cùng về. Thỉnh thoảng mẹ lại chen vào chuyện của chúng tôi một vài câu tiếng Pháp... Ngày mẹ ra đi, chúng tôi rất buồn, từ nay không còn nghe tiếng mẹ cười, không còn được mừng tuổi mẹ những ngày đầu năm. Thương mẹ, chúng tôi thắp lên nén nhang thơm để ấm lại căn phòng thân thuộc.
Sự cân xứng giữa nhạc và lời trong ca khúc quan trọng lắm. Có người viết được nhạc hay nhưng lời dở, có người làm được lời hay nhưng nhạc lại trúc trắc. Lê Quân dung hoà được cả hai mặt này. Ngoài viết nhạc, anh còn vẽ tranh, làm thơ, làm phim, viết truyện... Tranh của anh đã đến Hồng Kông, Singapore, Pháp, Ý... Sắc màu hội hoạ hoà vào xúc cảm âm nhạc trong anh để những ca từ cứ lung linh như bảng màu chờ nét bút tài hoa của người hoạ sĩ. Dù là một giọt mưa trên khung cửa, hay nỗi buồn của mùa thu, dù dữ dội như sóng xô những ngày biển động hay vẻ đẹp của một bông hoa, anh luôn cẩn thận đặt vào đó những rung động chân thực của người nghệ sĩ.
Cuộc đời còn vô vàn điều trăn trở, có người giàu kẻ nghèo và biết bao mảnh đời không được may mắn. Lê Quân đã thương cảm một em nhỏ lang thang giữa ngày mùa đông rét buốt. Anh gọi “Bé à, bé ơi! Chiều muộn rồi nhà ai tiếng mẹ gọi con, nhà ai nồi cơm vừa chín thơm thơm. Trời vào khuya, chiếc ca con em đựng niềm hy vọng, đựng ấu thơ và những giấc mơ con...”. Tình thương gửi vào câu hát để ca sĩ Việt Hoàn thay anh nói với mọi người: Hãy dang tay cứu giúp một tuổi thơ không nơi nương tựa. “Hiên nhà ai đêm nay có lạnh? Gió ngoài đường có rét không em?” Đó là câu hỏi dành cho mỗi chúng ta, cho những tấm lòng biết sẻ chia tương thân tương ái. Câu kết bài hát như hơi ấm của bếp lửa, như miếng cơm nóng cần cho những kiếp đời đang mong được giúp đỡ chở che “Bé à, bé ơi! Về đây tình người”.
Dòng sông quê anh đẹp lắm, phẳng lặng chảy qua phía sau vườn. Nhà thơ Thụy Kha đã lãng mạn gọi khúc sông ấy là “Khỏa thân cong...”. Chúng tôi thường về thăm căn nhà tuổi thơ của anh mỗi năm. Mẹ ngồi đây nghe tiếng bước chân Lê Quân đi qua khoảng sân hẹp. Mẹ vui lắm khi biết có những bạn bè của con cùng về. Thỉnh thoảng mẹ lại chen vào chuyện của chúng tôi một vài câu tiếng Pháp... Ngày mẹ ra đi, chúng tôi rất buồn, từ nay không còn nghe tiếng mẹ cười, không còn được mừng tuổi mẹ những ngày đầu năm. Thương mẹ, chúng tôi thắp lên nén nhang thơm để ấm lại căn phòng thân thuộc.
Thời gian ở chiến trường đã giúp anh cảm nhận thêm lẽ sống của
đời với cái thiện cái ác, giữa khoảnh khắc anh hùng với sự hèn nhát. Đồng đội của
anh người còn, người mất. Chiến tranh là thế. “Người lính già về với quê, ngồi
với bạn bè. Rượu đời, chuyện xưa. Hà Nội mùa này những cầu thang gỗ, những ô cửa
sổ đã mọt chưa? Đã đen rồi...”. Không còn trẻ nữa, người lính năm xưa đã về, gặp
lại bạn bè và những kỷ niệm để rồi “Tôi bồi hồi gậm nhấm tiếng guốc gỗ nơi em
qua...”. Đó là sự tiếc nuối những gì đã mất, là cái thật nhất của tâm tư, không
tô màu, không cao đạo, là đời, là cái người trong ta muôn vạn thuở.
Những năm gần đây ca từ của anh trầm lắng, ngâm ngợi mang tính triết lý. Đó là sự trải nghiệm tìm tòi cái cốt lõi của cuộc sống qua lăng kính khách quan “Nước mắt nào rồi cũng sẽ khô, để không khô tôi dấu vào trong biển...”. Câu thơ đầy tính nhân văn và lãng mạn. Biển là nước lại có thể cất giữ một giọt nước mắt trong mình. Ta nghĩ đến tình yêu sâu thẳm và cao vời trong lòng người, tình yêu ấy như suối như sông, như bóng đêm và ánh sáng, như cơn giông và ráng đỏ, là cây đời mãi xanh tươi trong thơ của Gớt. Để không mất nhau, ta cất giấu vào tim mình, ngày nào con tim còn đập thì tình yêu ấy vẫn còn, vẫn nức nở, vẫn đắm say và thổn thức. Đó là tình yêu đích thực, vượt lên những ham muốn tầm thường của vật chất, của sự giả dối đáng khinh bỉ, tình yêu ấy là vẻ đẹp thanh khiết của thần Vệ Nữ, là nàng Mona Lisa của Leonardo Da Vinci mà người đời vẫn ngợi ca.
Văn phòng của Lê Quân chỉ rộng chừng hơn 10 mét vuông ở đường Lê Văn Sỹ. Đồng nghiệp, bạn bè trong Nam ngoài Bắc thường gặp nhau ở đây như nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Phan Vũ, Đỗ Nam Cao... nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Hồng Đăng và bao người khác. Chúng tôi thường đùa vui gọi đây là văn phòng của... Bộ Văn hoá. Chiếc kèn Saxophone treo trên tường, một cây Keyboard M-Audio để cạnh bàn làm việc, xung quanh chiếc salon nhỏ chất đầy sách, những bức tranh sơn dầu, thuốc nước vẽ chưa xong sơn còn ướt, và Ngọc Anh đang hát ca khúc Về mẹ vừa thu thanh xong. “Một năm nắng chưa úa, một năm gió chưa già...". Có tiếng gõ cửa, cô gái thon nhỏ vào xin anh chữ ký cho một Hợp đồng kinh tế. Hết ngày dài đến đêm thâu, xong việc cơ quan anh lại cặm cụi vẽ tranh, viết nhạc, nhiều hôm bỏ cơm không về nhà, ở lại để dựng phim, viết lời bình. Người ta thường nói đàn ông mà có lúm đồng tiền là lẳng tình lắm, được nhiều cô gái luôn để ý, chẳng biết có đúng như vậy không, nhưng bạn bè, đồng nghiệp thì ai cũng yêu mến và muốn gần anh.
Lê Quân là người ham hiểu biết, anh luôn tự trau dồi kiến thức và khám phá bản thân mình. Căn phòng ấy nhiều lần đèn sáng suốt đêm, anh muốn viết về những đề tài lớn hơn, với một tư duy khác không phụ thuộc vào nội dung văn học cụ thể. Anh viết Biến tấu (Variation) và những khúc nhạc dạo (Prelude) cho đàn Piano...
Ta có thể học được mọi thứ kỹ thuật, thuộc nhiều thủ pháp âm nhạc, nhưng cảm xúc và lòng nhân ái thì không học được. Nó là con người của ta, là ngọn lửa ấm trong lòng ta toả sáng, nó phải được dạy dỗ từ truyền thống gia đình, từ môi trường sống và sách luân lý. Đó là mảnh đất cần thiết cho tài năng phát triển để có những tác phẩm lay động lòng người, như dòng sữa quý giá của người mẹ dành cho con. Cuộc sống quanh ta không phải chỉ có màu hồng và nụ cười, vì thế người nghệ sĩ còn phải là những bác sĩ tâm hồn, biết hàn gắn nỗi đau, chia gánh với bất hạnh, góp phần làm cho cuộc đời bớt đi giá lạnh, âu lo...
Tài năng nào cũng chỉ có một thời, khung cửa nhỏ bé ngày xưa bây giờ là tay vịn cho ta run rẩy đứng lên, ánh mắt xa vời vô vọng nhìn suốt một con đường thăm thẳm, tìm lại bóng mình và người con gái năm nào đã làm cho ta vui buồn, sướng khổ. Ta giấu tiếng khóc vào đêm, hờn dỗi dại khờ để không bao giờ tìm lại được màu tím hẹn hò thuở ấy... Hôm nay chỉ còn vạt nắng cuối thu yếu ớt đọng trên trang sách cũ, chép chuyện tình Tiễu Nhiên Mỵ Cơ, giục ta đọc tiếp về thành Sô-đôm mà thời trai trẻ chưa đọc hết. Lê Quân hiểu điều đó và anh đã viết một ca khúc đặt tên là Lãng tử: “Một chiều mênh mông, anh lâng lâng, bâng khuâng nhớ. Ánh mắt anh vời xa. Anh mang theo cây đàn như mang theo nỗi buồn. Đàn xưa, rất xưa. Chàng lãng tử già ngồi hát. Câu hát viết cho tuổi thơ, chút nuối tiếc long đong như ngày xưa...”. Lao động nghệ thuật cực nhọc lắm, cả đời là cuộc đi tìm. Có câu nói rất hay về định nghĩa này: Nghệ thuật là gì? Phải chăng là biết hy sinh cái thấp hèn cho một ham mê cao thượng hơn... Vì thế đã là nghệ sĩ thì phải cố gắng dù chỉ một lần gặp được cái cao thượng ấy của thánh nhân.
Chỉ với chiếc hàm lừa mà Xam Xôn đã đánh thắng một ngàn kẻ thù, cũng chỉ vì lời nói dịu dàng của Đa-li-la mà chàng đã tiết lộ sức mạnh của mình nằm trong bảy lọn tóc dẫn đến sai lầm thành kẻ nô lệ bị móc mất hai con mắt. Khi sức mạnh được hồi phục trở lại, chàng đã kéo đổ ngôi đền và giết chết hơn ba ngàn người Phi-li-tin. Trước đó Xam Xôn vẫn còn kịp gọi Đa-li-la giục nàng mau chạy xa khỏi nơi này, tuy biết rằng chính nàng là kẻ đã gây nên nỗi khổ nhục cho chàng. Cái ngây thơ cả tin và lòng vị tha của người nghệ sĩ đôi khi cũng thế.
Tiếng sấm vu vơ tan vào mây trời khiến ta khắc khoải chờ một cơn nắng sau mưa, tiếng ho khan bên hàng xóm đêm đêm làm ta nao lòng nghĩ đến thân phận con người. Viết hàng trăm câu thơ chỉ để lại cho đời được một câu hay, viết hàng chục bài ca chỉ mong có được một bài người nghe không nguội lạnh, thế thì ta phải thương nhau, đừng lấy cái của người khác nghĩ ra rồi dối trá nhận là của mình, đừng tham lam mà cắn xé nhau như hùm như sói khi dạ dầy đã quá no đủ.
Tôi muốn nhắc lại câu hát trong bài Lãng tử của Lê Quân lần nữa để vơi đi cái bề bộn trong lòng: “Đàn xưa, rất xưa”... như muốn nói đến một thứ nghệ thuật chân chính mà suốt đời phải lao động khổ nhọc. Nghệ thuật ấy cần được bảo vệ, khích lệ và chăm sóc.
Những năm gần đây ca từ của anh trầm lắng, ngâm ngợi mang tính triết lý. Đó là sự trải nghiệm tìm tòi cái cốt lõi của cuộc sống qua lăng kính khách quan “Nước mắt nào rồi cũng sẽ khô, để không khô tôi dấu vào trong biển...”. Câu thơ đầy tính nhân văn và lãng mạn. Biển là nước lại có thể cất giữ một giọt nước mắt trong mình. Ta nghĩ đến tình yêu sâu thẳm và cao vời trong lòng người, tình yêu ấy như suối như sông, như bóng đêm và ánh sáng, như cơn giông và ráng đỏ, là cây đời mãi xanh tươi trong thơ của Gớt. Để không mất nhau, ta cất giấu vào tim mình, ngày nào con tim còn đập thì tình yêu ấy vẫn còn, vẫn nức nở, vẫn đắm say và thổn thức. Đó là tình yêu đích thực, vượt lên những ham muốn tầm thường của vật chất, của sự giả dối đáng khinh bỉ, tình yêu ấy là vẻ đẹp thanh khiết của thần Vệ Nữ, là nàng Mona Lisa của Leonardo Da Vinci mà người đời vẫn ngợi ca.
Văn phòng của Lê Quân chỉ rộng chừng hơn 10 mét vuông ở đường Lê Văn Sỹ. Đồng nghiệp, bạn bè trong Nam ngoài Bắc thường gặp nhau ở đây như nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Phan Vũ, Đỗ Nam Cao... nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Hồng Đăng và bao người khác. Chúng tôi thường đùa vui gọi đây là văn phòng của... Bộ Văn hoá. Chiếc kèn Saxophone treo trên tường, một cây Keyboard M-Audio để cạnh bàn làm việc, xung quanh chiếc salon nhỏ chất đầy sách, những bức tranh sơn dầu, thuốc nước vẽ chưa xong sơn còn ướt, và Ngọc Anh đang hát ca khúc Về mẹ vừa thu thanh xong. “Một năm nắng chưa úa, một năm gió chưa già...". Có tiếng gõ cửa, cô gái thon nhỏ vào xin anh chữ ký cho một Hợp đồng kinh tế. Hết ngày dài đến đêm thâu, xong việc cơ quan anh lại cặm cụi vẽ tranh, viết nhạc, nhiều hôm bỏ cơm không về nhà, ở lại để dựng phim, viết lời bình. Người ta thường nói đàn ông mà có lúm đồng tiền là lẳng tình lắm, được nhiều cô gái luôn để ý, chẳng biết có đúng như vậy không, nhưng bạn bè, đồng nghiệp thì ai cũng yêu mến và muốn gần anh.
Lê Quân là người ham hiểu biết, anh luôn tự trau dồi kiến thức và khám phá bản thân mình. Căn phòng ấy nhiều lần đèn sáng suốt đêm, anh muốn viết về những đề tài lớn hơn, với một tư duy khác không phụ thuộc vào nội dung văn học cụ thể. Anh viết Biến tấu (Variation) và những khúc nhạc dạo (Prelude) cho đàn Piano...
Ta có thể học được mọi thứ kỹ thuật, thuộc nhiều thủ pháp âm nhạc, nhưng cảm xúc và lòng nhân ái thì không học được. Nó là con người của ta, là ngọn lửa ấm trong lòng ta toả sáng, nó phải được dạy dỗ từ truyền thống gia đình, từ môi trường sống và sách luân lý. Đó là mảnh đất cần thiết cho tài năng phát triển để có những tác phẩm lay động lòng người, như dòng sữa quý giá của người mẹ dành cho con. Cuộc sống quanh ta không phải chỉ có màu hồng và nụ cười, vì thế người nghệ sĩ còn phải là những bác sĩ tâm hồn, biết hàn gắn nỗi đau, chia gánh với bất hạnh, góp phần làm cho cuộc đời bớt đi giá lạnh, âu lo...
Tài năng nào cũng chỉ có một thời, khung cửa nhỏ bé ngày xưa bây giờ là tay vịn cho ta run rẩy đứng lên, ánh mắt xa vời vô vọng nhìn suốt một con đường thăm thẳm, tìm lại bóng mình và người con gái năm nào đã làm cho ta vui buồn, sướng khổ. Ta giấu tiếng khóc vào đêm, hờn dỗi dại khờ để không bao giờ tìm lại được màu tím hẹn hò thuở ấy... Hôm nay chỉ còn vạt nắng cuối thu yếu ớt đọng trên trang sách cũ, chép chuyện tình Tiễu Nhiên Mỵ Cơ, giục ta đọc tiếp về thành Sô-đôm mà thời trai trẻ chưa đọc hết. Lê Quân hiểu điều đó và anh đã viết một ca khúc đặt tên là Lãng tử: “Một chiều mênh mông, anh lâng lâng, bâng khuâng nhớ. Ánh mắt anh vời xa. Anh mang theo cây đàn như mang theo nỗi buồn. Đàn xưa, rất xưa. Chàng lãng tử già ngồi hát. Câu hát viết cho tuổi thơ, chút nuối tiếc long đong như ngày xưa...”. Lao động nghệ thuật cực nhọc lắm, cả đời là cuộc đi tìm. Có câu nói rất hay về định nghĩa này: Nghệ thuật là gì? Phải chăng là biết hy sinh cái thấp hèn cho một ham mê cao thượng hơn... Vì thế đã là nghệ sĩ thì phải cố gắng dù chỉ một lần gặp được cái cao thượng ấy của thánh nhân.
Chỉ với chiếc hàm lừa mà Xam Xôn đã đánh thắng một ngàn kẻ thù, cũng chỉ vì lời nói dịu dàng của Đa-li-la mà chàng đã tiết lộ sức mạnh của mình nằm trong bảy lọn tóc dẫn đến sai lầm thành kẻ nô lệ bị móc mất hai con mắt. Khi sức mạnh được hồi phục trở lại, chàng đã kéo đổ ngôi đền và giết chết hơn ba ngàn người Phi-li-tin. Trước đó Xam Xôn vẫn còn kịp gọi Đa-li-la giục nàng mau chạy xa khỏi nơi này, tuy biết rằng chính nàng là kẻ đã gây nên nỗi khổ nhục cho chàng. Cái ngây thơ cả tin và lòng vị tha của người nghệ sĩ đôi khi cũng thế.
Tiếng sấm vu vơ tan vào mây trời khiến ta khắc khoải chờ một cơn nắng sau mưa, tiếng ho khan bên hàng xóm đêm đêm làm ta nao lòng nghĩ đến thân phận con người. Viết hàng trăm câu thơ chỉ để lại cho đời được một câu hay, viết hàng chục bài ca chỉ mong có được một bài người nghe không nguội lạnh, thế thì ta phải thương nhau, đừng lấy cái của người khác nghĩ ra rồi dối trá nhận là của mình, đừng tham lam mà cắn xé nhau như hùm như sói khi dạ dầy đã quá no đủ.
Tôi muốn nhắc lại câu hát trong bài Lãng tử của Lê Quân lần nữa để vơi đi cái bề bộn trong lòng: “Đàn xưa, rất xưa”... như muốn nói đến một thứ nghệ thuật chân chính mà suốt đời phải lao động khổ nhọc. Nghệ thuật ấy cần được bảo vệ, khích lệ và chăm sóc.
NS Vũ Ngọc Quang






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét