Một thời trận mạc 1
THAY LỜI BẠT
MỘT TẬP SÁCH: BẮT
MẮT, BĂT LÒNG
Lớn tuổi dễ mỏi mắt,
mỏi cổ mỗi khi đọc nhiều, nên thường chỉ chọn những cái “đáng đọc”.
Bởi thế, khi anh Dương Thanh Biểu nhờ coi gấp bản thảo tập I cuốn hồi
ký: “Một thời trận mạc”, tập I của cuốn Hồi ký, nên tôi đã “lỡ để
quên”. Có tới mấy lần anh thúc giục qua điện thoại, mới nhớ ra.
Thật bất ngờ. “Một
thời trận mạc” đã hút hả tôi ngay từ những dòng đầu, chương
đầu… rồi suốt cả mấy trăm trang liền mạch cho tới chữ cuối cùng.
Nói là đọc liền mạch thì cũng chưa hẳn đúng, bởi rất nhiều chỗ,
nhiều đoạn tôi phải dừng lại để suy ngẫm, để tự vấn…và quá nhiều
đoạn tôi đã bật khóc, phải nén xúc động rồi mới đọc tiếp được. Sau
nữa, tôi còn đọc đi, đọc lại tới hai, ba lần có dư. Cho dù ai cũng
biết: Hồi ký là chuyện tư riêng của một người, nhớ lại những gì
người ta từng trải, từng chứng kiến…được ghi lại bằng chữ, cốt
truyền giữ dài lâu… Nghe ra có vẻ lạ. Vì xưa nay những hồi ký “đáng
đọc” thường là của những vị quyền uy chức trọng, những vị có công
Khai Quốc công thần, đằng này lại chỉ là của một người lính có cái
tên bình dị: Dương Thanh Biểu, mới sản sinh dăm bảy đầu sách gì đấy.
Ấy vậy mà “Một
thời trận mạc” của Dương Thanh Biểu lại có sức bắt mắt, bắt lòng
đến lạ lùng. Suốt 5 chương “Một thời trận mạc”, với: Ký ức
tuổi thơ – Nhập ngũ – Hành quân đi B – Chiến trường Tây Nguyên –
Trận cuối cùng và ngày trở về lần lần in đẫm dấu ấn trong
tôi. Cho dù tất cả đều là hồi tưởng, là chuyện cá nhân, thậm chí
rất riêng tư của Dương Thanh Biểu. Tất cả đều sâu lắng, mặn mà đằm
thắm, gợi nhớ, gợi yêu thương đến cháy dạ cháy lòng: Về làng Ngũ
Phúc trải dài ven bờ sông Lam, nơi tác giả cất tiếng chào đời. Nơi
sông, núi ôm ấp lấy xóm làng như mẹ hiền ôm ấp chăm bẵm con thơ. Làng
dịu hiền nhưng ăm ắp kỳ tích, sự tích của những chiến công. Làng
với biết bao kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ, của đời người. Làng như
chiếc nôi kỳ diệu, như tổ ấm của gia đình, của dân làng Ngũ Phúc để
Dương Thanh Biểu và bè bạn vì nó mà biết sống, biết nghĩ suy, biết
xếp đặt lợi ích chung riêng, hăng hái lên đường ra trận, cứu nước.
Hồi tưởng của Dương Thanh Biểu về làng Ngũ Phúc một thời dân tộc
hừng hực khí thế chống Mỹ; về hậu phương với tiền tuyến, về người
ở lại với người ra đi sẽ là khúc bi hùng cho thế hệ sau của làng
nhớ về, biết về: Đất nước của ta có những thời như thế! Cho dù hôm
nay và mai này muôn vạn lần đổi thay, xin đừng bao giờ quên đi quá khư:
Quá khứ của tình người – Tình Đất Nước – Người đi, người ở gắn
bện, gửi trao nhân lên ý chí cách mạng phi thường trong mỗi con người
(ấy là tôi-đọc rồi, tôi nghĩ thế).
Ngày ấy – Dương Thanh
Biểu hành quân vào chiến trường miền Nam, tức đi B. Đem theo nỗi nhớ
của làng, của tổ ấm gia đình, của người yêu…Biểu vượt lên gian khổ,
khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh…Nhiều lúc lung lay, sợ hãi,
cái chết kề bên, gia đình mất mát nặng nề, ngỡ tưởng gục ngã…nhưng
rồi những kỷ niệm lại vực anh đứng dậy, vượt lên… Tôi bật
khóc, bởi trong đêm mưa rả rích, sau trận chiếm lĩnh đồi Cháy để
đánh địch đổ bộ xuống Động Nóc, Biểu cùng 3 chiến sĩ nữa được
lệnh của Chính trị viên Nguyễn Hữu Thu chuyển thi hài tử sĩ Nguyễn
Hồng Sơn, quê ở Hưng Lợi, Hưng Nguyên qua bờ Bắc sông Bến Hải trước khi
trời sáng. Với lời dặn dò kỹ lưỡng: “…Các đồng chí cố gắng bám
sát nhau đi, giữ bí mật, đề phòng thám báo, biệt kích mai phục và
thú rừng…Vì tình đồng đội, các đồng chí không được khạc nhổ trước
anh linh đồng chí mình”. Trời tồi như mực, mưa trơn, đường dốc, cáng
tử sỹ nặng…Nước của xác tử sỹ trộn với nước mưa theo đòn cáng
chảy vào người nhơn nhớt. Tới bờ Nam Bến Hải, mưa như trút. Nước sông
dâng cao. Các chiến sỹ phải buộc cáng cẩn thận vào cây, rồi thay
phiên nhau bồng súng gác thi hài tử sỹ, chờ cho mưa ngớt, nước sông
rút để qua”…Khâm phục Biểu và đồng đội của anh nơi chiến trường Tây
Nguyên với những trận vây lấn cứ điểm Plâycần, Đăk Siêng (Kon Tum) tác
giả kể lại giàu tượng thanh, tượng hình nên khi đọc cảm giác mình
cũng đang trong chiến trận cùng với các anh. Ở đây ta được chứng kiến
những tấm gương quyết chiến quyết thắng đến hơi thở cuối cùng, viên
đạn cuối cùng của Tiểu đội Trưởng Vương Tử Hoàng…của Loan, Hồng,
Thực, Biểu sống chết vi nhau, giữ vững trận địa đến cùng…
Kết cục, vì vết thương
quá nặng, Biểu phải tuân lệnh trên, rời Tây Nguyên năm 1973 ra Bắc
điiều trị. Lúc trở về quê thì bao buồn đau ập đến: Gia cảnh tan nát.
Cha chết vì bom. Nhà cửa tiêu điều. Chị gái vẫn ở vậy. Các em đi ở
đợ. Người yêu cũng chết vì bom Mỹ mà cho tới lúc này Biểu mới hay
biết!…
Nhưng rồi tình làng,
nghĩa xóm trong nghèo nàn yêu thương…Nhưng rồi ý chí của những ngày
ở chiến trận đã vực dậy,dồn tụ nên sức mạnh để Biểu lại gắng
vượt lên, bước tiếp vào trận chiến mới –Cuộc chiến không tiếng
súng.
Dù những trang viết rất
kiệm từ, mới chỉ ghi lại “một thời” trong cuộc đời của mình, nhưng
cái dễ dàng đi vào lòng người đọc giống như một áng văn, bởi tác
giả kể thật, nói thật tâm tư, suy nghĩ của mình ở những thời khắc
cam go nhất, không hùng biện, không che đậy và cũng chẳng hề lên gân,
lên cốt như đâu đó ta thường gặp.
Tác giả chưa phải là
nhà văn, nhưng có lẽ cuộc sống thực đã tạo cho Biểu giàu cảm xúc.
Sự rung động của con tim người viết đã chảy vào dòng chữ. Viết từ
con tim, từ trải nghiệm cuộc đời, nên thấm đẫm chất nhân văn. Tin rằng “Một
thời trận mạc” sẽ lưu giữ lâu bền trong lòng người đọc, sẽ lan
tỏa rộng rãi với đời, dù đấy chỉ là những trang hồi ký của người
chiến sỹ chưa có tên tuổi trên văn đàn.
Ấy là suy nghĩ của tôi.
Xin đừng nghĩ đây là lời quảng cáo sách. Bởi cảm nhận là quyền của
bạn đọc. Rất có thể người đọc còn nhận ra nhiều điều sâu xa hơn thế
ở “Một thời trận mạc”!
Nhà
văn-Nhà báo
Chương
I:
Kí ức tuổi thơ
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
(Quê hương- Thơ Đỗ Trung
Quân)
Tôi muốn mở đầu tập hồi kí bằng
mấy câu thơ ngọt ngào ấy. Ai xa quê hương mà chẳng thương chẳng nhớ, thứ tình
thương không thể dễ dãi phơi bày với ai, nó ngậm ngùi lắng sâu vào tiềm thức mỗi
người như rễ cây bám vào đất mẹ. Ai cũng có trong mình một quê hương gắn với những
kỉ niệm buồn vui tạo thành miền nhớ, miền thương. Và, làng Ngũ Phúc, xã Nam Lộc,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê hương của tôi chính là niềm thương miền
nhớ ấy.
Gia đình tôi có sáu chị em
như 6 cái tàu há mồm. Cha, Mẹ tôi ngày ngày làm lũng ruộng đồng vất vả. nuôi nấng
mấy chị em tôi. Tôi còn bé, mỗi lần bón cơm, Mẹ thường bảo “Ăn khỏe, chóng lớn
còn làm giúp Cha giúp Mẹ”, rồi có lúc Mẹ nựng: “Con trai gắng học thành tài, sau
này Cha, Mẹ còn trông mong”. Nhà tôi nghèo và thiếu thốn trăm bề nhưng ước mơ lớn
nhất của Cha, Mẹ tôi là cho chị em tôi đi học nên người. Những lúc rảnh, Cha Mẹ
tôi vẫn kể về gia đình, về ông bà nội ngoại đã vất vả nuôi Cha, Mẹ tôi khôn lớn
như thế nào. Cũng vì nhà nghèo, lại đông con, phải lo từng bữa cơm nên không thể
có điều kiện cho con đi học. Tôi cũng thích đi học lắm. Tôi còn nhớ, Cha làm
cho tôi cái bảng ở gần góc sân, viết mẫu một số chữ cho tôi nhìn để viết theo.
Tôi bắt chước nhưng chẳng có nét nào giống được nét chữ của Cha. Tôi viết lên
đó mà toàn những nét chữ cong cong, nguệch ngoạc, viết lên bảng chán thì tôi vẽ
xuống đất. Vết que cày xuống nền đất, tôi viết chữ kéo dài khắp nhà. Viết mãi
chữ O nhưng chẳng có chữ nào tròn trịa, chữ nào cũng bị méo mó, mặc dù tôi đã cố
gắng, đường cong chưa được nối liền nhau đã thấy bị méo, tôi chống chế: “Sau
này đi học, cô giáo dạy, con sẽ viết đẹp hơn”. Cha Mẹ cười hiền từ và xoa đầu
tôi.
Tôi còn nhớ cảnh cha mẹ tôi
chân lấm tay bùn từ sáng sớm đến chiều tối, khi ông mặt trời đã khuất sau dãy
núi Thiên Nhẫn xa mờ mới về. Theo lời chị Liên, thời bầy giờ, Cha Mẹ tôi làm
khá nhiều ruộng. Chủ yếu trồng giống lúa ré, lúa lốc, gạo rất thơm, ngon nhưng
thời gian một vụ là sáu tháng, năng xuất rất thấp. Mỗi năm chỉ cấy một vụ chính
là vụ chiêm. Năm nào bị chuột, sâu hại hoặc hạn hán thì coi như mất toi. Còn vụ
mùa thì rất bấp bênh... Nam Lộc quê tôi lại hay bị lũ, lụt. Tôi còn nhớ trận lụt
tháng 8 năm 1954, cả xã bị ngập trong nước. Gia đình chúng tôi và bà con phải
vào trong rú Trọc để ở. Cả xã bị trôi mất nhiều nóc nhà. Hầu như năm nào gia
đình cũng chỉ đủ ăn 6 tháng. Thời gian còn lại vào dịp giáp hạt, ngày 3, tháng
8 là cả nhà không còn cái ăn. Để phòng giáp hạt, Mẹ tôi thường chuẩn bị một
chum khoai lang đã được thái mỏng, phơi khô, lúc nào hết gạo, lấy khoai ra nấu
nhừ để ăn cho đỡ đói. Có lúc phải ăn cả củ chuối và rau má.
Thế mà số phận tôi chẳng được
may mắn như những đứa trẻ khác. Mẹ tôi đột ngột ra đi khi tôi còn quá nhỏ. Suốt
ngày, suốt tháng tôi ngơ ngác vào ra trong căn nhà vắng bóng Mẹ. Mới hôm nào,
thấy cái nón nhấp nhô của Mẹ ngoài đầu ngõ, chân tay còn lấm bùn đen, tôi và
các chị, em đã thi nhau chạy ra đón Mẹ. Người Mẹ đẫm mồ hôi mà chúng tôi cứ tíu
tít như những chú gà con lách tách. Rồi những khi Mẹ ngồi sẩy, sàng những hạt đỗ,
hạt thóc, tôi vẫn thường đứng bên Mẹ, mặc cho Mẹ tha hồ quát và nhắc nhở, vì sợ
vỏ lúa, vỏ đỗ dính vào người sẽ bị dặm và mẩn ngứa. Mặc cho trời nóng rát gió
Lào, trước bậc thềm nhà, gần cái võng Mẹ vẫn ru những điệu hát ầu ơ nhẹ nhàng
êm ái và ngồi quạt cho chúng tôi trong những giấc ngủ ngon lành, thế mà giờ đây
Mẹ không còn nữa!
Tôi nhìn Mẹ nằm ngay ngắn
trên chiếc giường giữa nhà. Mẹ như đang chìm vào giấc ngủ ngon lành. Cha và chị
em tôi ngồi ôm nhau khóc bên giường mẹ như đàn gà vỡ tổ, mắt đỏ hoe và nhợt nhạt
tựa hồ như đã cạn ráo tự bao giờ. Mẹ mất lúc tôi vừa 6 tuổi. Cái tuổi lẽ ra
luôn được đôi tay mẹ vỗ về, chiều chuộng. Nhưng lúc này tôi phải mặc áo tang với
vành khăn trắng trên đầu và ngơ ngác nhìn mọi người. Mẹ nằm im bất động
giữa mọi người, khuôn mặt Mẹ hiền từ, đôi mắt nhắm nghiền không thể mở to nhìn
chị em chúng tôi được nữa. Mẹ không nói và hôn tôi như mọi ngày, bàn tay Mẹ
cũng không còn cử động và xoa đầu tôi được nữa. Tôi gào lên: “Mẹ ơi, Mẹ đừng đi
đâu... Mẹ đừng chết...con nhớ Mẹ lắm... con yêu Mẹ. Mẹ ơi...”. Nhưng tôi cũng
không làm gì được để Mẹ trở về với chị em tôi. Đưa mẹ đi có bà con họ hàng, cô
bác xóm làng. Ai cũng khóc, cúi đầu bước đi lặng lẽ. Cha ôm tôi vào lòng, nước
mắt chảy dài. Tôi cũng chưa thấy Cha khóc bao giờ. Thế mà hôm nay đôi mắt Cha
trĩu nặng, trũng xuống sâu hoẳm.
Mẹ ra đi làm cả tuổi thơ tôi
trống vắng. Tôi sống trong tình thương của Cha, của chị, của các em và người
thân bên cạnh, nhưng làm sao tôi hết nhớ Mẹ, làm sao để tình thương tôi được trọn
vẹn. Những ngày đầu, tôi nhớ Mẹ, cứ đứng tựa cửa nhà mà khóc hoài. Tôi như đứa
trẻ lơ ngơ, chẳng còn thích thú gì trò chơi của đám bạn, cứ nghĩ đến mỗi lần đi
đâu về hoặc vào ra không thấy bóng Mẹ, là tôi khóc. Có đêm tôi mơ thấy Mẹ trở về
trong ngôi nhà của Cha con chúng tôi, Mẹ ôm tôi và khóc nhạt nhòa, tôi được Mẹ
bế trên tay và thiếp đi lúc nào không biết, nhưng khi tỉnh dậy thì không còn thấy
Mẹ ở bên nữa, tôi lại khóc. Những lúc đó chị gái tôi dỗ dành: “Nín đi em. Mẹ
đang đi chợ mua bánh cho em đấy”. Tôi giẫy lên: “Không phải đâu. Mẹ ơi. Mẹ đâu
rồi”…Chị gái ôm tôi vào lòng mà nước mắt tuôn trào làm ướt cả má tôi. Chi Liên
lấy vạt áo lau nước mắt cho tôi. Tôi biết chị cũng rất nhớ Mẹ. Trong đêm khuya,
tôi chạy lại nơi Cha nằm. Lúc này Cha tôi cũng chưa ngủ. Cha ôm tôi vào lòng vỗ
về, xoa đầu động viên tôi. Cha nhìn vào hư không với ánh mắt buồn rười rượi, có
lẽ Cha không muốn khóc trước mặt tôi lần nữa. Tôi biết, Cha yêu thương Mẹ, yêu
thương chị em chúng tôi lắm. Mẹ mất, mọi gánh nặng của gia đình lại đổ dồn lên
đôi vai vốn đã gầy guộc của Cha. Tôi không còn thấy Cha có thời gian ngồi kể
chuyện cho chúng tôi nghe như trước nữa. Có những chiều, nhìn Cha gánh lúa về,
cái đòn gánh cong oằn trên lưng, chiếc áo nâu bị sờn rách hai vai, mồ hôi làm
áo ướt sũng từ vai áo xuống lưng. Có những đêm bị cảm mệt, Cha nằm rên hừ hừ,
nhưng sáng dậy Cha đã quang gánh ra đồng. Tuổi càng cao, sức Cha càng yếu, bước
chân thêm chậm chạp nhưng công việc của Cha chẳng san sẻ cho ai. Cha vất vả biết
nhường nào. Tôi rất thương Cha, mong ngày mong đêm cho chóng lớn để đỡ đần, Mẹ,
Cha.
Tôi là con trai duy nhất
nhưng không vì thế mà được cưng chiều. Hai chị gái của tôi ngày càng lớn cũng
chẳng học hành được bao nhiêu. Chị Liên là cả, chị Lam là thứ. Hai chị giống
nhau như lột, khuôn mặt trái xoan giống Cha, nuớc da trắng hồng giống mẹ, hai
chị ngày càng lớn và xinh xắn có tiếng trong làng Ngũ Phúc. Nhưng lúc nào cũng
theo Cha ra đồng. Tôi cũng chẳng hiểu ra làm sao, cả nhà làm quần quật suốt
ngày mà không đủ ăn. Có những hôm tôi ngủ dậy, trong nhà vắng tanh, tôi biết
Cha và hai chị đã đi làm từ sáng sớm. Nồi cơm thổi vẫn còn nóng trên bếp, Cha
và hai chị phần cho tôi. Cha và hai chị chẳng để tôi đói bao giờ. Có hôm ngủ dậy,
tôi thấy hai Chị đang cuốc đất trồng rau ngoài vườn, khi thì tưới cây, khi thì
cắt những bó rau lang về băm cho lợn ăn. Tôi hào hứng giúp hai chị một tay
nhưng các chị không muốn cho tôi làm. Chị bảo tôi vụng về, lỡ dao xén vào tay
là chị lại bị mắng lây. Trong hoàn cảnh ấy, tôi chỉ biết đỡ đần chị những việc
như quét cái nhà, cái sân, rửa ấm chén. Tôi vừa làm vừa ngó cổ ra chỗ chị ngồi
để hóng chuyện. Tiếng chị băm rau cho lợn nghe “phập phập” vui tai. Chị làm việc
gì cũng nhanh và đâu vào đó, chỉ một loáng là xong. Buổi sáng tôi mới tranh thủ
đọc bài, viết bài, giải toán, đến trưa đã thấy chị cơm nước tươm tất, lợn cũng no
căng bụng, nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, chẳng còn thứ gì để tôi phải làm,
tôi phục chị lắm.
Được đi học là cả một
hạnh phúc lớn lao đối với tôi, trong khi có biết bao những người bạn bằng tuổi
tôi phải chăn trâu, cắt cỏ, trông em giúp gia đình, suốt ngày lầm lũi, chân tay
lấm láp những vết xước, vết chai lì…không thể đến trường. Nhìn tôi, nhiều đứa
ao ước. Có đứa nói: “ Mày là đứa sướng nhất rồi”!- Có đứa nói thế. Được đi học
ai chẳng thích, bởi vậy tôi thấy mình càng phải quyết tâm hơn để cho Cha vui. Cha
tôi luôn động viên tôi cố gắng học hành giỏi giang, chị em yêu thương đùm bọc lẫn
nhau. Hai chị gái tôi ngày càng chăm chỉ lo toan mọi công việc. Từ ngày Mẹ mất,
các chị ra dáng người lớn lắm. Có lẽ các chị là con gái chăm chỉ, khéo léo đảm
đang mọi việc trong gia đình, thành thử hai chị rất quí và chiều tôi. Từng món
ăn do các chị nấu chẳng khác gì Mẹ làm. Có lẽ do chị em tôi sớm thiếu vắng tình
thương của Mẹ mà khôn lớn hơn tuổi. Chị thương Cha và chúng tôi bằng cách riêng
của mình. Tôi còn nhớ, có lần Cha bị sốt li bì nằm trên giường, tôi lúng túng
chẳng biết làm gì. Chị Liên ngồi bóp đầu, trán cho Cha, rồi chị sai tôi ra vườn
hái cho chị nắm lá tía tô, hành, rửa sạch nấu cháo cho Cha ăn. Nồi cháo chín dưới
bếp khi bưng lên mời Cha tỏa mùi thơm ngon, tôi mới thấy các chị thật đảm, chẳng
biết chị học được những bài thuốc đó của Mẹ từ khi nào. Có lần, tôi sang nhà bạn
chơi, không để ý nên tôi đã bị con chó nhà bạn đợp vào chân chảy máu, tôi cho đất
bột vào vết thương cho cầm máu, định giấu chị và Cha nhưng vết cắn đau buốt và
sâu quá khiến tôi đành khai thật, chị mắng tôi và bảo: “Bị chó cắn là nguy hiểm
lắm”! Nói rồi, chị rửa vết thương cho tôi bằng nước muối để sát trùng và nặn
máu ở những vết răng chó cắn ra. Tôi bị một trận đau nhớ đời.
Mẹ tôi mất được một thời
gian thì Cha tôi tục huyền. Tôi nghĩ đến cuộc sống trước mắt đã khó khăn rồi sẽ
thêm khó khăn hơn, rồi tôi lại nghĩ sẽ bị dì quát mắng, hắt hủi chị em tôi như
mụ dì ghẻ trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám mà tôi được học từ lớp một. Vì vậy,
thời gian đầu tôi buồn thiu, cứ ra vào lầm lũi nhìn Cha mà không dám nói vì sợ
Cha buồn. Nhưng rồi, tất cả đều khác với những gì tôi tưởng tượng và lo lắng .Về
nhà tôi, dì lo toan cửa nhà chu đáo hơn. Chị tôi cũng bớt vất vả đi nhiều, thấy
vậy tôi cũng thấy quí dì hơn. Dì thương tôi như tình thương của một người mẹ.
Nhưng thật không may, dì sinh được em gái thứ tư thì bị mắc bệnh thần kinh. Cuộc
sống của gia đình tôi bị đảo lộn, ai cũng sợ và lo lắng. Tôi thương dì mà chẳng
biết làm cách nào để dì khỏi bệnh. Mỗi lần lên cơn là mỗi lần dì xé hết quần áo
mặc trên người, trong nhà có gì là dì vơ lấy, đập vỡ hết. Nhiều lúc, Cha tôi phải
nhờ người trói chân, tay dì lại. Mỗi lần dì lên cơn là gia đình tôi như có đám
tang, căng thẳng, và sợ hãi. Nhiều lúc, nhìn dì bị trói, tôi cứ như người có lỗi,
thương dì chảy cả nước mắt. Cha tôi là người vất vả nhất, thỉnh thoảng có anh
Loan (con bác ruột) sang trông dì giúp Cha. Căn bệnh quái ác hoành hành dì tôi
đến tận lúc cuối đời.
Xã Nam Lộc quê tôi có
17 xóm và được chia thành 4 làng. Từ xóm 1 đến xóm 5 gọi là làng Vạn Thọ; từ
xóm 6 đến xóm 13 gọi là làng Vạn Lộc; từ xóm 14 đến xóm 15 gọi là làng Đặng Xá;
xóm 16 và 17 là làng Ngũ Phúc- nơi tôi cất tiếng khóc chào đời. Làng tôi nho nhỏ
trải dọc ven bờ sông Lam, chúng tôi thường gọi là sông Cấy. Tôi thấy cả sông cả
núi như ôm ấp lấy làng tôi như mẹ hiền ôm ấp con thơ. Sông Cấy ở phía đông,
phía tây là dãy núi Thiên Nhẫn. Cứ mỗi độ hè về, dãy núi che chắn những trận
gió Lào nóng rát, còn dòng sông kia sẽ thổi lên những làn gió hiu hiu như tắm
mát cho cái làng Ngũ Phúc. Tôi nghĩ, nếu có người nào vẽ cảnh quê hương tôi
thành những bức tranh thì đẹp lắm đấy. Hội tụ của làng Ngũ Phúc có sông, có
núi, đâu đâu cũng một màu xanh trù phú.
Thiên Nhẫn là tên một dãy
núi nằm giáp ranh giữa các huyện Hương Sơn, Đức Thọ của tỉnh Hà Tĩnh với huyện
Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh xâm lược thế kỷ
thứ 15, sau khi rút quân vào vùng này, Lê Lợi đã cho xây dựng trên núi Thiên Nhẫn
một thành đá chạy dài hàng trăm mét gọi là thành Lục Niên. Dấu vết còn lại của
thành Lục Niên hiện nay là một dãy đá được xếp dựng đứng trên đỉnh núi. Sau cuộc
kháng chiến thành công nhân dân Tây Sơn đã xây dựng đền Trúc thờ vị Anh hùng
dân tộc ngay bên bờ sông Ngàn Phố. Năm 2004, đền Trúc đã được Bộ Văn
hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Cha còn kể cho tôi
nghe, dãy núi Thiên Nhẫn này đã từng in dấu chân của người anh hùng áo vải cờ
đào Quang Trung- Nguyễn Huệ mấy lần đi qua trong sự nghiệp đại nghĩa xóa bỏ sự
lộng hành của chúa Trịnh và dẹp tan quân xâm lược Mãn Thanh. Dân quê tôi thời ấy
đã sớm nhận ra chính tà và hết lòng ủng hô Tây Sơn. Dưới chân núi Thiên Nhẫn,
Quang Trung đã cùng Nguyễn Thiếp đàm đạo bàn luận về thời cuộc và đưa ra những
quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước. Hiền sĩ Nguyễn Thiếp từng
được vua Quang Trung tin cậy trao phó Viện Sùng chính. Đây là một công trình
văn hóa tuy đơn sơ nhưng tiêu biểu cho sự tương tri, tương đắc giữa Quang
Trung hoàng đế và La Sơn phu tử. Núi Thiên Nhẫn, nơi còn lưu lại bài thơ
của La Sơn phu tử Nguyễn
Thiếp:
Chi chít liền những rú,
Trông như ngựa chạy vòng
Miền nam mờ ngọn núi,
Cõi bắc uốn khúc sông.
Bóng chùa Thiên Nhẫn ánh.
Suối vọt Lục Niên kề
Tùng
cúc nay còn đó
Phong trần vẫn chưa về...
Vẫn còn đây những di tích
ghi nhận các sự kiện lịch sử ấy như đền Trong, đền Ngoài...Thủa chăn trâu,
chúng tôi đã nhiều lần vào các đền này để đánh trận giả.
Dãy Thiên Nhẫn trải dài đến
làng Ngũ Phúc thì chia làm hai nhánh, gồm hai dãy rú, bà con gọi là rú Trọc và
rú Lại Hái. Dưới chân hai núi này là con Khe Hương, nước chảy quanh năm chẳng
bao giờ cạn. Khe Hương rất đẹp và thơ mộng. Cái đẹp của thiên nhiên nhẹ nhàng,
thanh mát. Dù nắng rát gió Lào có hanh hao, gay gắt vào những ngày hè oi bức
nhưng đứng bên con nước này thì mọi cảm giác đó đều không còn nữa. Cái mát của
gió thiên nhiên ban tặng, của những tán lá cây rung rinh râm mát, của hơi nước
tỏa ra như xua tan đi tất cả oi bức.
Mỗi lần đến đây, tôi thường
dừng chân thật lâu để ngắm nhìn những hàng cây bên Khe Hương như ngắm một điều
kì diệu, mà tôi không thể giải thích nổi. Dưới làn nước trong xanh là tầng tầng
lớp lớp đá cuội đủ màu sắc đẹp như ngọc bích. Thi thoảng có những bãi cát vàng
trải dài dọc bờ khe như tấm lụa hồng gợn sóng. Hai bờ khe là những hàng cây cối
tốt tươi quanh năm. Đó là những hàng cây Mưng – ngoài Bắc gọi là cây Lộc Vừng -
xum xuê, trải ra một màu xanh bất tận. Bởi thế, Khe Hương còn có tên là Khe
Mưng. Những buổi trưa hè oi ả, lũ con nít chăn trâu chúng tôi thường tụ tập bên
bờ khe, dưới các tán cây Mưng để tán gẫu. Đứa nào cũng trần truồng như nhộng,
leo lên và bám vào các cành Mưng rồi thi nhau lao xuống nước như mũi tên. Chúng
tôi nhảy từ trên cành cao, đầu xuống trước, hai tay dọc theo thân người, khi tiếp
nước chỉ phát ra tiếng động rất khẽ. Khi toàn thân người đã xuống dưới nước thì
lượn một vòng như con rái cá, sau đó ngoi lên mặt nước để thở. Tiếp đó bơi vào
bờ và lại leo lên cây Mưng và lao tiếp. Cứ như vậy, chúng tôi thi nhau nhảy cho
đến khi mệt thì dừng. Đây là trò chơi nguy hiểm nhưng chúng tôi không thể bỏ được.
Cứ mỗi độ xuân về hoa Mưng
đua nhau khoe sắc thắm. Hoa Mưng có sức gợi nhớ bằng thứ hương thơm, ngọt ngào
quyến rũ nhưng điều kỳ diệu và thật ấn tượng, bắt mắt nhất với mọi người là bởi
thứ hoa này có màu đỏ rực rỡ. Hoa nở thành từng dây, mọc thành từng chùm, mỏng
mảnh đung đưa, lay nhẹ, cựa mình trong gió rồi thi thoảng rủ xuống mặt nước đẹp
như người con gái đang làm dáng, đứng khoe mình trên dòng nước biếc xanh. Những
cánh hoa hình thù giống như những cây tăm đỏ, chụm lại với nhau dưới cuống, còn
cánh thì nở bung ra như khoe hết màu đỏ thắm. Không phải ai cũng thấy hoa Mưng
nở rộ bởi loài hoa này chỉ nở vẻn vẹn trong hai đến ba tuần vào độ giữa xuân và
thu. Hoa Mưng nở vào ban đêm để rồi sẽ tàn lịm khi ông mặt trời thức dậy, như
giận dỗi, làm nũng với thời tiết khắc nghiệt của gió Lào. Hoa Mưng đỏ xen lẫn
màu xanh của lá, màu của nước, màu của mây trời, lại được những tia nắng thu
nhè nhẹ chiếu qua biến Khe Mưng thành bức tranh rực rỡ sắc màu. Khe Mưng
như kiêu hãnh bởi vẻ đẹp huyền diệu của mình và làm cho cảnh sắc nơi đây vừa
như một bức tranh thiên nhiên cổ kính, vừa như một miền quê yên ả, thanh bình,
gợi nhớ, gợi thương.
Khe Mưng bắt nguồn từ xã
Thanh Lâm huyện Thanh Chương, chảy qua xã Nam Lộc huyện Nam Đàn để rồi cuối
cùng chảy ra sông Lam, như tô thêm kỳ vĩ cho con sông.
Sông Lam. Đó là một phần quê
hương yêu dấu của tôi và cũng là một phần tâm hồn tôi. Sông chảy từ thăm thẳm đại
ngàn về bao la biển cả trong cuộc hành trình hàng triệu năm, qua những đổi thay
biến động dữ dội của trời đất và những thăng trầm dâu bể của con người.
Huyện Nam Đàn quê tôi được
dòng sông Lam hiền hòa và xanh biếc phân chia làm hai, từ Nam Thượng đến Nam Cường
để lại đôi bờ như anh em ruột thịt. Những lúc mưa to gió lớn, dòng sông mênh
mang, ngầu đục chảy cuồn cuộn như con thú dữ, cuốn trôi những gì có thể, nhưng
đôi bờ vẫn nắm chặt tay nhau gồng mình chống đỡ. Trời quang, mây tạnh, bên lở,
bên bồi, để lại những lớp phù sa mát ngọt. Mùa nước cạn, dòng sông biêng biếc một
màu xanh hiền hoà, mát dịu, đôi bờ lại vang ngân những khúc dân ca nặng tình, nặng
nghĩa.
Cứ chiều chiều, con sông lại
không thể vắng mặt những đứa trẻ chúng tôi. Ồn ào và líu nhíu. Sau cả ngày mải
chơi, chăn trâu, được ngụp lặn dưới con sông này là đã thấy mát lẹm cả người. Mọi
mệt nhọc, nóng bức như tan biến đi. Chỉ cần cởi áo vứt trên bờ là đứa nào đứa nấy
thi nhau nhảy ào xuống sông. Mặt sông sóng sánh nước, những chỗ chúng tôi nhảy
“tùm” thì nước bắn lên tung tóe. Có lúc chúng tôi còn thi nhau nhảy xem ai tạo
thành tiếng đập vào nước kêu vang. Sông ầm ĩ lẫn trong tiếng chúng tôi đùa
nhau. Chơi ở trên bờ như thế nào thì chúng tôi chơi dưới nước cũng như vậy. Những
đứa nhỏ chưa biết bơi thì đứng trên bờ vừa nhìn vừa học tập đàn anh, chân muốn
chạm vào nước rồi nhìn lớp đàn anh chị trổ tài những điệu bơi bướm, bơi ếch,
bơi chó, bơi sải... Quê tôi, là con trai hay con gái, ai cũng biết bơi thì phải,
mọi người bơi giỏi lắm, bé như chúng tôi đã biết bơi rồi. Có lẽ vì sông Lam chẳng
bao giờ biết ngừng chảy theo dòng đời. Từ lúc nắng chiều nhạt cho đến khi nắng
tắt hẳn, chúng tôi về nhà thì bờ sông mới chìm vào yên lặng. Sau đêm trăng
thanh, gió mát, sông lại chờ đợi những tia nắng vàng óng ả. Những ngày mưa,
sông đầy ắp nước. Sông cũng cho nhiều tôm cá, dân quê tôi hàng ngày vẫn thường
trực bên chiếc thuyền của mình khi đi đánh cá ven sông. Những con cá bụng tròn
căng, trắng phau, thân phận rủi ro đâm đầu vào lưới.
Sông cho nước, cho nhiều tôm
cá nên quê tôi có thêm nghề chài lưới. Những con thuyền rẽ sóng đi qua, buồm
cánh én đầy gió giữa mênh mang trời nước, vút bay lên giọng hò trong trẻo của xứ
Nghệ:
“Ai biết nước sông Lam răng
là trong là đục.
Mới biết cuộc đời răng
là nhục, là vinh.
Thuyền em lên thác xuống
ghềnh.
Nước non là nghĩa, là
tình ai ơi…”.
Câu hò da diết bên sông quen
thuộc như những lời ru của mẹ đưa tôi chìm vào giấc ngủ trưa hè. Cứ mỗi lần ra
sông, câu hò lại văng vẳng bên tai, lướt cùng với con thuyền trôi trên sông nước.
Nghe mãi âm điệu của câu hò thấy thân quen, thắm nghĩa thắm tình. Xa quê, mà
thiếu đi câu hò ấy, lại nao nao nỗi buồn vô cớ. Thấy nhớ quê hương da diết.
Bây giờ, cứ mỗi lần nghĩ lại những ngày thơ ấu, tôi thấy xao xuyến, bùi ngùi và
thèm khát tuổi thơ đầy ắp những kí ức xưa, ngọt ngào, sâu lắng. Tuổi nhỏ, tôi
chưa cảm nhận được tình ý sâu sa của câu hò nhưng nghe nhiều lần đã thuộc lòng
thành bài bản, ngân nga khúc dạo và thấy yêu con sông Lam, yêu ngôi làng Ngũ
Phúc bé nhỏ của tôi hơn.
Một hôm, tôi tò mò hỏi Cha:
- Cha ơi, sông Lam chảy
từ mô tới?
Cha khẽ cười, lấy tay chỉ về
dãy núi mờ xa ở phía mặt trời lặn, âu yếm nói:
- Chỗ nớ. Con có nhìn rõ những
dãy rú xa ngái tê không? Đó là dãy Trường Sơn. Sông Lam bắt đầu chảy từ chỗ nớ,
con ạ!
- Răng lại gọi rú nớ là Trường
Sơn rứa cha? -Tôi giật giật tay Cha hỏi lại.
- Người xưa đặt thế. Cũng
như rú ở quê mình có tên là Thiên Nhẫn, Đại Huệ đó con. Con cố gắng học lên sẽ
tìm hiểu thêm được nhiều điều!
Sau này, những bài giảng của
thầy cô và những trang sách đã giúp tôi hiểu rõ hơn về con sông Lam
và quê hương Nam Đàn của mình. Tôi thấy quê hương mình được nhắc đến nhiều
trong sách vở. Từ những trang sách văn học cho đến những bài địa ly, lịch sử…
Thì ra, sông Lam bắt
nguồn từ vùng Nậm Căn (Lào), của dãy Trường Sơn trùng trùng, điệp điệp. Phần chính của
sông chảy qua Nghệ An, phần cuối qua Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc hợp
lưu với sông
La từ Hà Tĩnh, qua Đức Thọ, Nghi Xuân, Hồng Lĩnh tạo
thành biên giới của Nghệ An và Hà tĩnh, trước khi đổ ra biển Đông
tại cửa Hội.
Không bao giờ cô độc, dòng
Sông Lam bao dung và hiền hoà, ôm lấy các nhánh sông khác tạo thành dòng chảy mải
miết bồi đắp phù sa mát ngọt cho đôi bờ.
Tôi thường nghe người ta nói
núi sông là hội tụ linh khí của đất nước, mỗi vùng đất đều có những cặp sơn hà
tiêu biểu. Ví như Hà nội có sông Nhị- núi Nùng, sông Đà- núi Tản; Nam Định có
núi Vị- sông Côi; Thanh Hóa có núi Hàm Rồng- sông Mã; Quảng Trị có non Mai-
sông Hãn; Huế có núi Ngự- sông Hương… Nghệ Tĩnh nói chung và Nam Đàn quê hương
tôi nói riêng thì có núi Hồng – sông Lam. Vì thế ngàn đời nay, dân Ngũ Phúc quê
tôi vẫn nhớ câu ca dao say đắm lòng người: “Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây,
sông Lam hết nước thì đó đây mới hết tình”.
Nam Đàn có diện tích vào khoảng
296,88 cây số vuông, phía đông giáp hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, ngăn
cách với biển Đông, phía tây giáp huyện Thanh Chương, bắc giáp huyện Đô Lương của
Nghệ An và phía Nam giáp huyện Hương Sơn, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Sa Nam là thị
trấn huyện lỵ của Nam Đàn, cách thành phố Vinh 21 cây số đường bộ. Đây là một
vùng quê vừa có đồng bằng, vừa có trung du, vừa có miền sơn cước, non nước đa dạng
hữu tình. Ai đã lên chợ Sa Nam, đứng nhìn dòng Lam lững lờ trôi, những đoàn
thuyền nối đuôi xuôi ngược, tiếng hát đò đưa theo nhịp chèo âm vang sông nước,
hai bên bờ là bãi mía, nương ngô mượt mà tít tắp. Trước mặt là rú Đụn Sơn đẹp
mê hồn.
Vào những đêm trăng sáng vằng
vặc, Cha tôi thường vác chõng tre ra sân ngồi uống nước chè xanh, khi thì cùng
mấy người hàng xóm bàn chuyện làm ăn, chuyện đánh cá, chăn bò, chuyện ngày mùa
thu hoạch, chuyện thời tiết, chuyện thất thu… Rồi có hôm, tôi còn thức khuya ngồi
bên Cha say sưa nhìn Cha chơi cờ tướng. Quan sát những quân cờ và cách đánh cờ
của Cha chậm dãi và chín chắn lắm, chẳng mấy khi vội vàng, tôi nghiễm nhiên học
được những hướng đi và cách chơi cờ. Có những đêm trăng sáng Cha ngồi kể chuyện
xưa cho chúng tôi nghe. Gió mát thổi nhè nhẹ. Bóng trăng lồng bóng cây, những
ánh sáng của trăng xuyên qua tán lá rồi phản xuống sân nhà tạo thành những hình
thù, tôi tưởng tượng những ánh sáng ấy ra nhiều hình ảnh lắm. Bầu trời có biết
bao nhiêu vì sao lấp lánh mà tôi không thể đếm hết. Tôi nhận thấy sự khác nhau
giữa tên gọi các vì sao và hỏi Cha. Cha giải thích cho tôi về sao Hôm, sao Mai,
sao Chổi, sao Diêm Vương, sao Bắc Đẩu…
Cứ mỗi buổi trưa hoặc tối,
sau bữa cơm là đến giờ uống chè xanh tập thể. Có lẽ đây là phong tục tập quán
quê tôi từ xưa truyền lại. Không ai ngồi uống một mình. Khi chè đã chín, Cha
tôi chỉ đứng ngay trước cổng nhà gọi một tiếng thật to: “Mời các ông các bà
sang nhà uống nác”. Tiếng gọi, đứng xa vài trăm mét cũng nghe thấy. Tiếng gọi cứ
âm vang nhà này qua nhà khác. Mấy phút sau cả xóm kéo đến tụ tập quanh ấm nước.
Vừa uống chè vừa kể chuyện tâm tình, chuyện trong làng, ngoài xóm, chuyện làm
ăn, chuyện vui và có cả chuyện buồn. Qua ấm nước chè xanh, con người như thông
cảm nhau hơn, gần gũi nhau hơn, tình làng nghĩa xóm thêm đậm đà, gắn bó, và sẵn
sàng giúp nhau khi có khó khăn. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ nôn nao tiếng gọi mời
nhau uống nước chè xanh ấy. Sau này nhạc sĩ An Thuyên đã thể hiện cảm xúc đẹp đẽ
ấy qua ca khúc Ca dao em và tôi:
“ Để cùng đi hát dân ca quê
mình.
Đê tôi sống giữa bao nhiêu
ân tình.
Bao ân tình mộc mạc làng
quê.
Trưa nắng hè gọi nhau râm
ran chè xanh.”
Vào buổi tối, sau chầu chè
xanh, dưới ánh trăng óng vàng, chúng tôi lại quây quần bên nhau nghe Cha kể chuyện.
Cha kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày. Cha dạy cho chị em tôi biết ứng
xử với người lớn, với bạn bè, thầy cô. Sau đó là những truyền thuyết, cổ tích,
thần thoại. Tôi cứ nằng nặc đòi Cha kể rồi lại lim dim đôi mắt ngủ say sưa lúc
nào không biết. Trong kho chuyện kể của Cha có một câu chuyện tôi không bao giờ
quên được vì nó liên quan đến núi Đại Huệ quê tôi.
Chuyện kể rằng: Thời ấy có một
người phụ nữ làm nghề muối ở Đồi Mơ (Mai Phụ) thuộc vùng đất Thạch Hà (Hà Tĩnh)
đã đến vùng rú Rẻ thuộc Nam Đàn bây giờ và ở đậu dưới mấy gốc mai, rồi sau đó
sinh ra một cậu con trai. Ngày ngày, người mẹ trẻ lặng lẽ vào rừng nhặt củi,
hái rau, xuống suối mò cua, bắt ốc, tần tảo nuôi con qua ngày đoạn tháng. Dân
làng ai cũng thương cảm và giúp đỡ hai mẹ con rất nhiều. Mấy năm sau, không may
người mẹ bị ốm mất. Cậu bé được một gia đình khá giả đem về nuôi nấng và đặt
tên là Mai Thúc Loan. Càng lớn, Mai Thúc Loan càng khỏe mạnh, thân hình vạm vỡ,
siêng năng cần cù. Mọi việc làng, việc xóm qua tay anh đều mau lẹ, trôi chảy.
Ngày ấy, ở vùng núi Nậy (Đại
Huệ) có thứ vải ngon nức tiếng xa gần. Viên quan nhà Đường (Trung Quốc) được cắt
đặt cai trị ở đây, biết rõ cung đình ở phương Bắc rất chuộng đặc sản này, đặc
biệt là quí phi họ Dương- ái khanh của Thiên tử- người có quyền lực vô song. Đến
mùa vải chín, quý phi hướng về phương Nam xa lắc, nóng lòng chờ nghe tiếng nhạc
ngựa đưa vải về tiến Vua. Nhìn những mâm vải chín đỏ, căng vỏ được kính cẩn
dâng lên, nàng nhoẻn miệng cười rất tươi. Từ đó người ta đặt tên cho loại vải này
là “Phi tử tiếu”. Quan cai trị Quang Sở Khách ráo riết thúc ép dân An Nam, trước
hết là dân vùng núi Đại Huệ, bất kể ngày đêm hái vải ngon nộp cho hắn và sai
lính kị mã hỏa tốc chuyên chở về kinh đi Tràng An nhà Đường. Bị cướp đoạt đặc sản
quê hương, bị bóc lột sức lao động thậm tệ, bị thúc bách, đánh đập trên đường tải
vải, những người dân vùng núi Nậy hừng hực căm thù. Mai Thúc Loan, chàng trai
da mặt đen sẫm, vóc dáng to lớn, vạm vỡ đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước thương
dân thành cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược phương Bắc. Năm 722, sau khi dùng
quả vải làm lễ ăn thề, mọi người tôn Mai Thúc Loan làm chủ soái, lấy Sa Nam làm
căn cứ địa, núi Vệ trở thành sở chỉ huy cuộc chiến đấu và cũng là nơi đóng đô của
ông sau này. Mai Thúc Loan được các nghĩa quân và nhân dân gọi là Vua Mai Đen
mà sử sách gọi là Mai Hắc Đế.
Câu chuyện có cốt lõi lịch sử
được truyền miệng, phần nào đã truyền vào tôi lòng yêu nước và tự hào về quê
hương từ thửa nhỏ. Chúng tôi tự hào về ông như tự hào về vùng đất Nam Đàn “địa
linh nhân kiệt”. Không phải vùng đất nào cũng có những con người tài giỏi như
thế. Từ thời nhà Trần, năm Bính Thìn (1256) đời vua Trần Nhân Tông, niên hiệu
Nguyên Phong 6 đã có ông Trương Xán, người Nam Đàn thi đỗ Trạng nguyên. Tính từ
nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Nam Đàn có 36 vị đỗ Đại khoa Hán học. Truyền thống
hiếu học đã có sẵn trong dòng máu quê hương và đã được chuyển lưu từ thế hệ này
qua thế hệ khác, trong đó có lớp người chúng tôi. Với tôi, Vua Đen họ Mai vừa
vĩ đại, vừa gần gũi.
Tôi cảm phục những
anh hùng yêu nước, mặc dù chỉ được đọc, được nghe kể. Và dần dần tôi hình dung
về mảnh đất quê mình với những thế hệ trước đây, họ là những tấm gương sáng
trong lịch sử. Và có lẽ gần gũi và thân thuộc với tôi nhất vẫn là làng Sen quê
Bác. Làng Sen thuộc xã Kim Liên, không xa xã Nam Lộc quê tôi lắm. Từ tuổi học
trò, chúng tôi đã bảo với nhau rằng “chúng mình được ở cùng quê với Bác Hồ”. Có
những buổi tranh luận, chúng tôi còn thi nhau tính xem nhà bạn nào gần nhà Bác
nhất, rồi thi nhau nhắc lại những bài học, những câu chuyện kể về Bác, nhất là
những chuyện dành cho các cháu thiếu niên nhi đồng như “câu chuyện về quả táo của
Bác Hồ cho một em thiếu nhi, em đã để dành, ai xin cũng không cho..., hay câu
chuyện về ông Ké, câu chuyện về những ngày Tết thiếu nhi và rằm trung thu, Bác
đã viết thư quan tâm đến các cháu thiếu niên nhi đồng, cùng với niềm vui, Bác
căn dặn tuổi nhỏ học hành chăm ngoan…
Năm tôi vào học
lớp một, tôi phấn đấu học giỏi để được Cha cho đi thăm nhà Bác. Cứ nghĩ đến
niềm vui đó là tôi quyết tâm học bằng được. Tôi mường tượng ra nhiều cảnh
ngôi nhà Bác lắm. Mặc dù tôi đã được nhìn thấy qua những hình ảnh minh họa trên
trang sách nhưng đó chỉ là bề ngoài của ngôi nhà. Tôi nghĩ nhà Bác chắc nhiều
thứ đồ và đẹp lắm vì ai cũng biết đến Bác. Bác là người đã từng đi nước
ngoài, nổi tiếng khắp năm châu bốn bể. Trong tâm trí tuổi thơ tôi thì Bác là
ông Tiên tài giỏi, hiền hậu và nhân từ vô cùng. Cha tôi kể rằng: Cha
đã được gặp Bác trong lần Người về thăm quê sau 50 năm xa đất nước. Tôi mới
chỉ thấy Bác trên phim ảnh, tôi ao ước được gặp Bác một lần, một lần thôi cũng
sung sướng lắm rồi. Và rồi thì điều mơ ước được đi thăm nhà
Bác cũng đã đến. Tôi vui sướng hồi hộp, thao thức không sao ngủ
được. Cha đưa tôi đi, con đường ven theo các bờ ruộng, mắt tôi cứ mở to mà
theo dõi cảnh thiên nhiên, những cánh đồng thơm ngát mùi lúa chín. Đi đến
đâu, Cha tôi giới thiệu những phong cảnh đến đấy. Tai tôi dỏng lên
nghe và cố nhớ lại con đường từ nhà mình đến nhà Bác nhưng tôi không thể nhớ nổi
vì có nhiều ngả rẽ quá, hơn nữa có nhiều cảnh quan hấp dẫn khiến tôi không còn
có thể để ý được. Tôi nóng lòng lắm, thỉnh thoảng lại hỏi Cha: “Sắp đến
nhà Bác chưa, hả Cha?”. Nhà Bác đây rồi! Ngôi nhà tranh nép dưới bóng tre
xanh, giống như nhiều ngôi nhà của người dân quê tôi. Chẳng có gì là đồ sộ và
xung túc, mọi cái đều bình thường giản dị giống như trong những mẩu chuyện kể về
cuộc đời Bác…Xung quanh cây trái xanh um, tươi tốt. Hàng râm bụt bên
lối đi vừa ngang đầu tôi, lá xanh mướt, hoa nở to bằng chiếc bát ăn cơm, khoe sắc
đỏ bóng, nhụy hoa vàng lay lay trong sáng sớm vẫn còn đẫm sương đêm.
Hàng cây được tỉa đẹp, tạo thành lối đi thẳng tắp. Vườn khoai lang xanh tốt chẳng
còn nhìn thấy đất, rung rinh mấy bông hoa tím nhạt trông thật
đáng yêu. Hàng cau trước cửa ngôi nhà Bác cao vút, hương cau thơm mát. Mặc
dù được nghe Cha kể và đọc được những bài học giản dị về Bác, nhưng
tôi không nghĩ rằng mọi cái lại giản dị và gần với thiên nhiên như vậy. Cha tôi
kể: Bác xa quê lâu lắm rồi, ngôi nhà Bác cũng yếu dần trong gió mưa, đời sống
nhân dân cũng bớt khổ hơn trước, nên dân làng góp công góp sức dựng lại
ngôi nhà của Bác để tỏ lòng biết ơn công lao của Bác- khi về thăm lại
ngôi nhà của gia đình. Bác nhìn ngôi nhà và cảm động trước tấm lòng của bà
con quê hương dành cho Bác. Tôi bước qua bậc cửa và lặng lẽ dõi theo những vật
dụng trong ngôi nhà. Nắng sớm của vùng quê yên tĩnh, giọng cô thuyết minh ấm
áp làm người nghe phải sụt sùi thương cho hoàn cảnh của gia đình Bác: Tại
nơi đây, đêm đêm, thân phụ Bác miệt mài ôn luyện bài vở để dự kỳ thi
sắp tới thì mẹ Bác cũng cần mẫn, nhịp nhàng đưa thoi dệt những tấm vải đem bán
lấy tiền nuôi gia đình. Đây là chiếc chõng tre đã ngả bóng cùng thời gian, kia
là chiếc võng đay đã từng chở những giấc mơ của cậu bé Nguyễn Sinh Cung (gọi
theo tiếng địa phương là Côông)…cùng những câu hát, điệu hò xứ Nghệ của mẹ.
Những tối sau đó, Cha
tôi lại chậm dãi kể cho tôi nghe về cuộc đời hoạt động của Bác, càng nghe càng
bồi hồi xúc động. Từ những hành động và việc làm nhỏ của Bác đều có ý nghĩa đối
với dân với nước. Bác quan tâm và thương yêu tất cả mọi người, đến mọi tầng lớp;
ý nghĩ về dân tộc luôn canh cánh trong lòng đã thôi thúc Bác học tập và tìm con
đường cứu dân, cứu nước. Tôi nghe cha kể, lòng thầm nhủ: mình cần phải cố gắng
học hơn.
Từ nhỏ, tôi đã nghe
câu phương ngôn theo truyền thuyết để lại “bao giờ Đại Huệ phân giải, bò đái thất
thanh, Nam Đàn sinh thánh”. Ý nghĩa của câu phương ngôn này thực hư ra sao, tôi
không đoán được, nhưng núi Đại Huệ gần thị trấn Nam Đàn vẫn còn vết nứt đôi ở đỉnh.
Có lần về viếng đền vua Mai Thúc Loan, tôi đã lên xem thì vẫn còn những vết nứt
sâu. Còn khe bò đái ở Nam Thượng, đối diện với núi Đại Huệ bây giờ đã cạn khô.
Dân làng quê tôi nói: “Bác Hồ sinh ra vào thời điểm trên”. Quê hương Nam Đàn đã
sinh ra một người con, một vị lãnh tụ của cả dân tộc…
Có nhiều chuyện, nhiều
điều để hồi tưởng về tuổi thơ nhưng có lẽ với cái mốc thời gian ngày 5 tháng 8
năm 1964 thì tôi nhớ mãi. Đó là ngày đầu tiên máy bay Mỹ ném bom xuống miền Bắc
nước ta…
Chiều thu. Bầu trời
như được ai đó nâng cao hơn, trong xanh vời vợi. Những đám mây trắng bồng bềnh
bay lên từ phía biển…Tôi và đám bạn dắt nhau đi dọc bờ sông và nhẩm đọc bài vè
của bọn trẻ con mục đồng Ngũ Phúc vừa đặt ra mấy hôm nay:
Mẹ cho túi đầy
Ve vẻ vè ve
Cái vè ăn vải
Bà cho một quảy
Chén hết ba ngày
Hai hôm hết sạch
Vải này ngon thật
Vỏ đỏ ruột trong
Đi xuống tắm sông
Rồi về Rú Nậy
Ông vua Đen thấy
Cho một gánh to…
Vừa đọc
vè vừa ngắm sông trong cảnh thanh bình và ai cũng hy vọng rằng sự yên bình này
sẽ là bất diệt...
Bỗng
dưng, sau câu vè cuối cùng là những tiếng động ầm ầm, dữ dội từ phía biển dội đến.
Tiếng động ầm ầm như sấm trời ngày một gắt gao hơn. Tôi chưa hình dung được là
tiếng gì thì đã thấy trên bầu trời trong xanh phía thành Vinh có mấy chiếc máy
bay đen trũi đang lượn vòng như những quái vật hung hãn. Những chiếc máy bay
đen trũi, bay cao và chúi đầu xuống hướng thành Vinh. Từ bụng nó phụt ra những
vệt lửa đỏ rực, để lại đằng sau một vệt khói đen sẫm. Cũng có chiếc bổ nhào và ở
bụng nó có những vật gì nom như những chấm đen rời khỏi thân máy bay và lao
nhanh xuống đất. Tiếp đó là tiếng nổ rầm trời. Khói đen bốc lên cuồn cuộn như xắn
ra từng miếng được. Từ mặt đất thành phố Vinh bốc lên những cột khói đen. Trên
bầu trời, tiếng đạn phòng không của bộ đội nổ lụp đụp. Máy bay Mỹ ném bom xuống
thành phố Vinh rồi! Nhiều người làm đồng nhốn nháo bỏ chạy về nhà.
Lần đầu tiên
nghe tiếng máy bay phản lực Mỹ gầm rít, tiếng bom đạn nổ ình oàng, tiếng người
kêu thất thanh, nhìn các bạn mặt tái mét, tôi thấy sợ hãi vô cùng.. Làng Ngũ
Phúc nhỏ bé, yên bình nay đột nhiên xáo động, nhớn nhác. Chỉ còn mấy ngày nữa
là khai trường. Không hiểu rồi đây thầy và trò sống ra sao và học ra sao đây?
Tôi đang
miên man nghĩ thì nghe tiếng Cha gọi thất thanh. Tôi nhằm hướng Cha mà chạy.
Cha nắm tay tôi và bảo tiếp tục chạy thật nhanh về nhà.
Tối hôm
đó, tôi nghe đài Tiếng nói Việt Nam thông báo rằng ngày hôm nay máy bay Mỹ
không chỉ ném bom, bắn phá ở Vinh - Nghệ An mà còn đánh phá nhiều nơi từ Quảng
Bình đến Quảng Ninh, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại trên quy mô lớn bằng
không quân, hải quân ra miền Bắc XHCN. .
Những
năm tôi học cấp II tại xã Nam Tân và cấp III tại xã Nam Hùng thì cuộc chiến
tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc đã leo đến nấc thang mới cao hơn. Nghe
đài, đọc báo tôi cảm nhận cách mạng miền Nam đã có những bước phát triển mới, bất
lợi cho Mỹ, Nguỵ. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” - được tiến hành chủ yếu bằng
quân đội Nguỵ với phương tiện vũ khí và sự yểm trợ của không quân, hải quân Mỹ
- đã bị phá sản. Kế tiếp là cuộc “chiến tranh cục bộ” đang bị sa lầy. Nội dung
của chiến lược này là sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt
bộ đội chủ lực ta; quân Nguỵ làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân
dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng. Thực hiện chiến
lược này, chúng đã đưa vào miền Nam ta hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ và quân
đội một số nước chư hầu. Đồng thời, Mỹ đã sử dụng không quân, hải quân mở chiến
dịch “Sấm rền”, điên cuồng đánh phá ác liệt với mưu đồ “đưa miền Bắc trở
lại thời kỳ đồ đá”, hòng ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Đế quốc
Mỹ đã leo thang mở rộng chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc. Các tuyến đường
bộ, đường sắt, cầu cống, cơ sở kinh tế, đê điều, đập nước, bệnh viện, trại an
dưỡng, trường học, nhà thờ, đền chùa đều là mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ. Làng
Ngũ Phúc bé nhỏ của tôi suốt ngày nghe tiếng gầm rú điên loạn của máy bay phản
lực Mỹ. Ban ngày máy bay gầm rú bắn phá thị trấn, cầu Mưng và ven đường quốc
lộ 15, ban đêm đèn dù chúng giăng xuống dọc tuyến đường, nhất là hai bên cầu
phao Nam Đàn. Cuộc chiến đã thật sự ập đến từng nhà với biết bao bất ổn, tai hoạ
rình rập từng giờ, tùng phút.
Tuy
nhiên, chính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy đã phát triển nhiều phong trào quần
chúng sôi nổi, có tác dụng động viên tinh thần bà con nhất là tầng lớp thanh
nhiên mới lớn như chúng tôi. Đó là các phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên,
“Ba đảm đang” của phụ nữ, “Chắc tay búa, tay súng” của công nhân, “Thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “ Tay cày, tay súng”, “Xe chưa qua,
nhà không tiếc” của nông dân, “Ba quyết tâm” của trí thức. Với học sinh chúng
tôi thì phong trào “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”
đã được xác định sẵn sàng lên đường vì tổ quốc thân yêu. Năm 1966, đế quốc Mỹ
đã dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Ngày 17.7.1966,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi động viên nhân dân Việt Nam: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song, nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tư do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta lại
xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”!
Những năm
tháng đó, chúng tôi phải đội bom đến trường. Để phù hợp với hoàn cảnh thời chiến,
bà con quê tôi đã sáng tạo ra chiếc đèn “phòng không”. Đó là chiếc đèn dầu hoả,
được làm bằng lọ mực Cửu Long và đặt trong ống bơ hoặc ống nứa đã được khoét một
ô hình chữ nhật đủ ánh sáng hắt ra vừa trang giấy. Khi có tiếng báo động, chỉ cần
thổi nhẹ là đèn tắt ngay. Trên tấm bảng đen của thầy giáo cũng có một ngọn đèn
dầu hoả được che chắn cẩn thận. Chỉ có một lỗ hở nhỏ để ánh sáng hắt ra vừa đủ
diện tích tấm bảng đen. Trời chập choạng tối, chúng tôi đã phải tay đèn, tay
sách í ới gọi nhau tới trường. Những lớp học sơ tán trong nhà dân bằng vách đất,
mái lá, nửa chìm nửa nổi gắn liền với căn hầm được làm bằng kèo tre vững chắc.
Ánh sáng đèn dầu vàng ệch nên con chữ trông mờ lắm. Học sinh chúng tôi đứa nào
cũng căng mắt ra mà nhìn, cố gắng tiếp thu từ bài giảng, không bỏ sót con chữ
nào. Mùi khói dầu bốc lên khét lẹt. Sau mỗi buổi học, hai lỗ mũi bám đầy muội
đen. Chiếc đèn phòng không này đã gắn chặt với tôi trong thời gian học cấp
hai và cấp ba như một người bạn tri kỷ nâng bước tôi trong những đêm tối
trời đến lớp, thủ thỉ cùng tôi trong những đêm khuya học bài, sưởi ấm cho tôi
trong những đợt mưa dầm, gió bấc, canh cho tôi những giấc ngủ ngon lành mỗi khi
thiếp đi trên bàn học.
Chúng tôi được các thầy cô dạy cho ánh sáng của dân tộc và nhân loại. Biết đến
những câu ca dao, tục ngữ...có từ xưa truyền lại, biết yêu tiếng việt. Được nhận
thức giá trị nội dung, nghệ thuât tinh túy các tác phẩm văn học: “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du, “Nhật Ký trong tù” của Hồ Chí Minh, “Từ ấy” hoặc “Việt Bắc”,
“Gío Lộng” của Tố Hữu, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, “Quê Hương” của
Giang Nam… Được biết thế nào là định lý cạnh tam giác vuông của Pitago, định luật
vạn vật hấp dẫn của Niutơn, lực đẩy trong nước và lực đòn bẩy của Accimet, thuyết
tiến hoá của Đắcuyn. Đặc biệt là tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendeleep
đã được chúng tôi học thành “bài ca giá trị” cho dễ nhớ. Những định lý, định luật
của của môn toán, môn lý được chúng tôi đọc trôi chảy. Chúng tôi ôn bài khi đi
trên đường với nhau, cùng kiểm tra, tranh luận cả những đáp số của những bài
toán khó. Bởi vậy mà con đường đi bộ của chúng tôi trở nên gần hơn, chẳng mấy
chốc là đến trường và sớm về đến nhà mà không thấy mệt mỏi.
Nhiều
lúc, thầy trò đang say mê với bài giảng, kẻng báo động vang lên chưa dứt thì
máy bay Mỹ đã ập đến. Đèn phòng không được thổi tắt nhanh chóng. Thầy trò khẩn
trương chạy ra giao thông hào. Phòng học tối om om, bóng đêm dày đặc đang bủa
vây trong nỗi lo sợ. Máy bay gầm rít như xé toạc bầu trời. Thầy trò vội vã di
xuống giao thông hào trú ẩn. Đây cũng là kết quả tập dượt nhiều lần nên khi có
báo động không xảy ra tình trạng lộn xộn, nhốn nháo. Những khó khăn trong hoàn
cảnh nghiệt ngã của thời chiến tranh khiến cho mỗi lớp học, mỗi hoạt động của học
sinh chúng tôi đều trở nên nhanh nhẹn, khẩn trương và ý thức kỷ luật cao hơn. Nếp
sống thời chiến đã thấm quen, trở thành phản xạ tự nhiên trong mỗi con
người, mỗi học sinh chúng tôi. Khi tiếng gầm rít của máy bay Mỹ xa dần, chúng
tôi mới bớt đi những lo lắng trong lòng. Những ánh đèn lại sáng dần lên soi những
khuôn mặt trắng trong, chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi, tiếp tục nghe giảng.
Lớp học lại im phăng phắc khi từng lời sâu sắc, ân cần của thầy, cô sang sảng
vang lên.
Tan
buổi học thì cũng đã quá nửa đêm. Hai bát cơm độn khoai ăn vội cuối giờ chiều
bây giờ đã bay đi đâu mất. Đứa nào cũng đói cồn cào. Đang tuổi ăn tuổi ngủ mà.
Nếu bây giờ có bắp ngô luộc hoặc củ khoai nướng dậy mùi thơm thì hẳn sẽ
sáng mắt lên.
Tôi nhớ có lần, học về
muộn. Trong lớp chỉ có tôi và cậu Sửu là cùng làng. May mà có bạn đi cùng nên
tôi cũng bớt lo. Lần nào hai đứa cũng rủ nhau đi học và đợi nhau về. Lúc này
khoảng gần 1 giờ sáng. Khi tôi và Sửu đi qua bãi tha ma, hai bên đường là bãi
ngô xanh tốt. Mùa ngô ra hoa, ra bắp lá xanh mượt mà, thoang thoảng mùi hoa ngô
ngầy ngậy. Chúng tôi nhìn thấy những bắp ngô rập rình bám trên thân cây mà
thích mắt, lúc đầu còn thấy chúng bé hơn nắm tay tôi, ấy vậy mà chúng to lên rất
nhanh, đến mùa thu hoạch thì chỉ còn lại những lá ngô già héo, những thân ngô
được mang về làm củi đun cơm. Chẳng đứa nào bảo đứa nào, chúng tôi đều sợ hãi;
bặt im đi qua bãi tha ma rồi mới dám nói chuyện với nhau. Đêm nay cũng như mọi
đêm, chúng tôi đang đi thì thấy từ phía bãi tha ma có ai đó ném đất ra đường, về
phía trước mặt. Tôi hoảng hồn và chỉ biết cắm đầu đi. Tôi thấy Sửu nắm lấy tay
tôi, sợ hãi:
- Biểu ơi, có ma...a!
Đêm như mực
mài. Chỉ có hai đứa lò dò ngoài đường, nghe nói đến ma, tôi sởn hết cả gai ốc,
hai thái dương cũng gai lên. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ma và cũng không bao giờ
tin đó là thật... Nhưng hôm nay thì tôi tin. Đang lo sợ thì đất đá cứ tới tấp
ném vào chúng tôi. Nỗi khiếp sợ bao trùm. Chắc trong bãi ngô sẽ có nhiều con ma
với những hình thù quái dị đang sẵn sàng bắt chúng tôi. Lúc này tôi lại nhớ đến
câu chuyện con ma có lưỡi dài chuyên đi giết người mà chị Liên đã kể.
Tôi muốn chạy
trước mà thằng Sửu cứ bám chặt vào vạt áo làm tôi càng luống cuống. Bỗng lại
thêm mấy con đom đóm dập dờn trước mặt. Phải chăng là con ma có lưỡi dài đón đường?
Đang nghĩ về ma thì đất đá lại tiếp tục ném ra. Thôi chết, ma thật rồi! Lợi dụng
sức khoẻ hơn nên tôi cố bứt phá chạy trước, Sửu chạy sau. Để chạy cho nhanh, Sửu
phải vứt hết tất cả sách vở, tôi cũng vứt theo. Càng chạy thì tiếng chân người
chạy sau càng theo sát hơn…
Về đến cổng, hai đứa
thở ra cả tai, quay lại thì chẳng thấy gì. Hai đứa hú hồn như vừa trải qua một
cơn hoạn nạn khủng khiếp. Tôi chưa kịp nói thì thằng Sửu vừa thở hổn hển, vừa kể
cho Cha tôi nghe chuyện ma đuổi. Cha nghe chuyện rồi nhanh chóng ra khỏi nhà, tới
bãi tha ma xem sự tình như thế nào và nhặt sách vở về cho chúng tôi. Hỏi ra mới
biết, đó là trò đùa rất nguy hiểm của mấy ông bảo vệ bãi ngô. Ôi, trêu đùa kiểu
đó thì thật là khủng khiếp. Nhưng cũng sau hôm đó, tôi và Sửu đi học cũng thấy
đỡ sợ hơn.
Trong hoàn cảnh ấy,
không ai kêu khổ, bởi chúng tôi biết, Cha Mẹ mình còn vất vả gấp bội phần để lo
cho mình học tập. Có lần, chị cả tôi bàn với Cha rằng:
-Thằng Mỹ cứ ném bom
hoài như thế này, đồng áng, ruộng vườn không làm được thì lấy gì mà ăn. Không
hiểu nhà mình sống ra làm sao? Nghe vậy, Cha nhìn chị em tôi với ánh mắt suy tư
và đưa tay chỉ cánh đồng lúa đang thì con gái:
-Thì cánh đồng này cũng đã bị
mấy loạt bom rồi. Nhưng lúa vẫn xanh tươi.
-Con cứ gắng học đi,
con sẽ không phải đói đâu.
Tôi biết Cha cũng rất
suy tư về những khó khăn do chiến tranh đưa đến. Tôi rất xúc động về sự quan
tâm, về tấm lòng hiếu học của Cha đối với việc học của con cái. Chẳng bao giờ
tôi lại quên được tấm lòng vàng của Cha dành cho chị em tôi. Do vậy, không có
cách nào khác là phải học thật tốt để không phụ lòng Cha.
Thời gian
gần đây, làng Ngũ Phúc bé nhỏ của tôi đã có những thanh niên xung phong lên đường
nhập ngũ, nhiều cô gái đã ra tiền tuyến. Nhìn lớp lớp các đàn anh, đàn chị mặc
bộ quần áo xanh với chiếc mũ tai bèo tôi thấy ai cũng lớn hẳn lên, khỏe mạnh
hơn và chững chạc lắm. Những lần tiễn các anh chị lên đường, chúng tôi đều có mặt
đông đủ. Có những đêm khuya, ra đứng đầu đường quốc lộ 15A nhìn bộ đội, thanh
niên xung phong hành quân về phía Nam mà lòng tôi vô cùng háo hức muốn trở
thành anh bộ đôi ngay lập tức. Trong đoàn quân ấy, có ai mang chiếc đài đi theo
(có thể là cán bộ) vẳng ra tiếng hát:
Anh vẫn hành quân
Trên đường ra chiến dịch
Mé đồi quê anh bước
Trăng non ló đỉnh rừng
Anh vẫn hành quân
Lưng đèo qua bãi suối
Súng ngang đầu anh gối
Anh đi khắp chiến trường…
Tiếng hát cứ cao dần
với ca từ dung dị và âm hưởng hùng hồn theo nhịp bước quân hành, làm cho đêm
khuya quê tôi bổng như bừng thức dậy. Khi về nhà, tôi nằm xuống giường mà vẫn
văng vẳng bài hát “Anh vẫn hành quân”. Không hiểu sau này mình lớn lên có
được hãnh diện là anh giải phóng quân để được theo bước các anh bộ đội kia
không?
Cuộc chiến
tranh ngày càng khốc liệt hơn, xã Nam Lộc quê tôi suốt ngày phải nghe tiếng gầm
rú của máy bay Mỹ. Bom giặc ném xuống quê tôi không theo một quy luật nào. Lúc
đầu, máy bay chỉ ném bom vào buổi trưa đến chiều, sau đó chúng ném cả ban đêm
và có lúc chẳng trừ thời gian nào. Máy bay từ biển vào, rồi có chiếc ném bom ở
đâu đó khi bay qua quê tôi lại trút nốt số bom còn lại trước khi bay ra biển.
Ban đêm, pháo sáng giăng đầy dọc tuyến đường 15A chạy qua làng tôi như những cặp
mắt cú vọ.
Những năm
học cấp III Nam Đàn, tôi được bầu làm bí thư chi đoàn của lớp. Trong thời kì
chiến tranh chống Mỹ cứu nứơc, phong trào thanh niên và công tác đoàn sôi nổi lắm.
Trong lớp, mọi người đều nhiệt tình và hăng hái tham gia, chúng tôi ngày một lớn
và là đoàn viên nên ai cũng thể hiện được vai trò và trách nhiệm tiền phong của
mình. Cũng lúc này, Đoàn phát động phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, phong
trào “chắc tay súng, vững tay búa”, thanh thiếu niên dấy lên phong trào học tập
tấm gương của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Đài,
báo đưa tin về những tấm gương chiến đấu anh dũng, hy sinh xuất hiện trên đảo Cồn
Cỏ, đảo Bạch Long Vĩ, cầu Hàm Rồng, lực lượng Tên lửa phòng không, không quân,
lực lượng nữ dân quân và lão dân quân ở Thanh Hoá, Thái Bình, Hà Tĩnh...Hình ảnh
của mẹ Suốt, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh... là những tấm gương tiêu biểu cho chủ
nghĩa anh hùng Cách mạng của nhân dân miền Bắc. Đây là một giai đoạn lịch sử mà
quần chúng nói chung và thanh niên chúng tôi nói riêng được giác ngộ cách mạng
rất cao, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bốc lên ngùn ngụt, là thời
đại “ra ngõ gặp anh hùng, về nhà gặp dũng sĩ”.
Càng
ngày, chúng tôi càng thích nghi cuộc sống thời chiến. Đối với học sinh chúng
tôi, đứa nào cũng biết cách tránh máy bay, cũng chịu khó, chịu khổ mê say học
hành và tham gia nhiệt tình công tác đoàn thể. Là Bí thư, tôi tổ chức cho chi
đoàn kết nghĩa với các đơn vị bộ đội đóng quân gần trường. Chúng tôi tổ chức
cho các đoàn viên đến thăm và động viên các anh bộ đội, tặng quà cho các chiến
sĩ phòng không. Quà thời ấy giản đơn lắm, chỉ là những chiếc khăn tay tự tạo có
thêu mấy chữ “Quyết thắng”, “Niềm tin”, “Trường Sơn” của các bạn đoàn viên gái
khéo tay, hoặc mấy cuốn sổ tay bìa các tông, giấy vàng có chép những bài thơ
quen thuộc của Tố Hữu, Lê Anh Xuân hay là những vòng lá nguỵ trang do chúng tôi
làm. Chúng tôi lấy cả những bông hoa bưởi, ép khô kẹp vào quyển sổ tay thơm lắm.
Thỉnh thoảng chúng tôi cùng với các anh lính tổ chức giao lưu văn nghệ, hay diễn
đàn về ý tưởng người đoàn viên thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Trong các buổi
giao lưu văn nghệ ấy, thế nào tôi cũng ngâm bài thơ: Đường hành
quân của Lưu Trọng Lư:
“Vượt núi, băng sông
Chân tôi bước giữa hương đồng
cỏ nội.
Vòng là nguỵ trang đã bao lần
thay lá mới.
Tôi mang trong lòng tiếng gọi
của quê hương.
“Đời chúng ta, đâu có giặc
là ta cứ đi”.
Tiếng hát năm xưa bay bổng
diệu kỳ.
Như chấp cánh trong tôi người
lính trẻ…”
Bài thơ như tiếng gọi thanh
niên lên đường đánh Mỹ. Nó là bài thơ gối đầu giường của mỗi chúng tôi. Ai cũng
bảo bài thơ đã hay mà người thể hiện cũng thật hay. Riêng tôi, mỗi lần ngâm bài
thơ này như mình đã là anh bộ đội đang hùng dũng hành quân về phía Nam đánh giặc.
Các chiến sĩ đơn vị bộ
đội kết nghĩa phần lớn còn rất trẻ, các anh chỉ hơn chúng tôi vài ba tuổi nên rất
dễ hoà nhập với nhau. Các anh bộ đội rất hay hát, có chiến sĩ hát rất hay. Những
buổi sinh hoạt kết nghĩa là những kỷ niệm khó quên giữa chúng tôi và đơn vị bộ
đội. Nhìn những anh bộ đội trẻ trung mặc trên mình bộ quần áo vải Tô Châu xanh
lá cây, đầu đội mũ cối có gắn sao trông thật xinh xắn và chững chạc. Thấy các
anh đẹp hơn và thầm mong có ngày mình cũng trở thành anh bộ đội như thế. Qua những
bài học, những bài hát, bài thơ hừng hực khí thế chiến đấu của thời “xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước” trong tâm trí chúng tôi đẹp nhất vẫn là hình ảnh anh bộ đội cụ
Hồ, người chiến sĩ giải phóng quân.
Những cuốn sổ tay nhỏ
nhắn xinh xắn của chúng tôi ở trang đầu thường được ghi đậm lời của Anh hùng liệt
sĩ Nguyễn Viết Xuân: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”, lời anh Lê Mã Lương: “Cuộc
đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Trên pháp trường của quân thù,
trước khi hy sinh, anh Trỗi vẫn gọi Bác ba lần: “Hồ Chí Minh muôn năm…”. Nghe
đài, đọc báo, tôi cảm phục anh Lê Mã Lương vô cùng. Anh học giỏi, bố là liệt
sĩ, được cử đi học nước ngoài nhưng anh đã từ chối vinh hạnh ấy và viết đơn
tình nguyện vào bộ đội, xung phong ra chiến trường đánh giặc. Tôi không nói quá
đâu, nhưng thời chiến tranh bom đạn khốc liệt dữ dội ấy, những người như Anh
hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân và Lê Mã Lương là thần tượng số một của chúng
tôi. Được đi bộ đội cũng đâu phải là dễ, chúng tôi vẫn mong ước với nhau sẽ có
ngày được mang ba lô con cóc vượt đỉnh Trường Sơn, được là anh giải phóng quân
xông pha nơi tiền tuyến mịt mù khói lửa.
Những trận đánh vang dội, những
chiến công lẫy lừng, những câu chuyện huyền thoại, những ca khúc say đắm và những
bài thơ ngọt ngào nhất thời ấy đều gắn liền với anh bộ đội, anh giải phóng
quân. Đài nói về anh, báo viết về anh, sách giáo khoa viết về anh. Anh là hình ảnh
trung tâm của cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại của dân tộc. Từ nhà trường đến
thôn quê, đâu đâu cũng bàn tán về chiến công của anh bội đội. Có thể nói, chưa
bao giờ trong các buổi phát thanh trên Đài tiếng nói Việt Nam, hình ảnh người
lính, hình ảnh anh giải phóng quân lại được tôn vinh, được đề cao ở một tầm vóc
hoành tráng như vậy. Các anh như những linh hồn của cuộc chiến tranh, truyền
cho chúng tôi lòng yêu nước và ý chí tự cường bất khuất của dân tộc. Khí thế thời
đại đã cộng hưởng vào chúng tôi một cách tự nhiên như thế! Chẳng có ai phải nhắc
nhở hay giáo huấn nhiều, chúng tôi nhìn nhau mà làm, nhìn nhau mà theo gương,
mà học tập một cách tự giác. Trong lớp tôi, những bạn gái khi nghe về tấm gương
của các chiến sĩ thường trầm trồ khen ngợi một cách thán phục. Còn cánh bạn
trai thì mơ ước mình nay mai cũng trở thành anh giải phóng quân.
Mặc dù công việc nhà rất bận
bịu, sáng đi học, chiều về gánh phân, nhổ mạ, có hôm còn đi cày, bừa nữa. Nhưng
công việc học hành, công việc chi đoàn đều hoàn thành tốt. Thông cảm với hoàn cảnh
khó khăn của tôi, có lần, thầy giáo chủ nhiệm lớp 9 vỗ vai nói ân cần:
- Biểu à. Hoàn cảnh của
em, các thầy biết mà. Em cố gắng học tốt, rèn luyện tốt thì chắc chắn sẽ thành
công em ạ. Nếu không có gì mới thì thế nào khi tốt nghiệp cấp III em cũng được
xét đi học nước ngoài!
Tôi lí nhí vâng lời
thầy. Tôi biết thấy chủ nhiệm rất thông cảm với hoàn cảnh gia đình tôi. Tôi xúc
động trước sự quan tâm của thầy. Tôi sẽ cố gắng học tốt hơn nữa, rèn luyện tốt
hơn nữa để không phụ lòng tốt của thầy, Cha và chị em đã dành cho tôi.
Từ khi nghe thầy
động viên và cho biết thông tin đó, tôi vui lắm. Nhiều đêm đi học về đã khuya,
tôi không vội ngủ mà chịu khổ xem lại bài, làm xong hết bài tập. Cha thấy tôi học
nhiều nên cũng yên tâm. Nhiều lúc Cha thấy tôi thức khuya, sợ tôi ốm nên đã giục
tôi đi ngủ. Cứ nghĩ đến việc được đi học nước ngoài khi ấy là mơ ước lớn nhất của
đám học sinh cấp III chúng tôi, tôi thấy trong ngực rộn ràng một niềm vui khó tả.
Tôi tưởng
tượng ra nhiều cảnh lắm, chỉ thấy toàn những niềm vui thôi. Mà thực tế được đặt
chân ra nước ngoài đi học có nghĩa là chúng tôi sẽ được đặt chân đến đất nước
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu mà lúc bấy giờ chúng tôi
xem như thiên đường trên trái đất. Đặc biệt là Liên Xô, tổ quốc thân yêu của
Paven, Tônhia- những nhân vật vô cùng quen thuộc trong “Thép đã tôi thế đấy”.
Liên Xô là thành trì chủ nghĩa xã hội, là quê hương của Lômônôxốp, của Lênin, của
Gagarin người đầu tiên của trái đất bay vào vũ trụ. Liên Xô là niềm tự hào vô
cùng tận của chúng tôi...
Chao ôi, những suy nghĩ, những tưởng tượng đã khiến cho tôi tràn ngập những niềm
vui và hạnh phúc. Chỉ cần một năm nữa, một năm nữa thôi thì tôi sẽ tốt nghiệp lớp
10 với bảng xếp: loại giỏi và những điều thầy chủ nhiệm nói với tôi sẽ trở
thành hiện thực. Tôi hiếm khi thấy nụ cười trên khuôn mặt Cha. Có lẽ cuộc sống
quá khó khăn mà Cha chưa lo hết được cho các con nên không thể nở một nụ cười rạng
rỡ.
Trong những
ngày Xuân 1968, học sinh chúng tôi được sống trong không khí rạo rực của
khí thế cách mạng. Tôi còn nhớ, sáng ngày 1 -1 - 1968, Đài Phát thanh Tiếng
nói Việt Nam đã phát đi bài thơ chúc tết của Bác Hồ:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.
Đúng một tháng sau, vào dịp tết Nguyên đán, đài, báo lại đưa tin dồn dập về sự
kiện các lực luợng vũ trang và nhân dân miền Nam đã mở cuộc tiến công và nổi dậy
đồng loạt tại 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn. Lực lượng cách mạng
đã tiến công vào các cơ quan đầu não trung ương, địa phương, đánh vào cả Mỹ và
Nguỵ ở cả 3 vùng chiến lược. Cùng với thắng lợi rực rõ của quân dân miền Bắc
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt đầu Xuân năm 1968 đã tạo ra bước ngoặt, buộc đế quốc Mỹ phải xuống
thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ở
Pa-ri. Lúc này nghe đài, đọc báo thích lắm. Lời thơ của Bác làm nức lòng quân
dân cả nước. Trong thời khắc lịch sử ấy, bài thơ Xuân 1968 có ý nghĩa đặc biệt.
Lúc này, cánh học sinh chúng tôi nghe đài, đọc báo mà cứ ngỡ Tổ quốc ta thống
nhất đến nơi rồi.
Bài hát Tiến về Sài
Gòn của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được cất cao, vang lên sau mỗi bản tin chiến
thắng. Xóm làng vui vầy, nhà nhà phấn chấn hẳn lên.
Tiến về Sài Gòn ta quét sạch
giặc thù.
Hướng về đồng bằng ta tiến về
thành đô.
Cái cảm giác miền Nam sắp được
giải phóng cứ tràn dâng, rạo rực trong lòng mọi người. Ai cũng bảo: Mỹ, Nguỵ sắp
chết đến nơi rồi! Tôi cũng nghĩ thế và phân vân rằng: gia đình mình chưa có ai
đi bộ đội mà cuộc chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược cũng sắp kết thúc. Theo
chính sách, gia đình mình chỉ có một con trai nên không phải đi bộ đội. Nhưng
nhiều gia đình như mình không có người đi bộ đội thì hỏi làm sao thực hiện các
chính sách khác được. Hay là mình xin đi bộ đội, vào Nam đánh giặc, góp phần nhỏ
bé vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mình không tham gia đánh Mỹ cứu nước
lần này thì cũng không còn dịp nào nữa, cuộc chiến đấu đang sục sôi và rất cần
sức trẻ ở phía trước, không thể ngồi ủ rụ ở nhà để chờ đợi cuộc chiến đấu thắng
lợi, phải dũng cảm lao vào cuộc chiến đấu cùng các chiến sĩ đang xung phong
trên mặt trận. Đến lúc này câu nói của Lê Mã Lương càng thấm thía trong trái
tim tôi, thôi thúc tôi lên đường đánh Mỹ. Đánh xong giặc Mỹ, mình lại trở về đi
học vẫn không muộn. Khi ấy, mình có đi học cũng thấy yên tâm hơn.
Suy
nghĩ ấy cứ chín dần trong tôi, nung nấu thành ý chí, quyết tâm mà tôi cảm nhận
rất rõ ràng nếu tôi không đi bộ đội trong dịp này thì mọi cái đều vô nghĩa. Cuộc
chiến tranh kéo dài từ khi tôi còn nhỏ, tôi mới chỉ là một cậu học trò chưa
có đóng góp gì. Tôi đã được chứng kiến biết bao nỗi đau của những người
dân có người thân hy sinh ngoài mặt trận. Chiến trường luôn cần những người con
trai ra trận. Những người con gái còn xung phong ra tiền tuyến huống hồ một người
như tôi. Sức trai trẻ và có quyết tâm chiến đấu mà không ra chiến trường thì
sau này sẽ hối hận. Có nhiều đêm, tôi không sao chợp mắt nổi, vừa nghĩ đến chiến
trường và những đoàn quân đêm đêm hành quân qua làng Ngũ Phúc mà lòng bồi hồi,
xao xuyến: nhất định tôi phải đi bộ đội, phải có mặt để cùng tham gia với đồng
đội, đồng chí của mình trên chiến hào đánh Mỹ. Rồi tôi nghĩ đến hình ảnh mình
khi mặc bộ quần áo bộ đội vải Tô Châu xanh, tôi sẽ nổi bật trước mắt mọi người,
chắc là khoẻ khoắn và nhìn chững chạc lắm...
Nếu
vậy, nhiều người sẽ nhìn tôi và đặt ra những câu hỏi rằng: “Sao không đi học ở
nước ngoài”. Tôi sẽ mỉm cười tự hào mà trả lời rằng: “Đất nước còn giặc thì
mình chưa đi”. Suốt mấy ngày liền, tôi nung nấu suy nghĩ, mọi cái tưởng chừng đơn
giản nhưng không phải dễ dàng nói ra, nhất là một người khó tính như Cha tôi,
luôn lo lắng và kì vọng vào đứa con của mình. Tôi biết nói với Cha và chị ra
sao và bắt đầu như thế nào? Tôi sẽ tính ra sao nếu Cha buồn, nếu chị lo? Nỗi lo
lắng và buồn phiền của Cha về sự ra đi của Mẹ và bệnh tật của dì đã đủ làm cho
cả cuộc đời Cha mệt mỏi rồi. Ý chí và quyết tâm đi bộ đội thì không bao
giờ tôi thay đổi, nhưng đặt vấn đề như thế nào với Cha và chị thì phải
tính toán cho kỹ.
Tiếng đài
phát thanh mỗi khi vang lên, tôi lại thấy trách nhiệm của mình càng cao hơn. Mỗi
lần nghe tiếng phát thanh cất lên, đang làm việc gì tôi cũng nghển cổ lên nghe
ngóng, cứ như chờ đợi và mong ngóng một niềm vui. Ý nghĩ đó như bốc thành ngọn
lửa cháy trong trái tim tôi. Thôi thúc và giục giã tôi lên đường nhập ngũ. Tôi
không hình dung ra hết được cuộc chiến trước mắt nhưng khi nghe đài, báo và
hình ảnh những chú bộ đội hành quân qua làng Ngũ Phúc, tôi thấy họ đáng tự hào
lắm, đáng khâm phục lắm.
Chương II:
Nhập ngũ
Mấy hôm nay đi
học về, tôi không dấu được nỗi băn khoăn trong lòng. Tôi tâm sự cùng với cậu
Loan. Lúc đầu, Loan nghe thấy tôi nói xung phong đi bộ đội, cậu ta ủng hộ và
cũng quyết tâm như tôi. Tôi hỏi Loan:
- Nghe nói, lần
này thanh niên làng Ngũ Phúc mình lên đường nhập ngũ đông lắm. Không hiểu chúng
mình có được đi không?
Loan nhìn tôi,
nói như hạ quyết tâm:
- Tớ cũng
nghe tin như vậy. Thôi, chiều nay tớ và cậu lên xã đăng ký luôn. Tôi đi bên,
Loan tỏ ý đồng tình:
- Sáng
nay nghe Đài đưa tin mình đã giải phóng thành phố Huế. Quân giải phóng đã đánh
thẳng vào Sài Gòn… Chẳng mấy chốc nữa là giải phóng miền Nam. Không đi đợt này
thì chẳng còn cơ hội nữa. Chiều ta cùng lên Uỷ ban xã nhé.
Tôi tin vào bạn
nối khố của tôi lắm. Hai gia đình cũng coi chúng tôi như con trong nhà, có việc
gì cũng không thiếu mặt. Loan nhắc tôi phải nói sao để thuyết phục được Cha
tôi. Loan khẳng định sẽ thuyết phục được gia đình. Trong xã đợt này có các anh
Hoàng Ngọc Loan, Lê Văn Nam và Lê Văn Liêm cũng đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Lúc này, tất cả mọi
việc tôi gạt lại phía sau, trước mắt tập trung tìm mọi cách để được đi bộ đội.
Nước Nga tươi đẹp và vĩ đại ư ? Dứt khoát không phải lúc này. Tôi lựa chọn giữa
những việc mình có thể làm trước và có thể làm sau. Có những cái qua đi rồi, thật
lãng phí nếu như mình không được tham gia, và cuộc chiến tranh trước mắt tôi là
thế. Có thể lắm chứ! Một ngày dân tộc giành được độc lập, khi ấy tôi có muốn đi
cũng không được. Lúc đó, tôi không thể thở than với sự tiếc nối.
Chiều tối nay, sau bữa cơm
chiều, tôi ngồi bên Cha mạnh dạn thưa chuyện. Tôi vẫn chưa tin là Cha sẽ ủng hộ
tôi đi bộ đội. Tôi chỉ sợ Cha buồn nhưng không còn cách nào khác, tôi vẫn phải
thưa với Cha. Đây là lần đầu tiên tôi nói với Cha về việc quan trọng nhất trong
cuộc đời mình. Tôi rất hy vọng vào sự ủng hộ của Cha. Cha cũng từng là anh bộ đội
mà. Chắc mình nói ra ước vọng của mình thì Cha sẽ đồng tình ngay. Thế mà khi
tôi đặt vấn đề đi bộ đội, Cha tôi đã thực sự sửng sốt như không tin điều đó là
sự thật. Ông mở to mắt nhìn tôi, “à” lên một tiếng như gặp điều mà Cha không ngờ
tới. Không biết những điều Cha đang nghĩ là buồn hay vui. Tôi có linh cảm là cả
hai cảm giác đó đang pha trộn trong ý nghĩ của Cha. Cha nhìn tôi và hỏi cũng nội
dung mà lâu nay tôi đã nói chuyện với Cha.
- Đi bộ đội à? Nhưng con
đang là học sinh cuối cấp, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi thì con sẽ tốt nghiệp
cấp III. Thầy chủ nhiệm của con cũng đã cho Cha biết sức học của con chắc chắn
sẽ được xét đi học nước ngoài cơ mà? Cha tôi nhắc lại thông tin đó vì nghĩ rằng
tôi chưa biết nhưng thầy chủ nhiệm đã nói với tôi trước đó rồi.
-Cha à, thầy chủ nhiệm cũng
đã nói cho con biết rồi. Nhưng trong gia đình mình chưa có ai đi bộ đội. Cha
ơi, cuộc kháng chiến chống Mỹ thì chỉ còn vài tháng nữa là kết thúc thôi. Con
muốn đi bộ đội, thể hiện gia đình mình cũng đã có người tham gia vào cuộc kháng
chiến. Tôi vừa nói vừa lay vai Cha tôi như cầu cứu. Bổng nét mặt Cha lạnh lùng
hỏi:
- Ai nói với con điều đó?
Cha tôi vừa hỏi vừa nhìn vào không gian bao la. Tôi chạy đến nắm tay Cha lay mạnh:
- Đài đưa tin ta đánh mạnh,
thắng lớn khắp miền Nam, bộ đội ta vào tận Huế, Sài Gòn rồi Cha ạ... Chẳng mấy
chốc nữa là ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước thôi Cha à! Mấy
ngày nay, ngày nào con cũng nghe bản tin trên đài phát thanh của làng ta phát
đi. Tôi hào hứng nói với cha.
Cha tôi im lặng.
Sự hào hứng
của tôi dâng cao bao nhiêu thì Cha lại trầm ngâm lặng lẽ bấy nhiêu. Có lẽ lúc
này Cha mới nghĩ rằng tôi đã lớn rồi. Không giống như cậu bé đi học về sợ ma
như thủa nào, cũng không còn là cậu nhỏ, da cháy nắng, chăn trâu cắt cỏ, mải tắm
sông ngày nào. Từng là đoàn viên thanh niên lại làm Bí thư chi đoàn nữa chứ. Ở
nhà thì cầm cày cầm cuốc, nhổ mạ, gánh phân, cắt lúa cùng Cha, cùng chị. Bây giờ
tôi lớn lên nhiều rồi. Đất nước lại đang trong cơn binh lửa, tang tóc đau
thương vẫn xẩy ra như cơm bữa. Tôi dường như đọc được mọi suy nghĩ ấy của Cha
qua vầng trán rám nắng đã hằn nhiều vết nhăn từng trải. Ôi, giá như đất
nước không có giặc giã binh đao để chúng tôi được thanh thản học hành theo kỳ vọng
của Cha và gia đình, để những người thân yêu như Cha tôi, chị tôi không phải lo
lắng vất vả nhiều như vậy.
Tôi cũng
biết tính Cha rất thận trọng khi quyết định vấn đề gì đó. Huống hồ đây lại là
việc quan trọng nhất của gia đình. Cha không bao giờ phản ứng gay gắt một việc
gì ngay tức thì, cho dù có bằng lòng hay không. Sau bao nhiêu năm, tôi nhận thấy
Cha có một đức tính và cách dạy con thật cao quý.
Màn đêm buông xuống, mây giăng kín bầu trời. Mưa
xuân ngày càng dày hơn làm cho tiết trời thêm se lạnh. Tiếng gà gáy eo óc trong
đêm, tiếng ếch nhái, chão chuộc ì oặp kêu ngoài đồng chẳng dứt… nghe đến não nề;
Cha lặng lẽ nghĩ về việc của tôi. Ngoài kia, dòng sông Lam vẫn mải miết
chảy bên làng Ngũ Phúc bé nhỏ, sóng vỗ lao xao như vẫn thao thức bồn chồn cùng
với việc trọng đại trong ngôi nhà này. Phía chân trời xa xa, có những ánh chớp
loé lên rồi vụt tắt. Tiếp đó là tiếng nổ ầm ầm từ xa vọng tới. Chắc là máy bay
ném bom trên thị trấn…
Nghe tôi trả lời,
ông bước ra sân. Tôi thấy bước chân của Cha ngày càng yếu dần. Dạo này đôi mắt
Cha sâu quầng như mất ngủ. Cha lặng lẽ bước đi vòng quanh sân nhà. Cũng lúc
này, chị cả Liên đi đâu về. Thế là có người ủng hộ cho tôi rôi. Nếu Cha còn lưỡng
lự, chị tôi nói thêm vào chắc Cha đồng ý. Tôi kéo tay chị vào nhà như có việc
quan trọng. Tôi thưa chuỵên với chị về ý tưởng đi bộ đội. Vừa nghe tôi nói, chị
tôi đã quắc mắt:
- Cậu có hâm không đấy? Cậu
không thương Cha, thương chị đã mất công nuôi nấng, dạy dỗ cậu ăn học à? Nhà ta
chỉ có cậu là con trai, theo chính sách cậu không phải đi bộ đội đâu. Hiểu
chưa? Bao năm vất vả, cả gia đình dồn hết sức lực, tất cả các chị, các em không
đi học, tập trung cho cậu học hành nên người thế là đi toi à? Sao cậu học hành
như vậy mà ngu thế?
Chị Liên làm cho một hồi
nghe thật chát chúa. Tôi cũng không ngờ chị cả Liên lại là người phản đối kịch
liệt việc tôi đi bộ đội như vậy. Tôi thấy vừa bực mình vừa mất hết hy vọng. Tôi
cự lại chị:
- Sao chị lại nói như vậy.
Chị không tôn trọng em tẻo nào cả. Em rất quý chị mới hỏi chị, mới xin ý kiến
chị. Chị không đồng ý thì nói cho có lý, sao lại chửi em ngu? Thế hiện nay các
thanh niên đi bộ đội như em đều là ngu xất? Em đã lớn rồi, chị không được nói với
em như vậy. Thấy tôi nói to, chị Liên vào giường nằm. Có lẽ tôi đã làm chị bực
bội. Nghĩ vậy, vừa bực vừa thương cho chị quá.
Thấy hai chị em chúng tôi
cãi vã nhau, Cha tôi vào nhà. Cha ngồi vào chiếc phản, tay vớ lấy chiếc bát điếu,
châm lửa, rít một hơi dài. Khói thuốc lào lan toả khắp căn phòng. Sau khi uống
ngụm nước, Cha tôi gọi hai chị em ra ngồi bên cạnh. Cha nhìn chúng tôi rồi nói:
- Cha cũng tính rồi. Cha rất thông cảm với hai chị
em. Bây giờ con cũng đã lớn. Nếu con đã suy nghĩ kỹ và quyết tâm đi bộ đội thì
Cha đồng ý. Nhưng đi bộ đội là gian khổ đấy, đã đi là phải hoàn thành nhiệm vụ!.
Nghe Cha nói
như mở cờ. Tôi mừng quá. Tôi ôm lấy vai Cha, cảm ơn Cha. Cha nhìn tôi và nói tiếp:
- Đi bộ đội cũng là dịp được rèn luyện, thử thách, con à. Bộ đội là trường học,
là nơi đào tạo ra những con người có ý thức tổ chức kỷ luật, biết thương yêu
nhau, biết vượt qua những khó khăn nhất. Được đóng góp sức mình vào cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước cũng là niềm tự hào của lớp lớp thanh niên ngày
nay!…Nghe Cha nói một hồi dài như chính trị viên vậy. Tôi rất tự hào. Chị cả
Liên ngước nhìn Cha, nước mắt lưng tròng.
Tối
đo, tôi thao thức mãi không ngủ được. Thế là sắp được đi bộ đội rồi. Ôi. Cám ơn
Cha, cám ơn chị thật nhiều.
Các thầy, cô và bạn bè của tôi đều ngạc nhiên trước những quyết định
đi bộ đội của tôi, nhưng không ai ngăn cản. Tất cả đều thấy được cuộc chiến
tranh phía trước là gian khổ, hy sinh và rất cần sự cống hiến của tuổi trẻ. Họ
biết trong cuộc chiến tranh, sống mái với quân thù, những việc làm như tôi cũng
rất đỗi bình thường như bao người thanh niên khác. Đi lính trong dịp này cũng
là niềm vinh dự, tự hào. Xóm trên, xóm dưới, các lớp học cũng vậy, thanh niên
nhập ngũ nhiều lắm. Đài, báo đưa tin có nhiều thanh niên chưa đủ 18 tuổi còn
khai tăng tuổi, không đủ cân còn giấu cả đá vào người để đủ cân trúng tuyển.
Nhiều người còn viết đơn tình nguyện bằng máu để xin được vào miền Nam đánh Mỹ.
Những dũng sĩ diệt Mỹ vẫn còn ở tuổi thiếu niên, những chú bé liên lạc đưa thư
băng qua những cánh đồng, băng qua những xóm làng một cách mưu trí, dũng cảm. Cụ
già còn lên trận địa trực chiến bắn cháy tàu bay Mỹ. Những mẩu chuyện mà báo
đài đưa tin khiến mỗi thanh niên như chúng tôi được đắm mình trong không khí
hào hùng và oanh liệt của thời đại.
Hôm có giấy báo
trúng tuyển bộ đội, tôi và Loan thật sung sướng. Cuộc đời lúc này như bước ngoặt
và có ý nghĩa vô cùng. Chúng tôi cảm thấy mình lớn lên rất nhiều. Cả ngày, tôi
vui mừng, giống như mình đã làm được một việc gì đó có ý nghĩa lắm. Cùng trúng
tuyển với tôi trong đợt này có hàng trăm thanh niên trong đó chủ yếu là học
sinh cấp ba huyện Nam Đàn. Riêng trong xã Nam Lộc đã có các bạn Loan, Liêm, Nam
cùng đi bộ đội. Chúng tôi cùng lứa tuổi, cùng học với nhau và cùng đi bộ đội đợt
này. Ngày lên đường càng gần, tôi tranh thủ thời gian để làm từng công việc chuẩn
bị. Lúc này, tôi muốn tranh thủ giúp Cha, đỡ chị nhiều việc hơn. Chị và Cha thì
dành thời gian và mọi thứ cho tôi. Tôi phải dành cả buổi sáng để gói ghém sách
vở, cất kĩ trên gác nhà với ý định đi bộ đội về sẽ học tiếp. Những cuốn sách
toán học, sinh vật, văn học, địa Lý, lịch sử, hoá học với biết bao nhiêu kiến
thức in đậm trong đầu tôi từng bài giảng của thầy. Tôi có đi bộ đội nhưng những
bài học và những công thức toán – lý – hóa chẳng bao giờ tôi quên được. Khi kết
thúc chiến tranh, tôi sẽ tha hồ mà nghiền ngẫm sách vở, không còn sợ bom rơi
trên đầu, không phải đi học đêm và chạy toán loạn vì sợ ma nữa.
Ngày ấy,
chúng tôi nhìn chiến tranh có cái gì đó hơi lãng mạn và thi vị. Âm hưởng của cuộc
chiến tranh phả lại trong từng lời thơ, bài hát rất đỗi hào hùng, giục giã
chúng tôi ra trận. Cái khí thế ấy mạnh mẽ vô cùng. Chết chóc đau thương, mất
mát bị chìm khuất sau những giai điệu hùng tráng ấy. Không phải là khi xung
phong đi bộ đội chúng tôi không nghĩ đến sự hy sinh, nhưng sự hy sinh lúc đó đối
với suy nghĩ của tôi là không đáng nói, là không bàn tới. Tôi chỉ thấy cuộc chiến
tranh đang diễn trước mắt là những gì hùng tráng, tự hào và đẹp đẽ nhất. Cũng
lúc này, đâu đâu thanh niên cũng thi nhau ngâm bài ca Xuân 68 của nhà thơ Tố Hữu:
“Hoan hô anh Giải phóng
quân.
Kính chào Anh con người đẹp
nhất.
Lịch sử hôn Anh chàng trai
chân đất.
Sống hiên ngang bất khuất
trên đời.
Như Thạch Sanh của thế kỷ
hai mươi.
Một cây ná, một cây chông,
cũng tiến công giặc Mỹ.
Không tự ngắm mình. Anh chẳng
hay đâu.
Hỡi chàng trai dũng sĩ.
Cả năm châu, chân lý đang
nhìn theo.
Bóng Anh đi…và vành mũ tai
bèo.
Của Anh đó.
Ôi cái mũ vải mền dễ
thương như một bàn tay nhỏ.
Chẳng
làm đau một chiếc lá trên cành…”
Bởi thế,
tôi rất tin mình sẽ chiến thắng trở về. Thực ra sau này, càng vào sâu trong trận
tuyến, tôi mới rõ cái tuổi mười bảy, mười tám ấy, chỉ mới nhìn thấy cuộc chiến ở
trên bề mặt, chỉ thấy được những hứng khởi trước mắt. Cái sâu xa, cái giá phải
trả của chiến thắng lớn lao vô cùng và không gì sánh được.
Trước
hôm tôi lên đường, Cha bảo tôi sang ngủ chung với ông. Có lẽ Cha muốn dặn dò
tôi đôi điều trước khi xa nhà và cho đỡ nhớ con. Bao nhiêu năm rồi, kể từ ngày
lớn lên, có mấy khi tôi nằm gần Cha đâu. Tôi bỗng thấy thương Cha vô cùng. Cha
cũng là người lính, là người trải qua bao đau khổ. Tôi lại như đứa trẻ nhỏ lên
năm, lên sáu tuổi suốt ngày quây quần bên Cha. Ngửi cái mùi mồ hôi mặn mòi quen
thuộc của Cha tôi chợt thấy bùi ngùi quá. Ngày mai tôi không còn được hít hà
cái mùi mồ hôi quen thuộc này nữa, không được nhìn thấy bóng dáng Cha gầy gò tất
bật công việc từ sáng tới chiều...Tôi sẽ phải xa mái nhà quen thuộc và thân
yêu. Căn nhà ấy, có từng cây cột, cánh cửa, bậc thềm, đều in dấu những kỉ niệm
gia đình tôi. Cái xà nhà kia còn đầy đủ các công thức toán học, hoá học, lý học
mà tôi đã viết lên đó để học thuộc lòng làm sao quên được. Trong nhà có những đồ
vật để ở đâu và để ở vị trí nào tôi đều nhớ rõ ràng lắm. Tôi không quên được
mùi ổi chín thơm phức, mùi mít chín ngọt ngào. Tôi cũng chẳng quên được mùi
khói bếp bốc lên mỗi sớm tinh mơ, những âm vang quen thuộc của quê hương trong
mỗi buổi chiều tà trước khi nắng nhạt dần: tiếng lốc bốc, tiếng vịt con chòn chọt,
tiếng ếch nhái, chão chuộc kêu trong đêm, đặc biệt là hít cái không khí trong
lành và thanh bình của làng Ngũ Phúc thân yêu.
Tôi như một đứa
trẻ, quay nghiêng người ôm lấy lưng Cha. Tôi đã là chàng trai khỏe khoắn và cao
lớn hơn Cha, tôi không còn nằm lọt thỏm trong vòng tay Cha như ngày nhỏ nữa.
Tôi và Cha nằm vừa đủ tấm phản. Tôi nghe rõ tiếng Cha thở dài, nói:
- Con đi, Cha
chỉ mong sao cho chân cứng đá mềm, được trở về đoàn tụ với gia đình.
Tôi nằm im. Tay tôi đặt nhẹ
lên ngực ông như muốn Cha trao thêm hơi ấm cho mình. Nghe Cha nói, Cha dặn, tôi
thấy thương ông quá. Tôi xúc động, nuớc mắt tuôn trào nhưng tôi cố úp mặt
xuống phản không phát ra tiếng nấc. Cha gỡ nhẹ tay tôi rồi ngồi dậy, ông nhìn
tôi như dồn nén cả tình thương cho con mình, ông đi về phía bàn thờ Mẹ tôi. Ông
thắp mấy cây hương thơm rồi lẩm nhẩm nói điều gì đó. Cha đang cầu khấn Mẹ phù hộ
cho tôi được bình an khi ra mặt trận. Mùi hương thơm ngào ngạt như linh hồn Mẹ
về, làm tôi càng nhớ đến Mẹ hơn.
Chờ cho Cha thắp hương
xong, tôi cũng theo Cha thắp hương cho Mẹ: “Mẹ ơi, xa nhà, con nhớ và yêu
thương tất cả mọi người, nhưng cuộc chiến sắp kết thúc rồi, con muốn góp công sức
nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại. Con cũng đã lớn khôn rồi, phải
không Mẹ? Mẹ phù hộ độ trì cho con nhé. Mẹ cũng phù hộ độ trì cho Cha, cho các
chị con cùng gia đình ta gặp nhiếu may mắn!.” – Tôi thầm thì nói những điều đó
khi nhìn lên bàn thờ Mẹ. Hình ảnh Mẹ lại chập chờn ẩn hiện trong tôi. Trong cái
đêm ngát mùi hương thơm, nhìn Cha, ngắm ảnh Mẹ, nước mắt tôi lại chảy dài trên
gò má.
Tôi nghe rõ tiếng
cựa mình bên giường của các chị em. Đêm nay có lẽ không ai chợp mắt nổi. Ai
cũng lo lắng cho tôi. Chị gái tôi thì nước mắt ngắn dài vì nghĩ sẽ phải xa tôi.
Bây giờ chị không phải lo cho tôi nữa nhưng nhớ thương thì hơn thế nhiều. Tôi
thương chị lắm. Công việc nhà cửa, ruộng vườn bây giờ đổ dồn lên đôi vai chị. Cả
cuộc đời con gái chị dồn hết cho tôi.
Tôi đi xa
nên các chị em trong gia đình, họ hàng chuẩn bị cho nhiều thứ. Nào chiếc khăn
lau mặt, kim chỉ, lọ dầu xoa, sổ tay, giấy bút... cả những gói kẹo chanh vừa
mua ngoài hợp tác xã. Trong con mắt các chị thì tôi vẫn là cậu ấm bé bỏng. Xa
gia đình tôi nhớ lắm, chắc mọi người ở nhà cũng nhớ tôi không kém. Điều mà chẳng
ai dám nói ra lúc đó nhưng vô cùng quan trọng và ám ảnh mọi người là trong số rất
nhiều những người ra mặt trận thì có được mấy người trở lại đâu. Số báo tử
trong xã ngày một nhiều. Tôi lại là cậu con trai duy nhất trong gia đình nữa.
Tôi cũng không quên nhờ chị và các em, thắp những nén nhang vào ngày giỗ Mẹ, vì
khi ấy ở chiến trường xa xôi, tôi không thể về được. Hy vọng Mẹ sẽ phù hộ độ
trì cho tôi gặp nhiều may mắn nơi chiến trường xa tít tắp.
Xen
lẫn vào giữa hình ảnh của Cha và chị tôi là bóng dáng gương mặt của một người bạn
học cùng lớp với tôi mà tôi không thể quên được. Thoa. Cô bạn gái hiền lành,
xinh xắn ngồi trước bàn tôi. Tôi và Thoa biết nhau từ khi chúng tôi bước vào
trường cấp III Nam Đàn 1. Tôi ấn tượng về Thoa ngay từ buổi đầu tiên đi khai giảng
năm lớp 8 (năm đầu tiên của cấp III). Khi xếp hàng, tôi đứng sau một cô gái
dáng người mảnh mai, giản dị, có khuôn mặt tròn và nước da trắng hồng. Cô bạn
chưa quen quay đầu lại phía sau nhìn tôi cười hồn nhiên, đôi mắt đen láy, làm
tôi cứ nhớ mãi giây phút ban đầu ấy! Cái hồn nhiên, trong sáng vô tư của tuổi học
trò cứ quấn quýt bên tôi. Từ hôm đó trở đi, thỉnh thoảng đến lớp chúng
tôi vẫn nói chuyện với nhau. Sau này quen nhau nhiều hơn, hỏi ra tôi mới biết
Thoa là em của một thầy giáo ở trong trường, quê ở huyện Hưng Nguyên theo anh
sơ tán lên Nam Đàn. “Con gái Hưng Nguyên đẹp hè”- Mấy cậu bạn trong lớp cứ bí mật
kháo nhau thế, khiến cho Thoa đỏ mặt. Tôi chơi thân với Thoa ngay từ buổi đầu
tiên ấy, cứ như là đã quen nhau trước khi vào trường. Chúng tôi là bạn học cùng
lớp với nhau, hồn nhiên học tập và vui đùa sôi nổi. Trong lớp, Thoa chăm học, lại
hiền lành nên bạn bè rất quí mến, hơn nữa Thoa là người bạn từ huyện khác đến,
phải xa nhà nên các bạn luôn dành cho Thoa một tình cảm, một sự ưu ái riêng. Lớp
học chúng tôi vui lắm, lúc nào cũng rộn rã tiếng cười. Nhất là những buổi sinh
hoạt hay lao động, mỗi người một tay, vừa làm vừa tạo không khí vui vẻ. Cánh
nam nhi chúng tôi thì làm những việc lớn, còn các bạn gái chân yếu tay mềm thì
làm những việc nhẹ hơn. Thấy việc là cùng làm và cùng giúp đỡ nhau. Những cậu
con trai cũng muốn thể hiện sức mạnh của mình nên nhiệt tình làm giúp các bạn
gái, chẳng có buổi sinh hoạt nào là chúng tôi không trêu nhau, tiếng cười, nói
râm ran làm cho công việc trở nên nhẹ nhàng và khẩn trương hơn.
Cũng thật lạ, đến
năm học lớp 9 thì giữa tôi và Thoa có một tình cảm đặc biệt, rất khó diễn tả bằng
lời. Lúc này tôi được bầu lại làm Bí thư chi đoàn lớp. Mỗi lần lớp có lịch
sinh hoạt đoàn là tôi đứng lên chủ trì. Có hôm đứng diễn thuyết, vô tình tôi thấy
Thoa ngồi dưới với đôi mắt đen láy nhìn tôi thật trìu mến, dịu dàng và che chở.
Tôi mơ hồ nhận ra trong ánh mắt trong trẻo ấy có một cái gì đó khác hơn với tình
bạn thông thường. Lúc đó, tự nhiên tôi thấy hồi hộp lắm, chỉ sợ đỏ tai và nóng
bừng mặt trước lớp sẽ bị mọi người trêu. Có phải Thoa quí mến tôi hơn những người
bạn trai khác không? Tình yêu ư? Không phải thế. Chúng tôi chưa nói với nhau một
điều gì cả. Chưa bao giờ có những giây phút hò hẹn nói với nhau những lời yêu
thương. Bãi cỏ xanh mướt và ánh trăng lung linh vẫn là của muôn người. Chúng
tôi chỉ là những cô cậu học trò vô tư và tinh nghịch ở lứa tuổi “nhất quỉ nhì
ma…” mà thôi. Thoa học giỏi văn, những bài văn của Thoa viết lời văn chau chuốt
và nhẹ nhàng lắm, thầy giáo thường khen Thoa viết văn sâu sắc và giọng văn ấm
áp. Thoa thường được đọc những bài văn hay trước lớp. Mỗi lần Thoa đọc bài văn,
cứ cuốn hút tôi một cách say sưa. Khi đó tôi thường nhìn Thoa một cách cảm phục,
tôi cố gắng mà chẳng khi nào vượt được điểm văn của Thoa. Tôi có khiếu học các
môn tự nhiên hơn. Chúng tôi thường xuyên trao đổi bài vở với nhau, bởi vậy tình
bạn giữa chúng tôi ngày càng thân thiết hơn. Tình bạn ư? Không phải vậy, hình
như còn cao hơn thế! Hai người rất khó nói ra tình cảm ấy, mà nói ra rồi lại sợ
một điều gì đó. Mỗi lần ngồi học bên Thoa, mùi thơm nhè nhẹ phảng phất hương
hoa bưởi, bồ kết toả ra từ mái tóc đen nhánh, mượt dài và hơi ấm lan sang đôi
má ửng hồng khiến tôi thấy bâng khuâng xao xuyến. Làn hương từ mái tóc dài toả
ra từ cô bạn xinh đẹp, thông minh làm cho những cậu con trai mới lớn như tôi thấy
không thể không rung động. Dù đó chỉ là sự rung động của những nhành lá non tơ
trước làn gió đầu xuân man mác. Chỉ vậy mà hương vị ngọt ngào của nó còn đọng lại
trong kí ức của tôi đến tận bây giờ. Tôi không sao quên được những giây phút
xao động lòng mình như thế. Hôm nào không được ngồi học cùng với Thoa, tôi cảm
thấy buồn, thấy nhớ, thấy lòng mình trống vắng một cái gì đó. Ngày nào đi học,
nhìn thấy Thoa là tôi thấy vui, thấy cuộc đời ắp đầy ý nghĩa. Em khiến cho tôi
có trách nhiệm với việc học hành và tu dưỡng đạo đức hơn.
Tôi còn nhớ, hồi đó Thoa trọ
gần trường học. Thỉnh thoảng có những buổi học thể dục, lũ con trai chúng tôi
đùa nghịch, khát nước nên thường rủ nhau vào nhà Thoa trọ để xin nước uống. Cả
bọn kéo nhau đi như một đoàn tàu, đứa nào cũng mồ hôi nhễ nhại, ngần này người
khát nước, không biết nhà Thoa có đủ nước cho bạn bè uống không- chúng tôi hỏi
Thoa thế và Thoa bao giờ cũng vui vẻ khi thấy bọn bạn trai tới nhà, trong đó có
tôi. Thoa chào tất cả mọi người, nhưng ánh mắt thân mến nhất vẫn dành cho tôi.
Tôi sung sướng khi nhận ra điều ấy và hạnh phúc vô cùng. Cái nhìn của em hướng
về tôi, luôn cho tôi cảm giác bất chợt, gợi niềm thương nhớ. Cũng đã mấy lần
tôi thao thức không sao ngủ được khi nhớ lại ánh mắt đằm thắm mà người bạn gái
trao cho chiều nay. Có cái gì bồi hồi quá. Tôi nhớ đến Thoa nhưng chỉ trong những
suy nghĩ lặng lẽ một mình. Nhiều lúc, tôi cứ ước rằng con đường đến trường của
Thoa gần với nhà tôi thì hai đứa tôi sẽ được đi bên nhau để có dịp trò chuyện với
nhau thật nhiều, tôi sẽ được làm thằng con trai che chở cho những đoạn đường
Thoa đi học đêm về mà không sợ ma. Kỷ niệm về Thoa ngày càng sâu nặng và chiếm
lĩnh trái tim tôi nhiều hơn. Tuy vậy, tôi vẫn ngại ngùng không dám thổ lộ điều
gì với Thoa. Hai đứa chúng tôi cứ sống vô tư và gắn bó với nhau như thế. Thoa rất
quan tâm đến mọi người. Một lần tôi bị đau, chân sưng vù lên; gặp Thoa, tôi vờ
như không có chuyện gì nhưng Thoa vẫn thường xuyên hỏi thăm vết đau của tôi và
còn mách tôi bài thuốc lá để chữa nữa. Em nói rằng: “Em hỏi mẹ cách chữa vết
đau đó”, khiến tôi nhận ra tình yêu thương thầm kín từ nơi em cho tôi.
Chúng tôi rụt rè, vấn
vương, tơ tưởng mong manh của lứa tuổi học trò na ná như thứ tình cảm của Pa
ven- Tô nhi a trong “Thép đã tôi thế đấy”- nghĩa là nó rất lãng mạn và rất tiểu
thuyết. Nó nhẹ như làn gió mai khẽ lay bông hồng đầy hương sắc. Hình như trong
trái tim run rẩy của mỗi đứa đã có lúc ngân lên những cung bậc mới mẻ để rồi
khi xa vắng nhau con tim lại hồi hộp rộn ràng, thổn thức mong sớm được gặp lại.
Thực ra, sau này tôi mới rõ, là con gái- Thoa dành cho tôi tình cảm chân thực
và sâu sắc hơn nhiều. Trái tim trong trắng của Thoa đã hướng về tôi, cùng chung
nhau nhiệm vụ học tập và chia sẻ với nhau những thiếu thốn mất mát của một người
bạn sớm mồ côi Mẹ từ nhỏ. Tôi không dễ dàng nhận ra điều đó, chỉ nghĩ tới em với
một tình yêu trong sáng mà thôi, tôi cũng chưa có gì tỏ rõ sự quan tâm bằng
tình yêu đối với Thoa. Nhưng nỗi nhớ em thì tôi không thể giấu lòng mình được.
Hai đứa chúng tôi cứ thế mà gắn bó với nhau, không một lời ngỏ, không một lời
thề thốt thương yêu nhưng luôn luôn sống cho nhau. Sự có mặt của Thoa bên cạnh
tôi ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu Thoa là buổi học như thiếu đi cái linh
hồn trong tôi. Xa là thấy thương thấy nhớ, vắng là thấy buồn, thấy trống vắng
trong tim.
Tôi ngồi dậy nhẹ
nhàng bước ra sân. Màn đêm đẫm hơi sương đang loảng dần ra. Không gian sáng sớm
của mùa xuân hơi lạnh như chạm nhẹ vào làn da. Giờ này, quê tôi nhà nào cũng có
người dậy sớm để nấu cơm ăn, lo việc đi làm đồng. Tiếng gà đua nhau gáy rộ lên
trong xóm. Hoa cau thoang thoảng tỏa mùi thơm nhẹ nhàng xuống sân nhà. Tôi thích
cái mùi hoa cau này lắm, những ngày mùng 1 hay ngày rằm, dưới nén nhang thắp
cho Tổ tiên và thờ Mẹ, chị tôi lúc nào cũng bẻ một cành hoa cau đặt lên bàn thờ.
Hoa cau vàng trắng, hoa giống như những hạt lúa trổ bông dày. Tôi khẽ hít mùi
thơm man mác ấy.
Cũng lúc
này chị tôi dậy nấu cơm. Mùi thơm của khói rơm pha lẫn làn sương mỏng bay là là
trên bếp làm cho con người thêm sảng khoái. Chắc hôm nay chị cho cả nhà ăn tươi
thì phải. Mùi mỡ phi với hành thơm ngào ngạt. Tôi nhớ lại những ngày tôi bắt
chước chị thổi cơm, khói rơm bay làm tôi cay sè cả hai con mắt, chẳng nhìn thấy
gì, tôi đành la om sòm trong bếp và gọi chị vào. Chị nhìn tôi vừa cười. Chị làm
tôi xấu hổ quá. Về sau tôi mới biết là khi đun bếp, mình vớ phải nắm rơm bị ướt.
Tôi thấy căn bếp ngày càng cũ kĩ, cửa ra vào đã không có cánh mà còn quá nhỏ và
thấp. Chiều cao người tôi ngày càng dài ra, cho nên gần đây, mỗi lần ra vào bếp,
tôi bị cộc đầu, nhiều chỗ trên mái bếp có thể nhìn thấy cả trời. Đã mấy lần Cha
chuẩn bị sửa gian bếp cho đàng hoàng mà không làm nổi. Có lần tôi đun bếp bị va
vào đầu sưng to lắm. Tôi có nói với Cha: “Cha không mau sửa bếp thì có ngày con
vỡ đầu đấy”. Nghe tôi nói, Cha mỉn cười gật đầu đồng ý nhưng đến nay cũng chưa
có điều kiện để sửa lại cái bếp. Tôi có ý định khi đi bộ đội về, chưa làm được
nhà thì cũng lợp lại cho Cha, cho chị căn bếp đàng hoàng để vào ra được thoải
mái, không bị mưa ướt củi, ướt rơm đun.
Tôi vừa dạo
quanh sân vừa nhìn ngôi nhà nho nhỏ của tôi như cố nhớ lại những hình ảnh thân
yêu, đầm ấm, quen thuộc nhất. Chỉ còn thời gian ngắn nữa thôi là những hình ảnh
về ngôi nhà, về quê hương sẽ chẳng còn hiển hiện nữa. Thay vì là cảnh bom rơi đạn
nổ, cảnh khói lửa mịt mù. Thời điểm này, máy bay giặc hoạt động cũng thưa hơn.
Không gian như lắng xuống, yên tĩnh. Tôi lại nhớ đến em. Đêm qua Thoa có ngủ được
không? Em có buồn không khi tôi phải xa em để ra chiến trận? Em có còn mang
trong mình những kỉ niệm đẹp đẽ êm đềm của hai đứa không? Khi tôi vào chiến trường,
ra trận mạc thì em sẽ ra sao? không còn nhìn thấy tôi trong lớp học, không còn
thấy tôi hoà vào đám bạn trai vào xin nước uống, hai đứa không còn ngồi học ôn
bài cùng với nhau...em có buồn không? Những bài toán khó, không giải được em sẽ
ngồi ngẫm nghĩ thật lâu, rồi lại nhớ đến anh ư? Máy bay giặc Mỹ sẽ ném bom nhiều
hơn. Em về nhà thăm mẹ rồi lại lên trường học, qua bao trọng điểm bắn phá ác liệt
của máy bay sẽ như thế nào? Thời buổi chiến tranh em đi đứng cẩn thận, nghe em.
Máy bay giặc chẳng từ ai đâu em ạ. Riêng tôi, chắc chắn không bao giờ tôi quên
được Thoa nhưng tôi biết nói sao cho em hiểu. Tôi không dám thổ lộ những điều
đó, đem cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình. Tôi vừa ngại ngùng, vừa muốn thổ
lộ nhưng cũng sợ làm ảnh hưởng đến em. Tôi phải xa em thật rồi. Vào chiến trường,
có lẽ tôi cô đơn lắm, chưa xa em tôi đã thấy nao nao nhớ đến em rồi. Mấy hôm
nay, một ngày không thấy em, tôi đã thấy nhớ, huống hồ phải đợi chờ đến khi nào
hết chiến tranh, biết đếm sao cho nhanh hết thời gian. Em có chờ tôi trở về
không?...Cái dáng người mảnh mai, đôi mắt đen với nhiều lần nhìn tôi sâu lắng,
mái tóc óng mượt với những mùi hương lan toả, giọng nói nhẹ nhàng... làm sao
tôi quên được. Nhất là nụ cười của em làm lòng tôi ấm áp một niềm tin và tình
thương yêu tuôn chảy. Sau này hết chiến tranh, trở về với quê hương, tôi sẽ tìm
đến Thoa để nói lời cầu hôn em. Nhất định thế, Thoa ạ! Lúc ấy, mong em đừng
từ chối tình yêu của tôi dành cho em nhé. Tôi chợt nhớ đến hôm trước, khi biết
tôi trúng tuyển bộ đội, Thoa đã không gọi tôi bằng tên nữa mà chuyển sang gọi là
anh một cách rất tự nhiên. Tôi không bất ngờ với những gì em gọi tôi và tôi
cũng gọi Thoa bằng em như đã gọi từ lâu lắm. Lúc đó cảm xúc buồn vui cứ pha trộn
trong người. Tôi vui vì được vào bộ đội, được cống hiến và hoà mình vào cuộc
chiến tranh, nhưng buồn vì phải xa gia đình, xa em và biết đâu không còn trở về
với em nữa, tôi chỉ nghĩ trong đầu vậy thôi, chứ nói ra những điều không lành,
chắc em sẽ bật khóc.
Trời đã
chuyển sang mùa hè. Không khí oi bức đã bắt đầu. Gío Lào cũng đã thổi lên từng
cơn. Bầu trời như trong xanh và cao vời vợi. Không khí càng ngày càng ngột ngạt.
Những lúc này chỉ có ra sông Lam tắm mới tránh được cơn nóng rát mà thôi. Mấy
hôm nay cường độ máy bay Mỹ ném bom vào Nam Đàn hình như nhiều hơn. Chúng ném
nhiều xuống thị trấn, xuống sông Lam, xuống đường 15A. Chúng bắn phá bất cứ lúc
nào, bất cứ ở đâu, không kể ngày hay đêm. Nghe đài, đọc báo, họp chi đoàn, tổ
chức cho lớp giao lưu với các đơn vị bộ đội, nghe dũng sĩ miền Nam kể chuyện
đánh Mỹ…thật tự hào và sôi động.
Ngày 13 tháng 4 năm 1968 đã trở thành cái mốc quan trọng không bao giờ quên được
đối với cuộc đời tôi. Tôi ghi rõ vào quyển sổ nhật kí của mình một cách trang
trọng như sự kiêu hãnh lớn nhất cuộc đời mình. Sáng hôm đó tôi dậy sớm. Thế
nhưng Cha tôi đã ngồi vào bàn uống nước chè từ lúc nào. Chị cả Liên chuẩn bị bữa
cơm tương đối tươm tất. Buổi sáng hôm đó cả nhà được ăn cơm nếp đồ với lạc. Mỗi
miếng cơm thơm, bùi vị nếp với vị béo ngậy của lạc thật hấp dẫn. Cha tôi và các
chị em chỉ ăn mỗi bát là ai cũng ngán. Tôi thì chén thật no. Chị Liên còn gói
cho tôi một gói cơm nếp bằng mo cau để đi đường ... Đang ăn cơm thì chị Liên
nhìn tôi hỏi:
- Thế cái Thoa
đã gặp em chưa? Tội nghiệp con bé. Nó sang đây mấy lần mà không gặp em. Chị vừa
nói vừa gắp thức ăn cho tôi.
- Từ hôm qua đến
giờ em chưa gặp. Bận quá chị ạ. Chị Liên vừa dọn mâm cơm vừa nói như trách:
- Bận thì bận, cũng phải sắp
xếp tiếp Thoa chứ…Nghe chị trách mà thấy thương Thoa vô cùng.
Vừa ăn
xong thì bà con cô bác đã đến chia tay. Ai cũng chúc mừng tôi lên đường chân cứng
đá mềm, và ai cũng dặn nhớ viết thư về. Tôi như đã là người lớn, thật tự hào.
Cơm
nước xong thì mọi người trong thôn kéo đến uống nước chè xanh, chúc mừng
và tạm biệt tôi. Ai cũng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ và trìu mến. Tôi thật
cảm phục tình cảm của bà con thôn xóm lúc vui cũng như lúc buồn. Nhìn ai tôi
cũng thấy thương nhớ. Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thôi sẽ lên đường, tôi quí
hoá từng giây phút, cứ muốn lưu giữ mãi bên mình.
Tôi
nghĩ đến Thoa. Không biết Thoa có đến kịp để tiễn tôi không nhỉ. Lúc ra
đi mà không có ánh mắt của em đưa tiễn chắc lòng tôi xao xác lắm. Tôi đang hình
dung nếu khi đó không có em ở bên, cảm giác của tôi khi đó sẽ ra sao. Tôi vào bộ
đội như vậy sẽ buồn lắm, em biết không? Nhưng nếu em đến mà rơi nước mắt thì
tôi biết làm sao đây. Có người con gái nào đưa người con trai ra trận mà không
lệ nhòa? Tôi cầu mong sự có mặt của em nhưng em đừng rơi nước mắt như cô gái
trong thơ của Nam Hà mà hôm nào em đọc cho tôi nghe:
Đất nước của những người con
gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt
thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt giành cho ngày gặp
mặt...
Nhưng cảm xúc của
con người thì làm sao mà nói trước được. Em là người con gái ven sông Lam, chịu
thương, chịu khó nên cũng rất dễ thông cảm với những hoàn cảnh như anh. Anh chỉ
sợ rằng, giờ phút xa em đã đến gần mà chưa có dịp để nói chuyện với em, chắc em
sẽ trách anh và cũng dễ xúc động như tình cảm lâu nay đã dành cho em. Dù đi đến
chiến trường nào, dù có vượt qua bao sông, bao núi, bao thác, bao ghềnh, trong
anh vẫn canh cánh một điều, đất nước khải hoàn anh lại về bên dòng sông Lam
quen thuộc để được nô đùa, tắm mát như thủa nào, cũng như được về với em như
bao năm sống và học tập bên nhau.
Chúng tôi sang xã Nam
Anh để tập trung. Sau khi cán bộ nhận quân đọc tên, tôi vào nơi nhận quân
trang: quần áo, dày, dép, tất, ba lô...Ôi, nhiều thứ quá. Tiếng người nói, cười,
hỏi thăm, xen lẫn với tiếng sụt sùi và mùi xăng xe làm cho không khí thêm ngột
ngạt. Tôi liền vận ngay quần áo bộ đội. Đây là giờ phút chính thức tôi được
khoác lên mình bộ quân phục vải Tô Châu, cùng vòng lá nguỵ trang màu xanh của
người lính. Tôi tự ngắm nghía, vuốt ve. Tôi thấy mình như khác hẳn. Ánh mắt mọi
người nhìn tôi cũng vậy. Từ hôm nay tôi đã trở thành chiến sĩ, đã là một quân
nhân cách mạng. Cái cảm giác mình được lớn bổng lên, rắn rỏi, chững chạc hơn
càng rõ dần trong tôi. Tôi thấy cơ thể mình như khoẻ khoắn, cường tráng, vạm vỡ
hơn. Những chàng trai lên đường nhập ngũ, ai cũng rạo rực khi đắm mình trong
không khí trọng thể của buổi lễ tiễn tân binh do địa phương tổ chức. Mọi người
cùng nhìn nhau trong niềm vui đợi chờ. Bên trên, nào: Cờ, khẩu hiệu, băng rôn
được trang hoàng dưới những lùm cây cao và những cành lá ngụy trang xanh thắm.
Trong làng có rất nhiều người đi tiễn. Từ các cụ già, cô bác cho đến các
em nhỏ, đông đủ cả. Vây quanh tôi có Cha, chị, các em và bạn bè cùng những người
thân quen thuộc nơi tôi sinh ra, cả những gương mặt tôi chưa hề biết đến, những
em nhỏ lít nhít mặt còn lấm tấm những vết lấm lem cùng giơ những bàn tay nhỏ
xíu hướng về phía những người lính mặc áo xanh vẫy vẫy, ai cũng động viên chúng
tôi lên đường một cách thân tình. Có nhà còn luộc cả một rổ khoai ngon cho
chúng tôi mang đi ăn đường. Tình cảm của bà con chòm xóm mộc mạc, nhưng rất
đằm thắm. Mọi người coi chúng tôi như con một nhà, ai cũng mong muốn chúng tôi
đi đánh giặc mạnh giỏi, lập được nhiều chiến công và quay trở về với quê hương.
Nhà nào không có con đi cũng ra đưa tiễn.
Trong không khí rộn
rã tiếng cười, nói râm ran cả sân kho HTX, Cha tôi đứng lặng lẽ nhìn tôi, không
nói. Lúc đầu, mọi người còn hỏi thăm nhau vui vẻ nhưng rồi giây phút lên đường
ngày một tới gần hơn, mọi người đều tranh thủ dặn dò những lời yêu thương nhất,
tay nắm tay bịn rịn, vỗ vai như tiếp thêm sức lực cho chúng tôi. Các chị, em
tôi thì nước mắt ngắn nước mắt dài, ai cũng nhớ thương da diết. Chị cả ôm lấy
tôi nghẹn ngào, nói: “Em đi nhớ viết thư về cho Cha, cho chị nghe. Giấy
bút chị đã chuẩn bị cho em ở trong túi rồi. Nhớ nghe em, cả nhà mong tin em lắm
đó, việc nhà em không phải lo gì hết, đã có chị và Cha lo, khó khăn gì thì cũng
đã có bà con trong làng rồi... Em đi nhớ đừng để gia đình mong đợi
quá”. Bà con làng xóm láng giềng ai cũng rưng rưng nước mắt, có người còn
dúi cả tiền vào tay tôi, bảo: “Cầm đi mấy đồng mà uống nước dọc đường”, người
thì bảo: “Đi mạnh giỏi nghe con, khi nào hoà bình trở về là cả quê nhà sẽ ra
đón các con”, “Các con xa nhà nhớ yêu thương, đùm bọc lấy nhau nhé”!...
Biết bao nhiêu
lời dặn mà tôi không thể nhớ hết nổi, thú thực lúc ấy lòng tôi thấy nao nao
quá, tôi thấy nghẹn ngào trong cổ họng nhưng không thể bật khóc lúc này, người
lính không được yếu đuối như thế, phải vững vàng lên chứ. Không khí lắng đọng,
những nét buồn và những giọt nước mắt lăn tràn trên gương mặt chị. Cha tôi cũng
không thể giấu nổi tình thương yêu, hai tay bưng mặt mà khóc. Lần này thì Cha
khóc rưng rức. Nhìn Cha, sống mũi tôi cay xè, cổ họng nghẹn đắng lại, tôi cố
kìm những giọt nước mắt đang trực tràn ra. Tôi ôm lấy Cha thật chặt. Ôm Cha mà
nước mắt tôi đã chảy ra mất rồi. Tôi cũng đã thấy Cha rưng rức khi ôm tôi vào
lòng. Nỗi buồn, sự cô đơn và nước mắt của một người có tuổi như Cha tôi đáng
thương lắm. Tôi khẽ quệt nước mắt, ôm chị và các em tôi, tôi dặn dò các em ở
nhà thương yêu nhau, các em tôi còn nhỏ quệt nước mắt khóc, mặt mũi nhem nhuốc,
gật đầu. Cái cảm giác tôi đã nghĩ đến sẽ diễn ra nhưng chưa bao giờ lại thấy hụt
hẫng đến thế này. Chỉ lát nữa thôi, bên cạnh tôi sẽ không còn có ai là người
thân, xa mọi người, rồi bao giờ mới được gặp lại. Tôi nói với Cha cùng các chị
em:
- Cha mà cứ khóc thế này làm
sao con đi được. Cũng may lúc đó tôi nhận ra các bạn trong lớp đang rẽ đám đông
đến với tôi. Tôi nhìn Cha nói nhỏ:
Con đến với các bạn cùng lớp
đây. Thôi, Cha đừng khóc nữa!
Tôi nhận ra thầy chủ
nhiệm. Tôi đưa hai tay lễ phép bắt tay thầy và các bạn. Hơi ấm từ bàn tay của
thầy và các bạn như làm cho tôi thêm sức mạnh nhưng lại càng thêm nhớ nhung. Thầy
vỗ vai tôi động viên: “Tạm biệt học trò cưng của thầy, các bạn trong lớp nhớ em
lắm đấy, vào bộ đội, thầy tin em sẽ như Bí thư mạnh giỏi của lớp nhé”. Rồi thầy
vỗ vai, lắc mạnh tay như nhắn nhủ đặt niềm tin ở tôi. Tôi lần lượt bắt tay các
bạn. Ôi xao xuyến lạ thường. Tôi hứa với thầy và các bạn sẽ cố gắng vượt qua mọi
khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và không quên viết thư về thăm thầy và các bạn
trong lớp. Thầy gật đầu hi vọng, tôi chợt nhìn lên mái tóc thầy đã có những sợi
bạc trắng. Hôm nay, tôi mới nhận thấy điều đó, thầy đã đưa bao nhiêu “chuyến đò
qua sông”. Ai mà đếm hết được những lần đi ấy. Chỉ có lớp lớp học trò như chúng
tôi cứ trưởng thành và cứ lớn dần lên. Tôi tự hứa với mình ngày trở về sẽ thăm
thầy và các bạn. Các bạn tôi vây quanh, ai cũng chen vào tíu tít bắt tay tôi.
Anh Lê Song Toán, Phó bí thư chi đoàn lớp thay mặt các bạn tặng tôi món quà kỉ
niệm là chiếc khăn mùi xoa có thêu dòng chữ “Hẹn ngày hội ngộ”. Những tiếng vỗ
tay cổ vũ động viên vang ròn mãi không ngớt dành cho tôi thật đáng quí. Tôi cầm
món quà nhỏ bé nhưng mang nặng tấm lòng hậu phương, bạn bè làm tôi ngập tràn
xúc động. Chững chạc trong bộ quân phục màu xanh hơi rộng, tôi nói lời cảm ơn
và chúc mọi người ở lại sẽ làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của mình, xây dựng lớp
tiến bộ. Những lời “hoan hô” lại ròn rã hơn. Trong lòng tôi khấp khởi đưa mắt
nhìn mọi người, giây phút cảm động và lưu luyến quá, tôi đưa mắt tìm Thoa. Em
đang đứng sau lưng mấy bạn gái, tôi thấy đôi mắt ươn ướt rồi, không như buổi đầu
khai giảng quay lại nhìn tôi tươi cười nữa. Đôi mắt tôi hướng về phía em đứng,
trái tim tôi rộn ràng một tình yêu cháy bỏng dành cho em. Em có hiểu tình cảm của
tôi lúc này không? Em chầm chậm bước tới tôi như muốn nói một điều gì đó trước
lúc tôi đi thì cũng là lúc tiếng còi của chỉ huy gọi chúng tôi lên xe. Mọi người
lại ào về phía tôi, tôi rối rít bắt tay những người đứng gần phía tôi và vội
vàng chuẩn bị bước lên xe. Tôi muốn nói với em điều gì đó, đơn giản nhất là lời
dặn dò em nhưng lúc này không sao nói được, sự ngại ngùng và e dè ở cả tôi và
em, chỉ có ánh mắt đẫm nước nhìn nhau. Tôi không thể đứng trước mặt em lúc này
để nói, có thể tất cả mọi người sẽ ủng hộ chuyện tình cảm giữa tôi và em nhưng
tôi không muốn nhìn thấy em ngượng ngịu, đỏ mặt trước mắt mọi người. Sự im lặng
của em và tôi trong giây phút khiến tôi thấy bối rối quá. Chẳng nói gì được
riêng với em, nói những điều để em hiểu được tình cảm của tôi lúc này, dù sao
tôi cũng sắp đi xa, biết bao giờ mới trở về. Tiếng còi chỉ huy lại đồn dập vang
lên. Không thể chậm chễ được, tác phong bộ đội là thế, nên chẳng còn cách nào,
tôi rẽ đám đông và bước lên xe. Bỗng có ai đó níu ba lô tôi lại và nhét một thứ
gì đó vào túi cóc. Tôi quay lại. Thoa! Em của tôi đây. Khuôn mặt tròn, ửng hồng,
lấm tấm mồ hôi, mấy sợi tóc mai bết vào má, nhìn em mà tôi nghẹn ngào. Tôi sững
sờ nhìn em đăm đắm. Chưa bao giờ tôi dám nhìn em như thế. Em cũng nhìn tôi dịu
hiền, đôi mắt vẫn còn ướt át như muốn nói một điều gì đó thầm kín, e ấp. Rồi
tôi lại thấy ở đôi mắt ấy những giọt nước mắt đã đong đầy khoé mi.
Bỗng dưng có ai đó lôi
ba lô tôi. Thì ra chỉ huy kéo tôi lên xe. Cuối cùng, trong giây phút vội vàng,
xáo động của kẻ ở người đi, những lưu luyến khoắc khoải, Thoa chỉ nói được một
câu ngắn ngủi mà tôi nghe rất rõ: “Anh đi nhớ viết thư về nghe”. Chỉ có vậy
thôi mà câu nói theo tôi suốt chặng đường trận mạc, khổ ải gian truân sau này
và có lẽ đeo đẳng suốt cuộc đời tôi. Một câu nói trong tình huống ấy đã nhắc nhở
tôi tất cả rồi. Trong kí ức của tôi, mỗi lần nhớ đến em, nhớ đến ngày nhập ngũ
của tôi, chưa bao giờ tôi quên câu nói cũng như lời nhắc nhở ấy- chưa bao giờ
tôi quên…
Đoàn xe đầy lá nguỵ
trang chuyển bánh, để lại đằng sau mịt mù khói bụi. Đứng trên thành xe, tôi cố
nhìn Thoa. Kia rồi! Em đang vẫy vẫy. Tôi cũng vẫy tay tạm biệt. Còn kia, là
Cha, chị và các em tôi cũng đang vẫy tay. Bóng người giữa sân HTX ngày càng mờ
dần bởi bui hồng cuộn lên khi xe rú ga phóng nhanh.
Tạm biệt xóm làng
thân thương, mảnh đất nơi tôi sinh ra và lớn lên với bao êm đềm và cũng biết
bao kham khổ, khó nhọc. Tạm biệt cả tuổi thơ đi qua mãi mãi để lại những kỉ niệm
trong tôi. Mảnh đất Mẹ tôi vẫn nằm đó chờ đợi tôi trở về, tạm biệt những ngôi
nhà thân quen nằm trong những hàng cây xanh um tùm cứ xa dần theo những bàn tay
vẫy vẫy. Tất cả tạo thành những dòng kí ức tuôn chạy trong tôi. Ngồi trên xe rồi,
nước mắt tôi mới trào ra không kìm nổi. Nước mắt thương Cha, thương chị, nhớ dì
và các em. Nước mắt của sự chia xa tình mẫu tử. Những cậu bạn ngồi bên tôi lúc
này, ai cũng bật khóc. Những căn nhà nhỏ bé mà ấm áp tình thương yêu che chở
đùm bọc của bà con làng xóm, con đường làng quê tôi cũng xa tít tắp thành những
hình con rắn bò khòng khoeo dưới mặt đất. Tôi cố nhìn hình ảnh quê hương một lần
nữa. Quê hương- đây là lần đầu tiên tôi rời xa, tôi mới thấy thấm đẫm lòng
thương nhớ quê. Tôi nghĩ đến một ngày nào đó trở về, tôi sẽ ùa ra đồng để cùng
Cha và chị đón những bó lúa vàng thơm và hoà cùng câu hò đối đáp âm vang nhộn
nhịp khẩn trương của mọi người vang trên cánh đồng làng trong mùa cấy hái. Những
em nhỏ chạy lăng xăng, cầm những cái chai nhỏ ra đồng đuổi bắt những con châu
chấu, cào cào mang về cho gà ăn. Những chú chuồn chuồn ớt cánh vàng ruộm bay
trên không báo mưa báo nắng cho những người dân. Mỗi lần có mặt ở ngoài đồng là
những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, trên lưng áo mình nhưng thật vui. Mùi lúa
chín, mùi bùn đất, mùi khói rơm rạ trên những thửa ruộng đã gặt và cả những âm
thanh vui nhộn trên quê hương cứ tràn về trong kí ức tôi. Bây giờ giấc mơ được
đặt đôi bàn chân lên cánh đồng thành xa lạ đối với tôi, tôi thấy mọi thứ thân
thương và gần gũi quá.
Sẩm tối hôm đó,
đoàn tân binh của chúng tôi đã có mặt ở đơn vị huấn luyện. Đó là Đoàn 22 thuộc
Quân khu Bốn đóng ở xã Nghĩa Thọ, huyện Nghĩa Đàn. Sau khi nhận chỗ nghỉ, tôi lục
trong ba lô, túi cóc thì phát hiện ra một bức thư. Tôi vội vàng cầm trên tay
như một kẻ chờ đợi một tình yêu bao ngày xa cách. Tôi hồi hộp và sung sướng lắm.
Tôi và em đã bao giờ viết thư cho nhau đâu. Tôi biết đó là thư của Thoa nên
nhanh tay giở ra đọc. Nét chữ con gái mềm mại, nghiêng nghiêng quen thuộc. Đây
là bức thư lần đầu tiên nên tôi quá xúc động. Vừa mới xa em, tôi đã có thư đọc
rồi, em tài thật, mới đó mà đã viết thư rồi.
Cầm lá
thư áp lên ngực, trái tim tôi đập rộn ràng, hồi hộp bởi đây là lần đầu tiên
trong đời tôi được một người con gái gửi thư cho, mà người đó không phải là ai
khác chính là Thoa- Thoa sẽ viết những điều gì trong đó nhỉ? Chắc chắn sẽ khác
với những dòng lưu niệm viết trong sổ tay mà lớp học trò chúng tôi thường trao
tay nhau trong mỗi mùa phượng nở đỏ rực cả một góc trời, mùa bằng lăng nở tím
ngắt, mùa những chú ve tấu lên những khúc nhạc rộn rạo, náo nức. Thoa có viết
những điều tôi mong đợi mà chưa dám thổ lộ với em không? Em có trách tôi gì
không, những ngày tôi gấp gáp chuẩn bị lên đường, tôi chẳng gặp được em, tôi
không quan tâm được đến em, em giận tôi nhiều không? Em sẽ nói gì với tôi đây,
nhất là dòng thư tôi vừa xa nhà sáng nay. Đám bạn bảo tôi là người hạnh phúc nhất
vì chưa đi xa đã có thư người yêu đọc rồi, tôi chỉ biết tủm tỉm mừng vui hớn hở
mà thôi. Tôi hồi hộp và linh cảm trong tờ giấy có những nét chữ thân thương mà
tôi đang cầm trên tay là những dòng tình cảm chân thành và thắm thiết của em.
Giống như ánh mắt của em và tôi trao nhau trong buổi sáng nay sẽ mãi mãi ngự trị
trong trái tim tôi. Tôi mở thư, hồi hộp đọc từng dòng thương yêu:
“Anh yêu thương!
Năm học gần kết thúc rồi,
sao anh lại bỏ em mà đi lúc này. Em phải học bài một mình không có anh học cùng
buồn lắm. Lớp học sẽ trống trải vì không có anh. Ánh mắt của anh
cũng không còn dành cho em mỗi ngày. Em sẽ không còn cảm giác được nhìn
thấy anh đứng trên bục giảng trong những buổi tổ chức sinh hoạt đoàn của lớp nữa.
Anh biết không, mấy ngày nay em đứng ngồi không yên khi nghe tin anh đi bộ đội.
Hôm kia anh đứng nói chuyện để tạm biệt lớp mà mắt em nhạt nhoà. Anh đứng đây
như ngày nào mà bỗng thấy anh xa vời tít tắp. Anh xa em biết đến bao giờ mới trở
lại. Một ngày đi học không gặp anh, em thấy nhớ khôn xiết, huống hồ anh theo
mãi với cuộc chiến đấu này. Em phải chờ đợi anh về có lâu không? Em nghẹn ngào
nước mắt để giấu đi cảm xúc khỏi xấu hổ với bạn bè.
Sáng qua, em xin nghỉ học để
về thăm anh. Máy bay ném bom thị trấn ghê lắm nhưng em chẳng sợ gì. Em chỉ nghĩ
đến anh và tìm cách gặp được anh trước lúc anh lên đường. Em vượt qua thị trấn
trong cảnh khói đạn mịt mù. Em xuống bến đò thì ông lái đò không chở với lý do
máy bay. Em phải trình bày lý do sang đó tạm biệt anh. Thấy em khóc lại mang một
số đồ mà chỉ người lính mới cần, ông lái đò liền cho đi. Khi em đến nhà thì anh
lại đi vắng. Em buồn vì không gặp được anh.
Sáng nay em lại qua
thăm anh nhưng chị của anh lại bảo anh vừa lên Nam Anh để tập trung. Em vội
vàng đi một mạch về nhà và ngồi viết thư cho anh. Anh à, em đã chuẩn bị cho anh
nhiều thứ kim chỉ, dầu con hổ và thuốc đánh răng... để anh dùng khi cần và chiếc
khăn mùi xoa do tay em thêu chữ “ngày ấy”. Em hi vọng dù ở trận mạc xông pha,
dù đi khắp sơn cùng thuỷ tận anh cũng không quên được những ngày ấy, chúng mình
đã học tập, hồn nhiên bên nhau... Để mỗi lần nhìn chiếc khăn, anh lại nhớ đến
em. Anh đi nhớ gìn giữ sức khỏe anh nhé. Em tin tưởng vào anh rất nhiều. Em ở
nhà sẽ luôn cầu mong cho anh những điều may mắn. Mỗi bước anh đi luôn có em ở
bên. Con đường phía trước dù có khó khăn vất vả, anh hãy cố gắng lên nhé. Ở
nhà, mọi người luôn nhớ và thương yêu anh.
Em luôn chờ đợi và mong tin
anh
Em của anh: Thoa”
Đọc xong lá thư, nhớ
em da diết, tôi cảm thấy mình có lỗi với em rất nhiều. Đáng lẽ ra tôi phải là
người thổ lộ với em về những tình cảm nồng nàn ấy, tôi cũng có tình cảm với em
cơ mà. Vậy mà tôi như người tự dối lòng mình, tôi yêu em, thế mà sao tôi không
nói ra điều ấy với Thoa. Thoa là con gái, lại còn rất trẻ, thế mà em dám vượt
qua rào cản để tự nguyện nói ra cái điều ấy với tôi trong thời điểm đầy ý
nghĩa, thời điểm tôi trở thành người chiến sĩ. Có phải chỉ là để động viên tôi
trước những ngày lên đường không? Chắc hẳn không phải thế, vì tất cả những gì
em nói ra đây đều là sự thật.
Có lẽ trong đám bạn
cùng đi, tôi là người hạnh phúc nhất. Vài cậu lính cứ tếu táo trêu tôi suốt cả
buổi tối và đòi đọc thư tôi. Bức thư Thoa gửi cho tôi đã trở thành nguồn động
viên lớn lao không gì có thể thay thế được trong cuộc đời người lính. Bức thư
trở thành kỉ vật đẹp thời trai trẻ của tôi. Lá thư của em, tôi không chỉ mang
theo bên người mà còn sống cùng với tôi từ những ngày tôi còn lăn lê bò toài bê
bết trên bãi tập luyện, rồi cùng tôi vượt qua nghìn dặm Trường Sơn điệp trùng
ùng oàng tiếng bom đạn nổ. Bức thư đã ở bên tôi trong những trận đánh ác liệt
nhất tưởng chừng không thể sống để trở về với quê hương và cả trong những giờ
phút đau đớn tôi nằm trên bàn mổ ở bệnh viện tiền phương để bác sĩ lấy mảnh đạn
ra khỏi cơ thể. Nó cũng đã từng ru tôi ngủ ngon giấc trong những đêm dài đói
rét của đời lính chiến trường. Đôi lúc tôi nghĩ, phải chăng lá thư chứa đựng
tình cảm trong trắng của em là cái bùa hộ mệnh linh diệu của tôi. Một lá bùa có
tên gọi: Tình yêu!
Mỗi khi có thời
gian rảnh là tôi lại mang lá thư của em ra đọc, đọc nhiều đến nỗi tôi đã thuộc
từng dòng, từng nét chữ của em, đến cả những dấu chấm, dấu phẩy, nét chữ của em
đáng yêu như con người của em vậy. Những ngày huấn luyện, dù tập tành rất nặng
nhọc và bận rộn nhưng tôi cũng vẫn tranh thủ thời gian nghỉ viết thư cho gia
đình, thầy cô, bạn bè và cho Thoa. Tôi biết mọi người ở nhà mong ngóng tin tức
của mình lắm. Cha tôi cũng cần những lời động viên lắm chứ, rồi chị tôi và các
em sẽ tha hồ mà nhắc tôi mỗi khi thấy trong ngôi nhà trống vắng hình bóng tôi.
Tôi viết thư cho Cha, cho chị bao giờ cũng ngắn gọn, còn thư cho Thoa bao giờ
cũng dài hơn. Trong thư, tôi đã thổ lộ hết tình cảm đối với em. Tôi tự trách
mình là trong thời gian qua vì ở xa trường, sáng đi học, chiều còn tranh thủ
làm ruộng đỡ đần công việc đồng áng cho Cha và chị, phần vì ngại ngần nên tôi
chưa gần gũi giúp đỡ em được nhiều. Tôi cũng kể cho Thoa nghe về cuộc sống của
người lính mới. Nhất là ngày đầu tiên, ai cũng hồi hộp nhưng lo lắng. Nào là việc
học tập, ngủ nghỉ, làm việc đều phải theo một thời gian biểu rất nghiêm ngặt,
không thể chậm chễ lề mề được. Quần áo, chăn màn, khăn mặt... phải để ngăn nắp
và được hướng dẫn gấp đồ theo một qui định rõ ràng. Không làm đúng qui định thì
phải làm lại. Kỉ luật quân ngũ cũng khắt khe lắm, ai bị kỉ luật một lần thì nhớ
mãi không thể vi phạm lần thứ hai. Những buổi tập bắn súng, được ngắm nghía khẩu
súng trên vai mới thấy hết được linh hồn và trách nhiệm nặng nề của mình, phải
luyện tập tốt để sau này khi vào thực tế cuộc chiến đấu những viên đạn bắn đâu
sẽ trúng đó. Nhất là những lần báo động, mọi người đều phải trong tư thế sẵn
sàng. Báo động chiến đấu. Báo động di chuyển. Tập hành quân đêm. Tập hành quân
ngày. Ôi thật vất vả nhưng đầy hào hứng, ai cũng tự giác và hăng say luyện tập
khí thế lắm, tất cả đều cùng chung một mục đích: “Thao trường đổ mồ hôi, còn
hơn chiến trường đổ máu”. Công việc tập luyện quân sự vất vả là thế nhưng các
chiến sĩ vẫn rất yêu đời. Những buổi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, làm báo tường
được các chiến sĩ tham gia nhiệt tình, hăng hái. Không có ai ngại ngùng gì cả.
Có làm mới biết những cậu lính trẻ măng như tuổi anh, tưởng chừng không sành sỏi,
ấy vậy mà việc gì cũng đảm, lắm cậu còn có nhiều tài lẻ nữa. Những đêm vui văn
nghệ, khi khúc ca ngân vang trong tiếng đàn hát mới thấy cuộc đời người lính
xua đi những mệt nhọc, vất vả của tập luyện quân sự. Người lính yêu đời lắm em ạ.
Ai cũng sống lạc quan và tin tưởng vào sức chiến đấu của mình, không ngại ngần
gian khó khi đối diện với khó khăn thử thách, dù mới chỉ trong thời gian tập
luyện. Trước mắt, ai cũng đồng lòng, đồng sức chuẩn bị hoà nhập vào cuộc chiến
đấu: “Em biết không, mỗi chiến sĩ như bọn anh ai cũng phải làm thơ đấy.
Thơ viết cho báo tường của đại đội mà. Kiểu này sau khi hết chiến tranh, anh có
thể trở thành một nhà thơ đấy em ạ. Hôm qua, anh vừa làm xong một bài thơ cho
báo tường đơn vị, anh chép mấy câu cho em nhé:
Chúng tôi những người chiến
sĩ trẻ
Hăng say luyện tập
ngày đêm
Để vào miền Nam đánh Mỹ
Giành thống nhất cho hai miền
Bao giờ miền Nam giải phóng
Tôi mới trở về quê hương
Bên dòng sông Lam gió lộng
Chuyện đơn vị rèn luyện
tôi cũng kể cho em nghe. Chỉ có bức thư luôn là cầu nối tình cảm giữa tôi và
em. Mỗi lần gửi thư đi rồi, tôi lại mong em vô cùng. Tôi xao xuyến nghĩ đến niềm
vui của em khi nhận được thư tôi. Trong thư, ngoài những cảm xúc của người lính
còn là những lời thương yêu thăm hỏi, động viên dành cho em nữa. Một câu động
viên của tôi lúc này sẽ làm em an lòng. Tôi biết khi hai đứa không gần
bên nhau, em lo lắng cho tôi nhiều lắm, đó là chưa kể những lúc nhớ về những kỉ
niệm của nhau. Trong thư, khi thì tôi ép vào đó một bông hoa dại nhỏ xinh, khi
thì chiếc lá thơm của miền núi Nghĩa Đàn. Tình yêu của chúng tôi mới chỉ là những
kỉ niệm học trò nhẹ nhõm, xao xuyến, là những bức thư đi về sau ngày tôi nhập
ngũ, là những nhớ nhung bâng khuâng trong ngày tháng cách xa. Cho đến lúc này,
tôi vẫn chưa được một lần tay để trong tay, còn những nụ hôn ngọt ngào thì hình
như mới chỉ có đôi lần nhưng chỉ là trong những giấc mơ mà thôi. Có lần tôi đã
mơ về Thoa, được đi cùng em vào vườn vải ở chân núi Đại Huệ. Mùa vải chín, những
trái vải lủng lỉu trên cành như những chùm đèn lồng màu đỏ, tiếng chim tu hú gọi
bầy vang lên đâu đó. Trong giấc mơ êm ái đó, tôi nghe rõ âm thanh riêng biệt của
mùa vải đỏ. Và tuyệt vời hơn, là tôi được đi bên Thoa dưới những chùm vải chín rộ.
Ánh nắng vàng chiếu xiên qua kẽ lá, hắt lên mái tóc và đôi môi mọng đỏ của em.
Dưới vườn cây, không khí trong lành và thoáng mát. Cây vải chỉ cao hơn đầu
chúng tôi một chút, những trái vải chúng tôi đưa tay là chạm tới. Chúng tôi nói
với nhau, cười với nhau, trao nhau ánh mắt yêu thương. Cũng thật lạ, trong giấc
mơ, tôi không còn thấy bom đạn, máy bay gầm gào xé toang bầu trời. Thay vào đó
là khung cảnh thanh bình yên ả, chỉ có vải chín, tu hú kêu và hai đứa bên nhau
mà thôi. Những chiếc lá khô dưới chân chúng tôi lép nhép, vỡ tan ra. Lá vải
trên cành đung đưa như bàn tay xoè ra chào đón chúng tôi. Rồi chúng tôi rúc
rích cười, những chú chim sâu lích rích truyền cành tìm sâu trong kẽ lá. Đến
bên một cây vải có tán xoè rộng nhất, Thoa dừng lại. Em kiễng chân lên với tay
hái cho tôi một chùm quả chín nhất và đưa cho tôi. Thoa cười và ghé sát vào tai
tôi thì thầm:
- Người nào ăn chùm vải này sẽ gặp may mắn nhất trong cuộc đời.
- Chưa ăn vải của em hái nhưng anh đã là người may mắn nhất rồi.
- Răng lại rứa?- Thoa thắc mắc hỏi.
- Tại vì anh đã có em yêu.
Thoa không nói gì hơn,
em nhìn tôi. Tôi ôm lấy Thoa và đặt lên môi em nụ hôn đầu đời ngượng ngịu, nụ
hôn đầu của tình yêu. Cảm giác lâng lâng, bay bổng chợt đến khi có em trong
vòng tay, khi được chạm vào người bạn gái thương nhớ. Tôi thấy tim mình đập rộn
ràng và nhanh lắm. Thoa thì rụt rè, e ấp, má ửng hồng. Em khẽ vòng tay ôm lấy
tôi. Tôi thấy hạnh phúc lắm.
Tôi đang nồng
nàn trong hương vị dịu lành của chiếc hôn đầu tiên thì có ai đó lay mạnh vào
vai. Tôi bừng tỉnh sau tiếng gọi của tiểu đội trưởng:
- Dậy. Sáng rồi. Mơ chi mà chép miệng hoài thế.
Tôi khẽ vươn vai nhìn
ra ngoài trời, hôm nay tôi ngủ dậy muộn hơn rồi, có lẽ tại giấc mơ nồng nàn
quá. Tôi vội vàng rời khỏi giường. Thời gian trong quân ngũ là nghiêm ngặt lắm,
nói vui vậy thôi chứ làm gì có chuyện tình yêu ở nơi này. Tất cả chỉ là thao thức
nhớ mong về bạn gái thôi. Tôi dậy rồi mà vẫn ngẩn ngơ người, tiếc hoài giấc mơ
đẹp. Cứ mong được ôm em trong vòng tay, trong hơi ấm nồng nàn thêm chút nữa...
Cũng thật lạ, cứ
mỗi khi giấc mơ đang đẹp nhất thì con người lại bị đánh thức dậy. Thỉnh thoảng
tôi lại nhớ đến em và giấc mơ, chỉ mong đó sẽ là sự thật khi tôi trở về bên em.
“Không biết Thoa có mơ về tôi như thế không nhỉ? Nếu có mơ như vậy chắc là Thoa
cũng không dám kể đâu”- tôi thầm hỏi. Trong một bức thư, tôi đã kể lại giấc mơ
này cho em, chắc em cảm động và có chung hạnh phúc với tôi. Tôi mong thư em lắm,
thỉnh thoảng còn nhẩm tính từng ngày thư đi trong đầu, mong cho đến được với em
một cách may mắn. Hôm nhận được thư của gia đình, rồi thư của em, cả tiểu đội bảo
tôi là người may mắn và hạnh phúc nhất. Đọc thư của Cha, của chị toàn những lời
chỉ bảo thật cẩn thận, chu đáo và yên tâm phần nào việc gia đình. Còn thư của
em thật chứa chan tình cảm. Mỗi bức em đều gài vào đó vài nhánh hoa cau, có lúc
hoa bưởi, khi mở thư ra vẫn còn hương thơm. Mùi hương thơm như hình bóng của em
đã bay đến với tôi. Những lúc như vậy tôi lại nhớ đến mùi huơng mái tóc của
em. Trong thư, em viết:
“Anh ơi, em đã kể chuyện
của chúng mình cho mẹ nghe. Mẹ cũng thương anh lắm. Mẹ bảo sao không đưa anh về
quê chơi. Em có nói chúng con đang chuẩn bị thì anh lại đi bộ đội, thời gian vội
vàng gấp gáp quá nên chưa kịp về quê thưa chuyện với gia đình. Em cũng kể lại
giấc mơ của anh, mẹ bảo rằng sự thật thường hay xảy ra ngược lại với giấc mơ.
Anh mơ gặp em nên em lo rằng anh sắp sửa phải đi xa. Rồi mẹ lại lo lắng cho anh
hơn đấy, mẹ sợ anh hi sinh ngoài chiến trường, tội cho em. Mẹ bảo: chỉ sợ tụi
con xa nhau thôi. Mẹ mong ngày thống nhất để em và anh được đoàn tụ quây quần
bên nhau, nên duyên, nên vợ nên chồng. Rồi mẹ nói: khi nào thấy anh trở về quê
hương thì mẹ mới yên tâm và bớt lo lắng cho anh. Mẹ thường nghe tin tức và hỏi thăm
anh liên tục. Anh biết không, thầy giáo chủ nhiệm nói mấy hôm nay miền Nam đang
đánh lớn, tiền tuyến rất cần những chiến sĩ như các anh. Rồi thầy giáo cũng nhắc
cả tên anh trước lớp. Ai cũng cảm phục anh lắm. Em chỉ mong rằng, chiến tranh
mau chấm dứt để anh sớm trở về với gia đình, với em. Anh nhé!
Trong một bức thư
khác, Thoa lại viết cho tôi:
“Anh ơi, có lần em nằm
bên mẹ và khoe với mẹ về chiếc vòng em đeo ở tay và cái cặp tóc của anh tặng em
lúc lên đường. Em có thú nhận với mẹ em là chúng con rất thương nhau nhưng chưa
bao giờ cầm tay nhau, như anh đã có lần nói với em những bãi cỏ non tơ, những
đêm trăng vàng óng là của muôn người. Nghe em kể, Mẹ em khen anh tốt và cũng rất
thương anh. Mẹ bảo: chiến tranh kéo dài thì con có chờ được không? Em có nói với
Mẹ: Nếu anh ấy đi bộ đội lâu dài đến mấy thì Mẹ cho phép con được chờ đợi anh.
Thậm chí nếu vì trận mạc xông pha mà thân thể anh không được lành lặn thì Mẹ
cũng cho phép con là chỗ dựa của đời anh. Nghe đến đây, anh biết không, Mẹ ôm
chặt em vào lòng, em khóc rưng rức, nước mắt em nhạt nhoà làm ướt cả vai áo Mẹ.
Mẹ phải bảo em, thôi ngủ đi con, mai còn đi học... Suốt cả đêm hôm đó, em nhớ
anh mà không sao ngủ được. Em không dám cựa mình vì sợ làm mất giấc ngủ của Mẹ.
Giờ này em còn đang được nằm đây, còn anh ở nơi phương xa ấy có lẽ đang báo động
hành quân. Anh có mệt lắm không.. Rồi em sợ anh còn bị thương nữa, những mảnh
bom, mảnh đạn nguy hiểm vô cùng, khi ấy ai sẽ băng vết thương cho anh?...Anh có
bị gầy đi nhiều lắm không? Anh cố gắng ăn uống vào nhé còn lấy sức chiến đấu.
À, em nghe nói, nơi chiến trường có nhiều muỗi đốt gây bệnh sốt rét, căn bệnh ấy
nguy hiểm lắm, chẳng khác gì sống dưới những làn bom đạn của kẻ thù, bởi vậy
anh nhớ chăm sóc bản thân mình đấy nhé? Em luôn nghĩ đến những nguy hiểm, những
vất vả và khó khăn sẽ rình rập anh. Em chỉ mong anh vững vàng tay súng và gặp
may mắn...em luôn mong ngóng và chờ đợi anh. ”
Đợt huấn
luyện cấp tốc của chúng tôi cũng đã được gần hai tháng. Để cho một người lính
có bản lĩnh về chính trị, có kỹ chiến thuật quân sự, đáp ứng các yêu cầu của cuộc
chiến đấu thì thời gian huấn luyện hai tháng là quá ít ỏi. Nhưng lúc này chiến
trường đang cần những người lính như chúng tôi. Những môn học cơ bản của anh
lính bộ binh, tiến hành bắn đạn thật, được học cách tự băng bó, sơ cứu khi bị
thương, rồi chúng tôi còn được học tập nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Bác
Hồ về chiến tranh nhân dân, về công tác dân vận, về các chính sách của Đảng
trong vùng giải phóng...Chúng tôi được bổ sung quân trang, thực phẩm, bông
băng, đường sữa, súng đạn…Như vậy, đây là tín hiệu mà mỗi người lính đều phán
đoán được là thời gian chuẩn bị vào Nam chiến đấu đã đến gần. Cuộc sống của người
lính chúng tôi lúc này càng trở nên bận rộn. Sau khi nghe chỉ huy phát động
phong trào xung phong vào chiến trường đánh Mỹ, đồng chí nào cũng tự giác viết
quyết tâm thư. Bản quyết tâm thư này không phải bằng bút mực mà chính bằng máu
của mình. Chúng tôi lấy kim chích máu từ ngón tay và viết quyết tâm thư. Bản
quyết tâm thư này thể hiện ý chí và nghị lực phi thường của người lính trẻ đối
với cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đây cũng là thể hiện tình cảm của người
lính đối với chủ trương của Đảng và Bác Hồ trong việc thực hiên quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược. Đây cũng là sự tự giác cao độ của mỗi người dân đối với
cuộc chiến tranh ác liệt này. Do vậy, sự quyết tâm sắt đá của người lính là một
trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi của cuộc chiến tranh
chống Mỹ, cứu nước.
Chương
III:
Điều linh cảm của Thoa
thật đúng. Chúng tôi sắp sửa phải xa nhau dài hơn, kể cả không gian và thời
gian. Sau ba tháng huấn luyện cấp tốc, chúng tôi được lệnh hành quân vào Nam
chiến đấu. Để chuẩn bị hành quân đi xa, người lính chúng tôi phải chuẩn bị nhiều
thứ. Mấy ngày nay chỉ vật lộn với chiếc ba lô mà không xong. Chiếc ba lô thì
căng phồng mà vẫn còn nhiều thứ chưa cho vào được. Ngày ra đi Cha đã dặn, trong
chiến đấu thiếu thốn đủ thứ. Cái gì cũng cần cho cuộc sống của người lính. Chưa
nói gì đến cái ăn, cái mặc, chỉ một chuyện rất nhỏ thôi, rất đời thường thôi mà
thanh niên như tôi chẳng bao giờ lo nghĩ tới, nhưng trong chiến đấu lại vô cùng
quan trọng. Ví dụ như cuộn băng bông đề phòng khi bị thương, cái kim sợi chỉ để
khâu quần, khâu áo khi bị rách…Nghe các dũng sĩ diệt Mỹ kể chuyện thì trong chiến
trường còn thiếu thốn đủ thứ, cố mà mang vào để có cái dùng. Rồi còn những lá
thư của Cha, chị và Thoa thì nhất thiết phải mang đi cùng. Mình đã hứa với Thoa
là có chết cũng mang thư bên người mà. Sau khi đã chuẩn bị tương đối, tôi mang
thử ba lô. Ôi chao. Có đến 60kg chắc? 60 kg trên vai mà vượt Trường Sơn thì gay
go đây, tôi thầm nghĩ vậy. Tôi đang chuẩn bị thì mấy lính trẻ đến. Đó là
Trữ, Loan, Dung, Xuân, Ngọ, những người cùng quê, cùng học và cùng nhập ngũ một
ngày. Thấy tôi chuẩn bị chưa chu đáo, Xuân hỏi:
-Bát ăn cơm đâu rồi, chưa cho
vào à? Xuân vừa nói vừa vỗ vào chiếc ba lô căng phồng. Tôi bảo:
- Có chứ. Cho hết
vào trong ba lô rồi mà lị. Nghe vậy, Xuân nhìn tôi lắc đầu:
- Không được đâu cậu ạ. Thế dọc đường cần bát dùng thì cậu tính làm sao? Nghe
Xuân nói, tôi nghĩ khi hành quân cũng chẳng cần gì đến bát ăn. Nhưng ý của Xuân
khiến tôi phải cân nhắc. Cái bát ăn cơm phải để ở con cóc thì sẽ tiện sử dụng
hơn. Đại loại là như vậy. Chúng tôi góp ý, bổ sung cho nhau. Là người lính cùng
quê nên rất quý và thương nhau. Dung đưa hai tay nhấc chiếc ba lô, nhìn tôi:
- Ôi. Có đến trên 60
ký nhỉ. Tớ cũng như vậy. Nhưng không hiểu có mang nổi không. Dung có dáng người
nhỏ hơn nhưng lại rất nhanh nhẹn. Nhìn chiếc ba lô như thế này Dung cũng lắc đầu.
Không phải chỉ có Dung mà ai cũng rất ngại mang vác nặng. Chúng tôi đang bàn về
chiếc ba lô thì Trữ cho chúng tôi một tin rất mới:
- Nghe nói, đợt này
chúng mình vào chiến trường B5 đấy. -Tôi nhìn Trữ hỏi lại:
- B5 là ăn cơm Bắc
đánh giặc Nam phải không? Nếu vậy thì được gần nhà hơn đi B dài nhỉ. Dung mỉn
cười vỗ vai hỏi tôi:
- Thế cậu tưởng vào B5 gần hơn thì được về nhà chắc? Thoa có hay gửi
thư không? Hôm tiễn đi ở sân kho HTX xem chừng cô nàng bịn rịn lắm. Thế đã gửi
gắm được gì chưa? Tôi đấm nhẹ vào vai Dung cười:
-
Có gì mà gửi với gắm. Cầm tay mà chẳng dám nữa là. Xuân nhìn tôi cười:
- Thế là cậu kém lắm. Gặp phải Dung chắc là cá cắn câu rồi. Chúng
tôi nhìn Dung cười sảng khoái. Còn Dung thì phân bua:
- Chuyện đó thì không biết chừng. Chẳng ai biết ma ăn cỗ được. Thoa
xinh thế mà cậu không làm gì thì thật phí của giời. Tôi hơi đỏ mặt vì câu nói của
Dung. Thế mới biết Dung cũng là tay chịu chơi. Tôi trợn mắt:
- Nghe mấy anh kể
rằng, khi ra trận, cậu nào mà đã léng phéng với người yêu rồi là hay bị vỡ gáo
lắm. Thế thì quá sợ.
Mấy anh em đồng hương
gặp nhau tếu táo rồi lại chia tay nhau về chuẩn bị tiếp. Mọi việc cũng đã xong.
Chúng tôi ngoắc tay nhau quyết tâm cùng hành quân đến đích. Sau đó mọi người lại
tranh thủ viết thư về nhà để báo tin ngày hành quân vào Nam đã đến. Tuy lo lắng
chuẩn bị vào chiến trường để quần nhau với giặc nhưng chúng tôi vẫn hăm hở, rộn
ràng với một nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh quyết sống
mái với quân thù.
Một buổi tối đầu tháng
6 - 1968, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị đến biểu diễn phục vụ đơn vị. Nghe
các ca khúc mới sáng tác với phong cách biểu diễn của các nghệ sĩ, chúng tôi,
những người lính trẻ như sống trong không khí hào hùng, khát vọng chiến thắng
và cháy bỏng niềm tin về sự tất thắng của cuộc kháng chiến. Tôi còn nhớ, sau
khi nghe Tường Vi trình bày ca khúc Tiếng đàn Ta Lư, các chiến sĩ trẻ vỗ
tay không ngớt. Tường Vi lại hát lần thứ hai. Cả đơn vị lại im phăng phắc để
thưởng thức nhạc phẩm:
“Bộ đội giải phóng quân ơi
Anh thắng trận miền tây Khe
Sanh.
Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy.
Đồn Đồng Tri xác Mỹ chất đầy.
Kia trông. Một, hai, ba , bốn,
năm, sáu chục.
Tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ
kia.
Nó bỏ xác trên rừng.
Bộ đội giải phóng quân.
Các anh đánh hay hu…”.
Về nằm trên giường,
ca khúc trên đây cứ vang vọng trong tôi niềm kiêu hãnh của anh bộ đội giải
phóng quân. Chỉ một bài hát thôi, cũng có tác dụng động viên bộ đội rất lớn, nhất
là trong thời gian chuẩn bị hành quân vào Nam chiến đấu như thế này. Tôi nhớ
Thoa quá, tranh thủ viết thư cho em:
Em yêu. Mấy hôm nay
anh và đơn vị rất bận rộn vì phải chuẩn bị hành quân đi B em a. Ôi biết bao việc
phải làm. Có em bên cạnh lúc này chắc anh sẽ đỡ được nhiều việc. Em ơi. Chỉ còn
thời gian rất ngắn nữa thôi là anh và đơn vị phải hành quân vào Nam rồi. Thế là
khoảng cách giũa anh và em lại càng dài hơn, muốn gần mà chẳng được em ạ. Không
hiểu lúc nào chúng mình lai được gần nhau em? Anh tưởng chỉ vào bộ đội vài
tháng là thống nhất rồi anh và em sẽ được gần nhau, sẽ được hồn nhiên bên nhau
của tuổi học trò. Thế mới biết đời học sinh đẹp biết nhường nào. Vào đây mới biết
còn gian lao và ác liệt lắm em ạ. Dù sao anh sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ như
đã hứa với em. Anh biết dạo này máy bay ném bom quê mình dữ dội lắm. Anh cầu
cho em học tập tốt và bình an. Anh nhớ em, nhớ lớp học vô cùng. Cầu mong cho sự
đoàn tụ của chúng mình.
Tôi vội ra bưu điện gửi thư
cho em rồi lại vật lộn với chiếc ba lô. Chiều mùa hè nơi miền núi Nghĩa Đàn này
cũng khá oi ả. Xã Nghĩa Thọ như chảo lửa làm cho đất đỏ đường làng cuộn lên từng
đám bụi hồng bám đầy cây cối hai bên đường. Tiếng chim bìm bịp gọi nhau bay về
tổ. Tiếng ve sầu râm ran, vang động cả xóm thôn nơi đóng quân. Xa xa tiếng máy
bay gầm rú phá đi sự tĩnh mịch của vùng miền sơn cước Nghĩa Đàn.
16h chiều ngày 3 – 6 –
1968, chúng tôi được lệnh hành quân đi B. Đứng trong hàng quân, bỗng có giọng
ai đó nghe hơi lạc quan tếu: Không mau vào chiến trường lúc này thì chỉ có mà
nhặt ống bơ rỉ thôi! Sau tiếng còi báo động, đợn vị trong tư thế hàng ngũ
chỉnh tề, ba lô căng phồng, dập dìu dưới cành lá ngụy trang. Đồng chí nào cũng
cầm gậy trông rất vững trãi. Mệnh lệnh hành quân đựơc phát ra. Đơn vị tập hợp
thành hàng dọc. Đi đầu là đại đội trưởng Nguyễn Trọng Ê. Ông là người chỉ huỷ
có tài với nét mặt nghiêm khắc mà mỗi lần tôi gặp đã thấy sờ sợ. Ông cũng đã từng
trải qua chiến trường nên có nhiều kinh nghiệm trong hành quân. Hành quân vào
Nam mà có người chỉ huy như Đại đội trưởng Nguyễn Trọng Ê thì ai cũng yên tâm.
Từng đoàn thanh niên,
công nhân nông trường cà phê và bà con nơi đóng quân ra tiễn chúng tôi vẫy tay
chào tạm biệt. Hàng quân đi rung lá nguỵ trang dài tít tắp. Đi trong hàng quân
hôm nay mình thấy đã lớn lên rất nhiều. Mảnh đất Nghĩa Thọ gắn bó với đời chiến
sĩ chúng tôi chưa đầy ba tháng nhưng đã để lại bao kỷ niệm buồn vui trong thời
gian huấn luỵên, ngày càng xa dần. Chúng tôi hành quân gần sáng thì dừng nghỉ.
Nơi đơn vị dừng chân chỉ cách nhà có vài km, nhưng vì cuộc hành quân được coi
là bí mật nên không được về thăm nhà. Mất ngủ suốt đêm mà không sao chợp mắt được.
Cha ơi. Con đã về đến quê hương Nam Đàn rồi. Con đóng quân gần nhà lắm nhưng
không được về thăm Cha và gia đình. Em Thoa ơi. Anh đã về đến mảnh đất mà chúng
mình đã gắn bó với nhau suốt tuổi học trò. Bao nhiêu kỷ niệm dưới mái trường,
bao nhiêu kỷ niệm bên em cứ cuồn cuộn hiện ra. Càng hành quân xuống đồng bằng
thì cảm thấy máy bay quần đảo bắn phá nhiều hơn. Không khí chiến tranh càng ngột
ngạt, khốc liệt.
Sáng nay ngủ dậy
sớm. Chúng tôi được phổ biến: Vì bí mật của cuộc hành quân và để bảo đảm an
toàn, tất cả phải hành quân đêm. Những tiếng bom nổ ầm ầm phía thị trấn, những
loạt pháo cáo xạ nổ lốp bốp trên bầu trời cũng không cắt đứt dòng suy nghĩ miên
man về quê hương, về tuổi thơ trong trẻo của tuổi học trò. Đêm đó chúng tôi vượt
sông Lam để sang Nam Hoành. Đến bên bờ sông nước mênh mông, những kỷ niệm gắn với
dòng sông tuổi thơ cũng chập chờn hiện ra. Thế là ta phải xa sông Lam mãi mãi.
Không hiểu đến bao giờ mới được về lặn ngụp trong làn nước mát trong của sông
Lam yêu dấu. Tất cả sông nước, quê hương và biết bao con người còn tần tảo vật
lộn với cuộc sống của chiến tranh cứ xa dần, xa dần trong bóng đêm dày đặc.
Đoàn quân rung lá nguỵ trang vẫn lầm lũi miệt mài theo hướng Nam mà đi…
Chúng tôi hành quân
qua đất Nam Đàn thì đến Hà Tĩnh. Từ đây, bộ đội hành quân theo đường giao liên
xuyên qua rừng núi phía tây Hà Tĩnh. Vì vậy, chúng tôi được hành quân ban ngày.
Ngày đi, đêm nghỉ. Những ngày đầu hành quân, chân anh nào cũng sưng to. Tối đến
phải ngâm bằng nước muối. Có đồng chí còn bị loét chân, có đồng chí bị thối
chân do đi dày không quen. Chiều đến, tiểu đội ngồi ăn cơm mà gặp phải đồng chí
nào thối chân lười rửa thì mùi thum thủm như cóc chết thật kinh khủng. Tôi mà
ngửi thấy mùi chân thối là hay buồn nôn. Nhưng vì đói quá nên cố mà ăn cho xong
bữa. Tối đến, sau buổi họp tiểu đội, chúng tôi lại ngồi với nhau bên cánh võng
hát nghêu ngao bài chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên:
Thanh niên quê tôi làm chiếc
gậy hành quân.
Đặt cho tên gọi là chiếc gậy
Trường Sơn
Luyện cho đôi chân vượt đường
xa không mỏi.
Luyện cho tinh thần mà chỉ
tiến không lui.
Gậy trong tay mô hôi đã
bóng.
Màu gỗ quê hương mang cả mối
tình dân.
Như nhắn nhủ những ai lên đường
mà lời hứa với bao người thân.
Trường Sơn ơi. Nơi núi mờ xa
mà ta chưa qua.
Có suối reo có gió ngàn cây.
Có dốc cao vực sâu mất lối.
Mây trắng quyện dưới chân bước
bồi hồi.
Có nắng lửa đốt thiêu vách
núi ơ.. ơ…
Chúng tôi hát với
nhau thật say sưa. Nằm trên cánh võng dưới tán rừng bạt ngàn của dãy Trường Sơn
mới thấy ý nghĩa đẹp đẽ, hùng hồn và tự hào biết bao của bài hát. Chúng tôi vừa
hát vừa nghĩ chặng đường đã hành quân qua mà ngủ lúc nào không biết.
Có những
ngày đi qua các đỉnh núi, trông xuống đồng bằng loang loáng ánh nắng chói chang
với các cơn gió Lào cuốn bụi mù mịt những con đường đất đỏ. Xa xa, có những cột
khói đen bốc cao và những tiếng nổ ầm ầm. Chắc là máy bay ném bom cầu phà hay
trọng điểm nào đó. Hành quân qua Hà Tĩnh thì đến đất Quảng Bình. Đứng trên các
triền núi mới thấy hết sự ác liệt và sự tàn phá đến khủng khiếp của chiến tranh
phá hoại đối với tuyến lửa Hà Tĩnh, Quảng Bình. Những lúc hành quân qua tỉnh Quảng
Bình mới thấy hết ý nghĩa sâu sắc và đẹp đẽ của bài hát Quảng Bình quê ta
ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân:
“Nếu ai hỏi vì sao, quê
hương chúng ta nhiều ngói mới.
Rằng có đắng cay nên chừ mới
có ngọt bùi.
Nếu ai hỏi vì sao, quê hương
chúng ta đồng lúa tốt.
Có nhớ những ngày cơ cực tối
tăm ngày xưa…”
Bước chân rong ruổi được
15 ngày thì vào đến miền núi Quảng Trị. Quảng Trị - vùng đất xưa nay được mệnh
danh là “ô châu ác địa”, nổi tiếng về khí hậu khắc nghiệt, cây kén đất, bàn tay
người lam lũ quanh năm vẫn không hết khổ. Cái nghèo cũng tản mạn khắp nơi và
đeo bám dai dẳng con người. Nơi đâu cũng có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông rõ rệt.
Vậy mà mảnh đất này chỉ có hai mùa: mùa khô và mùa mưa, người ta thường nhắc đến
vùng đất của gió Lào cát trắng. Mùa khô, mở mắt ra đã thấy nắng chói chang,
nóng hừng hực, cộng thêm những trận gió Lào khô rát, thổi như bão khan rất khó
chịu. Nắng chạm vào da, vào thịt làm cho da dẻ con người chẳng còn tươi sáng.
Thường thì sau Tết âm lịch, những cơn gió Lào đầu tiên đã xuất hiện mà dân ở
đây thường gọi là gió Nam ra. Mùa khô hay còn gọi là mùa nắng thường kéo dài từ
tháng hai âm lịch đến hết tháng tám ta, thời gian còn lại trong năm là mùa mưa.
Chúng tôi
hành quân vào đến nơi thì Quảng Trị cũng bắt đầu mùa mưa. Mưa Quảng Trị cũng
khá dữ dội và kéo dài triền miên, mưa như làm cho đất thấm nước đến tận đáy. Những
lúc nằm dưới rừng nghe mưa rơi thấy não nề, mưa rào rạt, xối xả, suối ngàn như
sôi lên trắng xoá. Mưa tưởng đến mức hết nước mà vẫn dai dẳng, tôi là lính
tráng mới vào nên gặp thời tiết khắc nghiệt như thế này cũng thấy nao nao lòng.
Bộ đội hành quân vào mùa này thật vất vả vô cùng. Đường hành quân không chỉ phải
vượt núi cao, dốc đứng, suối sâu, mà đường thì trơn như đổ mỡ. Những người trước
tôi cứ vít bám vào dây rừng mà đi, người sau cũng như vậy. Có lúc cây bị bật rễ
thì cả người và ba lô lăn lốc, người đi sau cũng bị ngã theo, máu rỉ loang ra
bàn chân, bàn tay. Chiếc gậy Trường Sơn lúc này càng có ý nghĩa. Mưa thì mặc
mưa, người lính vẫn lầm lũi đi trong mưa. Những cuộc hành quân xuyên rừng luôn
luôn thường trực đối với người lính. Hành quân vào mùa mưa là gian khổ, nhưng
dù gian khổ thế nào bộ đội vẫn hành quân. Hành quân để vào kịp với trận tuyến,
trong kia mọi người đang chờ đợi chúng tôi vào để bổ sung lực lượng.
Hành quân vào đến nơi
thì chúng tôi được bổ sung cho tiểu đoàn K 8A của mặt trận B5. Tôi được bổ sung
vào Đại đội 4. Đây là Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn. Tôi được biên chế vào khẩu
đội đại liên Côlinốp do anh Vương Tử Hoàng làm tiểu đội trưởng. Anh Hoàng quê ở
Thanh Hóa, nhập ngũ 1964. Anh là người đã kinh qua nhiều trận đánh nên có khá
nhiều kinh nghiệm trong xử lý tình huống trong chiến đấu. Buổi đầu vào tiểu đội
được anh Hoàng kể rất nhiều chuyện chiến đấu ở mặt trân B5. Sau khi củng cố nơi
ăn ở, chúng tôi bắt đầu huấn luyện sử dụng súng đại liên Côlinốp. Lúc này mặt
trận B5 đang tập trung vây lấn cứ điểm Khe Sanh. Huấn luyện được hai tuần thì
chúng tôi được giao nhiệm vụ chi viện cho lực lượng vây lấn Khe Sanh.
Khe Sanh là thị trấn
thuộc huyện Hướng Hóa ở miền Tây Quảng Trị, cách biên giới Việt- Lào khoảng
20km. Từ Đông Hà ngược theo đường số 9, chừng 80km sẽ đến Khe Sanh, một vùng đất
đỏ bazan lãng đãng mù sương. Khe Sanh với địa hình đồi núi rậm rạp, trập trùng.
Khe Sanh lúc này trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ
“ngăn cản sự xâm nhập của Cộng quân vào Nam” do Măc-na-ma-ra, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Mỹ lúc bấy giờ vạch ra. Đây là căn cứ quân sự của Mỹ có nhiệm vụ chốt chặn
bước tiến của ta vào Nam ở Đông Trường Sơn. Hơn nữa chúng muốn tạo thế mạnh ở
miền Nam để uy hiếp miền Bắc. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 của ta
đã giáng một đòn bất ngờ và quyết định làm thất bại chiến tranh cục bộ của Mỹ ở
miền Nam.
Bị vây ép, địch tổ chức
nhiều cuộc hành quân nống ra hòng chiếm lại những khu vực đã bị mất xung quanh
thị trấn đẫm máu này. Đơn vị chúng tôi hành quân chiếm lĩnh trận địa tại đồi
Cháy phía Nam sông Bến Hải có nhiệm vụ diệt quân Mỹ nhảy dù đánh vào phía sau hậu
cứ. Qủa đồi mà tiểu đội đại liên chúng tôi được giao nhiệm vụ chốt giữ là Động
Nóc, anh em thường gọi là đồi Cháy. Vì toàn bộ quả đồi bị bom đạn cày xới, mọi
vật có trên mặt đất bị cháy thui. Mấy ngày nay máy bay B52 thi nhau rải thảm,
pháo bầy của giặc từ Tà Cơn, Dốc Miếu thi nhau trút bão lửa xuống trận địa. Rừng
già tan hoang, đồi trọc bị cày xới bởi hàng trăm hàng nghìn hố bom, hố pháo. Chỉ
cần một đợt bom rải thảm là cánh rừng bị tan hoang còn hơn trận bão. Sau những
trận bom, pháo cây cối đổ nghiêng ngả, hầm hào sạt lở tùm lum, địa hình địa vật
đổi thay lạ hoắc. Đêm và ngày ùng oàng tiếng bom rơi đạn nổ, không gian sặc sụa
mùi thuốc bom, đạn nghe gây người. Có những trái pháo, quả bom nổ đúng hầm. Đồng
đội tôi có người bị thương, hy sinh. Chúng tôi phân công nhau người trực chiến
đấu, người vận chuyển thương binh, người chôn cất tử sĩ. Người lính ngoài mặt
trận như cái máy, công việc suốt ngày, suốt đêm. Có khi vài ngày không được ngủ.
Mỗi người được tiếp tế ba nắm cơm vắt cho ba bữa sáng, trưa và chiều.
Sau một
trận chiến đấu, đơn vị nhận được lệnh lại tiếp tục hành quân đêm sang trận địa
khác để chốt giữ đánh địch nống ra. Vừa đến trận địa mới lại phải bắt tay đào hầm
trú ẩn ngay. Rồi lại tiếp tục canh gác và chiến đấu, ngày cũng như đêm, căng
như dây đàn. Những ngày đầu vào chiến đấu, gặp những cảnh căng thẳng và ác liệt
thế này tôi lo lắng đủ mọi thứ, nhất là khi nhìn thấy những đồng đội ngã xuống
do mảnh bom, đạn có lúc tôi đã giật mình ghê sợ vì cái chết nhìn thấy thật thảm
hại. Trong hoàn cảnh như vậy chỉ biết im lặng nén đau thương, căm thù và gạt nước
mắt. Những lần mai táng đồng đội của mình, trong túi áo chỉ vẻn vẹn với những
dòng địa chỉ tên tuổi ngắn ngủi và chiếc nilong để cuốn xác. Nhìn nấm mồ mà thấy
cuộc đời người lính thật mong manh, mỗi người nằm xuống có biết bao nhiêu người
đau, đâu phải chỉ có người chôn cất như chúng tôi mà có cả người thân, gia đình
mà cả xóm làng đang ở xa tít tắp.
Vẫn biết chiến
tranh là ác liệt, hy sinh nhưng tôi cũng không ngờ nó lại ác liệt đến mức thế
này. Sự nghiệt ngã của chiến tranh hoàn toàn không giống như tôi hằng tưởng tượng,
suy nghĩ theo kiểu lãng mạn như hồi còn là học trò. Nếu như biết trước sự
khốc liệt như thế này chắc tôi còn phải đắn đo và suy nghĩ nhiều hơn trước khi
nhập ngũ. Thế mới biết lời căn dặn của Cha trước lúc lên đường đúng như thế
nào. Cách suy nghĩ giản đơn, pha chút lãng mạn của tuổi học trò hoàn toàn đối
nghịch với sự khốc liệt của chiến trường. Khi còn ở nhà, tôi nhìn thấy ở chiến
trường chỉ có chiến thắng và vinh quang, chỉ có anh hùng và dũng sĩ, chỉ có tiến
lên và quân thù ngã gục. Ôi! Nếu vậy thì quả là lý tưởng. Tuy cũng có lúc vẫn
biết chiến tranh là sự hi sinh, gian khổ nhưng tôi không tưởng tượng ra nổi sự
khốc liệt và nghiệt ngã đến vậy. Không nghĩ rằng, mình lại thức trắng trong nhiều
đêm liền để hành quân, để đào hầm, để cảnh giác quân thù…Tôi cũng không tưởng
tượng nổi suốt ngày chỉ có ăn cơm nắm với muối trắng như thế này. Cũng chẳng
bao giờ nghĩ là mình phải cùng đồng đội lại đi chôn cất đồng đội nhiều đến như
thế. Ngày ở nhà, mỗi khi trong làng Ngũ Phúc có đám ma là tối đó không giám đi
đâu, sợ nó bắt mất.
Câu chuyện sau đây là
minh chứng về sự thử thách lớn lao đó đối với người lính ở chiến trường. Hôm
đó, chúng tôi được lệnh hành quân chiếm lĩnh đồi cháy (Động Nóc) để làm nhiệm vụ
đánh địch đổ bộ hòng cắt đứt đường tiếp viện cho mặt trận Khe Sanh. Tiểu đội đại
liên chúng tôi quần nhau suốt ngày với máy bay địch. Từ sáng sớm, máy bay và
pháo tầm xa thi nhau bắn vào đồi Cháy. Cả quả đồi trong chốc lát đã bị khói bụi
bao phủ mịt mù. Những tiếng rít của quả bom và trái pháo nghe như xé vải và tiếp
đó là những tiếng nổ đinh tai nhức óc, thật rợn người. Qủa đồi như rung lên bần
bật. Đất đá văng tứ tung, khói bụi mù mịt. Những đám lửa cháy bập bùng để lại
những cột khói nghi ngút, đen quạch. Không khí hầm hập, oi bức và ngạt thở. Đầu
tóc, mặt mũi, áo quần người lính nào cũng nhoem nhuốc, lấm láp, trông thật nhếch
nhác.
Sau đợt ném bom của máy bay
và bắn phá của pháo tầm xa là may bay VO10 bay trinh sát. Có lẽ chúng nghĩ trên
đồi cháy này không thể có một sinh linh nào sống nổi dưới sức mạnh của hỏa lực
Hoa Kỳ, huống hồ bộ đội. Chiếc VO10 hai thân bay vè vè, lượn vài vòng xung
quanh quả đồi và sau đó tập trung bắn chỉ điểm vào các lùm cây ven suối dưới
chân đồi. Có lẽ chúng nghĩ, chỉ nơi đó mới có bộ đội đóng quân. Sau những quả
pháo bắn chỉ điểm của VO10 là mấy chiếc phản lực bổ nhào ném bom xuống ven suối.
Đồi Cháy lại rung lên sau những loạt bom.
Tiếp đó là từng đàn máy bay
trực thăng từ phía Cồn Tiên, Dốc Miếu túa ra như chuồn chuồn. Tiếng động cơ máy
bay trực thăng nghe phành phạch. Chúng bay lượn một vòng xung quanh quả đồi rồi
một chiếc tách khỏi đội hình từ từ hạ thấp độ cao để đáp xuống trận địa. Anh
Hoàng hô to át cả tiếng trực thăng:
- Toàn khẩu đội chuẩn bị
đánh địch đổ bộ.
Phương án đánh địch đổ bộ đã
được anh em luyện tập chu đáo. Khẩu đại liên do anh Hoàng trực tiếp chỉ huy.
Chúng tôi dùng súng bộ binh bắn máy bay. Dưới cái nóng hầm hập nhưng anh em
trong khẩu đối vẫn dán mắt vào chiếc máy bay đi đầu đang hạ cánh. Chiếc máy bay
từ từ hạ cánh. Tôi thấy nó đã hạ thấp lắm rồi mà chưa nghe Tiểu đội trưởng ra lệnh
bắn. Nó càng hạ thấp độ cao thì sức gió của cánh quạt máy bay càng lớn. Nó có
thể thổi cuốn hết các vật gì trên mặt đất, bụi bay mịt mù. Hơi gió cánh quạt thổi
cả vào hầm như trận cuồng phong. Cũng rất may là cửa hầm được chúng tôi ngụy
trang rất khéo léo và chặt chẽ. Trên miệng hầm chúng tôi cắm rất nhiều cành cây
đã cháy sém đen, tất cả mặt đất, cửa hầm chỉ rạch một màu xám đen của than,
tro, miệng hầm cũng không bị lộ ra. Tôi thấy chiếc máy bay càng ngày càng xuống
thấp. Làn gió của cánh quạt thổi như bão. Trên thân cửa máy bay có mấy thằng Mỹ
đội mũ sắt, mặt đỏ au đang ngồi lố nhố. Chúng đang lăm lăm trong tay khẩu tiểu
liên Ar15, đôi mắt chúng cũng đang quan sát khắp trận địa, như hình nó đã nhìn
thấy chúng tôi thì phải. Tôi thấy nóng ruột quá. Tại sao lúc này Tiểu đội trưởng
chưa cho bắn? Nếu được bắn, chắc chắn loạt AK sẽ trúng đầu mấy tên Mỹ đang ngồi
trên cửa sổ. Tôi nhìn sang hầm chỉ huy, thấy anh Hoàng và mấy anh em vẫn giương
cao nòng súng đại liên vào chiếc máy bay. Chiếc trực thăng HU1A vẫn từ từ hạ
cánh. Vừa quan sát chiếc máy bay đang hạ cánh tôi vừa nghĩ đến phương án tối
qua của Tiểu đội trưởng là phải bắn đúng chiếc đi đầu. Muốn vậy phải ngụy trang
cửa hầm thật kín đáo, chờ cho máy bay hạ thật thấp mới được bắn. Đến lúc này
tôi cảm thấy máy bay đã hạ cánh gần mặt đất rồi mà Tiểu đội trưởng chưa hạ lệnh
bắn. Vừa nhìn máy bay đang hạ cánh, vừa nhìn sang Tiểu đội trưởng để nhận lệnh
mà con tim như lửa đốt. Chiếc máy bay tiếp tục hạ thấp và chuẩn bị tiếp đất.
Ngón tay trỏ của tôi cũng từ từ xiết cò. Chỉ cần nghe khẩu lệnh của Tiểu đội
trưởng là khẩu súng AK nhả đạn.
Bổng nhiên tôi nghe tiếng đạn
đại liên nổ dòn dã. Tôi lập tức xiết cò. Nòng súng AK rung lên bần bật, nhả đạn
căm thù vào chiếc máy bay. Chiếc trực thăng dính đạn, chòng chành, bay khỏi trận
địa và rơi xuống quả đồi bên cạnh. Khói đen bốc lên từ máy bay. Cả đàn máy bay
lại bay về hướng đông. Một chốc sau pháo tầm xa lại bắn cấp tập xuống trận địa.
Sau mỗi đợt bắn phá, máy bay
trực thăng lại tiếp tục đổ bộ xuống đồi Cháy. Từ đó đến chiều, khẩu đại liên bắn
trả quyết liệt và đánh bật 3 lần đổ bộ bằng trực thăng của địch. Khẩu đại liên
đã bắn rơi 3 chiếc máy bay và đã làm thất bại cuộc đổ bộ xuống đồi Cháy. Cả tiểu
đội có hai đồng chí bị thương.
Tôi thấy đói bụng quá, bẻ nắm
cơm ra ăn. Vỏ ngoài nắm cơm đã khô như vỏ dừa. Tôi đang ăn cơm thì Tiểu đội trưởng
Vương Tử Hoàng gọi lên hầm chỉ huy. Anh Hoàng hút một hơi thuốc dài và nhả ra
làn khói xanh, thơm bay theo chiều gió, nhìn tôi âu yếm nói:
- Bây giờ cậu chuẩn bị cùng
tớ đi làm nhiệm vụ đặc biệt của Tiểu đoàn. Nhớ chuẩn bị mang theo dao găm, cuốc
xẻng nhé.
Tôi thấy Tiểu đội trưởng của
mình có đôi mắt sâu hoắm, mặt mày lem luốc nhưng với những bước đi rất nhanh nhẹn.
Đã mấy hôm nay chốt trên đồi Cháy hầm hập khói lửa, ngột ngạt mùi đạn bom, sống
trong tình trạng căng như dây đàn thì không mệt mỏi làm sao được. Anh Hoàng là
người chỉ huy rất dũng cảm, nhanh nhẹn nhưng rất sâu sát và thương anh em. Tôi
vẫn nhớ như in, hình ảnh người chỉ huy, đêm đêm trước giờ ngủ, dù trong hoàn cảnh
nào anh cũng đi kiểm tra xem anh em ngủ có mắc màn không, có ngủ đúng giờ
không, kiểm tra việc canh gác như thế nào. Sau đó anh mới về đặt lưng năm ngủ,
cứ như người chị hiền của tiểu đội. Có lần anh Hoàng đã nói với tôi: Cái quý nhất
của con người, nhất là đối với bộ đội là sức khỏe. Một đồng chí ốm là mất một
tay súng. Mất một tay súng là kẻ địch có lợi hơn mình. Do vậy, phải chăm lo sức
khỏe của bộ đội là nhiệm vụ hàng đầu của người chỉ huy. Tôi nhìn Tiểu đội trưởng
thấy phấn khởi khi được cùng anh làm nhiệm vụ đặc biệt này và đứng nghiêm nhận
nhiệm vụ:
- Xin
chấp hành. Anh Hoàng vỗ vai tôi thân mật:
- Tốt.
Về chuẩn bị đi ngay nhé.
Tôi lao nhanh về hầm và chuẩn
bị các dụng cụ cần thiết. Lúc này tôi cũng chưa hiểu đi làm nhiệm vụ đặc biệt
là nhiệm vụ gì. Khi đến Ban chỉ huy Đại đội tôi mới biết nhiệm vụ đặc biệt đó
là đi mai táng, chôn cất tử sĩ. Mấy hôm nay âm mưu của địch là dùng sư đoàn Kỵ
Binh bay để đổ bộ, chặn đường tiếp tế của ta cho mặt trận Khe Sanh. Đại đội
trong đội hình của Tiểu đoàn K8A đã tập trung đánh địch đổ bộ đường không nên rất
ác liệt. Với ý chí kiên cường nên Tiểu đoàn đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch,
đánh bật cuộc đổ bộ đường không của chúng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có nhiều
thương vong.
Đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần
này có nhiều đồng chí. Ngoài anh Hoàng ra còn có các anh Lê Xuân Trữ, Hoàng Ngọc
Loan, Nguyễn Văn Lệ, Lê Văn Ngọ…Mới xa nhau mấy ngày mà trông cậu nào cũng hốc
hác, đen sạm, mệt mỏi. Chúng tôi tay bắt mặt mừng nhưng nhìn ai cũng đượm vẻ lo
âu. Trữ vừa cười vừa nói với giọng khảng khái, coi cái chết chẳng là gì, phá đi
không khí căng thẳng, mệt mỏi này:
- Sống chết cũng có số phận
của nó các cậu ạ. Bom đạn tránh mình chứ mình làm sao mà tránh nó được. Chỉ có
điều, sau này nhỡ ra, có làm sao thì nhớ báo tin cho gia đình với nhé.
Tôi nhìn Trữ và mọi người rồi
liếc nhìn các liệt sĩ đã được gói cẩn thận bằng vải ni lông mà lòng ái ngại,
thông cảm cho các bạn. Anh em chúng tôi tập trung trước hầm Chính trị viên đại
đội. Trực tiếp giao nhiệm vụ có anh Nguyễn Hữu Thu, Chính trị viên và anh Nguyễn
Long Trọng, Đại đội trưởng. Anh Thu quê ở xã Dân Lực, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Anh
Trọng quê ở xã Quảng Yên, Quảng Xương Thanh Hóa. Chúng tôi được bổ sung vào đơn
vị hỏa lực của tiểu đoàn K8A, lại có các thủ trưởng vừa đẹp trai, vừa tâm lý như
anh Thu và anh Trọng thì thật vinh hạnh.
Sau khi chúng tôi ổn định chỗ
ngồi (dựa vào các gốc cây), anh Nguyễn Hữu Thu phổ biến nội dung của nhiệm vụ đặc
biệt. Anh Thu trước đây là giáo viên cấp 2, nhập ngũ 1964. Anh có đôi mắt sáng
với giọng nói sang sảng có sức thuyết phục cánh lính trẻ. Anh Thu nhìn chúng
tôi nói:
- Hôm nay các đồng chí được
cử làm nhiệm vụ đặc biệt. Theo mệnh lệnh của Thủ trưởng Mặt trận, vị trí nơi
tác chiến là không an toàn nên phải bằng mọi giá, khẩn trương chuyển các tử sĩ
ra bờ bắc sông Bến Hải để mai táng. Chúng ta không thể yên tâm khi để đồng đội
của mình an nghỉ nơi không an toàn được. Đây không chỉ là nghĩa tử mà còn là
tình cảm đồng đội, đồng chí, sống chết có nhau, là trách nhiệm của chúng ta đối
với người đã hy sinh vì Tổ quốc. Ngay trong đêm nay, chúng ta phải đưa thi hài
các đồng chí đã hy sinh ra bờ bắc sông Bến Hải. Đường hành quân đêm nay không
thuận lợi, có mưa to, gió lớn, rất khó khăn, vất vả. Nhưng vì tình cảm đồng đội,
sống chết bên nhau, tôi kêu gọi các đồng chí hãy vượt qua mọi khó khăn, vất vả,
bằng mọi cách đưa thi hài các liệt sĩ ra bờ bắc sông Bến Hải an toàn. Các đồng
chí được cử đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này là những đồng chí ưu tú, đã được lựa
chọn kỹ càng. Do vậy, Đảng ủy Tiểu đoàn và Ban Chi ủy Đại đội rất tin tưởng và
gửi trọn niềm tin vào các đồng chí và mong các đồng chí đoàn kết, hoàn thành
nhiệm vụ đặc biệt này. Anh Thu nói rất ngắn gọn và sau đó, anh Trọng, Đại đội
trưởng phân công nhiệm vụ:
- Để đảm bảo hành quân an
toàn, chúng tôi phân công 4 đồng chí đảm nhiệm một cáng tữ sĩ. Đường đi đêm rất
khó khăn. Các đồng chí bám sát với nhau, không được đi lạc, giữ bí mật, đề
phòng thám báo, biệt kích mai phục. Trong trường hợp bị địch mai phục thì đánh
địch, mở đường mà đi. Kiên quyết bảo đảm an toàn tuyệt đối thi hài tử sĩ. Nghe
đến đây tôi thấy ghê người quá. Anh Trọng nói tiếp:
- Tôi đề nghị các đồng chí
đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này hãy vì tình thương yêu giai cấp, tình đồng đội,
các đồng chí không được khạc, nhổ trước anh linh đồng chí mình. Nghe đến đây
tôi thấy rùng rợn, nổi gai ốc.
Sau đó tôi được phân công
cùng anh Hoàng, Trự, Lệ khiêng một cáng tử sĩ. Trữ quê ở xã Hưng Hòa, thành phố
Vinh; Lệ quê ở Nam Cát. Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày, vào chiến trường B5 lại
cùng đơn vị. Anh Hoàng khoác áo mưa, đeo khẩu súng AK đi trước. Tôi và Trự
khiêng tử sĩ đi sau. Sau cùng là Lệ. Tử sĩ là anh Nguyễn Hồng Sơn, quê ở Hưng Lợi,
Hưng Nguyên, cùng nhập ngũ với chúng tôi. Anh Sơn bị mảnh pháo xuyên ngực cách
đây 4 hôm. Tuy được bó bằng vải ni lông nhưng vẫn bốc mùi rất nặng.
Mới 5 giờ chiều mà đường đi
đã tối sẫm. Trời vẫn mưa ngày càng nặng hạt. Trữ người nhỏ hơn nên đi sau, tôi
đi trước, Trữ đi sau. Mội tay tôi giữ cáng, tay kia chống gậy và đi theo anh
Hoàng. Anh Hoàng vừa đi vừa dò dẫm. Có đoạn đi được một quãng nhầm đường phải
quay lại. Những lúc xuống dốc, đường trơn, cáng tử sĩ khá nặng đè lên vai rất
khó đi. Có lúc trượt chân, thế là cáng tử sĩ đè lên người. Những lúc đó phải có
anh Hoàng và Lệ kéo lên mới đi được. Nước của xác tử sĩ theo cáng chảy vào người
nhơn nhớt. Thật kinh khủng. Khoảng 3 giờ sáng thì chúng tôi đến sông Bến Hải.
Lúc này trời mưa như trút nước. Trời tối đen như mực. Nước sông dâng cao. Anh
Hoàng cho anh em tạm nghỉ chờ nước rút mới khiêng tử sĩ sang sông được. Anh
Hoàng vuốt nước mưa, nói:
- Bây giờ ta tạm nghỉ tại
đây. Mưa thế này có thể sáng mai tạnh khi đó mới vượt sông được. Chúng ta thay
nhau thức canh tử sĩ. Phải đề phòng thú rừng, tuyệt đối không được để mất tử
sĩ.
Tối đó chúng tôi thay nhau đứng
giữa trời mưa để canh tử sĩ. Tôi và Trữ được phân công gác trước. Chúng tôi đứng
gác mà bụng đói cồn cào. Đứng dưới làn mưa bàng bạc, Trữ hỏi tôi:
- Đói bụng quá. Tớ còn cơm
đây. Cậu ăn với mình nhé. Vừa nói Trự vừa móc nắm cơm trong túi ra đã ướt sủng.
Trời tiếp tục mưa như trút nước. Tôi nhìn Trữ, nhìn mưa giăng giăng, nước sông
chảy ầm ĩ mà lòng ngao ngán quá chừng. Chưa bao giờ tôi lại nghĩ đời bộ đội sao
mà lắm gian nguy thế này. Khi còn là cậu học sinh có ai kể cho mình về sự gian
nan vất vả của bộ đội như thế này đâu. Bụng thì đói mà hai lỗ mũi lúc nào cũng
phảng phất mùi tử sĩ thật buồn nôn. Tôi chép miệng, trả lời Trữ:
- Làm sao mà ăn nổi. Cậu ăn
đi. Tôi vừa nhìn vừa chỉ tay ra bờ sông đang ào ào thác đổ:
- Kiểu này có thể nước sông
ngập lên đến đây chắc. Trữ vừa cố gắng nuốt trôi miếng cơm nắm, khoát tay nói:
- Mặc nó, ăn đi mà lấy sức.
Nước sông có lên đến đây ta lại tiếp tục chuyển tử sĩ lên cao hơn nữa.
Nói chưa xong Trữ đã ngoạm cả
miếng cơm còn lại một cách ngon lành. Đúng là anh chàng như tiểu đội thường nói
là đẹp trai nhưng rất háu đói. Trong lúc đó, mặc dù bụng đói nhưng tôi không thể
ăn được. Một phần vì mệt, nhưng cái quan trọng là hai lỗ mũi cứ phảng phất mùi
tử sĩ, cổ họng luôn chực buồn nôn, nghĩ tới cơm là muốn ọe ra rồi. Đứng gác bên
thi hài tử sĩ mới thấm thía lời căn dặn của Đại đội trưởng Nguyễn Long Trọng:
“Vì tình yêu giai cấp, tình yêu đồng chí, đồng đội, các đồng chí không được khạc
nhổ trước anh linh đồng chí mình”. Do vậy, tôi cố chịu đựng cho trọn bổn phận
là người đồng đội của Sơn. Trời tiếp tục mưa giăng giăng, sấm chớp xen lẫn tiếng
pháo cầm canh nổ đì đoàng. Anh Hoàng thức đậy từ lúc nào đến bên tôi, vỗ vai:
- Bây giờ để tớ gác cho. Các
cậu tranh thủ ngồi ngủ một tẻo cho đỡ mệt. Tôi thấy ánh sáng đã le lói phía
đông, bèn nói với anh Hoàng:
- Trời gần sáng rồi anh a.
Em cũng chẳng buồn ngủ nữa. Anh và Trữ cứ tranh thủ ngủ đi. Tôi chưa nói dứt
thì Trữ đã vén áo mưa, ghé mông vào gốc cây mục ngồi thụp xuống, trùm áo mưa và
ngủ luôn. Còn anh Hoàng thì bật lửa hút thuốc.
Tôi bồng súng đứng gác bên
thi hài Sơn trong làn mưa giăng giăng, bàng bạc. Không hiểu nước mắt hay nước
mưa mà cứ lăn dài trên gò má. Nhìn xác tử sĩ được gói tròn trịa bằng áo mưa, nằm
ngay ngắn trên chiếc cáng được dựa vào hai thân cây. Mặc cho mưa rơi bắn vào
cáng nghe lộp bộp, tôi vẫn đứng nhìn Sơn. Tự nhiên con tim tôi nhói đau. Sơn
ơi. Chỉ mới cách đây mấy hôm, chúng mình đang cùng nhau hút chung điếu thuốc lá
Sa Lem lấy được của bọn lính Mỹ trên đồi Cháy, mà bây giò Sơn đã ra đi để lại nỗi
mất mát, đau thương cho tiểu đội, cho bọn mình. Mình vẫn nhớ câu nói của Sơn dặn
mọi người: Nếu trong chiến đấu có làm sao thì người còn lại phải báo ngay cho
gia đình. Bây giờ người ra đi trước là Sơn. Thật đau xót cho tình cảm đồng chí,
đồng hương chúng mình Sơn ạ. Bọn mình đã vượt bao núi cao, đóc thẳm để đưa Sơn
sang bờ bắc sông Bến Hải cho an toàn. Chúng mình sẽ làm mộ chí cẩn thận và sẽ
báo cho gia đình Sơn biết.
Hôm trước, bên miệng công sự
trực chiến, Sơn có kể cho chúng mình nghe về sự khó khăn, vất vả của gia đình
Sơn. Bao nhiêu năm nay, gia đình Sơn vẫn ở ngôi nhà tranh dột nát. Đã bao lần dọi
lại mà vẫn bị dột. Bố mẹ Sơn phải chuẩn bị mấy năm mới mua đủ tranh, tre, nứa,
lá để sửa lại nhà. Nhưng Sơn đi bộ đội nên việc sửa nhà phải hoãn lại. Gia đình
chờ Sơn về mới làm lại nhà và cưới vợ cho Sơn. Sơn cũng ao ước, sau này, khi đất
nước hòa bình, thống nhất, Sơn sẽ về làm cho bố mẹ nếp nhà tranh nho nhỏ để hưởng
tuổi già. Một ước mơ giản dị của người lính mà không sao thực hiện được. Sơn nằm
đấy và đang ngủ ngon lành, trong lúc bố, mẹ ở nhà vẫn mong mỏi từng ngày.
Có lẽ hoàn cảnh người lính chúng mình cũng rất giống nhau Sơn ạ.
Tiễn biệt Sơn không hương,
không nến cũng không hoa. Giua mưa ngàn thác đổ, giữa trận địa đầy hiểm nguy
này, tiễn biệt Sơn với tấm lòng đồng đội kiên trung, luyến tiếc, sẽ chia. Mặc
gió to, lũ lớn, mặc thác ghềnh hiểm nguy, mình và đồng đội vẫn bồng súng đứng
gác cho Sơn an giấc để rồi sẽ đưa Sơn đến nơi an toàn, yên giấc ngàn thu.
Sáng hôm sau, mưa cũng ngớt
dần. Mưa đầu nguồn có khác. Vừa mưa nước đã dâng cao; ngớt mưa nước cũng rút rất
nhanh. Những hòn đá nhấp nhô ngày càng lộ dần lên mặt nước. Chúng tôi khẩn
trương khênh cáng liệt sĩ vượt sông Bến Hải. Sông chảy cuồn cuộn. Chúng tôi vừa
khênh tử sĩ vừa bám vào dây thừng mà các chiến sĩ giao liên đã làm sẵn để vượt
sông. Nếu không có giây thừng này thì dòng nước có thể cuốn chúng tôi đi bất cứ
lúc nào.
Chúng tôi vừa khênh xác tử
sĩ qua sông thì cũng là lúc máy bay Mỹ bắn phá hai bên bờ sông Bến Hải. Chúng
tôi vội vả khênh xác tử sĩ đến xã Vĩnh Ô, Vĩnh Linh để mai táng. Mấy anh em hì
hục đào huyệt chôn cất tử sĩ và ghi thẻ mộ chí cho anh Sơn. Mai táng tử sĩ
xong, chúng tôi khẩn trương quay lại sông Bến Hải để về đơn vị. Sau đợt công
tác đặc biệt này, lỗ mũi tôi lúc nào cũng thoang thoảng mùi tử sĩ, mặc dù luôn
xức dầu con hổ nhưng vẫn không hêt cái mùi thum thủm ấy.
Câu chuyện trên đây chỉ có
người lính mới gặp phải. Khi còn là học sinh chẳng bao giờ tôi nghĩ tới. Với
chiến trường, sự sống và cái chết gần nhau trong gang tấc. Cùng nhau giữa chiến
hào nhưng chỉ giây phút sau, đồng chí của mình đã gục ngã bởi đạn địch, không một
lời trăng trối. Thương tâm hơn, vừa ăn cơm xong có người đã dính mảnh đạn pháo
của địch chết ngay. Có biết bao lời hẹn ước lúc lên đường dành cho ngày gặp lại,
mà không thể thành hiện thực. còn biết bao đồng đội, mặt búng ra sữa, chưa một
ánh mắt trao nhau, chưa một lời hẹn ước…đã phải từ giã cuộc đời.
Là con người,
ai chẳng muốn sống, muốn chiến tranh được kết thúc nhanh để được trở về với gia
đình, với người thân? Có lẽ, mong ước cao nhất, hy vọng muôn phần của người
lính là được về với quê hương. Khi bom đạn tạm thời yên ắng, nằm trong căn hầm
dã chiến ẩm ướt giữa mùa mưa miền rừng Quảng Trị, chúng tôi càng thêm nhớ nhà,
nhớ quê hương. Có ở chiến trường mới thấy hết giá trị lớn lao của sự sống. Trước
đây, tôi mơ ước được đi học nước ngoài bao nhiêu thì bây giờ mơ được về quê còn
gấp bội bấy nhiêu. Nhiều hôm tay ôm súng đứng gác trong đêm, nghe tiếng chim gõ
kiến mổ lốc cốc vào thân cây, tiếng tắc kè điểm nhịp chẵn lẻ báo mưa báo nắng
ngày mai, tiếng chim từ quy gọi nhau “chóp thì bóp” khắc khoải, đi mai táng tử
sĩ…lòng tôi lại nao nao nghĩ tới số phận mong manh của người lính và cồn cào nhớ
tới những người thân nơi hậu phương. Đêm nay tôi còn đứng đây nhưng biết đâu
ngày mai không còn ở trên đời này nữa, không thể lường được chuyện sinh tử nơi
mưa bom bão đạn này. Hay rồi lại như Sơn, được gói trong tấm áo mưa và được đồng
đội đưa đi chôn trong khu rừng hẻo lánh…Cha và chị tôi sẽ ra sao khi nghe tin
tôi hi sinh. Vào chiến trường, nghĩ đến cái chết thấy hãi hùng nhưng buồn nhất
là chưa giúp gì cho Cha Mẹ để đền đáp công ơn sinh thành. Ngày tôi đi, cứ nghĩ
rằng cuộc chiến đấu sắp kết thúc rồi nhưng khi vào chiến trường mới thấy cuộc
chiến còn dài và gian khổ, ác liệt vô cùng. Ước gì không có chiến tranh để tôi
khỏi phải xa nhà, được gần gũi gia đình. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng trong
trẻo như ta vẫn nghĩ và thầm mong. Ở nơi đây, ngày nào cũng như ngày nào, phải
đối mặt với bom đạn, chết chóc.
Cũng may ở nơi đây còn có những
người lính cùng chia ngọt, sẻ bùi, thương nhau nên tôi cũng thấy vơi đi sự cô
đơn, trống vắng. Không có những người đồng chí, đồng đội chắc chắn không có sức
mạnh nào có thể giúp cho tôi vượt qua những khó khăn ác liệt này. Đó là tấm
lòng thơm thảo, thủy chung trong tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của các anh
như anh Thu- Chính trị viên, Anh Trọng- Đại đội trưởng, Anh Hoàng- Tiểu đội trưởng,
rồi các bạn cùng nhập ngũ như Trữ, Dung, Ngọ, Xuân…
Tôi ứa nước mắt khi
nghĩ về Cha, chị tôi, các em, dì tôi và Thoa. Tôi biết nơi làng Ngũ Phúc
nhỏ bé nằm bên dòng sông Lam nghìn tuổi, những người thân của tôi cũng có biết
bao nhiêu đêm thao thức. Cha tôi, tuổi đã cao, sức đã yếu, trong những đêm mưa
rét này thường húng hắng ho, ngủ được ít lắm. Việc nhà vẫn luôn đè nặng lên đôi
vai của Cha. Tôi biết Cha quay quắt thương nhớ và lo nghĩ cho tôi nhiều lắm
Tôi xốn xang nghĩ tới
Thoa, người bạn gái yêu dấu, gương mặt tròn, đôi mắt bồ câu đen lay láy, mái
tóc thơm hương bưởi và nụ cười tươi tắn…cứ hiện lên đêm đêm. Tôi đi bộ đội, em
là người tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Vào càng sâu trong chiến trường tôi không
nhận được thư em nữa. Những khi rảnh rỗi tôi lại mang thư của em ra đọc. Mỗi lần
đọc, lại nhớ đến những kỉ niệm êm đềm bên em thủa học trò. Vậy mà lúc gần em,
tôi chẳng bao giờ nghĩ đến tình cảm của em, chỉ khi xa nhau, cách trở như thế
này, tôi mới thấy được những gì chân thành từ trái tim mình dành cho em. Trái
tim tôi vẫn ngân lên lời thủ thỉ của em sao mà đáng yêu đến thế: “Anh yêu!
Năm học gần hết rồi, sao anh lại bỏ em mà đi lúc này. Anh biết không, mấy ngày
nay, em đứng ngồi không yên khi nghe tin anh đi bộ đội..”. Những giây phút
lặng yên hiếm hoi ở mặt trận là người lính chúng tôi nghĩ đến gia đình, người
thân nhiều nhất. Chúng tôi rỉ rả kể cho nhau nghe về miền quê của mình, ai cũng
mong muốn khi đất nước độc lập sẽ được đặt chân đi nhiều nơi, thăm gia đình của
đồng đội mình. Nếu được dẫn mọi người về thăm quê thì tôi sẽ đưa mọi người đi
thăm ngôi nhà Bác và đưa mọi người ra sông Lam hóng mát, nghe những điệu hò êm
ru mà chỉ nơi mảnh đất xứ Nghệ quê tôi mới có. Đồng đội của chúng tôi rất thích
chất giọng ấm áp, dễ làm xiêu lòng những cố gái bâng khuâng, lãng mạn. Tôi cứ
nghĩ tới giây phút mình được ngục đầu vào ngực Cha, được ôm thân hình gầy guộc
và được hít hà mùi mồ hôi quen thuộc của người sau khi cất lên tiếng nói: “Cha
ơi, con đã trở về”, tôi thấy cay cay sống mũi và khát khao thèm muốn đến thế.
Tôi được nắm bàn tay nhỏ bé sạm nắng của chị tôi và không sao cầm nổi nước mắt
khi nhận ra hình bóng của người Mẹ đi xa trong đó. Chị tôi một nắng hai sương
chăm lo cho tôi từng miếng cơm manh áo. Trong gia đình có lẽ chị gái bao giờ
cũng thương em trai hơn cả. Tôi sẽ ngồi và kể cho các em của mình nghe những trận
đánh ác liệt mà tôi đã trải qua, cả khi những đồng đội tôi ngã xuống. Tôi sẽ thắp
cho Mẹ nén hương và báo cáo lại với Mẹ về sự trưởng thành của mình. Và Thoa-
người bạn gái của tôi sẽ vui tươi khi tôi không còn ở nơi xa xôi, em không phải
thấp thỏm đợi chờ lo lắng cho tôi nhiều như trước đây nữa. Tôi đứng trước mặt
em, áo lính khét mùi thuốc súng, gương mặt sạm đen, hốc hác, chắc em cảm động
và thương tôi lắm. Tôi tưởng tượng rằng em sẽ gục đầu vào vai tôi mà quệt nước
mắt, nước mắt của niềm vui, của sự chờ đợi sau bao năm xa cách, của tình yêu em
dành cho tôi. Em nhìn tôi không chớp mắt, xem tôi có bị thương ở những đâu
không. Được ôm em trong vòng tay với những vết chai sạn chiến tranh là hạnh
phúc đối với tôi. Em không nói được lên lời mà chìm ngập trong hạnh phúc vô bờ
khi tôi về bên em. Hai đứa lặng im, trái tim tràn ngập yêu thương. Và sau đó,
tôi và em sẽ cùng thưa chuyện với gia đình về tình yêu và đợi chờ của hai đứa.
Lúc đó, em sẽ không ngại ngần, e ấp, đỏ mặt sợ mọi người trêu như ngày còn đi học.
Chao ôi, nhưng tất cả
hình ảnh ấy chỉ trong tưởng tượng của tôi mà thôi. Tôi đang ở mặt trận giữa những
hố bom, hố pháo xám xịt, khét lẹt mùi thuốc súng, tôi đang đứng gần thần chết.
Chỉ cần một mảnh bom, một viên đạn trúng vào mình thế là tất cả, tất cả sẽ vĩnh
viễn xa rời, sẽ không còn biết gì nữa, sẽ là hư vô như ta chưa bao giờ có mặt
trên cõi đời này. Cách nơi tôi nằm vài ba bước chân là thấy được cả chiến trường
khốc liệt rồi. Tôi khẽ rùng mình, một cơn gió lạnh thổi dọc sống lưng. Những
câu nói thì thào cất lên tự lòng mình: “Thế nào, bây giờ thì mày biết chiến
trường ra sao rồi chứ? Đạn bom tơi bời thế này, liệu mày còn may mắn sống sót để
trở về gặp lại Cha, dì, chị, em Thoa và bà con thân thuộc của mày nữa không,
hay mày sẽ cùng chung số phận với nhiều đồng đội ngã xuống nơi mặt trận đường 9
Khe Sanh này. Tại sao mày lại tình nguyện xin đi bộ đội hả? Tại sao mày lại
tình nguyện chối bỏ cái tương lai đẹp đẽ đang chờ phía trước mày, nói đúng hơn
là đang chạm tới tay mày và cả tình yêu trong trắng của người con gái xinh đẹp
dành cho mày nữa để dấn thân vào chỗ chết chóc máu me này, tại sao một đất nước
tươi đẹp chờ đón mày phía trước, nơi đấy cuộc sống là ăn là học, là vui là
chơi, không phải đối diện lo lắng với gian khổ, chết chóc từng ngày từng phút,
sao mày không biết lựa chọn cho mình…”?...
Thú thực, có những
lúc câu chất vấn kiểu ấy trỗi dậy hành hạ, dằn vặt tôi. Và cũng phải nói thật rằng
không phải không có lúc tôi cảm thấy lung lay sợ hãi. Rồi tôi lại nghĩ về
những lúc Cha im lặng vì sự lựa chọn của tôi.
Vậy, tìm
cách trở về ư? Trở về bằng cách nào? Tuy nhiên khi bình tâm lại, tôi cảm nhận
được Cha tôi, chị tôi, em Thoa, quê hương xóm làng của tôi không ai chấp nhận sự
trở về không chính đáng của tôi như vậy. Tôi biết rõ điều đó, với họ danh dự
còn cao hơn cái chết. Tôi biết Cha sẽ buồn và đau đớn khi tôi đảo ngũ. Dẫu rằng
có thể trở về thì tôi còn tồn tại, không trở về thì ra đi vĩnh viễn, tôi làm
sao còn được gặp lại mọi người. Tôi không muốn tất cả tự hào vì có tôi đi lính
rồi lại hổ thẹn khi tôi đảo ngũ. Nhất là khi cái loa truyền thanh của thôn, của
xóm phát tên tôi, thông báo cho tất cả dân làng nghe thấy, khi đó Cha tôi là
người sẽ đau đớn và tủi hổ nhất. Và Thoa, em sẽ gục đầu xấu hổ, lúc đó em có
còn ở bên tôi và yêu tôi tha thiết nữa không?... Những niềm tự hào, thần tượng
về tôi khi ấy ở trong em chắc sụp đổ tan tành!...
Tôi cân bằng lại
trạng thái tinh thần và bình tĩnh lại, chấp nhận cuộc sống chiến đấu ở chiến
trường. Tôi suy nghĩ như vậy nhưng không dám nói ra với ai, hơn nữa tôi sẽ hổ
thẹn với những đồng đội đang ở bên mình, hổ thẹn với cả những người đã ngã xuống
mà nhiều lần tôi là người đã đưa thi thể họ đi mai táng. Tôi nhận rõ hơn được
cái vầng sáng anh hùng của dân tộc, của đồng đội trong cuộc chiến đấu vô cùng
khốc liệt và gian nan này, từ đó tôi lại yên tâm hơn với sự lựa chọn của
mình. Những chiến công của đơn vị, những thất bại của kẻ địch, rồi các đồng đội
ngã xuống đã tiếp cho tôi thêm cứng cỏi và dũng cảm hơn. Nhất định tôi sẽ chiến
đấu đến cùng nếu quân địch đổ bộ xuống đây. Có lẽ một chân lý mà người lính
ngoài mặt trận đã xác định: “Mình không bắn nó thì nó bắn mình”. Tôi bình thản
trong những suy nghĩ hơn rất nhiều, có lúc nghĩ đến niềm hãnh diện của mọi người
ở quê, Cha tôi đi đâu cũng có người hỏi thăm tin tức của tôi, thầy trò trên lớp
luôn lấy tôi làm gương sáng. Nghĩ đến những điều đó tôi thấy hạnh phúc lắm. Chỉ
có sự nhớ nhung người thân và chờ đợi ngày về là không nguôi ngoai trong tôi.
Người lính, ai chẳng mang theo nhiều nỗi nhớ- tôi tự an ủi lòng mình bằng những
suy nghĩ như thế.
Người lính, thử thách
lớn nhất là chiến đấu. Vượt qua trận đấu là vượt qua được bản thân mình, vượt
qua khó khăn và thử thách. Với người lính cách mạng, sự lựa chọn sống, chết
không phải là sự lựa chọn đầu tiên mà phải là sự lựa chọn đúng- sai, chính
nghĩa- phi nghĩa, tôi nghĩ vậy.
Khi vợi bớt những lăn
tăn của anh lính mới vào chiến trường và đang cùng tiểu đội đại liên do anh
Vương Tử Hoàng chỉ huy chốt chặt trên một quả đồi nhỏ cháy rụi cạnh sông Bến Hải,
thì được lệnh chuyển quân. Tôi nghĩ chắc là hành quân đến địa điểm khác để đánh
địch. Khi hành quân vượt sông Bến Hải thì anh Vương Tử Hoàng cho biết là: Đơn vị
hành quân ra Quảng Bình. Ngày 15 tháng 11 năm 1968, chúng tôi trong đội hình của
trung đoàn được lệnh hành quân ra đó.
Đang quần nhau với giặc
chí tử, bỗng đơn vị nhận được lệnh hành quân ra Bắc. Ôi. Có gì vui hơn vậy nữa.
Mỗi người lính chúng tôi lúc này ai cũng cảm thấy lâng lâng khó tả. Ra Quảng
Bình ư? Thật tuyệt vời. Tôi nghe anh Hoàng phổ biến lần này được ra Quảng Bình,
tuy vẫn là tuyến lửa khu Bốn ác liệt nhưng so với mặt trận đường 9 Khe
Sanh còn đỡ hơn nhiều. Đã lâu rồi, cánh lính bọn tôi sống, chiến đấu trong những
cánh rừng già âm u, ẩm ướt của miền tây Quảng Trị nên ai cũng thèm được ngắm
nhìn bầu trời thoáng đãng của đồng bằng. Bởi thế, ra khỏi rừng, ai cũng ngửa mặt
lên trời, ngắm nhìn cái khoảng không gian bao la muôn thưở như ùa vào lòng mọi
người. May sao, hôm hành quân, thời tiết thật đẹp, đợt mưa dầm dề vừa chấm dứt
hôm qua, nay trời trong xanh vời vợi. Khuôn mặt ai cũng ửng sáng lên, phơi phới,
hăng hái.
Chúng tôi đi
qua những quả đồi lúp xúp, cây sim câu mua xung quanh đường phất phơ trước gió
như chào đón đoàn quân chiến thắng trở về. Ven đường đi là những cánh đồng lỗ
chỗ hố bom lở loét, thưa vắng bóng người. Vết thương chiến tranh do giặc Mỹ để
lại in đậm trên từng thửa ruộng, từng con đường, lối xóm. Đoàn bộ đội hành quân
rung lá nguy trang. Khi đi qua đoạn đường mà thanh niên xung phong đang làm, đột
nhiên tiếng cười nói vui như hội. Có cô gái xung phong ném cả nắm đất lên áo
anh bộ đội, thế là nhiều anh nhặt sỏi ném lại, tiếng cười giòn tan. Càng đi xuống
đồng bằng càng thấy sự ác liệt của chiến tranh phá hoại bằng máy bay của giặc Mỹ.
Những cây cối và nhà cửa bị đánh cháy nham nhở, có nhà bị đốt cháy trụi, còn mấy
cái cột cháy đen thui xiêu vẹo và chẳng còn bóng người. Người lính chúng tôi
nhìn cảnh làng xóm tiêu điều, xơ xác mà xót xa, thương cảm, càng thêm căm phẫn
quân cướp nước. Đi qua con đường mòn nhỏ cheo leo ven núi, đến chiều tối thì
chúng tôi đến nơi tập kết. Đó là xóm Tân Đa, xã Thái Thủy, thuộc huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình.
Tiểu đội tôi được
bố trí ở nhà Bác Hồng. Gia đình bác có ba người con trai vào bộ đội. Tôi nghĩ:
khi đất nước bị xâm lăng có biết bao người ra trận chứ đâu phải chỉ riêng mình.
Thế mà có lúc ở chiến trường gian khổ, ác liệt mình đã phân vân về con đường
mình đã chọn. Những lúc gian nguy, người dân ai cũng hướng về đất nước. Nhà nhà
ra trận, người người ra trận. Chiến trường rộng khắp mọi nơi.
Nhà bác Hồng không lớn,
cũng giản dị như gia đình tôi và những gia đình nông thôn khác. Được gần gũi với
gia đình bác, tôi lại nhớ nhà hơn. Nhà bác chỉ có một chiếc giường và một chiếc
phản, bác nói:
- Các chú cứ chia
nhau ra, một nửa ngủ giường, một nửa ngủ trên phản. Đồng chí Vương Tử Hoàng
nhìn bác Hồng băn khoăn:
- Thôi bác ạ, gia
đình bác cứ ngủ trên giường, trên phản, bọn cháu mắc võng ngủ cũng được. Nghe đồng
chí Hoàng nói vậy, bác Hồng xua tay:
- Không được
mô, ở rừng rú, các chú ngủ võng đã đành, bây chừ vô đây thì các chú cứ nằm giường
cho đỡ mệt mà. Cả làng ni nằm hầm quen rồi. Chiến tranh còn dài mấy chú ạ. Các
chú không phải lo chi cả.
Nghe bác
Hồng nói, chúng tôi mới biết tình cảm gia đình bác dành cho chúng tôi là to lớn.
Biết là khó cưỡng lại được, chúng tôi đành phải tuân lệnh bác Hồng.
Đóng quân trong
nhà bác Hồng, chúng tôi được gia đình quan tâm lo lắng cho từng bát nước chè
xanh, bát canh cua, cà muối. Có hôm tôi sốt rét không ăn được cơm, bác Hồng đã
nấu cháo cho ăn. Vừa bưng bát cháo nóng sốt, bác nói: “Chiến tranh còn dài lắm.
Các con còn phải đi nhiều. Cố gắng ăn khỏe còn có sức chiến đấu. Các con có ở
được mãi nơi đây đâu, được ngày nào ở với bọn bay là tau thấy vui rồi”. Chúng
tôi ai cũng cảm động trước lời nói chất phác, mộc mạc và những gì gia đình bác
đã dành cho.
Tôi chợt nghĩ đến những
người con của bác, không biết các anh có được chăm sóc như chúng tôi không?
Nhưng tôi luôn tự hào rằng, mọi người dân nơi đâu cũng coi bộ đội như con
một nhà, chia sẻ và quan tâm, chăm sóc san sẻ với chúng tôi. Hình ảnh của
bọ gợi tôi nhớ đến tình cảm của bà con chòm xóm hôm đưa tiễn tôi lên đường, cứ
mộc mạc và giản dị vậy thôi mà ấm áp tình thương biết nhường nào.
Ít ngày sau, chúng
tôi được bổ sung thêm quần áo, tăng võng, chăn màn, lương khô và đường sữa.
Quân trang cũ cùng với giấy tờ, sổ sách, thư từ, tiền đồng Việt Nam dân chủ cộng
hòa…được cấp trên cho gửi về nhà. Tôi gửi về tất cả những thứ tổ chức quy định,
chỉ giữ lại một thứ duy nhất là lá thư đầu tiên Thoa gửi cho tôi. Tôi xem đó là
kỉ vật bất ly thân của cuộc đời mình. Hơn nữa, tôi có thể để trong túi áo để đọc
bất cứ lúc nào. Chúng tôi biết mình sắp đi xa, thật xa chứ không còn là anh
lính “Ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam nữa”, trong lòng ai cũng bâng khuâng. Hôm gặp
Trự, sau cái bắt tay là Trự phân bua ngay:
- Cậu biết tin gì
chưa? Này quan trọng lắm nhá. - Trự vừa nói vừa bỉu môi vẻ quan trọng.
Tôi vỗ vai Trự:
- Tin gì vậy?
-Trự đưa tay chém mạnh vào không khí:
- Thuốc là đâu? Đưa
đây tớ điếu rồi sẽ biết tất. Tôi mở bao thuốc lá Trường Sơn mời Trự. Trự rít một
hơi và tiếp tục phân bua:
- Chuyến này đi B dài
đấy. Có yêu ai thì yêu đi, kẻo vào đó lại mất cơ hội. Trự lúc nào cũng đùa. Tôi
cũng đoán được qua việc cấp phát bổ sung quân tư trang và nhất là việc gửi các
vật phẩm về gia đình. Như vậy đi B dài là cái chắc rồi.
Trong thời
gian ở đây, chúng tôi vừa học tập chính trị vừa huấn luyện quân sự. Tối về lại
viết thư cho gia đình. Dạo này tạm ngừng bắn nên đèn đóm cũng thoải mái hơn.
Kèm theo những hiện vật gửi về gia đình là những bức thư mới viết của chúng
tôi. Ai cũng tranh thủ ghi vài dòng thư cho gia đình, dù ít dù nhiều, có cậu vừa
viết thư cho gia đình, cho người yêu mà nước mắt đã ướt nhòe.
Tôi ngồi
viết thư gửi gia đình vì biết mọi người cũng rất mong ngóng và chờ đợi thư tôi.
Một mình tôi đi lính nhưng ở nhà có biết bao nhiêu người chờ đợi và nhắc đến
tôi, mọi người chắc cũng mong thư tôi nhiều lắm.
“Cha và các anh chị, em yêu
quý! Con được ra Quảng Bình củng cố mấy ngày rồi lại lên đường vào Nam. Lần này
là đi B dài, B dài thật sự, Cha ạ. Thời gian trước đây, con mới đi B ngắn: Ăn
cơm Bắc, đánh giặc Nam, chỉ là khởi đầu của mọi khó khăn thôi. Con gửi về cho
Cha và các chị, em một số thứ tư trang mà theo qui định không được mang theo. Lần
này chúng con sẽ vượt Trường Sơn vào Tây Nguyên chiến đấu đấy Cha a. Chúng con
đang học tập và an dưỡng ở tỉnh Quảng Bình. Chúng con được ở trong nhà dân.
Chúng con được các bố, mẹ ở đây rất quan tâm, chăm sóc như con trong gia
đình. Cha và các chị cứ yên tâm, đừng lo lắng cho con nhiều. Cha, chị và
các em ở nhà nhớ giữ gìn sức khỏe thật tốt và chú ý phòng không nhé. Anh em
chúng con ở trong đơn vị yêu thương và đùm bọc nhau lắm. Có ai ra ngoài đó,
chúng con đều tranh thủ nhắn nhủ hỏi thăm, nhất là khi có người từ ngoài đó
vào, chúng con đều hỏi thăm về tình hình ở quê mình. Cha ơi, chiến tranh
còn ác liệt và chắc chắn sẽ kéo dài, không như khi còn ở nhà, lúc đó con đã nói
với Cha là chỉ đi bộ đội mấy tháng thôi rồi sẽ về tiếp tục học. Con rất nhớ nhà
và lo lắng cho Cha, thời tiết thỉnh thoảng hay trái nắng trở trời, Cha ở nhà giữ
gìn sức khỏe, đừng buồn và chờ đợi con về, Cha nhé, nhất định con sẽ trở về bên
Cha…”. Viết xong thư, tôi thấy nhớ Cha, nhớ nhà và nhớ tất cả.
Thư tôi viết cho Thoa:
“Em yêu quí ơi. Lâu lắm rồi
chẳng nhận được tin em. Hành quân vào đến Quảng Trị là vào choảng nhau với lính
Mỹ ngay em a. Cũng thật may, lúc choảng nhau anh vẫn bình an. Cơm nước không đủ,
huống hồ bút giấy. Thế mà lúc nào đứng gác, anh vẫn nhìn về quê để nhớ em. Ôi.
Sao lại nhớ em đến thế. Hiện nay anh đang củng cố ở Quảng Bình để chuẩn bị đi
xa, đi xa hơn nữa em yêu à. Đến bây giờ anh mới biết các chiến sĩ ở ngoài mặt
trận phải chịu đựng gian khổ và ác liệt biết nhường nào và sức chịu đựng của
các anh không gì sánh nổi. Mọi cái đều không đơn giản như trước đây anh em mình
thường nghĩ mỗi khi tranh luận về cuộc chiến đấu. Thực tế đều nằm ngoài sức tưởng
tượng của anh và em. Nói thật với em yêu, trong bom đạn các liệt, có lúc anh tỏ
ra mềm yếu. Nếu như anh ở nhà thì được gần bên em, em cũng không phải lo lắng
cho anh nhiều, chúng mình không phải cách xa nhau như thế này, hơn nữa anh lại
được đi học ở nước ngoài... Lúc đầu, anh thất vọng và yếu đuối nhưng bây
giờ thì khác rồi, chính sự hi sinh dũng cảm của đồng đội và tấm lòng của nhân
dân tuyến lửa Quảng Bình đã giúp anh vững vàng lên rất nhiều. Tất cả mọi người
cùng hứa với nhau, ngoắc tay nhau thề cùng nhau chia sẻ, cùng nhau chịu đựng, đồng
đội cũng đã tiếp thêm nghị lực cho anh để sống và chiến đấu. Em ở nhà cứ yên
tâm nhé, anh sẽ sống và chiến đấu xứng đáng với tình cảm em đã dành cho anh.
Anh biết dạo này em đang vất
vả với đèn sách. Cố gắng lên em yêu nhé và nhớ học cho cả phần anh nữa đấy. Lớp
học của anh, của em có gì thay đổi không, em nhớ kể cho anh biết tin với nhé.
Em ở nhà giữ gìn sức khỏe, chăm học và giúp đỡ gia đình nhưng đi lại cũng phải
cẩn thận nhé, chiến tranh còn kéo dài, chẳng biết ra làm sao, em phải hết sức cẩn
thận em yêu nhé.
Em ơi, sắp tới anh
càng xa em hơn và thời gian chúng mình được gặp nhau chắc phải chờ đợi lâu lắm
đấy, chắc em buồn và nhớ anh lắm đúng không? Anh cũng vậy, anh rất nhớ em, chỉ
mong cho cuộc chiến kết thúc càng sớm càng tốt để anh trở về bên em, để được em
chạy ào ra đón anh trong nụ cười vui ấm áp, với đôi mắt đẹp nhìn anh rưng rưng.
Anh chỉ biết cầu nguyện những điều tốt lành cho em và cho cả hai chúng ta. Ao ước
lớn nhất anh hằng ấp ủ là đất nước sớm chấm dứt chiến tranh, hai miền thống nhất
để anh được trở về với em…”
Thực
lòng, tôi muốn tâm sự với Thoa nhiều điều thầm kín, kể cả nói cho em biết sự hi
sinh của người lính ở mặt trận có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tôi còn giấu em
cái linh cảm mình có thể ra đi mãi mãi, không bao giờ trở về quê hương và những
người yêu dấu như bao đồng đội khác, nhưng tôi không muốn nỗi buồn ấy dày xéo
trái tim em, tôi không muốn em ở nhà phải lo lắng phiền muộn vì tôi. Tôi không
muốn em nước mắt ngắn dài chờ đợi về tôi, bởi vậy mà tôi tạo sự lạc quan khi viết
thư cho em. Tôi muốn đánh thức ở em niềm tin vào sự trở về của tôi, sự tế nhị của
tôi lúc này là thực sự cần thiết đối với cuộc sống của em dù biết rằng điều khủng
khiếp ấy có thể xảy ra lắm chứ. Nhưng tôi nghĩ, em là cô gái mới lớn, còn vô tư
và trong trẻo biết bao, đừng phủ những đám mây đen lên khoảng trời đầy sắc nắng
trong trái tim em. Bởi thế, tôi mới chỉ viết cho em được ngần ấy điều chung
chung như vậy.
Đây là lá thư đầu
tiên tôi viết gửi về gia đình và cho Thoa sau khi rời nơi huấn luyện để vào chiến
trường. Đi xa nhà rồi, không biết tôi có còn nhận được thư em nữa không. Một lá
thư đến nơi phải qua tay biết bao người. Lá thư là niềm vui và hạnh phúc nhất đối
với người lính. Cầm lá thư trên tay, lính chúng tôi còn chụm đầu vào cùng đọc
cho nhau nghe. Dường như cậu nào có người yêu là chúng tôi đều biết tỏng, khi đọc
thư thường giấu diếm, sợ chúng tôi trêu và lấy mất. Chúng tôi còn biết tên người
yêu của các bạn, những câu chuyện kể và nhớ về người yêu mình, anh em lính bồi
hồi lắm. Chúng tôi coi nhau như anh em rồi khi có việc gấp gáp còn báo cho gia
đình và người yêu biết nữa chứ. Lá thư của Thoa gửi cho tôi mặc dù lúc nào tôi
cũng cất trong túi áo ngực để một mình mình đọc nhưng chuyện giữa tôi và em thì
cả đơn vị đều biết. Thậm chí, mọi người đều nhớ đến tên em dù chưa một lần gặp
mặt. Trong túi áo tôi, tiếc rằng không có bức hình của em để cho mọi người xem.
Tôi thao thức bồi hồi khi gấp lá thư của mình cho vào bao ni lông cẩn thận.
Viết thư gửi em, rồi
mong ngày, mong đêm cho những lời tâm sự trong lá thư của tôi nhanh đến được với
gia đình và với em. Trong những năm tháng chiến tranh, đường sá đi lại trắc trở
vô cùng, người hậu phương, người tiền tuyến nhận được thư nhau mừng lắm. Đây là
lần đầu tiên tôi xa gia đình, lại là lần đầu tiên xa em, tôi mới thấy hết được
giá trị lớn lao của những tin nhà. Tất cả chỉ qua những dòng chữ mà nói lên biết
bao điều. Nhận được thư mà như gặp được người, những dòng chữ viết vội vàng
trên tờ giấy mỏng chứa đựng bao nhiêu thương nhớ, lo lắng, buồn vui. Những
trang thư lúc đó cũng làm cho những người lính chúng tôi phấn chấn hơn hẳn khi
xa gia đình, mặc dù biết chặng đường đi đã xa lắm rồi nhưng cứ ngỡ như gần đâu
đây. Những lá thư đến được tay người nhận phải vượt qua muôn trùng bom đạn, nắng
mưa, băng qua những chặng đường đầy những vết tích chiến tranh, thấm đẫm mồ
hôi, vất vả và nhiều khi là máu của những người chiến sĩ quân bưu nữa.
Những ngày ở Thái Thủy
là thời gian bận rộn của chúng tôi. Ngoài việc chuẩn bị quân trang, quân dụng,
học tập chính trị, chúng tôi khẩn trương huấn luyện thêm kĩ thuật bắn máy bay,
bắn bộ binh và các chiến thuật đánh vận động, đánh vây lấn. Để chuẩn bị cho cuộc
hành quân đi B dài sắp tới, tôi được phân công vác càng súng đại liên Cô-bi-nốp.
Cộng với ba lô, ruột tượng gạo và các thứ lặt vặt khác nặng chừng từ 45 đến 50
cân. Lúc này tôi cũng chỉ cân nặng khoảng 50kg. Tuổi trẻ, sức dài vai rộng
nhưng gùi được từng ấy cân để trèo đèo, lội suối vượt qua trăm đỉnh Trường Sơn
không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều anh lính cựu binh nói với chúng tôi rằng,
có lúc leo núi mệt quá, những thứ gì chưa thực sự cần thiết đều muốn quẳng đi
cho nhẹ. Tôi cũng lo thế, nên tranh thủ thời gian rèn luyện thể lực. Tập nhiều
nên ăn cũng khỏe mà ngủ cũng ngon. Đêm đêm, sau khi điểm danh xong, đặt lưng xuống
phản là ngáy pho pho. Chỗ nào có thể ngủ là chúng tôi tranh thủ chợp mắt cho bõ
những ngày ở trận địa.
Thế mà tại sao đêm nay, tôi
cứ trằn trọc hoài không sao ngủ được? Tôi lại nghĩ và nhớ đến mọi người ở quê.
Trong người bồn chồn lắm. Hết nghĩ đến người thân lại nhớ và nghĩ tới bạn bè và
những người hàng xóm. Có lúc cựa mình, tôi lại ngó nhìn những anh bạn quanh
tôi, mọi người đều ngủ ngon giấc. Mỗi người một tư thế, chẳng có ai cựa mình
không ngủ được như tôi cả, cũng chẳng phải lạ nhà. Mãi tới khi tiếng gà trong
thôn lác đác gáy, tôi mới chợp mắt được. Đang chìm trong giấc ngủ thì Cha tôi tới
thăm. Chẳng biết Cha đến đây từ lúc nào và bằng cách nào. Cha đang đứng bên cạnh
chiếc phản nhìn tôi âu yếm. Cha nhìn tôi lặng im không nói gì, hình như trên mặt
người có mấy giọt nước mắt còn đọng lại: “Cha ơi, tại sao Cha lại khóc?”- Tôi hỏi.
Cha vẫn lặng im nhìn tôi như ban nãy. Nhìn Cha tội nghiệp quá. Có phải Cha nhớ
và lo cho con lắm không? Tôi ôm chặt Cha vào lòng. Cha gầy đi nhiều so với hồi
tôi còn ở nhà. Tôi thấy rõ từng nếp nhăn trên khuôn mặt Cha. Có phải vì lo lắng
cho tôi mà Cha gầy yếu đi và thêm nhiều nếp nhăn như vậy không? Cha không phải
lo lắng cho con nhiều đâu, ở nơi đây chúng con đều yêu thương, động viên, giúp
đỡ nhau nên cũng đỡ nhớ nhà, anh em chúng con cũng thường động viên nhau và
nghĩ ra nhiều trò để xua tan những nỗi nhớ trong tâm khảm mọi người, để mọi người
lạc quan trong mỗi trận chiến.… Cha mặc áo nâu chàm đã sờn nhẵn và bạc đi vì nắng
gió. Chiếc áo Cha mặc rất lâu rồi. Tôi lại nhớ đến mùi mồ hôi chát mặn của Cha
mà lúc ở nhà tôi đã hít hà mùi đó. Tôi định lấy tấm chăn bộ đội màu cỏ úa khoác
vào cho Cha thì ông xua tay ra hiệu không cần. Cha chỉ lẳng lặng nhìn tôi một
cách thương yêu, cái nhìn của Cha với tôi thật bao la, ấm áp. Nhưng Cha chẳng
nói gì. Lạ quá, Cha ơi, tại sao đến thăm con mà Cha không nói với con một câu
nào? Hay là con đã làm điều gì đó sai trái khiến Cha phật lòng? Tôi định hỏi
Cha câu ấy, kì lạ thay, hình bóng Cha tôi mờ dần, mờ dần rồi khuất hẳn…
Tôi giật mình choàng tỉnh,
mới biết là mình mơ. Nhìn lại cái phản tôi đang nằm, chỉ có tôi và mấy anh bạn,
ngoài trời vẫn nhá nhem chưa thể nhìn rõ bóng người, tôi căng mắt nhìn xem có
Cha ở ngoài đó thật không, nhưng biết đúng là mình đang mơ thật rồi, Cha làm
sao lại hiện hữu trước mặt tôi lúc này được. Tôi đang ở xa nhà lắm mà.
Trong cuộc đời
mình, có biết bao giấc mơ lành giữ nhưng chỉ có giấc mơ này là ám ảnh tôi mãi.
Tôi tỉnh dậy mà trong lòng day dứt, nhớ Cha vô cùng. Giấc mơ đêm ấy cứ làm tôi
lo lắng một điều gì đó về Cha đến khó tả. Tôi không bao giờ quên được giấc mơ
đêm ấy cũng như trong tâm can mình luôn mang hình bóng người Cha kính
yêu. Tôi nghĩ về Cha nhiều hơn. Không biết ở nhà có chuyện gì không? Hay là có
chuyện gì xảy ra mà gia đình giấu không cho tôi biết vì sợ tôi suy nghĩ ảnh hưởng
đến sức khỏe. Tôi ở nơi này, biết hỏi ai bây giờ, con đường xa nghìn trùng. Tôi
thấy hoang mang, đứng ngồi không yên, trong người cứ bồn chồn. Người ta bảo
“sinh dữ, tử lành” nhưng tôi vẫn cứ bị ám ảnh. Tôi đem chuyện kể cho Trự, Dung,
Xuân và Ngọ cùng nghe, ai cũng bảo vì tôi nhớ nhà, thương Cha quá nên mê mẩn ra
thế.
Mấy hôm sau, tôi nhận được
thư Thoa. Cầm lá thư của em trên tay, tôi ngỡ như mình đang mơ. Tôi hồi hộp
trong lòng và nhanh chóng bóc thư đọc. Lâu lắm rồi tôi mới nhận được thư em, mà
chiếc phong bì thư dày dặn thế này chắc là em tâm sự với tôi nhiều lắm. Có phải
ở nhà rất nhiều chuyện mà em muốn kể cho tôi nghe hết thảy không? Có phải vì
tôi chuẩn bị vào chiến trường xa hơn nên em viết thật nhiều hơn? Có lẽ em nhận
được thư tôi rồi vội vàng hồi âm vì sợ tôi chờ đợi? Thoa ơi, thế là đường dây
liên hệ giữa anh và em bấy lâu nay được nối lại rồi. Em có biết là anh mong
ngóng thư em từng ngày một không? Anh sốt ruột và mong tin em vô cùng. Trong
thư em nói với anh gì đây? Chắc có rất nhiều chuyện mà em sẽ kể cho anh nghe, từ
việc tình cảm chúng mình, việc học của lớp, rồi việc gia đình...Cầu trời, đừng
có chuyện gì buồn cả, tôi hồi hộp bóc thư ra. Những dòng chữ quen thuộc của em
hiện ra trước mắt tôi:
“Anh thương yêu của
em! Em đang học bài thì nhận được thư anh. Em vội vàng chạy ra nhận thư, em biết
chỉ có thư của anh gửi cho em mà thôi. Ôi chẳng có gì vui hơn đối với em lúc
này là được đọc thư anh. Anh có biết là em mong ngóng và chờ đợi thư anh rất
lâu rồi không? Anh ơi, em đã viết cho anh rất nhiều thư, tuần nào em cũng viết
và đều gửi cùng địa chỉ cũ của anh, chẳng biết anh có nhận được thư của em không
mà không thấy trả lời em. Những lúc không nhận được thư anh, em cứ lo lắng
nghĩ về điều gì đó đã xảy ra với anh. Hôm nay, em vui lắm.”
Đọc đến đây tôi thấy hối
hận với em. Thôi chết rồi. Địa chỉ cũ vẫn là nơi huấn luyện ở Nghĩa Đàn. Từ khi
vào đây, theo các anh vào trước, nếu có địa chỉ cũng không nhận thư được. Do vậy
mình có cho em địa chỉ đâu. Mình thật có lỗi với em. Tôi tiếp tục đọc thư em: “Thư
nào em cũng kể cho anh nghe mọi việc ở nhà, chuyện gia đình anh, gia đình em và
cả lớp học nữa, mọi người đều lo lắng và nhờ em viết thư hỏi thăm anh nữa đấy.
Rồi cả thầy giáo cũng hỏi thăm anh đều đặn, thầy rất nhớ anh. Nhất là những lúc
tranh thủ sang thăm nhà anh. Bác trai dạo này cũng hay ho húng hắng, nhưng khi
nói chuyện về anh thì bác nói rất say sưa. Nào là anh rất sát cá. Đi kéo vó hoặc
thả lưới lúc nào cũng được nhiều. Còn chị gái anh thì hễ nhắc đến anh là
khóc. Chị thương anh lắm. Chị bảo, mồ côi mẹ từ lúc còn nhỏ mà anh rất ngoan,
chăm học, chăm làm, gặp ai cũng chào hỏi, lễ phép. Còn các em của anh thật đáng
yêu. Mỗi khi em sang là chúng nó cứ nhảy lên đòi em bế cứ như em là người nhà của
anh vậy. Nhưng có lẽ khi thư em đến nơi thì anh lại hành quân chuyển đơn vị nên
anh không nhận được thư em rồi. Tiếc quá! Nhưng em không nản lòng viết thư cho
anh đâu. Em vẫn kiên trì viết và quyết tâm viết đến lúc nào em nhận được thư
anh thì em mới thực sự yên lòng. Có hôm sốt ruột quá, em sang nhà anh
chơi hỏi thăm chị anh xem có nhận được tin tức gì của anh không, nhưng chị anh
bảo không thấy anh gửi thư như trước nữa. Chị thấy em lo lắng nên động viên em
đừng lo nghĩ quá, anh còn bận hành quân và chiến đấu. Rồi chị còn kể dạo này
trong xã có báo tử liên tục. Nhưng số thằng Biểu nó cao nên cũng đỡ lo. Em biết
chị anh nói vậy để em đỡ buồn thôi, chứ nhìn vào đôi mắt rưng rưng lệ ấy thấy
chị rất lo cho anh.
Anh yêu ơi. Nam
Đàn mình dạo này máy bay bắn phá ác liệt lắm anh ạ. Trường cấp 3 của chúng mình
đã phải sơ tán lên Nghĩa Đàn học. Em phải đi học xa và vất vả hơn nhưng em sẽ cố
gắng, em sẽ học, mai này còn trở thành cô giáo nữa anh nhỉ? Anh vào chiến trường
còn vất vả nhiều hơn thế đúng không? Mặc dù ở rất xa nhau nhưng mình cùng nhau
phấn đấu anh nhé. Càng xa anh, em càng phải phấn đấu hơn nhiều. Anh là tấm
gương để em học tập noi theo. Nơi chúng em học cũng rất gần nơi anh huấn luyện
nhưng thật buồn là khi chúng em lên Nghĩa Đàn thì cũng là lúc anh hành quân đi
B rồi. Nhiều hôm em đi học mà mắt cứ hướng về nơi bộ đội đang huấn luyện, với
hy vọng mong manh được nhìn thấy hình bóng anh. Nhưng nhìn mãi, nhìn hoài mà chẳng
thấy anh đâu cả. Vì nhớ anh quá mới có ước mong vậy mà thôi. Chứ em biết lúc
này anh đã ở một nơi xa tít tắp mà em không thể đếm thêm từng cây số được. Đêm
đêm, em nằm ngủ mà em vẫn cứ hướng về phía chân trời phía nam mờ xa, cầu nguyện
cho anh vượt qua nỗi khó khăn, ác liệt đang từng ngày, từng giờ canh cánh bên
anh. Nghĩ đến đây, em rùng mình và thương cho anh quá. Khi nghe anh kể về nỗi vất
vả, những gian khó của người lính em đã bật khóc và mong cho chiến tranh chóng
kết thúc để anh sớm về với em, để cho muôn nhà đoàn tụ. Bây giờ có ai hỏi em,
điều ước gì lớn nhất? Chắc chắn em sẽ trả lời không chút ngần ngại là anh được
về bên em. Anh biết không, trong lớp ta cùng đi bộ đội với anh đã có gia đình
nhận được giấy báo tử của Anh Việt, anh Nam và anh Lệ rồi. Anh phải hết sức cẩn
thận đấy anh nhé. Mỗi một lần nghe tin báo tử, em lại lạnh người, con tim nhói
đau. Bà con làng xóm quê mình ai cũng buồn thương cho những người con trai, vừa
mới ra chiến trường được thời gian đã hi sinh khi tuổi đời còn quá trẻ. Trong
những lúc đó, em bàng hoàng lo nghĩ, có nhiều đêm em không sao chợp mắt nổi, rồi
có lúc em khóc vì chợt nghĩ một ngày nào đó, anh phải hy sinh, cuộc sống của em
không có anh thì em sống bằng cách nào. Có hôm về thăm mẹ, em có kể nhiều về
anh. Mẹ phải động viên em rất nhiều và không cho em nghĩ nhiều đến điều rủi ro ấy
nữa. Mẹ bảo em biết thương và lo cho anh là tốt nhưng không được nghĩ nhiều, phải
để cho anh yên tâm chiến đấu. Nghe lời mẹ, em gạt nước mắt mà lòng không hết nỗi
nhớ anh. Anh ơi, em định không báo tin buồn cho anh nhưng…
Trời ơi. Sao lại thế
này, tôi như không tin vào mắt mình nữa. Mắt tôi bổng nhạt nhòa. Tôi cố đọc
nhanh: “... nhưng nếu không báo thì không được, mà khi nghe em báo tin thì
anh nên giữ bình tĩnh nhé. Em biết anh là con người có nghị lực mà. Cha anh bị bom
mất lúc 1 giờ chiều ngày 9 tháng 9 năm 1968. Em viết thư báo tin cho anh mấy lá
rồi mà không thấy anh trả lời…
Tim tôi bổng nhói lên
đau đớn. Mình có đọc nhầm không? Chuyện Cha anh đã xảy ra rồi, không còn nỗi
đau nào hơn nỗi đau mất đi người Cha yêu dấu của mình, anh rất yêu thương Cha,
Mẹ mà Mẹ lại mất từ khi anh còn nhỏ nên em rất thương anh, anh buồn nhưng cố gắng
vượt qua anh nhé. Anh nhớ nghe em, anh nhé, em rất lo anh sa sút sức khỏe, ảnh
hưởng đến tâm lý và tinh thần chiến đấu”!.
Đọc đến đây tôi
nghe như có tiếng sét đánh ngang tai, cơ thể mất hết cảm giác. Một tiếng kêu
“Cha ơi” bật lên ai oán, nước mắt tôi dàn dụa. Tôi nằm vật xuống phản, khóc nức
nở không cần giữ ý giữ tứ gì nữa cả. “Cha ơi, sao Cha lại bỏ con ra đi, con vẫn
chưa về thăm Cha được cơ mà, Cha có tội tình gì mà máy bay Mỹ giết Cha. Bây giờ
còn có ai bên con, Mẹ đã mất rồi, Cha lại ra đi…chị em chúng con yêu quý Cha
nhiều thì lại càng đau xót bấy nhiêu khi cha không ở lại với chị em con. Cuộc đời
chúng con còn nhiều khó khăn lắm, chị em chúng con biết trông cậy vào ai?...
Nghe tôi
khóc, tất cả anh em trong tiểu đội chạy ùa đến bên tôi, cầm thư của Thoa đọc.
Anh em ôm lấy tôi, gục đầu thương xót. Tất cả mọi người đều buồn và không cầm
được được nước mắt. Anh Hoàng ngồi cạnh làm chỗ dựa cho tôi. Anh cũng khóc nức
nở. Tôi chẳng còn biết trời đất xung quanh ra sao nữa, nước mắt dàn dụa chảy.
Tôi nghe tiếng Trự, Ngọ, Xuân, Loan và Dung bên cạnh. Tôi cũng chẳng mở mắt, cứ
nhắm tịt mà khóc. Có ai đó sụt sùi và lau nước mặt cho tôi. Tôi mở mắt ra mới
biết là Dung. Còn Trự đang quạt mát cho tôi. Ai cũng xót xa và tìm lời an ủi,
chia sẻ động viên tôi. Có người đọc thư xong, nước mắt cứ tràn ra, giống như
tôi vậy. Cả người tôi tê dại, cảm giác cô đơn hơn bao giờ hết, tôi như đứa trẻ
bơ vơ, không còn ai để nương tựa trước dòng đời. Cha đã mất rồi mà tôi vẫn ở
đây, hôm nay tôi mới biết tin. Cha đã đi được bao nhiêu ngày rồi mà con không hề
biết. Cách đây mấy hôm, con nằm ngủ mơ thấy Cha về. Linh hồn Cha hiện về báo điềm
cho con mà con không hề biết. Cha nhìn con âu yếm rồi lặng lẽ ra đi. Cha ơi, có
phải Cha đi khi chúng con đang quần nhau với giặc? Cha ơi, lúc con đi chiến trường
Cha luôn luôn lo lắng cho con, thế mà con ở chiến trường không sao, Cha ở hậu
phương lại bị chúng giết chết. Con mong chiến tranh nhanh chóng kết thúc, được
trở về bên Cha và gia đình yêu dấu của mình, điều ấy vẫn chưa thành thì Cha đã
bỏ con đi. Mẹ con đã đi xa rồi, sao Cha không ở lại với chị em con?
Tôi muốn gào lên thật
to cho trời đất thấu tỏ nỗi đau thương bất ngờ này, nhưng cổ cứ nghẹn lại.
Trong cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ khóc với nỗi đau như thế. Tôi đã mồ côi Mẹ
khi còn nhỏ, nay lại mất Cha. Thằng Mỹ thật độc ác. Nó từ đâu đến, mang bom đạn
dội xuống làng tôi và giết hại nhiều người dân lương thiện như Cha tôi. Cha tôi
có làm nên tội tình gì đâu mà khổ như thế này?
Cha tôi, một người
nông dân bình thường, suốt cuộc đời gắn bó với đất đai đồng ruộng để làm ra hạt
lúa, củ khoai, nuôi con cái lớn khôn. Đời Cha tôi đã chịu đựng biết bao vất vả,
rủi ro, cay đắng và nhọc nhằn. Mẹ tôi mất sớm, gánh nặng gia đình đè nặng lên
vai Cha tôi. Không nói ra chắc ai cũng thấu hiểu cảnh gà trống nuôi con, cực nhọc,
cô quạnh, chật vật như thế nào. Khi tôi lên sáu tuổi, Cha tôi đi thêm bước nữa.
Mẹ kế của tôi là một người đôn hậu, hiền lành, tốt bụng, cảm thông với hoàn cảnh
của Cha tôi. Mẹ thương chị em tôi như đã từng chín tháng mười ngày mang nặng đẻ
đau. Mẹ cùng với Cha chịu khó làm lụng chắt chiu từng lon gạo, đồng tiền nuôi
con ăn học từ lớp một đến gần hết lớp mười cho tới khi tôi đi bộ đội. Bởi thế
nên dân làng Ngũ Phúc ai cũng bảo hiếm có người mẹ kế nào tốt như dì tôi. Chị
em tôi cũng yêu quí dì hơn. Nhưng trời lại bắt Cha tôi phải chịu thêm một tai họa
nữa: mẹ kế tôi sau khi sinh đứa con đầu tiên (em của tôi) thì bị mắc phải bệnh
điên. Bệnh của dì ngày một nặng, hãi hùng hơn là dùng gậy, dao đánh người,
không phân biệt thân sơ. Cha tôi lại thêm một nỗi buồn về gia đình mà không thể
bỏ mặc mọi thứ. Thời gian Cha lo cho gia đình nhiều hơn, nhất là khi em tôi còn
nhỏ, tôi cũng chẳng giúp được việc gì cho Cha vì ngày đó tôi còn bé. Tôi nhìn
thấy nỗi buồn hiện lên trên khuôn mặt Cha hàng ngày, nhất là khi Cha tôi chăm
chút cho mẹ, cho chị em chúng tôi. Cha giấu nỗi buồn không cho chị em tôi nhìn
thấy. Tôi thương Cha lắm mà không biết làm gì hơn. Một người sinh ra như Cha
tôi dường như chỉ sống mãi với nỗi khổ và sự cô đơn, chưa bao giờ được nghỉ
ngơi. Mỗi lần mẹ kế tôi lên cơn điên thường kéo dài hai tuần. Hai tuần ấy là thời
gian khốn khổ, vất vả của Cha và của cả chị em tôi. Nghĩ lại mà thương Cha quá.
Mỗi lần dì lâm bệnh là Cha gầy rộc người, mắt mũi trũng sâu, nếp nhăn ngày càng
dày trên khuôn mặt. Mỗi năm, mẹ kế tôi lên cơn đau từ ba đến bốn lần như thế.
Có ai muốn sự tình đó xảy ra với gia đình tôi đâu, mỗi lần nhìn những lúc dì
lên cơn mà tôi cũng không cầm nổi nước mắt. Lúc đầu tôi thấy lo sợ nhiều, nhưng
về sau tôi hiểu được bệnh tình của dì, tôi thương dì lắm. Dẫu rằng tình thương
đó tôi có nói, dì cũng không thể biết và hiểu được. Thương Cha, thương dì mà suốt
cuộc đời tôi chưa làm được gì cho họ. Tất cả chỉ là trong suy nghĩ. Rồi còn bao
nhiêu những dự định nữa, tôi vẫn chỉ là thằng con trai kém cỏi như thế này…
Nay Cha tôi đã mất,
còn lại dì cô đơn với căn bệnh quái ác, chị tôi chăm dì cũng không thể bằng sự
ân cần mà Cha tôi dành cho dì. Mỗi lần dì lên cơn, ai sẽ trông giữ dì. Dì cũng
buồn lắm đúng không? Nỗi buồn chắc cũng không cất lên thành lời, chỉ có bong
dáng Cha là dì mãi mãi không còn nhìn thấy trong ngôi nhà. Một cảm giác trống
trải, bơ vơ vô cùng bủa vây tôi. Nhà tôi hoàn cảnh đã khó khăn, nay lại càng
khó khăn chồng chất. Tất cả sẽ dồn xuống vai chị tôi, cái gánh nặng gia đình
đang ngày càng trĩu xuống. Càng nghĩ, tôi càng lo lắng cho chị muôn phần.
Suốt cuộc đời con gái mà chị chẳng được vui sướng một ngày. Suốt ngày theo Cha,
theo Mẹ còng lưng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Giọt nước mắt thương chị
chảy dài trên gò má tôi. Tôi cũng tự trách mình chẳng làm được điều gì giúp cho
chị đỡ khổ. Rồi có lúc lo lắng quá, tôi lại nghĩ đến cuộc đời hiu quạnh của chị
khi tôi không còn trở về gặp lại chị, khi ấy chị là người vất vả và khổ hạnh nhất.
Còn tôi, dù rằng chẳng giúp gì được cho chị nhưng sự hiện diện của tôi có lẽ vẫn
làm cho cuộc đời chị vơi bớt quạnh hiu. Chị là trụ cột nuôi cả gia đình tôi lúc
này. Ngày qua ngày, công việc chẳng khi nào để làm chị an nhàn thảnh thơi.
Từ cảnh ngộ gia đình,
tôi chợt nhận ra một điều thử thách lớn nhất của những người lính như tôi phải
chịu đựng, phải vượt qua đâu chỉ có bom đạn tàn bạo của kẻ thù nơi mặt trận mà
là nỗi khó khăn mất mát to lớn của hậu phương, của gia đình mình. Những ngày đầu
nhận được tin dữ về Cha, hầu như tôi không làm gì được cả, mọi việc đều do
Dung, Loan, Trự, Ngọ, mấy thằng bạn nối khố cùng học cấp ba, cùng đi bộ đội một
đợt lo liệu. Anh em trong tiểu đội thì cho tôi nghỉ tập. Mấy ngày nay, với hoàn
cảnh éo le nên mọi người động viên tôi. Tuy vậy, tôi thực sự bị suy sụp về tinh
thần, hình ảnh người Cha hiền lành bị bom giặc giết chết, căn bệnh điên của mẹ
kế và gánh nặng gia đình đặt lên vai chị, tôi luôn bị ám ảnh bởi hoàn cảnh quá
bi đát. Nhiều lần tôi tự hỏi: Tại sao gia đình và tôi lại phải chịu nhiều sự rủi
ro đến thế này? Và chị tôi sinh ra sao phải chịu nhiều thiệt thòi và vất vả về
gia đình đến vậy? Có lúc trong sự buồn tủi, chán chường tôi thầm nghĩ: không biết
mình có chịu đựng nổi những đau khổ này và đủ sức hành quân vượt Trường Sơn
cùng đơn vị vào chiến trường xa không? Nỗi đau đó cả đời tôi cũng không vợi hết.
Tôi muốn trở về gia đình để thắp cho Cha nén hương, để san sẻ, giúp chị tôi
gánh vác công việc gia đình. Lúc này chị rất cần tôi bên cạnh, một mình chị,
chân yếu tay mềm.
Nhìn chiếc ba lô con
cóc căng phồng, chiếc càng đại liên Cô-bi-nốp nặng trịch, tôi càng cảm thấy mệt
mỏi vô cùng. Kiểu này thì không thể theo kịp chúng bạn hành quân vượt núi cao,
vực sâu được. Làm gì cũng thấy buồn chán khi nghĩ rằng mình trở về nhà không
còn Cha. Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu ước ao về với Cha sau chiến tranh thế là
tan theo mây khói. Với tâm trạng buồn đau nặng nề, u uất, tôi quyết tâm về thăm
gia đình chịu tang Cha cho trọn hiếu làm con. Đã mấy lần tôi lên xin phép chỉ
huy về quê thắp hương cho Cha nhưng đều bị từ chối. Lý do thật đơn giản là ngày
lên đường đi chiến trường đã quá gần nên đơn vị không thể giải quyết được. Tôi
càng buồn hơn. Một bên là sự đáp hiếu với Cha, một bên là nhiệm vụ cần kíp của
người lính. Và tất nhiên, nhiệm vụ của người lính phải đặt lên hàng đầu. Tôi
tính, nếu đơn vị không cho về thì mình liều về vài ngày vậy. Tôi hỏi thăm đường
đi thì được biết, từ khi ngừng bắn đến nay, đường về Nghệ An cũng không khó
khăn lắm. Đi ô tô một ngày là về đến Vinh. Tôi cũng chỉ cần về thắp hương cho
Cha một nén là quay lại đơn vị ngay mà. Vị chi cũng chỉ mất 2 đến 3 ngày là
cùng. Đồng chí Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng thì đồng ý cho tôi về nhưng
Ban chỉ huy Trung đội và Đại đội không cho phép. Tôi định đánh liều, dẫu
có bị kỷ luật cũng mặc. Như đoán được suy nghĩ của tôi, một buổi tối, tôi được
đồng chí Chính trị viên Đại đội Nguyễn Hữu Thu gọi lên. Khi tôi có mặt và chào
các thủ trưởng, đồng chí Chính trị viên kéo ghế mời tôi ngồi. Đồng chí Thu nhìn
tôi nói:
- Chúng tôi biết mấy hôm nay
đồng chí rất buồn vì người Cha đã mất do bom đạn Mỹ. Bố mất ai mà chẳng buồn.
Chi ủy và Ban chỉ huy Đại đội xin chia sẻ đau thương và mong đồng chí cố gắng
vượt qua thử thách này để hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn. Chúng ta
cũng không vì mất mát mà sinh tiêu cực, bi quan, chán nản, vi phạm kỷ luật người
quân nhân cách mạng, ảnh hưởng đến công tác học tập và chiến đấu. Nghe đến đây
tôi thấy như bị xúc phạm. Nhưng chắc Chỉ huy biết tôi sẽ đào ngũ vài ngày về
quê. Không hiểu ai lại lấy chuyện làm quà và đặt điều. Chết rồi. Bây giờ tôi mới
sực nhớ. Thảo nào, mấy hôm nay tôi được ở nhà mà tiểu đội đều cử người ở nhà
cùng mình. Chắc họ lại sợ mình chuồn rồi. Thế là mình đã bị bị theo dõi. Kiểu
này có mà trốn đằng giời. Tôi nhìn vị Chính trị viên Đại đội nói:
- Báo cáo thủ
trưởng. Tôi tự xác định được ạ. Tôi chỉ buồn một tẻo thôi. Ngày mai tôi ra thao
trường tập. Tôi quyết tâm biến đau thương thành hành động, quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ ạ!
- Tốt. Đồng chí rất tốt.
Quân nhân cách mạng thế chứ. Chúc đồng chí khỏe và huấn luyện tốt nhé. Tôi đứng
chào Thủ trưởng và xin phép ra về.
Thế là chẳng còn cách nào
khác, tôi phải ở lại đơn vị, ngậm nỗi buồn đau đớn khôn nguôi. Tôi biết rằng ở
nhà, mọi người sợ tôi buồn nên đã không cho tôi biết, hoặc có thể chị và các em
tôi đã thư báo cho tôi nhưng tôi không nhận được, giống như thư Thoa vậy.
Năm tháng cứ lặng lẽ
trôi qua. Nỗi buồn cứ lắng sâu vào trong lòng. Nhiều lúc nước mắt cứ ngậm chảy
vào trong, tôi không dám khóc trước mặt mọi người. Có như vậy vào chiến trường
mới dám làm tất cả. Giờ nghĩ lại, tôi càng biết ơn vô cùng tấm lòng đồng đội, bạn
bè. Nếu như không có những lời động viên an ủi chí tình và sự chăm sóc giúp đỡ
của đồng đội, bạn bè thì chắc tôi đã “B quay”. Lúc đó, tinh thần và ý chí lung
lay lắm, không còn nghĩ được những điều lâu dài, tình cảm gia đình và nỗi đau đớn
đó đẩy tôi đứng trên bờ vực thẳm, chẳng còn nghĩ được điều gì tốt hơn cho mình.
Và như thế, tôi chẳng bao giờ được là tôi bây giờ nữa, tôi đã trở thành một kẻ
đào ngũ, một tên vô trách nhiệm với Tổ quốc và gia đình. May thay, tôi đã chiến
thắng được sự hèn yếu của mình để không làm tổn hại tới danh dự của gia đình và
bản thân, không phụ lòng tin cậy của Cha tôi và những người thân yêu nhất,
trong đó có Thoa.
Đó chính là ngọn núi
hiểm trở, cheo leo đầu tiên tôi vượt qua trên chặng đường hành quân vào chiến
trường xa xôi. Ngọn núi này không có tên trên bản đồ đất nước nhưng đó là ngọn
núi cao nhất, nhiều thử thách nhất đối với tôi. Một ngọn núi không có vách cao,
vực thẳm, không có nắng khét, mưa dầm, không có sên vắt, muỗi mòng, thú dữ,
không có bom rơi, đạn nổ… nhưng đó là ngọn sơn thạch khó vượt nhất đối với tôi
lúc bấy giờ. Vượt qua nó có nghĩa là tôi phải vượt qua mình để được lớn hơn
thân phận bé nhỏ của con người, để được chan hòa trong cái chung là dân tộc.
Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ.
Mấy hôm nay đơn vị tập
mang vác nặng, leo lên mấy ngọn núi, đưa ra các tình hưống có máy bay đánh phá
đội hình lúc hành quân, hoặc đang hành quân thì gặp thám báo mai phục, đang
hành quân thì có đồng đội bị sốt không đi được…Nghĩa là tập dượt các tình hưống
khi hành quân đường dài.
Lại nói về bác Hồng
chủ nhà. Bác Hồng có cô con gái tên là Thái, đang học lớp 9. Thái có nước
da trắng hồng và hát rất hay. Các buổi liên hoan văn nghệ, kết nghĩa giữa chi
đoàn thanh niên địa phương và bộ đội, thế nào Thái cũng biểu diễn. Tôi hay tranh
thủ giải toán cho Thái. Hình nhu Thái cũng rất thông cảm với hoàn cảnh của tôi.
Có hôm, sau khi giúp Thái giải bài toán hình quỹ tích, Thái nhìn tôi hỏi:
- Nghe nói anh được về thăm
nhà để thắp hương cho cụ ông à?
Tôi lắc đầu:
- Lúc đầu anh tưởng hy vọng được về. Bây giờ không được em ạ. Thôi, đành
chịu vậy. Tôi nhìn ra bầu trời đêm đầy sao, cố giấu đi ánh mắt rưng rưng. Đột
nhiên Thái nói:
- Mai thứ 7, ta đi chới cho vui đi anh. Em có mấy cô bạn hay lắm. Tôi nghĩ
chắc Thái thấy tôi buồn nên nói vậy cho vui. Không ngờ Thái rủ tôi đi chơi là
có thật. Nhưng tối mai tôi lại đến phiên gác, nên khất Thái hôm sau:
- Tối mai anh trực, đến
phiên gác nên không đi được. Hẹn tuần sau vậy.
Mọi người trong tiểu đội cứ
nói như đùa- Cái Thái có vẻ mê tay Biểu đấy. Đêm nào cũng cặp kè giải toán.
Không hiểu có tranh thủ được cái gì không? Thực ra lúc này vì quá đau xót khi
nghe tin Cha mất, lại quá yêu Thoa nên tôi cũng không bận tâm đến điều mà anh
em trong đơn vị suy diễn.
Tôi còn nhớ sau gần một
tuần, kể từ khi nhận được thư Thoa báo tin Cha tôi mất, đơn vị báo động hành
quân. Tôi tranh thủ viết thư gửi chị tôi và Thoa. Trong thư tôi không giấu diếm
tâm trạng của mình nhưng sau những lời an ủi động viên gia đình và Thoa, tôi hứa
sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần nhỏ bé trong việc giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước để sớm trở về quê hương. Tôi cũng không muốn cho em biết rằng tôi
rất buồn đau và khổ hạnh vì trong thư em đã dặn và tin tưởng tôi: “Anh phải
giữ bình tĩnh nhé. Em biết anh là con người có nghị lực mà”. Viết ra được
những dòng thư ấy, cơ hồ tâm trạng tôi cũng được nhẹ nhõm hơn.
Ngày 19 tháng 12 năm
1968. Trung đoàn tôi làm lễ xuất quân. Bà con Thái Thủy ra tiễn đưa thật đông
vui. Trong đó có cả em Thái. Đôi mắt em như thầm trách tôi chưa đi chơi với em
được dù chỉ là một lần. Tạm biệt Thái Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình, đoàn quân theo
hướng Nam mà tiến. Lịch sử trung đoàn 28 có ghi chép lại ngày ấy: “Đoàn quân nặng
trĩu súng đạn, quân trang lương thực, trên vai cắm đầy lá ngụy trang, trập
trùng mải miết tiến về phía Nam. Bộ đội lần lượt vượt qua những dốc núi cao vút
của dãy U Bơ, Ba Rền, băng qua dốc Cổng trời, Nguyễn Chí Thanh rồi tiến về dãy
núi trùng điệp, những rừng cây đại ngàn hướng vào Tây Nguyên”
Cuộc hành quân
đi B dài của trung đoàn 28 chỉ có mấy dòng sơ lược thế thôi, nhưng với chúng
tôi đó là những ngày thấm đẫm mồ hôi và máu. Khó có thể kể hết được những cam
go, ác liệt mà những người lính khoác áo trận như chúng tôi phải chịu đựng trên
con đường Nam tiến vào những tháng ngày này. Lúc đầu chuẩn bị đi, lính hăm hở
lên đường lắm, con đường càng xa xôi, lại càng hiểm trở, ai cũng mệt nhưng
không ai ngã lòng. Chỉ thương những đồng đội bị ốm và sốt trên chặng đường hành
quân, mặt mũi nóng bừng, những cơn sốt cứ rấy lên trong cơ thể.
Lần đầu
tiên tôi đặt chân lên làng Ho, nơi được coi là điểm xuất phát của con đường Trường
Sơn huyền thoại. Con đường xuyên dọc trùng điệp núi rừng được mang nhiều tên gọi:
đường Trường Sơn, đường 559, đường Hồ Chí Minh. Tên gọi nào cũng mang ý nghĩa lịch
sử cao đẹp và hùng tráng. Gọi là đường Trường Sơn vì đây là tuyến đường được bộ
đội và thanh niên xung phong mở trên dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Gọi là đường
559 vì đây đúng là ngày sinh của Bác. Ngày 19 tháng 5 năm 1959, Bộ Chính trị và
Thường trực Tổng quân ủy giao nhiệm vụ mở tuyến chiến lược Trường Sơn. Và vì
ngày khai sinh của con đường là ngày sinh của Bác, hơn thế nữa, đây là con đường
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch
ra.
Từ buổi đầu mới
thành lập, chỉ lấy gùi thồ làm chính, len lỏi vận chuyển trên những lối mòn nhỏ
hẹp ẩn giữa những cánh rừng già và chỉ hoạt động theo mùa, theo từng chiến dịch.
Bộ đội Trường Sơn đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu, lòng quả cảm, trí thông
minh xây dựng nên tuyến đường chiến lược mang tên Bác Hồ vĩ đại. Con đường huyền
thoại, nối liền hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam, nối chiến
trường gần với chiến trường xa bằng một mạng đường bộ, đường ống, đường sông
dài hàng nghìn cây số và hoạt động quanh năm…
Đường
hành quân luồn dưới những cánh rừng già âm u nghìn tuổi. Những khu rừng nguyên
sinh ba tầng cây lá rậm rịt, dây dợ chằng chịt, có nơi ánh mặt trời không xuyên
qua nổi. Ngày trước khi ở nhà, mỗi lần nhìn lên núi Đại Huệ, tôi đã có lần nghĩ
và tự hỏi, không biết bao giờ đôi chân mình sẽ đặt lên đến lưng đỉnh núi đó. Rồi
khi được đi mọi nơi, trèo đèo lội suối, tôi thấy nó không còn là bí hiểm
nữa, chỉ sợ mình thiếu kiên trì và dũng cảm mà thôi. Tôi nghĩ đến cảnh bom đạn
giặc ném xuống con đường và khu rừng này, thật tiếc thương cho đại ngàn của Việt
Nam. Chúng tàn phá đi tất cả vẻ đẹp giàu có của quê hương. Đoàn quân lặng lẽ
hành tiến, lúc thì vượt đèo dốc cao vút, cheo leo, khi thì tụt xuống vực sâu
thăm thẳm. Nhìn từ trên xuống thấy heo hút, nhìn từ dưới lên thấy dốc dựng đứng
ngang trời, có cảm giác như bàn chân chơi vơi. Ấy vậy mà chúng tôi vượt qua hết.
Thậm chí không phải chỉ có một hai dãy núi mà nhiều, nhiều lắm. Chẳng ai đếm được
những bước chân mà mình đã vượt qua bao núi bao sông. Nhìn lại chặng đường
mới thấy dài và gian khó. Đi được 10 ngày thì bàn chân tê mỏi và căng phồng,
rộp lên. Người nào cũng mỏi mệt và đau nhức toàn thân nhưng ý chí thì không nản.
Biết bao nhiêu kỉ niệm và những câu chuyện trong mỗi đợt hành quân.
Đường hành quân dài
hun hút, đi dưới rừng xanh. Vai đeo ba lô nặng trĩu. Một tay chống gậy, một tay
cố giữ càng đại liên cho thăng bằng, bền bỉ bám theo đồng đội. Đường càng dài,
càng nặng. Núi càng cao càng mệt. May sao do được luyện tập khá cẩn thận ở
ngoài Bắc nên tôi cũng dần chịu đựng được, không bị tụt lại đằng sau. Đoàn quân
mải miết, ngày đi đêm nghỉ, cứ lầm lũi tiến về phía nam. Khoảng 5 giờ sáng thì
xuất phát. 3 giờ chiều thì đến trạm giao liên. Khi đến trạm là thấm mệt, mắc
võng ngủ ngay. Đến chiều cùng anh nuôi lo bữa tối.
Ngày ấy, bộ đội thường
dùng bếp Hoàng Cầm. Nói đến bếp Hoàng Cầm thường chỉ có cánh lính chúng tôi mới
biết được, vì chỉ có trong thời buổi chiến tranh. Hoàng Cầm là tên một anh nuôi
trong trận đánh ở Điện Biên Phủ, được phân công nhiệm vụ nuôi quân và đã sáng
chế ra một loại bếp khi nấu không để lại khói, địch không phát hiện được mà
lính ta vẫn có cơm để ăn. Anh đem đào đất sâu xuống lòng đất và làm những ống dẫn
khói đi các ngả, lúc đó có đun củi cũng không lo khói tụ vào một nơi và bốc lên
cao nữa. Những đường ống dẫn khói tản ra khiến cho địch không phát hiện được
nơi trú ngụ của ta. Cách thức nấu bếp ấy cũng được truyền vào trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Nhưng cái khổ nhất của chúng tôi trong cuộc hành quân đêm ngày
có lẽ là khát nước. Lầm lũi hành quân, lưng ai cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt đỏ bừng,
cổ họng khô khát. Đoạn đường hành quân thì dài vô tận, chúng tôi phải uống dè xẻn
từng ngụm nước trong bình tông. Mỗi người một bình tông đeo bên người, chiếc
bình tông lăn lộn nơi chiến trường và chẳng bao giờ thiếu được trong hành trang
người chiến sĩ. Bị đói còn có thể chịu đựng thêm được nhưng khát nước thì khổ
vô cùng. Khi gặp con suối mát, được lấy nước uống cho đỡ khát, được rửa mặt mũi
chân tay mát mẻ. Chỉ huy bao giờ cũng nhắc nhở anh em: “Đường hành quân còn xa,
các đồng chí phải để dành nước cho chặng sau”. Lúc ấy, tôi lại khao khát nhớ tới
chum nước mưa trong veo, mát rượi dưới gốc cau nhà mình. Mùa hè về, người đang
hừng hực nóng, múc một gáo thật đầy rồi ngửa cổ tu ừng ực, sướng lịm người. Chiến
tranh, chao ôi chiến tranh, chỉ một nhu cầu nhỏ bé như thế mà có lúc con người
ta không sao thực hiện được. Nhưng cũng có khi thì lại được thỏa thuê uống những
ngụm nước đầu nguồn. Nước suối trong vắt mát đến tê lưỡi, uống vào đâu thấm đến
đấy. Lúc đó, lính chúng tôi sung sướng vô cùng. Những chặng đường hành quân thường
là những điểm có suối, anh em chúng tôi mới nghỉ ngơi và dừng lại uống nước,
anh nào đã hết thì bổ sung vào bi đông. Chúng tôi uống vô tư mà chẳng ngần ngại
chất độc da cam gì cả.
Hành quân vất vả mệt
nhọc như thế nhưng khi gặp các đoàn thương binh, các đoàn dân- chính- đảng
trong Nam ra Bắc thì ai nấy lại vui vẻ rộn ràng. Nếu như trong đoàn ấy có vài
ba cô gái nữa thì lính ta quên hết mệt nhọc, mọi người lại có chuyện để vui, để
tếu, để giốc bầu tâm sự. Nghe mấy cô gái nói dễ thương vô cùng, nhờ việc gì
chúng tôi cũng sẵn sàng giúp, thậm chí còn xung phong, có cô gái bị cánh lính
chúng tôi trêu, dù có sẵn chất lính tự tin nhưng chỉ được một hồi là ai nấy đều
xấu hổ, đỏ ửng mặt liền. Cả cánh rừng như có thứ ánh sáng diệu kì dội tới, bừng
sáng lên. Thứ ánh sáng tỏa ra từ tình đồng đội, bạn bè, anh em. Gặp nhau là tay
bắt mặt mừng như đã quen nhau từ lâu lắm. Gặp nhau là hỏi han, chuyện nọ xọ
chuyện kia, chuyện miền Bắc, chuyện chiến trường, chuyện nhà, chuyện đơn vị cứ
rối rít, râm ran. Trong chiến tranh, người ta quý nhau, thương nhau nhiều. Sống
và được gặp nhau, một chút hàn huyên dãi bày với nhau cũng là quý giá. Một câu
động viên, một câu đùa tếu, một chuyện tiếu lâm đôi khi cũng trở thành món ăn
tinh thần của người chiến sỹ. Khi gặp những thương binh ra bắc hoặc đơn vị khác
là cánh lính chúng tôi lại hỏi thăm có ai là đồng hương không. Họ hỏi bằng nhiều
cách khác nhau như: “Có ai dân rau má phá đường tàu trong đó không?. Có ai quê
xứ Nghệ không? Có anh chàng lại tự giới thiệu: “Đây là dân cá gỗ đây”.
Khi nhận được người đồng
hương thì mọi chuyện trở nên vui và hóm hỉnh hơn. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn
nhớ câu nói đùa của một anh thương binh đứng cạnh tôi: “Các đồng chí hành quân
nhanh lên kẻo giặc chạy hết không được đánh nhau nữa đâu. Chậm là phải đi nhặt ống
bơ rỉ đó”. Câu nói của đồng chí thương binh cũng chỉ là một cách động
viên đồng đội mà thôi, và thực sự nó đã truyền vào tôi sự lạc quan tin tưởng.
Hành quân chừng mười
ngày thì trung đội tôi có đồng chí bị sốt cao. Ai đã từng ở rừng, từng bị sốt
rét thì chắc biết rằng chắng có gì ớn bằng căn bệnh quái đản này. Trước khi sốt
một vài hôm, người vẫn bình thường, ăn bao nhiêu cơm cũng không vừa. Bụng đã no
nhưng mắt và miệng vẫn thèm. Rồi, chợt rùng mình lạnh buốt ở sống lưng và sau
đó là rét run lập cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ ấm. Hết rét rồi lại đến
sốt, cặp nhiệt kế, ba mươi chín, bốn mươi, bốn mươi mốt độ. Mặt đỏ phừng
phừng như kẻ lên đồng. Đầu đau như búa bổ, mình mẩy bị rời ra, mỏi mệt vô cùng.
Đến lúc này thì miệng lưỡi đắng ngắt, ăn vào miếng gì ọe ra miếng đó. Nguy hiểm
nhất là sốt rét ác tính, nếu không điều trị kịp thời và đúng phác đồ là bị cắt
quân số như chơi. Lính ta ở rừng ngán sốt rét ác tính hơn ngán bom đạn giặc. Có
sức khỏe cũng chẳng chống đỡ được lại căn bệnh quái ác này.
Sống trong rừng, sống
chung với muỗi làm sao có thể tránh được, điều kiện vất chất thì còn thiếu thốn,
thuốc đâu phải sẵn có mà uống và điều trị, nhất là trong những lần hành quân.
Lính chúng tôi sợ cái sốt rét nơi chiến trường, có những chiến sĩ ngã xuống vì
bệnh sốt rét, lời cuối cùng mà những đồng chí dặn dò anh em trước lúc ra đi và
cũng là điều ăn năn nhất, đó là chưa được tham gia chiến đấu hết mình với trận
đấu còn đang chờ đợi ở phía trước. Và ai cũng dặn dò, gửi gắm niềm tin yêu vào
đồng đội của mình. Thú thật, mỗi lần nhìn đồng đội của mình trong cơn tử
vong sắp đến, bạn bè ai cũng thương mà chẳng biết làm gì. Cuộc chiến là như thế.
Không còn cách nào và sự lựa chọn nào khác. Có ai muốn mình chết vì bệnh tật
đâu. Cái chết của con người nơi chiến trường nhẹ nhàng lắm và cũng đau thương lắm,
bi tráng và cũng bi hùng lắm. Dù không chết nơi chiến trường có khói đạn của kẻ
thù nhưng cái chết vì bệnh tật cũng là một sự hy sinh cao cả. Trong bài thơ Tây
Tiến, Quang Dũng viết:
Đánh trận tử vong í
Sốt rét tử vong nhiều
Những câu thơ nói về
những trận sốt rét hoành hành buộc người lính phải nằm lại nơi chiến trường:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời.
Mỗi chặng đường
hành quân, trung đội tôi phải cử ra bốn người để cáng đồng chí sốt nặng không
thể tự đi được. Việc khênh người ốm lúc hành quân là việc làm cực nhọc nhất.
Hành quân leo dốc, xuống vực mà mang vác ba lô, vũ khí đã khó khăn, vất vả rồi.
Bây giò lại vừa đi vừa khênh đồng chí mình thì thật là vất vả, khó khăn. Khi
khênh người bệnh mà phải leo dốc, người phía trước phải rướn kéo thật mạnh và
người đi sau phải được một đồng chí khác đẩy lên thì mới vượt được dốc. Phải
bám dây dừng mà leo lên. Lúc xuống dốc lại càng vất vả hơn, nếu không
khéo giữ thì chỉ cần một người khụyu xuống là tất cả bệnh nhân lẫn người
lành bị ngã lăn luôn. Khi qua bãi trống, dù thở không ra hơi cũng phải cố sức
mà chạy. Cáng bệnh binh mà phải chạy qua bãi trống cũng là một cái vất vả nhớ đời.
Vừa chạy thật nhanh, vừa giữ võng khỏi lắc. Đó là động tác đòi hỏi người khênh
phải thật khỏe và có kinh nghiệm. Người nào được cử khênh bệnh nhân cũng phải
chọn mặt gửi vàng. Tốp khiêng cáng bệnh nhân bao giờ cũng về sau đơn vị vài ba
tiếng đồng hồ. Đặt được bệnh nhân bị thương xuống, chúng tôi mệt lử lả cả người,
chân tay chẳng buồn cử động, mồ hôi nhễ nhại, đầm đìa.
Đường Trường Sơn vào
mùa khô tiếng ve kêu inh ỏi trong các tầng cây. Tiếng ve gợi nhắc tuổi học trò
và mùa thi nhiều kỉ niệm đẹp đẽ. Nghe tiếng ve kêu như sôi dọc đường hành quân,
tôi lại nhớ nhiều đến Thoa. Khuôn mặt tròn, mái tóc dài đen nhánh thơm
hương bồ kết, giọng nói nhỏ nhẹ cứ thấp thoáng trước mặt tôi. Tôi nhớ đến những
ngày tôi và em chung nhau lớp học. Mỗi mùa thi càng bận rộn hơn để lo bài vở,
chúng tôi luôn phấn đấu học thật tốt nên chăm chú và chỉnh chu lo cho việc học.
Thoa cũng rất chịu khó, môn nào không hiểu là em hỏi và nhờ tôi giảng giải, tôi
thì chịu thua em môn Văn, cố gắng học tập em nhưng không sao đạt được số điểm
cao như em. Chao ôi, kỉ niệm sao mà thân thương đến vậy. Tôi làm sao quên được
ánh mắt em nhìn khi tôi đứng trước lớp với trái tim rung động bồi hồi. Hai đứa
đều chăm chỉ học hành, chẳng ai nghĩ đến chuyện tình cảm nhưng trong lòng thì
đã là của nhau. Ngày nào không gặp được em, không nhìn thấy em và không được
nói chuyện với em là tôi nhớ lắm. Tôi giấu nỗi niềm thầm kín đó ở trong lòng,
không dám thổ lộ với em. Hai chúng tôi như hình với bóng, chuyện tình cảm gần
mà ngỡ như xa, có lúc tưởng chừng cả hai sắp sửa nói ra nhưng không… và chính vì
điều mà tôi không thổ lộ với Thoa ấy lại làm cho tình cảm chúng tôi mặn nồng
hơn. Vào chiến trường, tôi càng nhớ, thấy lo lắng và nghĩ về em nhiều hơn và em
chắc cũng vậy. Những lời thương yêu chúng tôi dành cho nhau là khi không còn đối
diện với nhau và không còn ở bên nhau nữa. Chúng tôi cùng hẹn ước với nhau và đặt
niềm tin, hi vọng vào tình yêu rất nhiều. Dù chỉ qua những bức thư nhưng tình
yêu là vĩnh cửu. Những lúc tôi có thư em là tôi vui sướng và hạnh phúc ngập
tràn tâm hồn mình. Cảm giác khó tả lắm, thư làm cho tôi vui lâng lâng cả ngày.
Chỉ có duy nhất bức thư em viết báo tin Cha tôi mất là buồn suốt những ngày
hành quân nhưng không thể trách em được.
Mùa khô là mùa chuyển quân
nhộn nhịp. Núi rừng Trường Sơn rùng rùng chuyển động. Những đoàn quân trẻ măng
mang quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược hăm hở tiến về tiền phương. Có thể
nói, những năm tháng chúng tôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” tuy gian nan, vất
vả và hy sinh mất mát nhiều nhưng đó là quãng thời gian đáng nhớ nhất, hào hùng
nhất của cuộc đời. Tôi nhận ra được khí phách hiên ngang, phẩm chất anh hùng của
dân tộc ta qua những bước quân hành của đoàn quân ra mặt trận. Nó vừa gian khổ,
hy sinh vủa có quyết tâm và sức mạnh phi thường.
Những ngày hành
quân bị mưa, khi đến trạm giao liên, việc làm đầu tiên của lính là tìm ngay hai
thân cây có cọc phụ để mắc võng. Hai cọc phụ được cột bằng dây rừng vào hai
thân cây, sau đo võng được mắc vào hai đầu cọc phụ. Khi mưa, nước mưa theo cọc
phụ xuống đất, còn võng vẫn không bị ướt. Cách mắc võng của người linh thật
sáng tạo. Đêm đêm, điệp khúc của những đoàn quân ra trận vang lên. Đêm dưới
tán rừng rậm, trên những bãi khách của các binh trạm, đầy tăng võng, chúng tôi
hát vang những bài ca Cách mạng hào hùng. Những bài hát làm cho cánh lính chúng
tôi yêu đời và sôi nổi hơn. Hát cho nhau nghe. Những khúc ca về cuộc đời lính đầy
khí thế như chính tinh thần và ý chí cách mạng của người lính. Khó khăn vậy
nhưng luôn tìm thấy sự lạc quan và hào hoa ở những người lính trong từng câu
hát. Tôi, lúc đó là cây văn nghệ được giao phụ trách mảng hoạt động này của chi
đoàn. Tôi còn nhớ những đêm sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của đơn vị sôi nổi và
có phần hăng hái, hoành tráng lắm. Lính tráng diễn xuất mộc mạc, hát hết mình.
Mặc dù không có hoa tươi, không trang trí phông màn nhưng vẫn được tổ chức một
cách tự giác, và tất cả cùng hưởng ứng. Đây là món ăn tinh thần không thể thiếu
được trong những năm tháng vất vả. Vai kề vai, chúng tôi vỗ tay hát những ca
khúc chiến đấu. Bài hát “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” của Huy Du cứ vang động
cả khu rừng:
“Trên đỉnh Trường Sơn ta hát
bài ca.
Gửi tới quê nhà bao la, biển
xanh sóng vỗ hiền hòa.
Đường Trường Sơn bát ngát có
bao nhiêu ghềnh thác.
Hòa theo trong tiếng hát đem
mùa xuân tưới cho cuộc đời.”.
Lý thú nhất là đêm Trường
Sơn mà hat bài: Đêm Trường Sơn nhớ Bác, của Trần Chung và Nguyễn Hữu Thu. Bài
hát hay không chỉ ở ca từ mà giai điệu của nhạc phẩm vừa hùng dũng, vừa tình cảm
giữa người lính và Bác Hồ:
“Đêm Trường Sơn.
Chúng cháu nhìn trăng nhìn
cây.
Cảnh về khuya như vẽ.
Bâng khuâng chúng cháu nghĩ.
Bác như đã đến nơi này..”.
Những bài hát cứ
truyền miệng nhau mà thật dễ nhớ, hát rồi thành thuộc. Có những đêm văn nghệ
như thế này chúng tôi mới biết được nhiều giọng ca hay của đơn vị. Có đồng chí
còn ngâm thơ của Tố Hữu, của Giang Nam, Lê Anh Xuân… với giọng ngâm ấm áp truyền
cảm, chất chứa nỗi niềm. Những người lính chăm chú, mắt hướng về người biểu diễn
như gửi gắm cả hồn mình vào đó.
Trên đường ra trận,
vui nhất là được gặp các đơn vị thanh niên xung phong. Bộ đội trẻ, thanh niên
xung phong cũng trẻ. Tuổi trẻ gặp nhau. Trai gái gặp nhau. Cứ ồn ào náo nhiệt
như hội. Gặp các cô gái làm đường, một anh lính trẻ xướng lên: “Các em thanh
niên xung phong ơi, cho anh bộ đội mượn tạm cái xẻng vào chiến trường đào hầm,
khi nào thống nhất các anh mang về trả”. Trong tốp nữ làm đường, áo màu cỏ úa dấp
dính mồ hôi, một giọng nữ thanh thanh cất lên: “Anh bộ đội ơi, bọn em có rất
nhiều xẻng mà xẻng nào cũng sắc cả nhưng tiếc rằng lại không có cán”, - “Không
có cán thì bọn anh cho mượn cán lắp vô, khó chi việc ấy” - một anh lính khác lại
tếu táo chêm vào. Thế là tiếng cười rộ lên vui vẻ…
Những lần gặp gỡ các
cô gái thanh niên xung phong chúng tôi thấy yêu đời làm sao. Các cô gái chân yếu
tay mềm mà dám dấn thân vào Trường Sơn dày đặc đạn bom, chất độc màu da cam, chịu
đựng những trận sốt rét nghiêng rừng, tóc rụng dần từng vạt, da dẻ xanh xao mà
sống vẫn rất lạc quan. Bất chấp hiểm nguy xảy ra hàng ngày, những cô gái vẫn đi
lấp hố bom, mở đường cho xe tới chiến trường. Chúng tôi phục phái nữ lắm. Chúng
tôi lăn lộn nơi chiến trường đã đành, đối với các cô lại càng vất vả và nguy hiểm
không kém gì chúng tôi. Vậy mà các cô lúc nào cũng tươi cười và dũng cảm. Không
hiếm những cô gái là dũng sỹ phá bom nổ chậm, phá bom từ trường của địch. Nghe
kể rằng có đêm các cô phải đứng làm cọc tiêu cho xe đi qua ngầm. Mặc cho bom
rơi đạn nổ, các cọc tiêu vẫn hiên ngang bám trụ mặt đường.
Có hôm hành quân
chúng tôi gặp một đoàn bộ đội nữ, trông ai cũng có dáng trí thức. Hỏi ra mới biết
đó là đoàn bộ đội quân y tăng cường cho mặt trận. Các chiến sĩ nữ mang ba lô và
túi thuốc khá nặng. Đây là dịp để cho các chàng trai trẻ lém lỉnh, mau miệng
đùa trêu: “Các em bộ đội nữ ơi, mang gì mà mang hai chiếc ba lô nặng thế. Có cần
bọn anh mang hộ một chiếc nào”. Cánh lính nữ quân y cũng thật đáo để, đáp lại
ngay: “Vâng, chúng em có hai cái ba lô. Ba lô sau lưng là ba lô đất nước, ba lô
trước ngực là ba lô của các anh, các anh có mang hộ thì mang ba lô trước ngực
nhé!”. Sau những câu đùa khá dí dỏm ấy là những chuỗi cười giòn tan.
Nhưng có lẽ người để
lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất là các đồng chí giao liên Trường Sơn.
Hình ảnh những cô gái mảnh mai, nước da xanh tái, đầu đội mũ tai bèo, tóc tết gọn
gàng, súng tiểu liên AK khoác chéo sau lưng, quần sắn đến đầu gối mà nhanh như
con sóc. Bao giờ cô giao liên cũng đi trước đoàn quân dẫn đường. Chẳng hiểu sao
chiến sĩ giao liên rất ít nói. Song lòng dũng cảm và cách xử lý tình huống của
họ thì thật đáng khâm phục. Tôi nhớ có lần, bộ đội vượt sông Bạc, một con sông
nổi tiếng ở Trường Sơn. Đơn vị phổ biến: mấy hôm nay, máy bay Mỹ thả nhiều “cây
nhiệt đới” ở vùng này. “Cây nhiệt đới” là cái máy thu phát âm thanh tự động có
hình dáng giống như một cây củi rừng nhằm phát hiện đường hành quân của bộ đội
ta. Tiếng xe chạy, tiếng cười nói, thậm chí cả tiếng ho cũng bị thu vào máy để
phát về trung tâm xử lý thông tin của địch. Phát hiện ra tiếng người, tiếng xe
là máy bay Mỹ bay đến mặc sức ném bom, bắn rốc két vào vùng khả nghi đó.
Thực tình thì chúng tôi khá lo lắng khi nhận được thông tin này. Đúng ba giờ
sáng, lệnh hành quân được phát ra. Trung đoàn lặng lẽ rời binh trạm trong ánh
trăng cuối tháng mờ mờ. Sương núi tỏa ra hơi se se lạnh, tiếng chim từ quy gọi
bạn tình nghe bớt khắc khoải hơn bởi khoảng cách giữa chúng đang lại gần. Đi
xuyên rừng khuya độ 1 giờ đồng hồ, chúng tôi ra tới bờ sông. Các cô gái giao
liên nói với chúng tôi: “Địch ném bom theo qui luật thôi, đây là lúc cây nhiệt
đới bị vô hiệu hóa, các anh bình tĩnh và nhanh chóng vượt qua sông”. Đúng như
nhận định của giao liên, đoàn chúng tôi nhanh chóng vượt sông an toàn.
Có thể nói rằng
giao liên là linh hồn, là điểm tựa tinh thần của các cuộc hành quân. Trong những
vóc dáng mảnh dẻ, có vẻ yếu ớt kia là những cốt cách vững chãi, bình tĩnh, là
phương pháp xử lý linh hoạt các tình huống dọc đường. Đời cô giao liên như người
lái đò. Hết đoàn quân này lại tiếp đoàn quân khác, cứ nối tiếp nhau vô tận, được
các cô dẫn đường đi về các mặt trận. Con đường giao liên dài bao nhiêu thì bước
chân các cô gái giao liên lại nối dài bấy nhiêu. Đi hành quân trên đường Trường
Sơn mà nghe bài hát: Đường tôi đi dài theo đất nước - Xuân Chung, sáng
tác thơ; Vũ Trọng Hối phổ nhạc
“Đường giao liên bước tôi đi
dài theo theo đất nước.
Đường tôi đi, núi chênh vênh
có mây bay dưới chân giăng thành.
Đời tôi như những con thoi dệt
tình quê hương đất nước.
Đời tôi như cánh chim bay,
cánh chim bay suốt dãy Trường Sơn”.
Chương IV:
Chiến trường Tây Nguyên
Sau hơn một tháng hành quân
vượt qua hàng trăm ngọn đèo, con suối, cung đường, trọng điểm ác liệt, chúng
tôi đã đặt chân đến bắc Kon Tum vào ngày 22 tháng 1 năm 1969. Đây là vùng ngã
ba biên giới Việt Nam - Lào – Camphuchia. Tây Nguyên là đây, mặt trận B3 ác liệt
nổi tiếng từ lâu. Trên mái nhà của Đông Dương này đang hiện diện những sư đoàn
chủ lực khét tiếng của địch cũng như những đơn vị thiện chiến của ta trong thế
trận cài răng lược bấy lâu nay. Sau lưng tôi, hậu phương xa lắc xa lơ, nhìn qua
bầu trời cao nguyên vời vợi và những cánh rừng mịt mùng thăm thẳm, tôi linh cảm
về những năm tháng cực kì gian truân, và ác liệt sắp tới.
Đây là vùng đất cao nguyên nổi
tiếng mà ngay từ thời cắp sách tới trường chúng tôi đã được học, được biết phần
nào. Ngoài những bài học về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, dân cư, vùng đất này
còn được chúng tôi biết đến qua câu chuyện kể về vua Lửa, vua Nước, và những
bài giảng về chàng Đam San- một tù trưởng anh hùng trong bộ sử thi nổi tiếng của
dân tộc Ê Đê (Tây Nguyên) với những chiến công lẫy lừng, những điệu múa cồng
chiêng, Kà Tu sôi nổi. Câu chuyện về Anh hùng Núp và đội du kích Xi-tơ trong tiểu
thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc đã trở thành những
biểu tượng của người con Tây nguyên bất khuất, Trường ca chim Chơ rao của
nhà thơ Thu Bồn. Bài Bóng cây Kơ-nia do Ngọc Anh sưu tầm, nhạc Phan
Huỳnh Điểu mang một biểu trưng của núi rừng Tây Nguyên yêu dấu với những hình ảnh
về mẹ, về em trong nỗi nhớ anh: “Buổi sáng em làm rẫy thấy bóng cây Kơ-nia,
bóng ngả che ngực em về nhớ anh không ngủ. Buổi chiều mẹ lên rẫy, thấy bóng cây
Kơ-nia, bóng tròn che lưng mẹ, về nhớ anh mẹ khóc…”. Hay lời bài hát da diết,
nhịp nhàng Tháng ba Tây Nguyên- nhạc sĩ Văn Thắng với những lời ca đi vào
lòng người sâu sắc: “tháng ba mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống
sông lấy nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, anh vào rừng đặt bẫy cài
chông…Tháng ba, rừng Tây nguyên hoa thắm đỏ, làm muôn vạn tiếng chim múa hát, bầy
chim muông cất cánh dạo chơi, sông từng đàn con cá lội bơi. Tháng ba, tay em dệt
khăn hồng, thêu cánh chim trời cho người em mến…”
Tôi biết Tây Nguyên
được mệnh danh là mái nhà Đông Dương, vì thế nó có vị trí chiến lược rất quan
trọng không chỉ với Việt Nam mà cả hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Người
Mỹ rất hiểu điều ấy nên đã tìm cách chiếm giữ vùng đất cao nguyên trung
phần Đông Dương này. Trong suốt cuộc kháng chiến thì Tây Nguyên là mảnh đất diễn
ra nhiều trận đấu ác liệt giữa ta và địch. Tây Nguyên đối với tôi bây giờ không
còn là những bài học phổ thông trìu tượng nữa mà là mặt trận, điểm chốt, chiến
hào khét mùi bom đạn. Đến Tây nguyên, tôi không còn thời gian để ngồi nghĩ và tận
hưởng vẻ đẹp của miền đất lạ. Những bài học tôi lĩnh hội được ở đây là bài học
từ ranh giới giữa sự sống- cái chết trong những năm tháng khốc liệt, đói khát
và bệnh tật. Những gì là gian khó nhất thì mảnh đất này hứng chịu tất cả. Đó
cũng là bài học sinh động cụ thể về lòng yêu nước, sự hi sinh cao cả của bộ đội
và nhân dân Tây Nguyên.
Sau một thời gian ngắn làm
lán, trại là chúng tôi ổn định nơi ăn chốn ở. Sau đó chúng tôi bước vào giai đoạn
học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Về quân sự, chúng tôi học chiến thuật
vận động tiến công kết hợp với chiến thuật chốt giữ trận địa, kỹ thuật bắn máy
bay đổ bộ…Ngoài những giờ học chính thức, từng tiểu đội tự ôn luyện. Chúng tôi
được cán bộ cấp trên hướng dẫn nhiều về kỹ thuật và công tác chuẩn bị chiến đấu
phù hợp với các trận đánh khác nhau.
Về chính trị, chúng tôi được
giới thiệu về chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên, công tác dân vận, tình hình và
nhiệm vụ mới…Tôi còn nhớ câu chuyện mà khi học chính trị, phái viên mặt trận B3
đưa ra đề nghị giải quyết. Câu chuyện này, nói đúng ra là một tình huống do đồng
chí đó đưa ra để chúng tôi thảo luận. Chuyện kể như sau: “Một đồng chí bộ đội của
ta đang chiến đấu thì bị mất liên lạc với đơn vị. Đã năm ngày luồn rừng đi tìm
đơn vị nhưng chẳng gặp. Đồng chí ta phải ăn lá rừng, uống nước suối để sống. Ở
nơi rừng xanh, chỉ có mặt trời mọc là khiến cho đồng chí còn xác định được
phương hướng và tìm những vết tích từ những cuộc hành quân để xác định đường
đi. Ban ngày luồn rừng tìm đơn vị, ban đêm phải ngủ trên cây đề phòng thú giữ. Không
có một thứ gì bên người để ăn. Giữa lúc bụng đói cồn cào, tay chân rời rã, người
cứ luội đi thì gặp một cái rẫy của đồng bào. Mắt anh sáng lên khi thấy dưa hấu
nằm lăn lóc trên đất, mấy khóm mía lá khua loạt xoạt trong gió và cả một vạt sắn
xanh tốt quá đầu người. Anh biết rằng nơi đây đã có bàn tay của con người và chắc
chắn không xa nữa, anh sẽ tìm thấy đồng đội và tìm được đơn vị của mình.
Anh nghĩ trời thương mình rồi và bò tới bên một quả dưa hấu rất to. Nhìn quả
dưa căng mọng nước, nước miếng anh tứa ra. Quả dưa hấu chỉ cần vặt đứt cuống,
không có dao để bổ thì chỉ cần đập vào cạnh của hòn đá hoặc thân cây, tức khắc
quả dưa sẽ bị vỡ ra, lõi dưa đỏ au và tha hồ ăn cho đã. Tay anh đã đụng vào quả
dưa hấu, nhưng bỗng nhớ lại mười hai điều kỉ luật quân đội, có câu đầu tiên là:
“không được đụng đến cái kim sợi chỉ của nhân dân”. Hai tình huống đặt ra: Một
là, ăn dưa thì sẽ sống nhưng bị vi phạm kỉ luật. Hai là, chấp hành nghiêm kỉ luật
quân đội, không ăn dưa thì chắc chắn sẽ chết đói. Kể đến đó, phái viên mặt trận
đặt câu hỏi: “Theo các đồng chí, trong trường hợp này phải xử lý ra sao?”.
Cả đơn vị thảo luận
sôi nổi. Có người cho nêu lên nguyên tắc kỷ luật quân đội và khẳng định, nếu ăn
dưa là vi phạm kỷ luật quân đội. Quan điểm của số người này cho rằng, thà chết
chứ không thể lấy trộm dưa để ăn. Có đồng chí còn dẫn ra câu thành ngữ “đói cho
sạch, rách cho thơm”, dù chết đói còn hơn làm hoen ố danh dự anh bộ đội Cụ Hồ.
Dù mình chết đói nhưng việc làm đó không những thực hiện nghiêm kỷ luật quân đội
mà còn tạo uy tín trong nhân dân. Hơn nữa đây là địa bàn Tây Nguyên, đồng bào
các dân tộc ở đây suốt đời theo Cách mạng nên bộ đội không được xâm phạm của cải
của nhân dân. Có như vậy nhân dân mới ủng hộ bộ đội…
Đồng chí khác thì hăng
hái lập luận: đôi khi việc học phải được vận dụng đúng thực tế thì mọi
cái mới giải quyết được, ta không nên máy móc. Con người là vốn quý. Một quả
dưa không thể đem so sánh với tính mạng của một con người mà, đây lại là sinh mạng
một chiến sĩ quân đội, rất cần thiết cho mặt trận lúc bấy giờ. Y kiến này cho rằng:
người chiến sĩ nhờ có dưa mà sống được, sau đó trở về với đơn vị và lập được
thành tích trong cuộc chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, cứu được nhiều
đồng đội và bảo vệ được nhân dân. Thế thì ăn dưa là có lợi chứ!
Khi thảo luận, hai quan điểm
này đấu tranh quyết liệt và khó phân thắng bại. “Phe ăn” và “phe không ăn” cứ
đưa ra nhiều triết lý và tranh cãi quyết liệt. Lập luận của mỗi “phe” xem chừng
cũng có lý. Cuối cùng thì chẳng ai chịu ai. Phái viên mặt trận cũng không hề kết
luận ai sai, ai đúng mà chỉ nói: “Các đồng chí tiếp tục suy nghĩ và tự rút ra
cho mình bài học cần thiết”.
Qua câu chuyện này chúng tôi
rút ra nhận xét: vừa vào chiến trường đã thảo luận vấn đề này thì chắc chắn sắp
tới chiến trường Tây Nguyên không chỉ rất ác liệt mà cũng rất khó khăn, thiếu
thốn. Và quả thực đúng thế, qua 6 năm lăn lộn, sống chết với chiến trường Tây
Nguyên, tôi và đồng đội càng thấm thía sự gian nan, khốc liệt của mặt trận B3
này.
Chúng tôi tổ chức ăn cái tết
Nguyên đán đầu tiên ở Tây Nguyên. Trong bữa cơm đầu năm có đoàn văn công mặt trận
B3 đến biểu diễn. Các ca sĩ như Thanh Lịch hát nhiêu bài rất hay về Tây Nguyên:
Cô gái Ba Cô, tiếng chày trên Sóc Bom Bo, Tháng ba Tây Nguyên, Bóng cây Cơ
Nia…Trong đó tiết mục “Tiếng chầy trên Sóc Bom Bo” của Xuân Hồng gây xúc động
người lính chúng tôi:
Lửa bập bùng.
Tiếng chày khuya cắc
cum cụp cum.
Cum cup cum, cum cụp cum, cắc
cum cụp cum.
Đuốc lồ ô bập bùng lên ánh lửa.
Sóc Bom Bo rộn rã tiếng chày
khuya.
Bồng con ra võng để đòng
đưa.
Gíã gạo ban đêm vì ngày bận
làm mùa…
Bài hát có giai điệu mượt mà
và ca từ cũng thắm thiết tình quân dân. Càng nghe bài hát càng thấy người dân ở
đâu cũng chăm lo cho bộ đội ăn no để đánh thắng. Nghe bài hát này trên đất Tây
Nguyên càng có ý nghĩa về tình đoàn kết quân dân. Đặc biệt, bài thơ chúc tết
Xuân Kỷ Dậu- 1969 của Bác Hồ được phổ nhạc do các nghệ sĩ trình bày thật tuyệt
vời:
Năm qua thắng lợi vẻ vang.
Năm nay tiền tuyến chắc càng
thắng to.
Vì độc lập, vì tự do.
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào.
Tiến lên chiến sĩ đồng bào.
Bắc Nam sum họp, xuân nào
vui hơn.
Sau khi ăn tết, thực hiện mệnh
lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, đơn vị tôi, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 28 lên
đường đi chiến dịch mùa xuân năm 1969. Trong lòng những người lính trận chúng
tôi còn ngân vang lời bài thơ chúc Tết của Bác Hồ đọc đêm giao thừa: “ Năm
qua thắng lợi vẻ vang…”
Niềm tin chiến thắng
của lãnh tụ truyền vào chúng tôi, và ai cũng nao nức nghĩ tới một mùa Xuân thống
nhất Bắc Nam đang tới gần. Những nụ cười rạng rỡ trên nét mặt của người dân
chào đón chúng tôi. Dân tộc không còn phải chịu cảnh bom đạn nữa, đất nước
được hòa bình. Cảm giác đó thật hân hoan và hạnh phúc, không còn gì cao cả và
vĩ đại hơn. Chúng tôi háo hức ra trận để lập công lớn ngay từ trận đấu.
Ngày ấy, chiến
trường Công Tum hình thành ba khu vực: khu vực cánh Bắc, khu vực cánh Trung và
khu vực cánh Nam. Mỗi nơi đều có những thuận lợi về địa hình và cũng có những
khó khăn riêng. Chỉ huy quân đội Mỹ sử dụng 5 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 4 Mỹ.
Vòng ngoài thuộc 3 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 1 đóng ở 3 khu vực. Khu vực thứ nhất
gồm có: Ngọc Tô Ba, điểm cao 467, Plây Gia Siêng. Khu vực thứ hai gồm có: Chư
Dơ Bang, Chư Mơ Nú, Chư Mo Rinh. Khu vực thứ ba: Chư Kê Pắc, Chư Kô Pắc. Vòng
trong gồm hai tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2 cùng với các đơn vị pháo binh yểm trợ
chiếm giữ Chư Đô, Kleng, Chư Tăng Kra, Chư Tăng An. Tiểu đoàn 1, trung đoàn 28
chúng tôi được giao nhiệm vụ vây chặt tiểu đoàn 1, trung đoàn 12, lữ đoàn 1,
thuộc sư đoàn 4 của Mỹ ở địa bàn Chư Đô, Kon Tum. Quân Mỹ đặt ở đây những cứ điểm
lớn với những sư đoàn, quân đoàn. Chúng có các căn cứ không quân khá mạnh với
xe tăng, thiết giáp, máy bay yểm trợ. Hệ thống phòng thủ khá kiên cố, chúng rải
ra từng đại đội, trung đội xen kẽ nhau đóng chốt trên những điểm cao nhưng bộ đội
ta không ngại khó khăn, vẫn tự tin vào trận đánh với khẩu hiệu rắn rỏi:
Đánh cho sư 4 đảo điên
Đánh cho quân Ngụy ở Tây Nguyên tơi bời
Đơn vị tôi khẩn
trương dàn thế trận bao vây tiêu diệt địch theo kế hoạch tác chiến. Khẩu đại
liên của đại đội 4, tiểu đoàn 1, do tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng chỉ huy bố
trí tại đồi Cháy. Nhiệm vụ của khẩu đại liên là bắn máy bay trực thăng đổ bộ và
chi viện cho đại đội hai bộ binh.
Đại đội 2 bộ binh được
giao nhiệm vụ đánh đại đội C của Mỹ ở Chư Đô. Cũng xin được nói thêm, Chư Đô là
ngọn núi cao 1145met, cách Kleng 13 cây số. Qua trinh sát chúng ta biết được đại
đội C của địch có 100 tên lính Mỹ ẩn náu trong hệ thống công sự kiên cố, vững
chắc gồm ba lô cốt bê tông và 45 chiếc hầm xây có nắp thông với nhau bằng các
đường giao thông hào chằng chịt. Lính Mỹ ở Chư Đô còn được trận địa pháo lớn
đóng ở Chư tăng-Kra bắn chi viện khi cần thiết và máy bay trực thăng, máy bay
C47 quần đảo liên tục trên bầu trời bất kể ngày đêm nhằm bảo vệ vòng ngoài của
căn cứ. Đạn pháo lớn của địch nổ ùng oàng bên ngoài căn cứ và đêm đêm sáng đèn
dù do máy bay Mỹ thả, soi rõ từng mô đất, khóm cây.
Đêm mùng 4
tháng 3 năm 1969, khẩu đại liên của đại đội chúng tôi được lệnh chiếm lĩnh trận
địa chiến đấu và chuẩn bị công sự chốt giữ trên đồi Cháy. Khoảng cách giữa trận
địa chúng tôi và đồi Chư Đô nơi địch đóng quân là ba trăm mét- một khoảng cách
rất gần và đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng. Sự nguy hiểm rất cao nên mọi cái đều
phải tính toán và thực sự phải cẩn trọng.
Tôi còn nhớ rõ
mồn một quang cảnh đồi Cháy lúc bấy giờ, đúng như cái tên của nó, cả quả đồi bị
cháy trơ trụi không còn sót lại một bụi cây, khóm cỏ nào. Mặt đồi phủ đầy tro
than đen kịt, gặp gió, bụi tro bay lên mù mịt. Những cây to thì cháy nham nhở,
cây nhỏ thì cháy xém hết cả, có chỗ còn âm ỉ, mặt đất bỏng rát, bàn chân đặt xuống
không chịu nổi…Có lẽ trong chiến đấu, những quả đồi không tên trên bản đồ thì bộ
đội đặt cho cái tên là “Đồi không tên”. Còn đồi không tên đó mà bị bom đốt cháy
thì gọi là đối Cháy. Chiều hôm trước khi đơn vị chiếm lĩnh trận địa, máy bay giặc
tăng cường ném bom na-pan, loại bom có sức hủy diệt ác liệt khiến cho tất cả
trên mặt đất hóa thành tro tàn. Nhiều đống lửa bập bùng cháy trên đồi. Mùi bom,
đạn nồng nặc khắp nơi lẫn vào mùi cỏ, mùi động vật bị thui oi nồng, ngột ngạt.
Khói lửa vẩn cháy lên thành từng chùm, ngập ngụa cả bầu trời, màu đỏ quẩn vào
màu khói đen bốc cao, cuốn theo tro bụi bay tứ tung, nhất là vào buổi trưa nắng
nóng. Kẻ địch đánh bom na-pan lên đồi cốt để triệt tiêu mọi sự sống, triệt tiêu
mọi vật cản mà bộ đội ta có thể dùng nó làm ngụy trang.
Dưới ánh đèn dù hắt
sáng từ căn cứ của địch, chúng tôi khẩn trương đào công sự, lặng im làm việc,
chỉ nghe rõ hơi thở của nhau. Người nào cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt mũi lấm lem
như bết bùn. Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng nhắc nhở mọi người khẩn trương
tranh thủ trời chưa sáng để làm công sự. Sau đó tập trung ngụy trang hầm hào
cho kín đáo. Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu vừa qua, ngụy trang công sự là
biện pháp che mắt quân địch để bảo toàn lực lượng. Tuy nhiên, ngụy trang trên đồi
Cháy này là một vấn đề rất khó đối với chúng tôi, bởi quả đồi đã bị cháy trơ trụi,
không còn lá cây. Nhưng trong cái khó ló cái khôn, chúng tôi lấy tro than phủ
trên lớp đất đỏ mới đào và nhặt cành cây cháy che lên trận địa. Với cách ngụy
trang như vậy thì máy bay phản lực của địch sẽ rất khó phát hiện, thậm chí bộ
binh chúng bước lên trên cũng không thể biết được. Chúng tôi tin như thế.
Đào xong công sự, anh
em vừa nhai lương khô, vừa uống nước và nghe anh Hoàng phổ biến nhiệm vụ:
Đêm nay, đại đội 2 sẽ nổ
súng tấn công địch ở đồi Chư Đô. Ngày mai, chắc chắn địch sẽ bắn phá ác liệt
vào trận địa của chúng ta, không loại trừ tình huống địch đổ bộ vào đây, tiểu đội
ta phải chuẩn bị hai phương án đối phó: bắn máy bay và đánh bộ binh địch. Các đồng
chí phải chuẩn bị tinh thần chiến đấu thật tốt. Bằng giá nào cũng phải kiên quyết
làm tròn nhiệm vụ trên giao. Phải giữ vững trận địa. Bây giờ các đồng chí kiểm
tra lại xem nguy trang đã ổn chưa. Nếu chưa đảm bảo thì chuẩn bị tiếp. Các đồng
chí phải chuẩn bị mặt nạ phòng độc, bông băng cá nhân và nước uống cũng phải hết
sức tiết kiệm… Tất cả đều chuẩn bị chu đáo và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Tiểu đội trưởng Vương Tử
Hoàng đi kiểm tra súng đạn, mặt nạ phòng hóa, túi cấp cứu cá nhân của từng người.
Nơi chiến trường, sự cẩn thận, chu đáo của người chỉ huy chẳng bao giờ thừa cả.
Sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh đã rèn luyện cho người lính, dù là cán
hay binh. Nghĩ một lát, anh Hoàng giao tiếp cho tôi và anh Hoàng Ngọc Loan đào
thêm hai chiếc hầm cách trận địa đại liên chừng ba mươi mét và cách địch khoảng
hai trăm năm mươi mét. Nhiệm vụ của tôi và anh Loan là cảnh giới, sẵn sàng đánh
bộ binh địch từ đồi Chư – Đô tràn sang. Tôi và anh Loan cũng lường trước được
tính chất ác liệt của trận đấu nên làm hầm hào rất cẩn thận theo thế chi viện
cho nhau. Tôi bảo anh Loan “Anh em mình cùng hỗ trợ đắc lực cho nhau nhé”. Hai
anh em làm khẩn trương và mau lẹ, mồ hôi túa ra đầm đìa mà không dám uống nước,
phải để dành ngày mai.
Đến nửa đêm chúng tôi hoàn tất
mọi việc. Cũng may là đất ở đây là đất bazan nên cũng dễ đào công sự. Tựa lưng
vào vách hầm mới đào, mùi đất bazan còn nồng nực, tôi nhìn lên bầu trời. Trời
cao nguyên về đêm thanh trong và đầy sao, gió lộng thổi. Trong khoảnh khắc căng
thẳng trộn lẫn với hồi hộp, tôi chợt nhớ đến quê nhà, nhớ Cha tôi lắm, giờ này
nếu Cha còn sống, chắc là Cha sẽ trằn trọc lo cho tôi trận đánh đêm nay và nghe
tin đài báo hằng ngày. Cha không còn nữa, tôi thì ở thật xa. Mới ngày nào mà đã
tròn 5 tháng Cha tôi bị bom giặc Mỹ giết. Mộ Cha giờ đây chắc cỏ đã mọc xanh. Tới
bao giờ tôi mới được trở về để thắp cho Cha nén hương tưởng niệm để tỏ lòng
thành kính. “Đêm nay và ngày mai, con sẽ trực tiếp đối mặt với kẻ thù. Tôi lại
nao nao nghĩ đến Thoa, giờ này em đang làm gì nhỉ? Lớp học đã tan chưa? Em còn
học bài hay ngủ rồi? chắc em cũng lo cho tôi nhiều lắm. Tôi biết rằng em và tôi
đang ở rất xa nhau nhưng trái tim và tình cảm vẫn luôn hướng về nhau. Nếu như
em được nhìn thấy những gì khốc kiệt mà người lính như tôi phải trải qua, chắc
em thương tôi mà khóc cạn nước mắt. Lời thư của em văng vẳng bên tai tôi:
“Anh ơi, em đã kể chuyện của
chúng mình cho mẹ nghe rồi, mẹ cũng thương anh lắm. Mẹ bảo sao không đưa anh về
quê chơi. Em có nói chúng con đang chuẩn bị thì anh đi bộ đội…”.
Rạng sáng ngày 5 tháng 3, đại
đội hai chia làm ba mũi tấn công đại đội lính Mỹ ở đồi Chư Đô bằng thủ pháo, lựu
đạn và súng B40. Những tiếng thủ pháo, lựu đạn nổ chát chúa. Các lô cốt và hầm
chỉ huy của địch lần lượt bị quân ta chiếm lĩnh. Khi các hướng tấn công của ta
vào trung tâm căn cứ đang phát triển tốt thì một tình huống bất ngờ xảy ra: Bộ
binh địch chui hết xuống hầm, pháo lớn từ Chư tăng- Kra bắn cấp tập vào ngay trận
địa. Những tiếng nổ rền rã của bom đạn không ngừng nghỉ. Máy bay địch quần lượn
bắn phá không ngớt. Có chỗ lửa bốc cháy dữ dội. Do còn ít kinh nghiệm, lúng
túng trong xử lý tình huống nên anh em C2 bị thương vong khá nhiều. Tuy nhiên,
tổn thất của địch cũng không nhỏ. Sau mười lăm phút giao tranh, bảy mươi tên
lính Mỹ đã bị tiêu diệt. Xác của chúng rải rác trên trận địa.
Trời sáng. Căn
cứ địch ở Chư Đô không còn nguyên vẹn như hôm qua nữa. Nhiều hố pháo lớn xuất
hiện khiến cho khu đồi lở loét như người bị ghẻ kềnh. Hàng rào dây thép gai
bùng nhùng, bị phá đi nhiều đoạn. Một số lô cốt, ụ hỏa lực bị san bằng hoặc sứt
mẻ nham nhở. Thời gian yên tĩnh không kéo dài. Từ Chư tăng-Kra pháo của địch đã
bắt đầu sủa. Chúng bắn tấp cập vào đồi Cháy, hết đợt này đến đợt khác. Đất đá
và những mảnh pháo bay rào rào, khói lửa trùm lên trận địa mịt mù. Tai chúng
tôi ù đặc và nhức. Mấy con vượn đen trũi như than chạy nhảy hốt hoảng gọi nhau
vang vọng cả khu rừng. Chúng kêu la hốt hoảng, những con sống sót thì cũng di
chuyển sang hướng quả đồi bên kia. Pháo kích ngưng thì máy bay phản lực và trực
thăng Mỹ đến ném bom na-pan và bắn rốc két. Từng vệt lửa hừng hực bốc cao trên
mặt đất. Đồi Cháy vốn đã trơ trụi nay càng trơ trụi hơn. Lửa bom na-pan bén vào
cả những cành cây ngụy trang của chúng tôi. Đồi Cháy bị tro than phủ kín một
màu đen lem luốc. Chẳng nói gì cây cối, đất đá, mặt mũi, quần áo chúng tôi đen
nhẻm hết lượt. Khẩu đại liên của tiểu đội chúng tôi đã đĩnh đạc lên tiếng.
Chúng tôi có 3 người tập trung vào khẩu đại liên, người thì tiếp đạn, người xạ
thủ, có nhiệm vụ bắn và người thì chuẩn bị. Tôi thì dùng súng bộ binh AK cùng bắn
máy bay. Ai cũng tháo vát, nhanh nhẹn, khẩn trương. Bất chấp bom đạn của giặc,
khẩu đại liên Cô-li-nốp nhằm vào máy bay phản lực và trực thăng nhả đạn. Lúc
này thì không còn bí mật được nữa, chúng tôi một mất một còn đối mặt với
kẻ thù hung hãn.
Địch phát hiện ra trận
địa của ta nên chúng càng bắn phá ác liệt hơn. Mặt trời gần đứng bóng thì trực
thăng bắn đạn hóa học xuống đồi Cháy. Tôi và anh Loan thấy máy bay bắn từng quả
như cục pin đại xuống gần hầm. Khi những cục như chiếc bin đại chạm đất thì phụt
ra làn khói xanh và lan tỏa khắp mặt đất. Tôi thấy nước mắt cay sè, mũi khó thở
liền nói như ra lệnh với anh Loan: Chất độc, đeo mặt nạ vào. Mặc cho việc chuẩn
bị đã sẵn sàng nhưng khi có chất độc tôi thấy hơi luống cuống. Sau món vũ khí
hóa học ác hiểm là những màn bổ nhào ném bom của lũ máy bay phản lực. Kẻ địch
cho rằng Việt cộng không chịu được khói đạn hóa học sẽ từ hầm chui lên và khi gặp
bom, pháo sẽ thương vong nhiêu.
Im ắng được mấy phút, chúng
tôi tranh thủ ăn cơm trưa. Ăn vội vàng qua quýt, thậm chí vừa ăn vừa nghĩ đến
nhiệm vụ tiếp theo, nét mặt ai cũng căng thẳng, lo âu trước người chỉ huy mình
hy sinh. Mặt mũi ai cũng nhọ nhem, chân tay chai sạn, tóc tai bơ phờ. Khi ăn
cơm, ai cũng làm phép chùi tay vào quần áo cho đỡ bụi bẩn, nắm cơm cầm trên tay
cũng dính tro than nhọ nhem. Mùi khói bom khét lẹt. Cổ họng khô
khát nhưng anh em bảo nhau cố gắng ăn hết khẩu phần để lấy sức chiến đấu với giặc.
Miếng cơm cuối cùng chưa trôi khỏi cổ thì máy bay địch lại gầm rú trên đầu. Từng
loạt, từng loạt bom sát thương, tiếp đến là bom cháy nổ đinh tai nhức óc, cả quả
đồi bị giật phá rung lên theo làn sóng xung kích của bom. Mảnh bay rào rào,
khói lửa cuồn cuộn. Có lẽ nó đã đoán đúng khẩu đại liên tai hại mà bọn chúng cần
tiêu diệt. Bỗng một quầng lửa bùng lên hung dữ, trùm lên khẩu đại liên. Anh
Hoàng thét lớn: “Địch ném bom napan trúng trận địa rồi, các đồng chí phải bình
tĩnh”.- tiếng thét của anh khiến cho cả trận địa của chúng tôi chú ý và tập
trung cao độ để chiến đấu và cảnh giác. Tôi và anh Loan cũng bị thương,
hai bàn tay bị bỏng do dính chất cháy của bom. Quả bom sát thương nổ gần
hầm không ai bị thương nhưng bị sức ép. Ngực đau, khó thở. Nhưng nhìn anh Hoàng
như ngọn đuốc sống thì quên hết đau đớn.
Tôi nhìn anh Hoàng-
người chỉ huy trưởng của tiểu đội tôi bị dính bom napan cháy nhưng anh như ngọn
đuốc sống, vẫn chỉ huy khẩu đội đại liên bắn trả lại máy bay giặc. Hình ảnh ấy
tôi không bao giờ quên được, cái ngỡ như chỉ xem trên phim ảnh hay đọc trên những
trang báo lại là hiện thực trước mắt tôi. Chất anh hùng của người lính cách mạng
là có thật chứ không phải do chúng ta bịa ra hoặc tô hồng cho nó đẹp thêm. Cùng
lúc đó, hai chiếc máy bay trực thăng Mỹ đã bị trúng đạn đại liên, bốc cháy dữ dội
và rơi ngay đồi bên cạnh.
Anh Hoàng bị bỏng
toàn thân vì lửa napan. Anh vẫn cố chịu đựng, dù rất đau đớn. Khi chúng tôi
băng bó cho anh, anh đã rất yếu. Bằng giọng nói rất nhỏ nhẹ, anh động viên
chúng tôi: “Có thể bộ binh địch sẽ tấn công vào đây… cuộc chiến đấu diễn
ra còn ác liệt lắm…anh em mình cố gắng giữ vững trận địa…. đừng cho địch chiếm”. Giọng
nói của anh càng nói càng đuối dần, đôi mắt nhắm lại. Miệng hơi mấp máy muốn uống
nước. Tôi lấy thìa bón cho anh ít nước. Anh uống nước thật ngon lành. Nhìn sắc
mặt anh ngày càng nhợt nhạt, cái chết đang đến gần với anh từng giây mà chúng
tôi bất lực, ai cũng xót thương. Tất cả anh em, những người đứng vây quanh anh,
phần lớn đều bị thương, nhưng, ai cũng lặng lẽ lắng nghe từng lời của anh
căn dặn. Rồi anh không nói được nữa. Khoảng 3 giờ chiều thì anh trút hơi thở cuối
cùng. Anh mất đi giữa lúc trận địa còn mịt mù khói lửa. Nhưng trong lòng mỗi
chiến sĩ vẫn rực lửa căm thù quân cướp nước, quyết biến đau thương thành hành động
cách mạng.
Nhìn anh Hoàng nằm bất động
trong hầm mà lòng tôi bùi ngùi xúc động. Anh như người anh cả, như người chị hiền
trong đơn vị. Ngày nghe tin Cha mất, tôi suy sụp và khụy ngã hoàn toàn. Trong
lúc khó khăn đến cùng cực ấy, anh là người chia sẻ động viên, an ủi và nâng bước
tôi đi. Nếu không có anh chắc chắn tôi chẳng hành quân vào đây với đơn vị được.
Trước trận đánh này, anh đã nhắc nhở chúng tôi kiểm tra rất kỹ về vũ khí, trang
bị, lường trước những tình huống xấu có thể xảy ra như địch dùng vũ khí hóa học
chẳng hạn. Các phương án chiến đấu do anh vạch ra cho tiểu đội thật chính xác.
Anh là con người không chỉ có lòng dũng cảm mà còn có nhiều thực tiễn trong chiến
đấu.
Anh ra đi khiến tôi
thấy trống trải và buồn thương vô cùng. Tiếc thương một người chỉ huy tài giỏi,
nhanh nhẹn, gần gũi, sâu sát anh em, giờ không còn nữa. Cả tiểu đội trĩu buồn.
Mấy hôm trước, anh Hoàng đã nói với tôi: Sau ngày thống nhất giang sơn, thế nào
cũng về quê thăm gia đình tôi, thăm quê Bác Hồ, thăm dòng Sông Lam thấm đẫm câu
dân ca xứ Nghệ. Anh đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh gia đình anh. Bố mất sớm, mẹ
ở vậy nuôi anh. Đã mấy lần mẹ mong anh về để lấy vợ. Mẹ anh đã già. Trước lúc
đi bộ đôi, mẹ anh cũng đã dạm cho một cố gái trong làng xinh xắn, ngoan ngoãn
và hay làm. Anh nói rằng chờ cho chiến tranh kết thúc sẽ về lấy vợ và sinh cho
mẹ một đứa cháu để bồng. Anh cũng hy vọng, sau này đất nước thống nhất, anh sẽ
về với cuộc sống ruộng vườn như ông bà, tổ tiên đã sống. Một ước mơ bình dị thế
mà không thực hiện được. Không hiểu mẹ anh Hoang có linh cảm đến sự đau thương
này không. Anh Hoàng ơi. Em coi anh như người anh cả, chị hiền, bao nhiêu lần
anh đã động viên em, giúp đỡ để em vượt qua những nỗi đau, mất mát. Sau này thống
nhất, nếu còn sống em sẽ về với gia đình anh. Tôi bồi hồi xúc động lẩm bẩm với
anh linh Anh Hoàng. Mong anh an nghỉ suối vàng và phù hộ độ trì cho tiểu đội
chúng tôi vượt qua thử thách ác liệt này.
Chiều chầm chậm qua đi,
hoàng hôn buông xuống. Cánh rừng lúc này chợt im ắng nhưng vết tích của trận
đánh vẫn còn nóng bỏng. Vây bọc trận địa của chúng tôi là màn đêm
nhàn nhạt của cao nguyên hòa trong ánh đèn dù nhập nhoạng ở phía đồn địch. Xa
xa tiếng ì oàng của pháo cối địch. Chốc chôc lại có những đợt pháo kích từ phía
Chư Tăng-Kra bắn lên xung quanh Chư Đô và đồi Cháy. Có lẽ đây là các đợt pháo
kích cầm canh để bảo vệ Chư Đô. Tối ngày 5 tháng 3 năm 1969 khẩu đội đại liên
chúng tôi được lệnh rút khỏi Chư Đô tiến về phía Ngọc Ta Lung để làm nhiệm vụ mới.
Chúng tôi vừa hành quân vừa đưa thi hài anh em liệt sĩ và thương binh nặng ra
phía sau. Có rất nhiều việc, thời gian lại gấp rút nên ai cũng khẩn trương,
tranh thủ thời giờ. Nhìn đồng đội nằm xuống, ai cũng xót thương. Có chiến
sĩ thân thể không còn lành lặn, be bét máu, thấm đỏ cả chiếc áo, đất cát bám đầy
người. Cũng rất may lúc này có mấy đồng chí vận tải của tiểu đoàn nên thương
binh, thi hài liệt sĩ và vũ khí được mang ra an toàn và kịp thời. Sau trận Chư
Đô, khẩu đội tôi được bổ sung thêm quân để bước vào những trận đánh mới.
Đối với tôi, trận đánh
này là trận đáng ghi nhớ. Hình ảnh ngọn đuốc sống Vương Tử Hoàng mãi mãi cháy
trong tôi như một vầng sáng bất tử. Đến bây giờ khi đọc lại Lịch sử trung đoàn
28, lòng tôi vẫn ngập tràn xúc động, bồi hồi nhớ lại những ngày oanh liệt cùng
những đồng đội của mình:
“Trong trận lửa thử đầu tiên
vô cùng ác liệt và đầy cam go trên chiến trường mới, cán bộ chiến sĩ trung đoàn
28 đã phát huy cao độ sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, ý chí chiến đấu dũng
cảm ngoan cường, trí thông minh sáng tạo… Tuy đây là trận đầu thử sức nhưng
Trung đoàn đã khẳng định được vai trò của một đơn vị chủ lực của mặt trận Tây
Nguyên. Trải qua bom đạn ác liệt, nhiều tấm gương chiến đấu tiêu biểu có sự cổ
vũ lôi cuốn như tập thể tiểu đoàn 1. Đặc biệt là hình ảnh đầy khí phách anh
hùng của người Khẩu đội trưởng đại liên, người Đảng viên ưu tú Vương Tử Hoàng ở
khu vực Chư Đô. Giữa bom thù dữ dội, lửa napan trùm khắp trận địa và khắp thân
mình nhưng Vương Tử Hoàng vẫn hiên ngang trên vị trí chỉ huy, tiếp tục hạ lệnh
cho khẩu đội bắn rơi 2 máy bay Mỹ và trước lúc hy sinh vẫn dành hơi thở cuối
cùng để động viên đồng đội giữ vững niềm tin, ý chí chiến đấu. Tấm gương bất
khuất Vương Tử Hoàng và ánh sáng từ “cây đuốc sống” ấy không những là nguồn cổ
vũ lớn lao, niềm tự hào bất diệt mà còn mãi mãi tỏa sáng trên chặng đường chiến
đấu gian khổ nhưng sáng chói những chiến công của Trung đoàn 28 và lực lượng vũ
trang nhân dân Tây Nguyên…”
Khi rút khỏi Chư Đô,
Trung đội trưởng Viên Đình Thực phổ biến vắn tắt:“Đơn vị chúng ta hiện nay nằm
trong đội hình lớn của chủ lực mặt trận đang bao vây sư đoàn 4 của Mỹ tại đây.
Khẩu đội đại liên của các đồng chí có nhiệm vụ đánh địch đổ bộ bằng máy bay để
bảo vệ trung đoàn pháo binh 40 và yểm trợ bộ binh xung phong diệt lính dù”.
Anh em chúng tôi nghe
nói thế rất phấn khởi. Cả tiểu đội hành quân đêm khẩn trương. Đêm mùng 7 tháng
3, khẩu đội tôi trong đội hình của đại đội 1, tiểu đoàn 1 được bố trí chốt giữ
tại một đồi tranh ven sông Sa Thầy. Màn đêm đen kịt trùm lên khắp mọi nơi, ngỡ
như có thể xắn ra từng miếng được. Không gian im ắng lạ thường. Đến nơi là bắt
tay vào đào hầm trú ẩn ngay. Đất ở đây toàn sỏi đá và trời lại tối như mực nên
đào rất khó khăn. Đào sâu được một đoạn vừa người nằm, Trung đội trưởng Viên
Đình Thực cho tạm nghỉ, chờ trăng lên đào tiếp. Tôi liền mắc màn nằm ngủ cùng
anh Thực và Lệ. Trước lúc ngủ, anh Thực đi kiểm tra anh em có mắc màn không. Muỗi
nhiều vô kể như hốt được. Mấy đêm chốt ở Chư Đô không ngủ nên bây giờ đặt lưng
xuống là ngủ như chết. Cả tiểu đội đang chìm trong giấc ngủ thì bỗng nghe hàng
loạt tiếng nổ, mở mắt ra thấy chớp khói liên tục, mặt đất giật giật như có thể
vỡ ra được, đất bay rào rào, loạn xạ, cây cối đổ ngổn ngang. Trong tiếng nổ rầm
trời đó, có ai hô to: “B52!”- Tiếng ai đó kêu lên chưa dứt thì lại tiếp
hàng loạt tiếng nổ, đất trời như bị sụp xuống bởi những tia chớp sáng xanh. Những
tiếng nổ liên tiếp của hàng loạt trái bom B52 nghẹt thở. Mảnh bom xé gió bay
vun vút, khói lửa sặc sụa. Tôi chưa định hình ra làm sao, chỉ biết nằm úp mặt
xuống đất, hai mắt nhắm nghiền. Tôi nghĩ, nếu bom nổ thế này có thể chết mất,
không bị mảnh cũng bị sức ép, mà chết cũng mặc, chẳng biết đi đâu bây giờ. Tiếng
bom đợt một vừa nghớt. Tôi ngẩng đầu lên quan sát thấy chiếc màn bay đâu mất.
Anh thực đi đâu rồi. Mà sao chẳng nghe tiếng gì cả. Tôi gọi Lệ dậy để báo có
bom B52 nhưng lay mãi mà Lệ không dậy. Sờ vào người Lệ thấy máu chảy đầm đìa. Lệ
bị mảnh bom hy sinh ngay loạt đầu. Vừa lấy tay lay nhẹ Lệ thì có bàn tay nào đó
túm vào vai áo tôi lôi dậy chạy. Tôi như cái máy, chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy
theo bóng người đó như thôi miên. Chạy được một đoạn vài chục mét, người đó dí
tôi xuống một cái hố mà tôi biết có thể là cái hố bom. Tôi và người đó vừa lăn
xuống hố thì lại một đợt B52 tiếp tục. Người đó nằm lên tôi. Đất trời rung lên
bần bật khiến tôi mất đi cảm giác, cũng chẳng biết mình đang như thế nào. Hơi
bom quất mạnh làm cho người tôi bị sức ép, khó thở. Mọi cảm giác dường như bị
tê cứng. Tai ù đặc, mũi nghẹt thở. Mắt cay xè. Người lảo đảo, liêu xiêu. Tôi
không thể cảm nhận và nhìn mình xem có bị thương hay không nữa. Mọi giác quan
như tê liệt, không phải vì sợ hãi mà sức ép của bom quá lớn. Tôi chỉ biết tựa
mình vào vách hầm cho đỡ thở. Vừa dứt tiếng bom là bóng người đó lại chạy đi.
Dưới ánh trăng vàng ệch và bị che phủ của hơi bom mịt mù, tôi thấy nằm cạnh tôi
có môt số người. Tôi cũng không nhận ra ai nữa, và cũng quá mệt nên cũng chẳng
hỏi han được ai. Nhưng tôi đoán đó là bộ đội, có người còn sống, có người bị
thương, có người hình như đã chết, nằm còng queo. Tôi có cảm giác như đang ở giữa
thế giới xa lạ, môt địa ngục trần gian của sự hủy diệt và chết chóc. Tôi thấy
đau nhói trước ngực, sờ vào thấy máu me đẫm ướt cả áo, chân trái nhức đau, sờ
xuống cũng thấy máu…Sau đó tôi thấy tai ù, mắt hoa và người bị lả đi không biết
gì nữa.
Ngày hôm sau tôi tỉnh
lại và thấy mình đang nằm tại bệnh viện 211 của Mặt trận. Bác sĩ cho biết, tôi
bị thương vào chân, bị gãy xương sường và bị sức ép bom tương đối nặng. Cũng
may gáo vẫn còn và mảnh đạn găm vào ngực nhưng chỉ làm gẫy xương sườn, chứ nó
vào tim thì coi như đã hết. Sau đó tôi gặp nhiều người cùng đơn vị cũng bị
thương nằm ở đây như Ngọ, Trự, Đức…Các bạn kể lại rằng, trận bom B52 xảy ra quá
nhanh, quá bất ngờ và thực sự ghê gớm. Đội hình của đơn vị chúng tôi nằm gọn
trong tọa độ rải thảm của những chiếc pháo đài bay hiện đại nhất của Mỹ thời bấy
giờ. Đơn vị thương vong nhiều. Nhưng tôi thắc mắc là ai lôi tôi đi lúc đó thì
không ai lý giải được. Lúc này tôi mới nhớ là chiếc ba lô của tôi đã mất. Có lẽ
giá trị nhất trong chiếc ba lô ấy là những lá thư của Thoa, không còn nữa. Tôi
vừa buồn vừa tiếc. Đã kinh qua bao nhiêu thời gian và đã đi qua bao núi, bao
đèo, những lá thư của em vẫn luôn bên tôi. Tôi đã hứa với em là sẽ cùng sống chết
với những lá thư đó cơ mà. Sau này, tôi đã nhờ bạn bè đồng đội tìm mãi mà không
thấy. Đã nhiều lần tôi nhắn người về đơn vị cố tìm xem chiếc ba lô của tôi có
ai cất hộ, nhưng không có tin tức gì.
Bệnh viện 211(là số cộng
của bệnh viện 103 và bệnh viện 108) nằm sâu trên đất nước chùa Tháp
Căm-pu-chia, giữa chốn đại ngàn trùng điệp. Con đường đi vào đây cách biệt và lặng
lẽ. Có những dãy núi cao mây mù bao bọc ẩm ướt. Lán thương binh vách nứa, mái lợp
cũng bằng nứa, nằm dưới tán rừng rậm rạp, dọc theo con suối trong veo mát
lành. Rừng đầy tiếng gió, tiếng chim. Từ mặt trận về đây không xa lắm nhưng
quang cảnh hai nơi khác nhau hoàn toàn. Một bên xơ xác, tan hoang, một bên
thanh bình, tươi tốt. Bệnh viện 211 có các bác sĩ chuyên khoa dày dạn kinh nghiệm
trong việc cứu chữa thương bệnh binh. Nhìn thấy các bác sĩ mặc áo plu màu trắng,
chúng tôi thấy phần nào vợi đi những lo lắng về vết thương của mình. Bệnh viện
211 có nhiều khoa và đóng trên các sườn núi của rừng già nguyên thủy.
Họ cứu thương và chữa trị
cho biết bao nhiêu người được hồi phục về sức khỏe và trở về đơn vị tiếp tục
chiến đấu. Tôi được các bác sĩ mổ lấy mảnh đạn găm vào xương sườn và điều trị sức
ép. Sau một thời gian điều trị, vết thương ở ngực lành dần, sức khỏe tôi dần được
bình phục. Lúc bình phục, tôi có cảm giác chiến tranh như ở một nơi nào đó, rất
xa, rất xa. Lẽ ra trong không khí này, tôi phải thấy yên ổn thoải mái nhưng ngược
lại, lúc nào cũng bồn chồn nhớ đơn vị. Những tháng ngày gian khổ chúng tôi luôn
có nhau. Tôi nghĩ đến tiểu đội đại liên yêu dấu, nghĩ đến đồng đội, những người
bạn chia sẻ ngọt bùi cay đắng, buồn vui, sướng khổ có nhau. Loan, Trữ, Xuân,
Dung, Chương… và bao nhiêu anh em nữa đang đội bom, đội đạn nơi mặt trận, biết
ai còn, ai lại nằm xuống, có trận đánh nào mà không có hy sinh! Tôi lại an nhàn
như thế này ư? Tôi mong mình nhanh khỏi để trở về đơn vị chiến đấu cùng những đồng
đội thân yêu của mình. Tôi nhớ mọi người lắm rồi và chắc mọi người cũng vậy,
mong tôi về lắm đây. Ở trong viện 211 này, có những người phải nằm điều trị lâu
thường lo lắng, nóng lòng nghĩ về đơn vị, nhưng khi sắp xuất viện thì lại bị cảm
giác lưu luyến rất khó tả níu giữ, nhất là khi đi chào và động viên những anh
em thương binh còn nằm lại, khi cảm ơn các bác sĩ, y tá “ thầy thuốc như mẹ hiền”.
Một hôm đang khấp
khiểng lê bước lên khoa chấn thương thì thật bất ngờ tôi được gặp Dung, Ngọ và
Đức- những người bạn đồng hương, cùng học trường cấp III Nam Đàn và cùng nhập
ngũ một ngày, cùng tiểu đoàn. Thì ra, trận B52 đêm ấy đã cày vào đúng đội hình
của Tiểu đoàn 1 của chúng tôi, nhiều đồng chí đã ngã xuống bên bờ sông Sa Thầy
khi chưa kịp nổ súng hiệp đồng chiến dịch. Dung và Đức cũng bị thương trong trận
bom ác liệt ấy.
Sau những lời thăm hỏi
rối rít “khoe” với nhau những vết thương trên mình. Đứa nào cũng cho rằng mình
gặp may chứ không thì đã bị cắt quân số rồi. Đức còn trêu tôi “Bọn tao ngoẻo
còn được chứ mày chết thì em Thoa chắc cạn nước mắt”. Tôi kể cho hai đứa nghe về
những lá thư của Thoa bị B52 đánh bay. Hai đứa lặng im chia sẻ. Vào đây, đứa
nào cũng thèm khát tin tức ở quê nhà, lo lắng cho gia đình và người thân. Dung
cũng buồn nhiều như tôi vì lá thư nào của Thoa gửi lên tôi cũng cho Dung đọc.
Dung công tác trên tiểu đoàn bộ, tôi lính đại đội, thỉnh thoảng có dịp gặp
nhau, Dung đều hỏi chuyện Thoa, tôi chẳng giấu Dung điều gì.
Vết thương của tôi hồi
phục khá nhanh. Qua anh em, tôi biết đơn vị mình đang vây lấn cứ điểm Plây Cần.
Các bác sĩ khuyên tôi ở lại điều trị thêm thời gian nữa để vết thương khỏi hẳn,
nhưng tôi nóng ruột lắm, đứng ngồi cũng không yên, tôi thấy mình có đủ sức lực
nên cố gắng xin ra viện sớm. May thay, nguyện vọng của tôi được đồng chí trưởng
khoa chấp nhận. Cái khó khăn của tôi lúc đó là đang tay trắng. Ba lô bị mất
tăm. Khi vào viện tôi là một anh lính “trên răng dưới cát-tút” đúng nghĩa đen của
nó. Tôi chỉ còn duy nhất một bộ trang phục bạc màu đang mặc trên người. Ngọ thấy
thế đã không chần chừ lôi từ ba lô con cóc của mình ra đưa cho tôi một bộ quân
phục Tô Châu xanh. Ngọ đưa áo quần cho tôi và tếu táo cười nói:
- Tao cho mượn chứ không phải
cho hẳn đâu nhé. Nhớ ghi vào sổ để mai này giải phóng thì mang trả cho
tao. Lúc đó, nhớ trả công và mời tao đi dự cưới đấy.
Tôi mỉm cười nhận bộ quần áo
từ tay anh và xem đó như là một lời mong, lời chúc phúc của anh dành cho tôi, một
người lính lại sắp xung trận. Ngọ cầu mong tôi được bình an cho đến ngày
chiến tranh kết thúc và được hạnh phúc bên Thoa. Ngọ là lính cùng đại đội 4 với
tôi. Ngọ bị thương nặng ở lưng và bụng, khi vào viện được anh em cứu thương,
tha được ba lô theo cùng nên còn có áo quần cho tôi. Thấy tôi không có ba lô, Đức
giở quân tư trang của mình gói vào chiếc túi nilon vẫn sử dụng làm phao bơi khi
vượt sông suối và trao ba lô cho tôi. Tôi không chịu nhận thì chiến hữu của tôi
đã nói như quát:
- Cứ lấy đi. Lúc này mày cần
hơn tao. Vết thương của tao còn phải nằm lâu. Sau này ra viện tao sẽ có cách,
anh em ở đây còn nhiều lắm. Ngoài chiến trường thương yêu và chia sẻ cho nhau
như thế nào thì nơi đây cũng thế cả. Mày đừng ngại, của tao cũng là của mày mà.
Thế mới gọi là lính chiến chứ. Chiến tranh có chia phần và lĩnh phần thắng lợi
đâu, nhiệm vụ chung và mục đích chung cơ mà… Đức là người Nam Cát, cùng học và
cùng nhập ngũ. Nghe Đức nói cứ ý như chính ủy. Tôi nhìn Đức ái ngại:
- Mình về đơn vị sẽ có bổ
sung mà. Ai lại lấy của thương binh nhiều thế này…Đức hua tay và an ủi tôi:
- Mày đừng băn khoăn nữa,
chuyện vặt ấy mà. Tất cả phải ưu tiên cho tiền tuyến. Đức vừa nói vừa đưa chiếc
ba lô cho tôi.
Từ tay không, bỗng
dưng tôi có nhiều thứ. Anh em thương binh trong lán, người cho tôi cái tăng,
người cho cái võng, chiếc bát sắt, quần đùi và cả lương khô nữa. Nhìn chiếc ba
lô căng tròn, tôi đứng ngây người ra như bị trời trồng, xúc động nghẹn ngào
không nói lên được lời nào. Tôi cảm động quá. Mọi người gửi gắm niềm tin ở tôi
rất nhiều. Tất cả mọi câu nói lúc này dường như không cần thiết nữa, nếu nói ra
nó sẽ trở nên khách sáo xa lạ biết bao nhiêu. Tôi im lặng nhìn mọi người. Những
khuôn mặt hốc hác, xanh xao, vàng vọt, những đôi môi thâm rịt vì mất máu và bị
sốt rét. Họ phải uống nhiều thuốc mà. Những vòng băng cuốn trên người, trên mặt,
trên bụng, chân tay… những chiếc nạng, chiếc gậy đặt kề bên. Hình ảnh những chiến
binh trận mạc không lẫn vào đâu được. Chiến tranh không phải là trò đùa. Những
người lính chúng tôi nói câu nói ấy bằng máu của mình. Ai cũng chia sẻ và gửi lời
thăm hỏi đến những người bạn chiến đấu cùng với tôi. Tôi mang niềm tin và hy vọng
của mọi người quay trở lại đơn vị. Tôi hồ hởi, phấn khởi gom những kỉ niệm nơi
đây về kể cho đồng đội nghe. Ở tiểu đội tôi làm gì có cô y tá hay bác sĩ nào
đâu nên mọi người muốn nghe chuyện lắm. Mọi người sẽ xúm lại mà hỏi tôi đủ mọi
thứ. Tôi thấy trong lòng vui vui, cứ ngỡ là con chim én mang mùa xuân đến cho
tiểu đội..
Tây Nguyên- đến lúc này thì
tôi đã thấm thía một Tây Nguyên gian nan, hiểm nguy mà sâu nặng, ấm áp tình đồng
đội, tình đồng bào. Tây Nguyên thiếu thốn nhiều thứ lắm. Các nguồn tiếp viện dường
như bị tắc nghẽn, cạn kiệt dần nhưng ý chí của con người vẫn ngùn ngụt, đói ăn
đói, nghèo mặc nghèo. Trên cao nguyên mênh mông này, thời ấy một hạt muối, một
cọng rau, một viên thuốc kí-ninh cũng muôn phần quí giá lắm, nó quí giá như
chính mạng sống của con người. Vì muốn có nó, chúng ta phải đổi bằng máu của
các chiến sỹ, đồng bào. Trời Tây Nguyên một ngày bốn tiết, ngày nắng như nung,
đêm đến thì rét cắt da, cắt thịt… chiếc chăn mỏng tang, anh em đôi khi còn ôm
nhau ngủ cho ấm. Chỉ riêng việc chịu đựng khí hậu khắc nghiệt của Tây Nguyên đã
vất vả lắm rồi. Có lẽ sức chịu đựng gian khổ và sự cố gắng khắc phục khó khăn
đã thành quen trong ý thức mỗi người chiến sĩ. Đồng đội tôi tiếng là các đơn vị
chủ lực nhưng phải dùng gùi thay ba lô, quần dài rách thì cắt dần ống để làm mảnh
vá, áo dài tay bị biến thành áo cộc tay, vá đụp vá chằng nom rất cơ cực. Mũ thiếu,
phải dùng khăn tay che nắng mùa khô, đi được vài cây đã thấy khăn trên đầu khô
đanh lại và cũng chính nó, lính dùng để lau đầu, lau mặt mùa mưa. Rừng thiêng
nước độc. Muỗi nhiều như trấu, vắt như muôn lớp lá đại ngàn, nếu không có võng
nằm, không có màn che, không mảnh vải dù làm bọc thì đêm sẽ dài thăm thẳm và những
cơn sốt rét sẽ ập đến bất cứ lúc nào. Vậy mà đồng đội đã nhường cho tôi những
thứ quí giá của mình, từ tay không tôi lại có tất cả. Nói bao nhiêu, nói thế
nào cho hết nỗi xúc động đang dâng trào trong tôi. Tôi cảm ơn đồng đội của mình
và mong cho mọi người mau bình phục, chúng tôi có một lời hẹn ước với nhau sau
ngày độc lập sẽ gặp nhau, nhất định là như vậy, còn bây giờ cuộc chiến gian
nguy đang ở phía trước.
Viện 211 ngày ấy nhiều con
gái quê ở Hà Tĩnh lắm. Những cô gái quê ở ven dòng sông Lam thơ mộng, cách làng
tôi không xa mấy đã tình nguyện đi thanh niên xung phong từ thời tôi còn học cấp
II. Chiến trường ngày càng mở rộng, họ đi dần vào mặt trận Tây Nguyên làm y tá,
cứu thương, hộ lý, nuôi quân rồi gắn bó với cái quân y viện trong rừng xanh núi
đỏ này. Chính những cô gái đó đã làm mềm đi cuộc chiến tranh khốc liệt này, họ
là niềm tin, yêu thương, nguồn động viên của rất nhiều cán bộ chiến sỹ B3.
Trong cơn đau do vết thương hoặc căn bệnh hành hạ, chúng tôi đã được các cô
chăm sóc, nâng dìu, an ủi, động viên. Lời động viên của các cô như xua tan đi mọi
đau đớn. Những lúc yếu lòng, bi quan chán nản, hoang mang, được nhìn các cô gái
quân y, chúng tôi giật mình tỉnh ngộ và ý chí được vực dậy cùng với tình yêu cuộc
sống cũng ấm nóng lên. Khi vào Tây Nguyên tôi thường được các cựu binh nhắc
đến nhiều các cô gái Nghệ Tĩnh duyên dáng chăm chỉ ở viện 211 này. Họ hay kể
cho cánh tân binh chúng tôi nghe về các cô tên Hợi, cô Hiếu… da trắng tóc dài,
những cô San, cô Xinh… hiền lành đằm thắm, nhẹ nhàng. Kể đi kể lại hấp dẫn đến
nỗi có người lính “ao ước” bị thương hay bị ốm một lần để đi viện 211. Những gì
tôi kể ra đây là thật, là hoàn toàn thật. Nơi đơn vị chiến đấu, toàn cánh đực rựa
cồng kềnh với nhau, lại là lính tráng xốp xáp, tuyềnh toàng, bói đâu ra được
bóng hồng xinh đẹp để ngắm nhìn, trò chuyện. Suốt năm, suốt tháng chỉ nghe rặt
một giọng đàn ông ồm oàm, thử hỏi ai không muốn gặp các chị, các cô? Gặp chỉ để
được nghe cái giọng chất thanh thanh của người khác giới thế là vui lắm rồi. Những
cô gái cũng như linh hồn của trận đấu, rất dũng cảm, làm việc gì đảm việc đó
nên lính chúng tôi có ai mà dễ dàng quên được.
Sáng mồng 3 tháng 5, tôi được
ra viện. Tạm biệt quân y 211 để về đơn vị, tiễn tôi ra đến con suối phía trước
bệnh viện là mấy đồng chí thương bệnh binh, các cô y tá, hộ lý quê ở Hà Tĩnh với
giọng nói dễ thương. Nhưng nói gì thì nói, với lính trận chúng tôi thì ở được
đơn vị vẫn vui hơn. Trên đường trở về đơn vị, tôi khấp khởi như chim sổ lồng.
Đường rừng Tây Nguyên quanh co, uốn lượn. sương giăng sườn núi, những đám mây
bay lững lờ…Cái háo hức được chiến đấu với đồng đội làm cho tôi thấy khỏe khoắn
hơn. Tôi vừa đi vừa chạy như đứa trẻ con xa nhà nay mới được về với mẹ. Khi bước
lên dốc, ngực vẫn thấy đau, chân vẫn nhức. Lá cây bên đường xào xạc theo bước
đi. Tôi thấy mình rắn rỏi hơn và lâu rồi mới được đi một đoạn đường xa như thế.
Cũng lâu lắm rồi, tôi mới được đi giữa núi rừng với không khí trong veo,
thênh thang như thế này, khác với trong bệnh viện chỉ rặt có một mùi của bệnh tật,
thuốc men. Đi giữa con đường với những bóng cây, không khí dễ chịu hẳn. Tôi ngẩng
đầu nhìn trời cao và muốn kêu to lên với đồng đội “Mình đã về đây với các
đồng chí rồi”, và thầm nói với người yêu đang ở hậu phương xa tít tắp rằng: “Vết
thương anh đã đỡ rồi, anh khỏe hơn rồi, em có nghe thấy anh nói không?. Em gắng
đợi anh thêm một khoảng thời gian nữa nhé, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi là
anh sẽ được về với em. Bây giờ chắc em cũng đang mong anh và đếm từng ngày một,
đúng không?. Anh sẽ về với em khi đất nước thống nhất, sẽ đưa em đi trên con đường
lộng gió của miền quê mình mà không còn sợ bom đạn của kẻ thù, anh rất nhớ em,
hãy đợi anh về em yêu nhé”. Đường về đơn vị phải vượt qua biết bao đèo cao, suối
sâu. Đi một đoạn lại phải hỏi đường. Cũng may, dạo này đang là chiến dịch nên dọc
đường đi có nhiều bộ đội. Việc hỏi thăm đường cũng không vất vả lắm.
Đến gần tối, tôi mới về đến
đơn vị. Được anh em cho biết tiểu đội đại liên đang tham gia chiến đấu tại cứ
điểm Plây Cần. Đây là cứ điểm được Mỹ ngụy tập trung lực lượng, bố phòng chặt
chẽ để ngăn cản đường tiến quân của quân giải phóng ở phía Bắc tỉnh Kon Tum.
Anh em nghe tôi gọi, chạy túa ra, người ôm, người sờ nắn chân tay, hỏi han tíu
tít. Hỏi sức khỏe của tôi, hỏi đến cả những đồng đội của tôi đang còn điều trị.
Có người còn hỏi chuyện các cô ở viện 211 xinh đẹp. Tôi mừng rỡ được gặp lại mọi
người, họ vây quanh tôi, tôi vừa thở vừa trả lời, lòng ấm áp như đứa em đi xa,
nay được về với gia đình, gặp lại các anh em, có hai tháng xa nhau mà ngỡ như mấy
năm trời. Suốt cả đêm ấy, tôi không sao ngủ được, những câu chuyện tôi kể cho mọi
người nghe, bây giờ xa cả rồi, tôi thấy nhớ quá. Đêm nay, ở bệnh viện sẽ có bao
nhiêu đồng chí nữa phải nhập viện, những người ở lại, bệnh tình có khỏe hơn
không? Khẩu đội đại liên chính là gia đình thân yêu thứ hai nuôi dưỡng cuộc đời
tôi. Chao ôi, cái gia đình nồng ấm và ngoan cường của tôi trải qua bao nhiêu trận
đánh ác liệt giờ đây không còn nguyên vẹn nữa. Thêm một trận đánh là thêm
thương vong trong lòng. Sau mỗi trận đọ sức với kẻ thù người còn, người mất, điều
ấy không thể tránh khỏi. Chúng tôi những người còn đây không thể nói trước được
tính mạng của mình nhưng không có ai nhụt chí và lùi bước. Tiểu đội tôi vẫn còn
đây mà anh Vương Tử Hoàng không còn nữa. Nhìn đi nhìn lại chỉ có tôi là cựu
binh. Những người cũ không còn ai. Bùi ngùi trước mất mát đau thương này. Con
tim tôi lai nhói đau và đôi mắt lại rưng rưng khi nghĩ đến đồng đội mình đã hy
sinh. Trước mắt tôi lại hiện lên rõ mồn một hình ảnh của anh Hoàng, cậu Lê, Ngọ,
Thanh...Trong đó Thanh mất khi tuổi đời chưa đến hai mươi. Còn Lệ và anh Quyền
thì bị thương, người mất tay, người mất chân, chắc chắn không thể tiếp tục chiến
đấu được nữa. Ngọ bị thương cũng chưa thấy về. Các anh bị thương nặng trở về
quê hương cũng không còn làm được gì.Tôi bùi ngùi nhớ những đồng đội yêu dấu của
mình.
Cuộc chiến đấu vẫn còn
tiếp diễn. Đây là điều mà mỗi chiến sĩ tiểu đội đại liên luôn xác phải định là
nhiệm vụ thường xuyên và ưu tiên đặc biệt. Tiểu đội tôi được bổ sung thêm một số
chiến sĩ mới như tiếp thêm sức mạnh. Tôi được đơn vị cho biết: hiện nay địch
đã đổ bộ tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 xuống phía nam Plây Cần, trận địa đại liên
chỉ cách địch khoảng ba trăm mét. Điều đó chứng tỏ rằng ta và địch đang ở trong
thế trận cài răng lược, rất gần nhau. Bởi vậy, tất cả mọi trận đánh sắp tới đều
nguy hiểm và cần phải cẩn trọng hơn. Tôi được Trung đội Trưởng Viên Đình Thực
giao quản lý khẩu đại liên Cô- li- nốp. Khẩu đại liên rất mới và ngắm nghía lau
chùi hồi lâu, cảm giác thật hạnh phúc. Khẩu đại liên đã gắn bó với chúng tôi
qua nhiều chiến trường và tỏ ra là loại hỏa lực rất lợi hại của bộ binh nhất là
đánh địch đổ bộ, đánh địch phản công, là người bạn chiến đấu sát cánh sống chết
cùng người lính chúng tôi. Tôi đưa súng lên tập ngắm chuẩn vào đầu ruồi của nó.
Thấy vậy đồng chí Viên Đình Thực mỉn cười vỗ vai tôi:
- Chắc nhớ nó lắm à. Tôi
nhìn Trung đội trưởng gật đầu:
- Báo cáo Trung đội trưởng. Đúng. Nhớ nó lắm ạ. Tôi ngắm nghía khẩu đại liên mới,
hỏi Trung đội trưởng:
- Đây là khẩu súng mới hả Thủ trưởng? Đồng chí Viên Đình Thực gật đầu và nét mặt
chững lai, đượm buồn, mắt hơi rơm rớm kể cho tôi nghe đơn vị dính B52 vừa rồi.
Anh nói, từ ngoài B5 vào đây, đơn vị cũng đã hứng chịu nhiều đợt B52 nhưng đây
là lần đầu tiên tiểu đoàn bị bom B52 rải trùm lên đơn vị. B52 rải bom xuống đội
hình lúc 21h30 đêm 7.3.1969. Cũng rất may đêm đó anh em đã làm công sự nên cũng
đỡ thương vong. Tuy nhiên, không chỉ các chiến sĩ thương vong nhiều mà vũ khí,
khí tài cũng bị phá hủy nhiếu lắm. Khẩu đại liên cũng nằm trong số phận đó. Tôi
cũng rất buồn khi nghe anh kể lại nhưng cũng phải hỏi thêm:
- Đến bây giờ em cũng chưa
hiểu tối hôm đó ai lôi đi xuống hố bom và sau đó ai đưa đi bệnh viện? Anh Thực
nhìn vào tôi, nét mặt tươi vui, anh vỗ vai tôi mỉn cười:
- Tớ lôi cậu đi chứ còn ai.
Cả khẩu đại liên bị thương vong hết vì hai quả bom. Mình nằm với cậu và Lệ. Loạt
bom đầu Lệ hy sinh, cậu bị thương. Mình tỉnh dậy thấy cậu còn sống mà gọi không
thưa. Lúc đó cậu cứ “ngơ ngơ như bò đội nón”.- Anh Thực cười làm tôi cũng cười
theo và nói tiếp:- Sau đó tớ thấy cạnh đó có hố bom, tớ đã lôi cậu xuống đó
cùng mấy người. Cũng thật may, trong loạt bom thứ hai, có một quả nổ đúng vị
trí chúng mình nằm. Xác Lệ tan tành. Khẩu đại liên cạnh đó chỉ còn đống sắt vụn.
Nghe đến đây, tôi ôm choàng lấy anh Thực.
- Ôi. May quá anh ha. Không
có anh thì em đã chết toi rồi. Thế còn chiếc ba lô của em? Anh Thực nhìn tôi vẻ
vui sướng, lấy tay dí vào đầu tôi:
- Cái gáo của cậu cũng khá cứng.
Chết sống có số đấy cậu ạ. Nói đến đây nét mặt anh biến sắc, buồn buồn:
- Còn chiếc ba lô mình đã
cho kiểm tra kỹ nhưng không thể tìm được trong đống ngổn ngang ấy. Mình biết, cậu
rất tiếc những lá thư của Thoa mà mấy lần mình đã được nghe đọc. Nhưng các cụ
nói: của đi thay người mà. Nghe đến đây mọi chuyện mới vỡ ra. Đúng là chiến tranh
thật nghiệt ngã. Nhưng chỉ có trong chiến tranh, những người đồng đội mới sống
hết mình với nhau như anh Thực. Và cũng chỉ có đồng đội mới chia sẽ cho nhau cả
sự sống của mình. Cho nên có người còn nói, tình cảm của các anh bộ đội là thứ
tình cảm đồng đội, nó vừa lâu bền vừa chân thành và rất nhân bản.
Sáng ngày mồng 15 tháng 5
năm 1969, thêm một niềm vui đối với tôi. Tôi được chi bộ kết nạp vào Đảng. Đây
là một cái mốc quan trọng, một kỉ niệm thiêng liêng của cuộc đời. Tôi đã trải
qua một khoảng thời gian vất vả, thứ thách nhiều trong chiến đấu, lập được những
thành tích, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên được chi bộ Đảng ủy ghi nhận. Được
kết nạp Đảng, phải xét nhiều mặt lắm, từ đạo đức cho đến tư tưởng và những cống
hiến…
Lễ kết nạp Đảng được tổ
chức tại công sự chiến đấu, không hề có hoa tươi, cờ Tổ quốc, cờ Đảng. Trên đầu
tôi là trời xanh bao la, trước mắt tôi là đồi núi chạy dài, nhấp nhô mà ở đó
quân địch đang chuẩn bị hành quân lên chiếm trận địa. Xung quanh tôi là những
gương mặt đồng đội thân yêu. Chỉ như vậy thôi mà sao tôi thấy trang trọng,
đầm ấm và thiêng liêng đến vậy. Vẫn hiện lên trong đầu tôi hình ảnh lá cờ đỏ
búa liềm, cờ đỏ sao vàng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Tôi đứng
nghiêm, trong lòng hồi hộp lắng nghe đồng chí Viên Đình Thực, chi ủy viên,
Trung đội trưởng đọc quyết định của Đảng ủy cấp trên chuẩn y kết nạp tôi vào Đảng.
Đến bây giờ tôi vẫn nhớ lời anh Thực nói “Sau gần một năm thử thách, đồng chí
Biểu đã tham gia nhiều trận đánh và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chi bộ và
đơn vị đánh giá cao tinh thần chiến đấu dũng cảm của đồng chí Biểu. Đồng chí Biểu
xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Trong thời gian tới còn gặp những
khó khăn và gian nguy hơn, nhất là trước mắt chúng ta quân địch đang chuẩn bị tấn
công lên trận địa, đồng chí Biểu hãy cố gắng phấn đấu, không sợ hy sinh, gian
khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người Đảng viên của Đảng”. Đọc đến đây,
Trung đội trưởng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ:
- Một niềm vui đến với đồng
chí Biểu và cũng là niềm vui của cả khẩu đội đại liên, tôi xin thông báo: Bộ Tư
Lệnh mặt trân Tây Nguyên có Quyết định số 123/QDKT ngày 10.5.1969 về việc tặng
thưởng Huân chương chiến công giải phóng Hạng 3 cho đồng chí Dương Thanh Biểu,
vì đã lập thành tích xuất sắc trong trận đánh Chư Đô.
Sau lời công bố quyết định của
cấp trên, đến lượt tôi phát biểu. Ôi! hồi hộp quá. Đã chuẩn bị rồi mà tôi vẫn hồi
hộp. Tôi đứng dậy nhìn Trung đội trưởng Viên Đình Thực và mọi người. Con tim
tôi đập rộn ràng, vừa vui sướng, vừa lo lắng không hiểu phát biểu của mình sắp
tới có đúng hay không. Sau tiếng pháo nổ dưới chân đồi, tôi nói như đã chuẩn bị
trước:
- Kính thưa đồng chí Thủ trưởng
Viên Đình Thực, thưa tất cả các đồng chí. Hôm nay tôi thật xúc động được trở
thành người đảng viện, được phấn đấu dưới ngọn cờ quang vinh của đảng. Tôi xin
cảm ơn sự giúp đỡ, dìu dắt của các đồng chí đi trước, xin cảm ơn các đồng chí
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhiệm vu. Nói đến đây tự
nhiên cổ họng tôi bị khản. Cũng thật may lúc đó có một loạt pháo bắn gần trận địa
nên không ai chú ý tới dọng khàn khàn như vịt đực của tôi. Tôi e hèm, hắng dọng
rồi phát biểu tiếp:
- Đứng trước chi bộ, tôi xin
thề: Nguyện suốt đời chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Tuyệt
đối tin tưởng và trung thành với lý tưởng của đảng, không ngại gian khổ hy
sinh, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Xin cảm ơn chi bộ và
các đồng chí.
Tôi thấy Thủ trưởng Thực
gật đầu. Sau đó cả tiểu đội vỗ tay đôm đốp. Mọi người đang vỗ tay thì Trung đội
trưởng khoát tay:
- Chia vui với đồng chí Biểu
thế này là tốt rồi. Phải giữ bí mật. Bọn địch bắn pháo thế này là đang chuẩn bị
dọn đường cho bộ binh đánh chiếm trận địa đại liên đấy. Bây giờ các đồng chí về
vị trí chuẩn bị chiến đấu.
Tôi thấy cay cay
sống mũi nhưng con tim đập rộn ràng, thổn thức. Thế hệ thanh niên chúng tôi
ngày ấy mơ ước lớn nhất và cũng là niềm vinh dự cao nhất là được đứng trong
hàng ngũ của Đảng. Tôi nhớ, suốt mấy năm làm bí thư chi đoàn các lớp ở cấp 3
Nam Đàn, tôi đã cố gắng hết sức và rất hy vọng được đứng vào hàng ngũ Đảng.
Ngày nhập ngũ, thầy giáo chủ nhiệm có nói, chi bộ nhà trường cũng đã xem xét việc
bồi dưỡng để kết nạp tôi vào Đảng trong thời gian tới. Nhưng thời gian nhập ngũ
quá nhanh nên chưa thực hiện được. Do đó, tôi vẫn coi giây phút đẹp nhất trong
cuộc đời là khi được giơ cánh tay phải lên ngang đầu tuyên thệ “ nguyện suốt đời
phấn đấu, hi sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản”. Lý tưởng sống của chúng
tôi rõ ràng và trong sáng lắm. Tôi cũng biết, vào Đảng là phải tiền phong,
gương mẫu, là phải chịu đựng nhiều gian khổ nhưng ai cũng thiết tha phấn đấu.
Vì Đảng, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình. Tôi đã từng chứng kiến
sự anh dũng hy sinh, xả thân trong chiến đấu của nhiều đồng chí Đảng viên mà tiểu
đội trưởng Vương Tử Hoàng là một ví dụ rất sinh động. Tôi cũng không ngờ, lời
thề trước khi vào đảng đã cùng tôi đi hết cuộc đời.
Trưa ngày hôm đó, khẩu
đội của chúng tôi bước vào một trận lửa thử mới. Máy bay trực thăng của địch đổ
bộ xuống quả đồi bên cạnh và bộ binh của chúng tràn lên hòng chiếm trận địa của
chúng tôi. Bọn địch dùng lực lượng này để giải tỏa cho Plây Cần đang bị vây lấn.
Chúng tôi đã dùng đại liên, súng AK và lựu đạn chiến đấu, đánh trả quyết liệt.
Nhiều đợt tiến quân của địch hòng chiếm giũ trận địa đại liên đều bị đánh bật.
Lần này được cử làm xạ thủ số 1 của khẩu đại liên nên tôi bắn cũng hơi nhiều.
Có lần, Trung đội trưởng Viên Đình Thực nhắc nhở là phải tiết kiệm đạn. Đến chiều,
máy bay địch lại ném bom bắn phá trận địa, sau đó pháo từ Tân Cảnh, Đăc Tô bắn
cấp tập vào quả đồi của trận địa. Công sự trống trãi, cửa hầm xê dịch…Chúng tôi
vừa củng cố công sự vừa ngụy trang và chuẩn bị tiếp tục chiến đấu. Sau đợt bom,
pháo, bọn lính ngụy từng đàn lăm lăm súng AR15 tiến lên trận địa. Trung đội trưởng
Thực vừa dứt lời hạ lệnh, khẩu đại liên rung lên, tiếng nổ xé toạc không khí,
làm cho địch ngã xuống hàng loạt. Cuối cùng, chúng bỏ lại nhiều xác chết nhưng
không thể chiếm trận địa đại liên được.
Qua một ngày quần nhau
chí tử, trận địa đại liên của chúng tôi vẫn được giữ vững. Anh em ai nấy đều mệt
nhoài người, mặt mày nhem nhuốc khói đạn. Đêm dần buông, địch đã rút quân sang
quẩ đồi bên cạnh, anh em tranh thủ ăn uống và sửa sang lại trận địa, súng ống.
Gần khuya, tôi được phân công cảnh giới. Sương núi rơi xuống lành lạnh, tiếng
chim đi ăn đêm kêu khao khao, lẻ loi ngang trời, nghe mà chơi vơi, buồn tẻ quá.
Một mình bồng súng AK đứng gác dưới sao trời, các giác quan căng ra để nhận biết
những động tĩnh xung quanh. Sau khi được anh Hoàng Ngọc Loan thay gác, tôi trở
về hầm, thao thức, bâng khuâng, có lẽ vì xúc động với niềm vui được đứng vào
hàng ngũ đảng viên nên cứ trằn trọc không sao chợp mắt được. Trong đêm khuya, mặc
cho những tiếng pháo của địch bắn cầm canh, tôi nôn nao nhớ đến người thân nơi
hậu phương xa xôi. Ở đó, tôi thì thầm như khẽ nói với cha: “Cha ơi, thế là con
đã làm theo đúng như lời cha dặn, con đã được kết nạp Đảng. Mơ ước này con đã từng
thổ lộ với Cha từ những ngày con còn học cấp III, nay đã trở thành hiện thực rồi
Cha ạ. Con thấy tự hào và vinh dự lắm. Và con cũng thấy trách nhiệm trước mắt
còn nặng nề, lớn lao hơn, nhất là phía trước quả đồi kia, quân địch đang chuẩn
bị đánh chiếm trận địa đại liên. Chỉ buồn là Cha không được sống trên cõi đời nữa
để chia sẻ niềm vui lớn lao này của con, ngày con vào Đảng thì Cha đã không còn
nữa, nhưng con sẽ cố gắng phấn đấu, không sợ gian khổ, hy sinh như lời thề của
con trước chi bộ.” Tôi cũng thầm báo cho các chị, các em và với em Thoa nữa về
sự kiện tôi đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi thì thào với Thoa “…Em
ơi, khi biết tin anh vào Đảng, chắc em cũng vui và vinh dự lắm phải
không? Chắc em nhớ ngày còn học cấp III, có lần hai anh em mình ngồi
cùng nhau ôn bài, anh đã nói với em rằng vào Đảng là nguyện vọng thiết tha nhất
của đời anh. Bây giờ nguyện vọng đó đã trở thành hiện thực rồi, đó là nguyện vọng
của anh và cũng là nguyện vọng của em nữa, đúng không? Giờ này chắc em đang ngủ
ngon và biết đâu đang thao thức lo lắng cho anh thì phải, còn anh thì nhớ em vô
cùng. Biết tin anh được vào Đảng thế nào em cũng lại kể cho mẹ nghe và rồi
mẹ em vui nhưng lại thêm lo lắng cho anh. Anh chỉ mong sao chiến tranh nhanh kết
thúc để anh được trở về quê hương mình, xum họp với gia đình và được gần bên
em. Em ơi. Bây giờ. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều, được về bên em, bên
dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”. Bây giờ anh chỉ
ao ước một điều, được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng
tình, nặng nghĩa với bao đời”
Lòng tôi rạo rực, phấn
chấn lạ thường. Thấy vui và chỉ muốn đem niềm vui ấy chia sẻ với những người
thân ở quê nhà nhưng đường xá xa xôi, cách trở. Muốn báo tin vui ấy cho gia
đình và cho em nhưng lúc này thì không thể, tôi phải tập trung vào trận chiến đấu.
Bà con quê hương biết tin này, chắc cũng vui lắm. Tối đó, tôi thức trắng như
đêm tôi chuẩn bị nhập ngũ. Cả đêm thức mà hôm sau tôi vẫn thấy khỏe khoắn, tỉnh
táo vô cùng. Đảng đã tiếp thêm cho tôi sinh khí và sức lực để tiếp tục đối chọi
với quân thù.
Từ đó cho đến ngày 20 tháng
6 năm 1969 khẩu đội đại liên của chúng tôi chiến đấu liên tục nhiều ngày và đã
bẻ gẫy nhiều cuộc phản kích của địch nống ra từ Plây Cần. Trận địa được giữ vững,
địch liên tiếp bị bộ đội ta vây đánh. Đây cũng là những trận đánh mở màn của những
tháng đầu mùa mưa Tây Nguyên. Mưa cao nguyên tầm tã, dầm dề. Trận địa lầy lội
nhớp nháp, trơn tuột làm cho những trận đánh vận động hay đánh vây lấn thật vất
vả. Những bộ quần áo lính chúng tôi mùa khô thì đẫm mồ hôi, mùa mưa thì đầy bùn
đất, lại ướt nhe ướt nhét, mong một ngày nắng mà chẳng hết mưa.
Đến cuối tháng 6, trung đoàn
28 chúng tôi đã hình thành thế trận bao vây chia cắt Tiểu đoàn 3, trung đoàn 42
của địch. Sau bốn mươi lăm ngày đêm chiến đấu ngoan cường, khẩu đội của chúng
tôi đã góp phần xứng đáng vào chiến công chung của Trung đoàn 28. Lịch sử trung
đoàn sau này ghi lại rằng: “Trung đoàn 28 đã đánh 95 trận (31 trận vận động và
đánh giải tỏa, 10 trận tập kích, 1 trận đặc công, một trận đánh địch phản kích,
3 trận phục kích, 14 trận đánh máy bay, 33 trận pháo kích, diệt 1915 tên, bắt 13
tên tù binh, phá hủy 97 xe các loại, phá hủy và bắn rơi 52 máy bay… trung đoàn
đã đánh quỵ, đánh thất bại 6 tiểu đoàn bộ binh và cơ giới địch”. Những thành
tích ấy là niềm vui của anh em chúng tôi trong mỗi trận đấu. Chúng tôi có dịp
nhìn lại thành quả và phấn đấu cao hơn trong những thế trận tiếp theo.
Vào thời gian này, Tây
Nguyên xuất hiện những khó khăn mới, thiếu lương thực trầm trọng. Đói. Những
chiến sĩ ở tuyến trước như chúng tôi tiêu chuẩn chỉ có bốn lạng gạo trong một
ngày, còn ai ở tuyến sau thì chỉ có một lạng rưỡi. Sức trai trẻ, đang tuổi ăn
tuổi ngủ, đang ngày đêm hành quân, đào hầm, đánh trả quân địch rồi khênh thương
binh, tử sĩ mà chỉ có bốn lạng gạo thì chẳng thấm vào đâu. Điều này không nói
thêm nhiều chắc ai cũng biết là chúng tôi phải chịu đói thế nào. Chiến đấu ngày
càng gian nan, cuộc sống khổ cực vô cùng, cơn đói cứ luôn rình rập, đeo đuổi bộ
đội. Chẳng có con đường nào khác, chúng tôi vừa động viên nhau chịu đựng, vừa
tìm cách khắc phục, san sẻ cho nhau từng miếng cơm manh áo, sợ nhất là đồng đội
của mình bị ốm, hạt cơm chấm muối nuốt không trôi. Chúng tôi cắt cử nhau đi lấy
măng rừng, rau tàu bay, rau môn thục, mộc nhĩ để ăn thêm cho đỡ đói. Lính chúng
tôi hồi đó chủ yếu ăn rau, suốt tuần suốt tháng chỉ co rau và rau. Trong khó
khăn đó, lính chúng tôi cũng có nhiều cải tiến trong bữa ăn. Chúng tôi chế biến
sắn ra đủ loại lương thực, củ sắn được nạo thành từng sợi như bún để hấp và độn
lẫn cơm ăn, ngọn sắn đem xào hoặc nấu canh, đôi khi chúng tôi còn mài sắn ra
thành bột để làm bánh.
Không chỉ có trong chiến đấu
mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, bộ đội Tây Nguyên cũng phải khắc phục
thiếu cơm, thiếu gạo. Đặc điểm chiến trường Tây Nguyên là thế. Trong hoàn cảnh ấy,
đòi hỏi mỗi đang viên như chúng tôi phải có tính sự tiền phong, gương mẫu để ăn
rau rừng, nhường gạo cho các đồng chí bị thương, bị ốm, tuyệt đối không
được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.
Thời gian này tôi được bổ
nhiệm chức vụ Tiểu đội phó. Đây là chức vụ thấp nhất trong bộ đội. Lính chúng
tôi gọi là chức “cùng đinh”, vẫn phải gác, phải làm bất cứ nhiệm vụ gì của người
lính.. Tôi vừa trực chiến đấu, vừa đi hái thêm rau rừng để độn vào bữa ăn cho đỡ
lưng lẻo bụng. May thay, gần nơi chúng tôi trực chiến đấu có rau tàu bay, môn
thục và cả măng rừng nữa. Rau tàu bay có mùi hăng hắc, môn thục nấu không khéo
ăn vào còn bị ngứa họng, măng rừng xơ xáp ăn mãi cũng chán nhưng có nó vẫn dễ
chịu hơn là để bụng đói cồn cào. Ngày đầu tiên đặt chân đến Tây Nguyên, chúng
tôi cũng đã được ăn những ngọn măng rừng, bộ đội vẫn trêu nhau “ăn măng để quen
với rừng”. Khổ nhất và thương nhất vẫn là bạn lính bị ốm, bị sốt rét. Đã suy
dinh dưỡng lại bị cơn sốt hành hạ, thiếu cái ăn, thiếu thuốc men nên cơ thể bị
sút nhanh lắm. Da vàng lại càng vàng. Mặt hốc hác, tái xanh như lá cây. Nhiều đồng
chí sốt đến độ to gan và lách sa, mắt mờ, tai ù, anh em dành gạo nấu cháo cho
những đồng chí ốm. Đói nên lúc nào cũng thèm cơm. Cứ nghĩ đến bát cơm gạo mới
nóng hổi thơm phức ăn với tép đồng quê hay bát canh cua nấu canh mùng tơi mềm
ruột, dằm thêm đôi quả cà pháo muối xổi giòn tan. Nghĩ đến đây chúng tôi chỉ biết
nuốt nước bọt. Tôi cứ tưởng tượng đến ngày trở về quê, chắc ai cũng kêu mình
xanh xao, và rồi được ăn những thứ ngon miệng và ngủ những giấc ngon lành.
Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, nhất là khắc
phục thiếu cơm, thiếu gạo thế này cũng đòi hỏi sự tiền phong, gương mẫu của người
đảng viên. Người đảng viên như chúng tôi phải chịu đói trước để nhường gạo cho
đồng chí ốm. Mình khỏe thì ăn sắn, rau rừng, không được kêu ca phàn nàn trước
quần chúng.
Kết thúc chiến dịch Plây Cần,
đơn vị chúng tôi được lệnh rút về hậu cứ Đăkson. Nhiệm vụ bây giờ là vừa củng cố
đơn vị, vừa tăng gia, huấn luyện và sản xuất. Những người lính chiến đấu chúng
tôi lăn lốc nơi trận mạc nay cần cù cầm rựa, cầm cuốc phát nương, làm rẫy trồng
sắn, trồng ngô, rau… để đảm bảo đời sống của mình trong lúc nguồn lương thực
đang dần dần vơi cạn, chiến tranh thì cứ triền miên kéo dài. Hầu như, ngày đó,
nơi nào có bộ đội thì ở đó đều dấy lên khí thế tăng gia sản xuất. Bộ đội đi đến
đâu thì các nương rẫy mọc lên đến đó. Mục tiêu quan trọng trong trận đánh này
là hạn chế cái đói, cải thiện đời sống cho bộ đội, nhằm chuẩn bị sức lực
cho sự bám trụ lâu dài với Tây Nguyên. Dưới bàn tay chai sạn của người
lính, chỉ sau một thời gian nhiều nương ngô, nương sắn, vườn rau mọc
lên xanh tốt bạt ngàn. Đất đỏ bazan thấm mồ hôi chiến sĩ làm nên những mùa màng
xanh tốt. Làm ra lương thực, chúng tôi giải quyết được một phần cái ăn trước mắt,
lính tráng cũng đỡ đói ăn. Nhưng điều đáng nói hơn chính là bản lĩnh, quyết
tâm, tính sáng tạo của người chiến sĩ Tây Nguyên. Những nơi nào có bàn tay các
anh là nơi đó có sức sống mãnh liệt. Nếu như những người lính không có tinh thần
chịu đựng gian khổ, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo thì làm sao có thể thắng được
giặc Mỹ xâm lược. Lịch sử sư đoàn 10 của chúng tôi có đoạn ghi lại những ngày
này:
“Những nương sắn, bãi
ngô mọc lên xanh ngát dưới bom đạn khốc liệt của quân giặc ở miền núi rừng Tây
Nguyên nói lên đức tính cần cù, trí thông minh, sáng tạo và nghị lực phi thường
của bộ đội ta quyết đạp bằng mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ”
Đang vừa sản xuất, vừa
huấn luyện thì chúng tôi được lệnh vào Đắc Lắc, Phước Long để vận chuyển
gạo từ Campuchia ra .cho Tây Nguyên. Bộ đội phải mở gần 200km đường để vận chuyển.
Ngày ngày, chúng tôi mải miết gùi gạo ra phía bắc Tây Nguyên. Đường đi khúc khuỷu
gập ghềnh, có đoạn lên dốc xuống dốc, có đoạn đường trơn, chỗ lồi chỗ lõm. Đi bộ
đã khó, vận chuyển gạo trong mùa mưa lại càng khó khăn hơn. Do xác định được
nhiệm vụ vận tải lương thực để chuẩn bị phục vụ chiến dịch vào mùa khô sắp tới
nên đồng chí nào cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Quân Mỹ nắm được sự có mặt của
khối chủ lực Tây Nguyên ở vùng núi Phước Long. Chúng đã sử dụng máy bay chiến
lược B52 mở chiến dịch ném bom rải thảm trên suốt cung đường vận chuyển của bộ
đội ta, một số cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh, một số người bị thương. Hạt gạo
cũng như thấm máu của các chiến sĩ. Tuy vậy bộ đội ta vẫn không hề nao núng, vừa
chuyển gạo, vừa tập đánh địch trong công sự vững chắc.
Đúng thời điểm ấy,
ngày 3 – 9 – 1969 mọi người nhận được tin đau đớn nhất: Bác Hồ ra đi ở tuổi 79.
Trong đầu tôi còn vang lên lời kêu gọi của Bác ngày 20 tháng 7 năm 1969, mới
cách đây chưa đầy hai tháng: “Ý chí phải thật kiên quyết, kế hoạch phải thật tỉ
mỉ; kiểm tra phải thật kĩ càng; phối hợp phải thật ăn khớp; chấp hành phải thật
chu đáo; cán bộ phải thật gương mẫu; bí mật phải giữ triệt để” Trong lời kêu gọi
của Bác còn có đoạn: “Quân và dân cả nước ta, triệu người như một nêu cao chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hi sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và
đẩy mạnh cuộc kháng chiến quyết chiến quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết
sạch, đánh cho Ngụy quân và Ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”
Một cái tang lớn mà đất
nước phải gánh chịu. Chúng tôi lặng lẽ khóc thương Bác giữa bạt ngàn Tây
Nguyên. Có người lính ôm cây rừng mà nức nở. Suốt cả ngày hôm đó, không khí của
cả đơn vị như lắng lại. Bữa cơm pha lẫn nước mắt nghẹn ngào, cổ họng tôi nghẹn
đắng lại không sao nuốt nổi. Cứ nghĩ đến Bác là nước mắt lại trào ra. Tôi nhớ lại
lần được Cha dẫn về làng Sen thăm nhà Bác. Tôi nhớ lại mái nhà tranh nơi Bác
sinh ra. Vồng khoai lang. Hàng cau. Cổng râm bụt. Chiếc võng đay. Khung cửi. Tất
cả đều đẫm nước mắt hiện lên trước mặt tôi. Chúng tôi đau buốt khi nghe Tố Hữu
nghẹn ngào đọc bài thơ “Bác ơi” trên Đài tiếng nói Việt Nam:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn
đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn
mưa
Chiều nay con chạy về thăm
Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa
Bác là tấm gương cho
bộ đội chúng tôi noi theo. Nói sao cho hết tình cảm của những người chiến sĩ, của
nhân dân đối với Bác. Lính chúng tôi cảm thấy mình có lỗi với Bác vì chưa đánh
thắng giặc để miền Nam sớm được giải phóng, đất nước sớm thống nhất, đón Bác
vào thăm.
Chiều hôm đó, ở Tây
Nguyên, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức trọng thể lễ truy điệu
Bác. Bộ đội chúng tôi cùng kiên quyết thực hiện tốt lời dạy của Bác: “Đoàn kết,
chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ của Đảng và nhân dân
giao cho. Giữa rừng già Tây Nguyên, chúng tôi nhẩm đọc bài điếu bằng thơ,
khóc Bác của Tố Hữu. Tôi còn ghi bài thơ “Bác ơi” vào trong sổ tay và nhiều đêm
mang ra đọc một mình. Tôi càng tự hào về quê hương Nam Đàn đã sinh ra một con
người vĩ đại và vô cùng giản dị như Hồ Chí Minh. Và, thật đúng như tên một bài
hát thời ấy “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”. Hình ảnh Bác vẫn như tỏa sáng
và vẫy gọi chiến sĩ, đồng bào tiến lên giành những chiến công mới vang dội hơn.
Lòng kính yêu, tự hào về Bác đã đồng hành cùng tôi suốt những tháng năm cực kỳ
gian khổ ấy- nơi vùng đất Tây Nguyên bao la ngút ngàn gió núi…
Sau khi hoàn thành nhiệm
vụ tại Bu-Prăng, Đức Lập, Trung đoàn 28 chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành quân
ra Kon Tum. Hình ảnh bộ đội B3 đánh giặc giỏi, gùi gạo khỏe, vừa sản xuất vừa
chiến đấu tốt đã để lại những ấn tượng cao đẹp cho đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên. Đây là giai đoạn chúng tôi vừa huấn luyện quân sự nâng cao trình độ chiến
đấu vừa tích cực phát nương phát rẫy, trồng sắn, trồng ngô bởi các kho gạo dự
trữ lúc này đã hết. Theo chỉ đạo của tiểu đoàn, bộ phận đại liên ngoài việc học
khoa mục đánh máy bay, bộ binh vận động còn học thêm kĩ thuật bao vây, đánh lấn.
Cánh lính chúng tôi gọi tắt kĩ chiến thuật mới này là đánh vây lấn. Bộ phận đại
liên có nhiệm vụ bắn máy bay, bắn vào lô cốt đầu cầu, đánh bộ binh giặc để nống
ra bảo vệ cửa mở, bảo vệ quân ta tấn công địch. Bộ đội ta nêu cao tinh thần tiến
công địch “đánh đêm không xong thì trụ lại đánh ngày, đánh một ngày chưa xong
thì đánh tiếp trong nhiều ngày”, cho tới khi dứt điểm.
Trung đội đại liên được
tăng cường một số chiến sĩ trẻ và được bổ sung súng đạn. Tôi không còn là anh
lính tò te nữa mà đã được coi là lính cựu dạn dày trận mạc. Trong đơn vị, số
người nhập ngũ cùng ngày như tôi ít dần, thay vào đó là lính trẻ. Hàng ngày
chúng tôi được huấn luyện chiến thuật đánh vây lấn, đánh cơ động, kỹ thuật làm
công sự, cách ngụy trang trận địa giữa đất trống đồi trọc. Ngoài ra, chúng tôi
học cách tiềm nhập trận địa địch, học cả cách đeo bi đông súng đạn, chuẩn bị sẵn
các cây gỗ vừa làm gậy hành quân vừa làm các xà đỡ công sự. Xem cung cách huấn
luyện bài bản và nhiều nội dung như thế, cánh lính làm tham mưu còn đoán rằng
chiến dịch sắp tới sẽ ác liệt đây.
Cuối tháng 2 năm
1970, trung đội đại liên chúng tôi nhận mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch vây lấn Đắc
Siêng nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cơ động của địch. Tuy lúc
này đơn vị đã được tăng cường quân nhưng so với yêu cầu thì còn thiếu. Các chiến
sĩ mới chưa được huấn luyện cách đánh vây lấn. Lương thực, thực phẩm còn khan
hiếm nên sức khỏe bộ đội giảm sút nghiêm trọng. Mỗi người theo tiêu chuẩn được
một lạng gạo một ngày. Anh em ở lâu trong rừng, bị bệnh sốt rét khá nhiều. Số gạo
dự trữ và khẩu phần chủ yếu dành để nấu cháo, bồi dưỡng cho người ốm. Những đồng
chí khỏe thì ăn sắn và rau rừng, môn thục là chính. Vì ăn sắn trường kì thiếu
chất dinh dưỡng nên ai cũng đuối sức, lúc hành quân leo dốc, người nào cũng mệt
mỏi bơ phờ.
Vào thời gian này,
tôi được bổ nhiệm trung đội phó, phụ trách một khẩu đại liên tham gia chiến dịch.
Mỗi ngày thêm một nhiệm vụ, trọng trách được giao ngày một lớn lao hơn. Không
chỉ có trách nhiệm với cuộc chiến đấu mà ngay cả đời sống anh em tôi cũng phải
bao quát, theo dõi sát sao. Nhìn anh em ốm yếu, tôi thương và lo lắng lắm. Sức
vóc thế này, không biết vào trận có trụ vững được không? Khẩu phần ăn thì chỉ
có vậy mà thôi. Tôi bàn với anh nuôi tìm cách xoay sở, chịu khó chế biến các
món ăn, dù chỉ là những bữa canh rau và một số loại củ kiếm được. Thời gian rảnh
thì chế biến lương thực thực phẩm. Sắn được mài ra bột để làm bánh hay thái lát
mỏng để xào mỡ, dễ ăn hơn.
Một hôm trời vừa mưa xong,
tôi và anh nuôi xuống suối mò cua. Lá cây bên đường đậm đà một màu xanh xẫm.
Cây non thì xanh mướt, có cả những mùi thơm thoang thoảng của những loài hoa gì
đó mà tôi không thể nhận biết được. Ở trong rừng rậm này, thi thoảng nhìn thấy
những cánh hoa dại đáng yêu, cứ lung lay trong gió, đến tên gọi cũng không biết.
Tôi nhìn thấy tổ ong mật và gọi anh nuôi, anh nuôi dặn “tránh xa nó ra, nó mà đốt
thì phải lên vài cân”. Vẫn biết là không được sờ vào tổ của nó nhưng tôi có dịp
được ngắm nghía những con ong mật đi kiếm nhụy hoa về làm mật. Hai bên sườn, dưới
đôi cánh đang đập rì rì của chúng là những nhụy hoa kiếm được. Trong cánh rừng
này, có biết bao nhiêu là loài cây, phần lớn cây nào cũng có hoa. Bởi vậy, nhìn
những chú ong nặc nè cắp nhụy hoa trông đáng yêu lắm, có nhụy màu vàng nhạt, có
cái vàng đậm, có cái chuyển sang màu thậm… Chúng làm mật một cách cần mẫn và vô
cùng chăm chỉ. Ban nãy trời mưa, có lẽ chúng cũng trú mưa, giờ mới bay về tổ.
Tôi muốn ngắm nhìn chúng lâu hơn nhưng chợt nhớ đến anh em ở nhà, trông đợi bữa
cơm chiều nên lại khẩn trương cùng anh nuôi lội suối. Anh nuôi nhắc tôi đi cẩn
thận vì những chỗ cỏ mọc, phải để ý kẻo bên dưới là hủm sâu. Từ dưới suối nhìn
lên cao, chỉ thấy mây, thấy trời, gần hơn là rừng với những tán cây xanh cao lớn
rất ấn tượng. Đứng đây nhìn xuống chân núi, tôi không tưởng tượng được rằng
mình đang tọa lạc trên một vị trí cao đến thế. Tất cả cao ngút ngàn. Những chiếc
lá vàng bay vèo xuống nước rồi lại lững lờ trôi yểu điệu và duyên dáng
làm sao. Thiên nhiên thật hấp dẫn. Tôi nhìn sâu vào phía hang, màu rêu xanh xám
và tối hơn. Tôi vui sướng vì sẽ kiếm được những con vật tuy nhỏ bé nhưng khiến
cho bữa ăn thêm đậm đà. Suối nhiều đá, chúng tôi vừa lội bì bỏm, vừa hướng về
các kẽ hang để lật từng hòn đá, tóm những chú cua tám cẳng hai càng nấp trong
đó. Tôi phát hiện một chú cua đang bò ra từ hốc đá, vội vàng chụp lấy thì cha mẹ
ơi, nó cắn tôi đau thấu trời. Tôi kêu ré lên rồi nghiến răng chịu, anh Nuôi hốt
hoảng lại gần tôi. Té ra không phải là cua mà là bọ cạp. Bọ cạp cắn, tuy không
chết nhưng đau thấy ông bà, ông vải. Tôi vác tay chạy vội về doanh trại. Từ bé
đã phải nai lưng mò cua bắt ốc, chẳng bao giờ bị con vật nào cắn đến độ đau buốt
như thế. Thần hồn thần tính để đâu mà nhìn bò cạp hóa cua, chán mớ đời. Chuyện
đi bắt cua bị bọ cạp cắn của tôi trở thành chuyện vui của cả trung đội.
Hà Nội, Xuân Canh Dần 2010
Dương Thanh Biểu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét