Con gà hay quả trứng có trước?
Sự sống đã bắt đầu với RNA- chứ không phải với DNA, kịch bản này
về nguồn gốc sự sống dường như đã được chứng minh. Các nhà hóa học Đại học
Manchester đã thành công trong việc tổng hợp một trong các thành phần của RNA [1],
kết quả này góp phần củng cố giả thuyết RNA-đầu tiên (RNA-first).
Nhập đề
Có thể nói hiện nay chưa có một mô hình chuẩn
nào về nguồn gốc sự sống trong vũ trụ nói chung và trên Trái đất nói riêng.
Song người ta thường dừng lại ở hai phạm trù mô hình chính: Quá trình
Chuyển hóa- đầu tiên (Metabolism-first) & RNA - đầu tiên (RNA-first)[2].
Điều gì đã xuất hiện trước trong những năm đầu
đời của Trái đất, DNA cần thiết cho việc tổng hợp các protein[3] hay
các proteincần thiết cho quá trình nhân bản (replication)
của DNA? Câu hỏi này có thể biến thành câu hỏi rất bình thường nhưng mang một
nghịch lýhàm ẩn một ý nghĩa khoa học rất lớn:
Con gà (protein) có trước hay quả trứng (DNA) có
trước?
Mathew Powner, Beatrice Gerland & John
Sutherland (Đại học Manchester) đã đưa ra câu trả lời vào tháng 5/2009: không
phải quả trứng có trước mà cũng không phải con gà có trước!
Những thí nghiệm của các tác giả này đã củng cố
một giả thuyết tồn tại đã 40 năm nay: sự sống đã bắt đầu bởi sự hình thành RNA,
một phân tử cũng có khả năng mang thông tin về gene. Nhóm hóa học hữu cơ tại
Đại học Manchester đã chứng minh rằng một số thành phần base của RNA
có thể được tổng hợp không cần đến protein, đây là điều mà nhiều nhà hóa học đã
có ý đồ làm từ lâu.
ADN (acid deoxyribonucleic) và RNA (ribonucleic acid)
Các phân tử di truyền như DNA và RNA là các đa
phân tử (polymer-dãy của nhiều phân tử nhỏ hơn) được cấu tạo bằng những blốc
thành phần gọi là nucleotide (Hình 1). Còn các nucleotide có ba thành phần khác
nhau: đường, phosphat và một
Hình 1 . Mô hình phân tử DNA
|
nucleobase. Các nucleobase có bốn loạivà tạo thành vần chữ cái
(alphabet, Hình 2) nhờ đó các đa phân tử lập được mã thông tin. Trong DNA các
nucleobase có thể là A (phân tử adenine), G (phân tử guanine), C (phân tử
cytosine) và T (phân tử thymine), trong RNA chữ cái T được thay bằng U (phân tử
uracine). Các nucleobase là các hợp chất giàu nitrogen mà liên kết với nhau
theo một quy luật đơn giản: A liên kết với U (hoặc T), G với C. Mỗi cặp base
làm thành một nấc thang của hai sợi xoắn DNA. Và sự kết cặp đặc thù riêng biệt
là quan trọng để sao chép trung thành thông tin. Các phân tử phosphate và đường
làm thành xương sống của mỗi sợi DNA hoặc RNA. DNA có cấu trúc sợi kép xoắn,
quan trọng là RNA khác với DNA có thể ở dạng sợi đơn.
Hình 2 . Vần chữ cái A, G, C, T (U) để mã hóa thông tin
|
Hình 3. Sơ đồ đơn giản hóa của quá trình tổng hợp protein
|
Các tế bào hiện tại chế tạo protein bằng cách sao chép các gene từ DNA sang RNA
và sử dụng RNA như những bản thiết kế (blueprint) để chế tạo protein. (Hình 3)
Thế giới RNA
Giả thuyết sự sống bắt đầu với RNA đã được đưa
ra bởi Carl Woese (Đại học Illinois) năm 1965 và sau đó ba năm bởi Leslie Orgel
(Viện nghiên cứu sinh học California) và Francis Crick (đồng tác giả mô hình
DNA). Theo các tác giả này thì RNA có trước DNA trong các giai đoạn đầu của sự
sống, 3,8 tỷ năm về trước.
Trong thế giới RNA (tên
gọi do Walter Gilbert, Đại học Harvard, đặt ra năm 1986), nước tồn tại dưới
dạng lỏng ngưng tụ trong các ao hồ và bốc hơi vào một bầu khí quyển chứa N và
dioxyde carbon. Những tia cực tím lúc bấy giờ có khả năng đi xuyên thẳng xuống
mặt đất mang đến năng lượng cần thiết cho các phản ứng hóa học. Như vậy các
nguyên tố và các điều kiện đã có đầy đủ cho RNA nhân bản (replicate) và tiến
hóa nhờ những lỗi trong quá trình chuyển mã (transcription). Những công đoạn
này trong hiện tại đang lặp lại bởi DNA.
Năm 1982 Thomas Cech (Đại học Colorado)
& Sydney Altman (Đại học Yale) đã có một phát hiện quan trọng: ribozyme
(cấu tạo bằng RNA) là một chất xúc tác của nhiều phản ứng hóa học.
Nhờ phát hiện này hai tác giả trên nhận giải Nobel năm 1989.
Các ribozyme [4], đóng một vai
trò bản lề trong các tế bào hiện tại. Những cấu trúc mà RNA dịch mã sang
protein là những bộ máy lai (hybrid) RNA-protein (Hình 3 ) và chính RNA trong
bộ máy đó đóng vai trò xúc tác (catalytic). Như vậy mỗi tế bào của chúng ta
mang trong các ribosome [5] sự hiển nhiên “hóa thạch” của thế giới
RNA nguyên thủy.
Như vậy RNA không những mang thông tin mà còn có
khả năng tổng hợp protein và tự nhân bản (replicate). Vậy RNA có khả năng tự
sinh lớn.
Những phép tổng hợp không thực hiện được
Ý tưởng xem RNA là thành phần quan trọng của thế
giới sống nguyên thủy gặp phải một khó khăn: các thành phần của RNA không tổng
hợp được trong phòng thí nghiệm nếu không có... RNA.
Vì các nucleotide khó lòng được tổng hợp trực
tiếp, tập thểcác nhà sinh học Mathew Powner, Beatrice Gerland
& John Sutherland (Đại học Manchester) đã đề ra một tiếp cận sáng tạo:
trước hết chế tạo mộtmột phân tử ½ đường ½ base rồi sử dụng những
tiền-nucleotide này để cuối cùng có được nucleotide(Hình 4).
Hình 4 . Sơ đồ tổng hợp một nucleotide qua các
tiền-nucleotide. Muốn tổng hợp ribonucleotide, cấu tạo bởi một base chứa
nitrogen (biểu diễn bằng hình tròn), một đường-sugar (biểu diễn bằng hình ngũ
giác) & một nhóm phosphate (biểu diễn bằng hình vuông) trong phòng thí
nghiệm:
A / người ta không thể tổng hợp trực tiếp base và đường, B/ người ta chỉ tổng hợp được qua một dạng trung gian ½ base ½ đường. |
Tập thể các nhà sinh học nói trên đã thành công trong việc
tổng hợp một thành phần (trong số 4 thành phần) là nucleotide với base là
cytosine. Cách đây 3,8 tỷ năm không tồn tại oxygen trong bầu khí quyển, vậy
không có sự hình thành tầng ôzôn, các tia tử ngoại có thể đến mặt đất không bị
trở ngại. Nhóm các nhà sinh học Manchester đã bằng cách sử dụng tia
tử ngoại để biến ribonucleotide với base cytosine thành ribonucleotide với base
uracile. Như vậy chúng minh được rằng ở thời nguyên thủy sự xuất hiện 2 thành
phần đó của ribonucleotide là khả dĩ. Jack Szostak,giải Nobel về Sinh-Y năm 2009, cho rằng đây là một kết quả rực rỡ
của hóa học tiền sinh (prebiotique-trước khi có sự sống).
Song muốn củng cố giả thuyết RNA-đầu tiên
(RNA-first), cần xét đến hai thành phần còn lại của ribonucleotide (với base là
adenine & guanine). Beatrice Gerland nhận xét rằng không giống trường hợp
cytosine & uracile, với base adenine & guanine sự tổng hợp với đường
ribose [6] có thể thực hiện trực tiếp song tiếc thay với
một hiệu suất quá thấp cho nên nhóm Manchester lại trở về cách tiếp cận tổng
hợp qua các tiền nucleotide (Hình 4). Nếu thành công nhóm sẽ dự định đa phân tử
hóa (polymerisation) bốn nucleotide để thu được một sợi RNA hoàn chỉnh.
Kết luận
Câu hỏi Con gà (protein) có trước hay
quả trứng (DNA) có trước? dường như đã có được một phần câu trả
lời đưa ra bởi nhóm các nhà sinh học Mathew Powner, Beatrice Gerland & John
Sutherland (Đại học Manchester) song một phần câu trả lời đó cũng đã là quan
trọng rồi về nguyên tắc như Jack Szostak (Nobel Sinh-Y 2009) khẳng định. Sự
sống có thể bắt đầu với RNA.
Tài liệu tham khảo và chú thích
[1] Jacques-Olivier Baruch, cuộc sống bắt đầu với RNA, nghiên cứu, tháng 1/2010
(2] Jack W.Szostak (Nobel Sinh-Y 2009) & Alonso Ricardo: The Origin of Life trên Trái đất, Scientific American, thng SE 09/2009 [3] axit Protein = polymer all amin, protein đảm đương nhiều nhiệm vụ trong tế bào sống. format (theo mẫu), sự điều chỉnh (quy định) and sự sinh sản (sinh sản) của sinh thể ... will làm protein thực hiện. protein been tổng hợp tại those ribosome. [4] ribozyme = RNA have feature xúc tác [5] Ribosome may sơ đồ cấu trúc:. protein + RNA, may dạng hạt đường kính 300 Angstrom [6] Ribose = C5H10O5, đường thành phần trong cấu trúc of RNA (còn deoxyribose is đường thành phần trong cấu trúc DNA).
Cao Chi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét