Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2016

Một thời trận mạc 1

Một thời trận mạc 1
THAY LỜI BẠT
MỘT TẬP SÁCH: BẮT MẮT,  BĂT LÒNG
Lớn tuổi dễ mỏi mắt, mỏi cổ mỗi khi đọc nhiều, nên thường chỉ chọn những cái “đáng đọc”. Bởi thế, khi anh Dương Thanh Biểu nhờ coi gấp bản thảo tập I cuốn hồi ký: “Một thời trận mạc”, tập I của cuốn Hồi ký, nên tôi đã “lỡ để quên”. Có tới mấy lần anh thúc giục qua điện thoại, mới nhớ ra.
Thật bất ngờ. “Một thời trận mạc” đã hút hả tôi ngay từ những dòng đầu, chương đầu… rồi suốt cả mấy trăm trang liền mạch cho tới chữ cuối cùng. Nói là đọc liền mạch thì cũng chưa hẳn đúng, bởi rất nhiều chỗ, nhiều đoạn tôi phải dừng lại để suy ngẫm, để tự vấn…và quá nhiều đoạn tôi đã bật khóc, phải nén xúc động rồi mới đọc tiếp được. Sau nữa, tôi còn đọc đi, đọc lại tới hai, ba lần có dư. Cho dù ai cũng biết: Hồi ký là chuyện tư riêng của một người, nhớ lại những gì người ta từng trải, từng chứng kiến…được ghi lại bằng chữ, cốt truyền giữ dài lâu… Nghe ra có vẻ lạ. Vì xưa nay những hồi ký “đáng đọc” thường là của những vị quyền uy chức trọng, những vị có công Khai Quốc công thần, đằng này lại chỉ là của một người lính có cái tên bình dị: Dương Thanh Biểu, mới sản sinh dăm bảy đầu sách gì đấy.
Ấy vậy mà “Một thời trận mạc” của Dương Thanh Biểu lại có sức bắt mắt, bắt lòng đến lạ lùng. Suốt 5 chương “Một thời trận mạc”, với: Ký ức tuổi thơ – Nhập ngũ – Hành quân đi B – Chiến trường Tây Nguyên – Trận cuối cùng và ngày trở về lần lần in đẫm dấu ấn trong tôi. Cho dù tất cả đều là hồi tưởng, là chuyện cá nhân, thậm chí rất riêng tư của Dương Thanh Biểu. Tất cả đều sâu lắng, mặn mà đằm thắm, gợi nhớ, gợi yêu thương đến cháy dạ cháy lòng: Về làng Ngũ Phúc trải dài ven bờ sông Lam, nơi tác giả cất tiếng chào đời. Nơi sông, núi ôm ấp lấy xóm làng như mẹ hiền ôm ấp chăm bẵm con thơ. Làng dịu hiền nhưng ăm ắp kỳ tích, sự tích của những chiến công. Làng với biết bao kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ, của đời người. Làng như chiếc nôi kỳ diệu, như tổ ấm của gia đình, của dân làng Ngũ Phúc để Dương Thanh Biểu và bè bạn vì nó mà biết sống, biết nghĩ suy, biết xếp đặt lợi ích chung riêng, hăng hái lên đường ra trận, cứu nước. Hồi tưởng của Dương Thanh Biểu về làng Ngũ Phúc một thời dân tộc hừng hực khí thế chống Mỹ; về hậu phương với tiền tuyến, về người ở lại với người ra đi sẽ là khúc bi hùng cho thế hệ sau của làng nhớ về, biết về: Đất nước của ta có những thời như thế! Cho dù hôm nay và mai này muôn vạn lần đổi thay, xin đừng bao giờ quên đi quá khư: Quá khứ của tình người – Tình Đất Nước – Người đi, người ở gắn bện, gửi trao nhân lên ý chí cách mạng phi thường trong mỗi con người (ấy là tôi-đọc rồi, tôi nghĩ thế).
Ngày ấy – Dương Thanh Biểu hành quân vào chiến trường miền Nam, tức đi B. Đem theo nỗi nhớ của làng, của tổ ấm gia đình, của người yêu…Biểu vượt lên gian khổ, khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh…Nhiều lúc lung lay, sợ hãi, cái chết kề bên, gia đình mất mát nặng nề, ngỡ tưởng gục ngã…nhưng rồi những kỷ niệm  lại vực anh đứng dậy, vượt lên… Tôi bật khóc, bởi trong đêm mưa rả rích, sau trận chiếm lĩnh đồi Cháy để đánh địch đổ bộ xuống Động Nóc, Biểu cùng 3 chiến sĩ nữa được lệnh của Chính trị viên Nguyễn Hữu Thu chuyển thi hài tử sĩ Nguyễn Hồng Sơn, quê ở Hưng Lợi, Hưng Nguyên qua bờ Bắc sông Bến Hải trước khi trời sáng. Với lời dặn dò kỹ lưỡng: “…Các đồng chí cố gắng bám sát nhau đi, giữ bí mật, đề phòng thám báo, biệt kích mai phục và thú rừng…Vì tình đồng đội, các đồng chí không được khạc nhổ trước anh linh đồng chí mình”. Trời tồi như mực, mưa trơn, đường dốc, cáng tử sỹ nặng…Nước của xác tử sỹ trộn với nước mưa theo đòn cáng chảy vào người nhơn nhớt. Tới bờ Nam Bến Hải, mưa như trút. Nước sông dâng cao. Các chiến sỹ phải buộc cáng cẩn thận vào cây, rồi thay phiên nhau bồng súng gác thi hài tử sỹ, chờ cho mưa ngớt, nước sông rút để qua”…Khâm phục Biểu và đồng đội của anh nơi chiến trường Tây Nguyên với những trận vây lấn cứ điểm Plâycần, Đăk Siêng (Kon Tum) tác giả kể lại giàu tượng thanh, tượng hình nên khi đọc cảm giác mình cũng đang trong chiến trận cùng với các anh. Ở đây ta được chứng kiến những tấm gương quyết chiến quyết thắng đến hơi thở cuối cùng, viên đạn cuối cùng của Tiểu đội Trưởng Vương Tử Hoàng…của Loan, Hồng, Thực, Biểu sống chết vi nhau, giữ vững trận địa đến cùng…
Kết cục, vì vết thương quá nặng, Biểu phải tuân lệnh trên, rời Tây Nguyên năm 1973 ra Bắc điiều trị. Lúc trở về quê thì bao buồn đau ập đến: Gia cảnh tan nát. Cha chết vì bom. Nhà cửa tiêu điều. Chị gái vẫn ở vậy. Các em đi ở đợ. Người yêu cũng chết vì bom Mỹ mà cho tới lúc này Biểu mới hay biết!…
Nhưng rồi tình làng, nghĩa xóm trong nghèo nàn yêu thương…Nhưng rồi ý chí của những ngày ở chiến trận đã vực dậy,dồn tụ nên sức mạnh để Biểu lại gắng vượt lên, bước tiếp vào trận chiến mới –Cuộc chiến không tiếng súng.
Dù những trang viết rất kiệm từ, mới chỉ ghi lại “một thời” trong cuộc đời của mình, nhưng cái dễ dàng đi vào lòng người đọc giống như một áng văn, bởi tác giả kể thật, nói thật tâm tư, suy nghĩ của mình ở những thời khắc cam go nhất, không hùng biện, không che đậy và cũng chẳng hề lên gân, lên cốt như đâu đó ta thường gặp.
Tác giả chưa phải là nhà văn, nhưng có lẽ cuộc sống thực đã tạo cho Biểu giàu cảm xúc. Sự rung động của con tim người viết đã chảy vào dòng chữ. Viết từ con tim, từ trải nghiệm cuộc đời, nên thấm đẫm chất nhân văn. Tin rằng “Một thời trận mạc” sẽ lưu giữ lâu bền trong lòng người đọc, sẽ lan tỏa rộng rãi với đời, dù đấy chỉ là những trang hồi ký của người chiến sỹ chưa có tên tuổi trên văn đàn.
Ấy là suy nghĩ của tôi. Xin đừng nghĩ đây là lời quảng cáo sách. Bởi cảm nhận là quyền của bạn đọc. Rất có thể người đọc còn nhận ra nhiều điều sâu xa hơn thế ở “Một thời trận mạc”!
Nhà văn-Nhà báo
Nguyễn Uyển

MỘT THỜI TRẬN MẠC
Chương I:
Kí ức tuổi thơ
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
(Quê hương- Thơ Đỗ Trung Quân)
Tôi muốn mở đầu tập hồi kí bằng mấy câu thơ ngọt ngào ấy. Ai xa quê hương mà chẳng thương chẳng nhớ, thứ tình thương không thể dễ dãi phơi bày với ai, nó ngậm ngùi lắng sâu vào tiềm thức mỗi người như rễ cây bám vào đất mẹ. Ai cũng có trong mình một quê hương gắn với những kỉ niệm buồn vui tạo thành miền nhớ, miền thương. Và, làng Ngũ Phúc, xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An,  quê hương của tôi chính là niềm thương miền nhớ ấy.
Gia đình tôi có sáu chị em như 6 cái tàu há mồm. Cha, Mẹ tôi ngày ngày làm lũng ruộng đồng vất vả. nuôi nấng mấy chị em tôi. Tôi còn bé, mỗi lần bón cơm, Mẹ thường bảo “Ăn khỏe, chóng lớn còn làm giúp Cha giúp Mẹ”, rồi có lúc Mẹ nựng: “Con trai gắng học thành tài, sau này Cha, Mẹ còn trông mong”. Nhà tôi nghèo và thiếu thốn trăm bề nhưng ước mơ lớn nhất của Cha, Mẹ tôi là cho chị em tôi đi học nên người. Những lúc rảnh, Cha Mẹ tôi vẫn kể về gia đình, về ông bà nội ngoại đã vất vả nuôi Cha, Mẹ tôi khôn lớn như thế nào. Cũng vì nhà nghèo, lại đông con, phải lo từng bữa cơm nên không thể có điều kiện cho con đi học. Tôi cũng thích đi học lắm. Tôi còn nhớ, Cha làm cho tôi cái bảng ở gần góc sân, viết mẫu một số chữ cho tôi nhìn để viết theo. Tôi bắt chước nhưng chẳng có nét nào giống được nét chữ của Cha. Tôi viết lên đó mà toàn những nét chữ cong cong, nguệch ngoạc, viết lên bảng chán thì tôi vẽ xuống đất. Vết que cày xuống nền đất, tôi viết chữ kéo dài khắp nhà. Viết mãi chữ O nhưng chẳng có chữ nào tròn trịa, chữ nào cũng bị méo mó, mặc dù tôi đã cố gắng, đường cong chưa được nối liền nhau đã thấy bị méo, tôi chống chế: “Sau này đi học, cô giáo dạy, con sẽ viết đẹp hơn”. Cha Mẹ cười hiền từ và xoa đầu tôi.
Tôi còn nhớ cảnh cha mẹ tôi chân lấm tay bùn từ sáng sớm đến chiều tối, khi ông mặt trời đã khuất sau dãy núi Thiên Nhẫn xa mờ mới về. Theo lời chị Liên, thời bầy giờ, Cha Mẹ tôi làm khá nhiều ruộng. Chủ yếu trồng giống lúa ré, lúa lốc, gạo rất thơm, ngon nhưng thời gian một vụ là sáu tháng, năng xuất rất thấp. Mỗi năm chỉ cấy một vụ chính là vụ chiêm. Năm nào bị chuột, sâu hại hoặc hạn hán thì coi như mất toi. Còn vụ mùa thì rất bấp bênh... Nam Lộc quê tôi lại hay bị lũ, lụt. Tôi còn nhớ trận lụt tháng 8 năm 1954, cả xã bị ngập trong nước. Gia đình chúng tôi và bà con phải vào trong rú Trọc để ở. Cả xã bị trôi mất nhiều nóc nhà. Hầu như năm nào gia đình cũng chỉ đủ ăn 6 tháng. Thời gian còn lại vào dịp giáp hạt, ngày 3, tháng 8 là cả nhà không còn cái ăn. Để phòng giáp hạt, Mẹ tôi thường chuẩn bị một chum khoai lang đã được thái mỏng, phơi khô, lúc nào hết gạo, lấy khoai ra nấu nhừ để ăn cho đỡ đói. Có lúc phải ăn cả củ chuối và rau má.
Thế mà số phận tôi chẳng được may mắn như những đứa trẻ khác. Mẹ tôi đột ngột ra đi khi tôi còn quá nhỏ. Suốt ngày, suốt tháng tôi ngơ ngác vào ra trong căn nhà vắng bóng Mẹ. Mới hôm nào, thấy cái nón nhấp nhô của Mẹ ngoài đầu ngõ, chân tay còn lấm bùn đen, tôi và các chị, em đã thi nhau chạy ra đón Mẹ. Người Mẹ đẫm mồ hôi mà chúng tôi cứ tíu tít như những chú gà con lách tách. Rồi những khi Mẹ ngồi sẩy, sàng những hạt đỗ, hạt thóc, tôi vẫn thường đứng bên Mẹ, mặc cho Mẹ tha hồ quát và nhắc nhở, vì sợ vỏ lúa, vỏ đỗ dính vào người sẽ bị dặm và mẩn ngứa. Mặc cho trời nóng rát gió Lào, trước bậc thềm nhà, gần cái võng Mẹ vẫn ru những điệu hát ầu ơ nhẹ nhàng êm ái và ngồi quạt cho chúng tôi trong những giấc ngủ ngon lành, thế mà giờ đây Mẹ không còn nữa!
Tôi nhìn Mẹ nằm ngay ngắn trên chiếc giường giữa nhà. Mẹ như đang chìm vào giấc ngủ ngon lành. Cha và chị em tôi ngồi ôm nhau khóc bên giường mẹ như đàn gà vỡ tổ, mắt đỏ hoe và nhợt nhạt tựa hồ như đã cạn ráo tự bao giờ. Mẹ mất lúc tôi vừa 6 tuổi. Cái tuổi lẽ ra luôn được đôi tay mẹ vỗ về, chiều chuộng. Nhưng lúc này tôi phải mặc áo tang với vành khăn trắng trên đầu và ngơ ngác nhìn mọi người.  Mẹ nằm im bất động giữa mọi người, khuôn mặt Mẹ hiền từ, đôi mắt nhắm nghiền không thể mở to nhìn chị em chúng tôi được nữa. Mẹ không nói và hôn tôi như mọi ngày, bàn tay Mẹ cũng không còn cử động và xoa đầu tôi được nữa. Tôi gào lên: “Mẹ ơi, Mẹ đừng đi đâu... Mẹ đừng chết...con nhớ Mẹ lắm... con yêu Mẹ. Mẹ ơi...”. Nhưng tôi cũng không làm gì được để Mẹ trở về với chị em tôi. Đưa mẹ đi có bà con họ hàng, cô bác xóm làng. Ai cũng khóc, cúi đầu bước đi lặng lẽ. Cha ôm tôi vào lòng, nước mắt chảy dài. Tôi cũng chưa thấy Cha khóc bao giờ. Thế mà hôm nay đôi mắt Cha trĩu nặng, trũng xuống sâu hoẳm.
Mẹ ra đi làm cả tuổi thơ tôi trống vắng. Tôi sống trong tình thương của Cha, của chị, của các em và người thân bên cạnh, nhưng làm sao tôi hết nhớ Mẹ, làm sao để tình thương tôi được trọn vẹn. Những ngày đầu, tôi nhớ Mẹ, cứ đứng tựa cửa nhà mà khóc hoài. Tôi như đứa trẻ lơ ngơ, chẳng còn thích thú gì trò chơi của đám bạn, cứ nghĩ đến mỗi lần đi đâu về hoặc vào ra không thấy bóng Mẹ, là tôi khóc. Có đêm tôi mơ thấy Mẹ trở về trong ngôi nhà của Cha con chúng tôi, Mẹ ôm tôi và khóc nhạt nhòa, tôi được Mẹ bế trên tay và thiếp đi lúc nào không biết, nhưng khi tỉnh dậy thì không còn thấy Mẹ ở bên nữa, tôi lại khóc. Những lúc đó chị gái tôi dỗ dành: “Nín đi em. Mẹ đang đi chợ mua bánh cho em đấy”. Tôi giẫy lên: “Không phải đâu. Mẹ ơi. Mẹ đâu rồi”…Chị gái ôm tôi vào lòng mà nước mắt tuôn trào làm ướt cả má tôi. Chi Liên lấy vạt áo lau nước mắt cho tôi. Tôi biết chị cũng rất nhớ Mẹ. Trong đêm khuya, tôi chạy lại nơi Cha nằm. Lúc này Cha tôi cũng chưa ngủ. Cha ôm tôi vào lòng vỗ về, xoa đầu động viên tôi. Cha nhìn vào hư không với ánh mắt buồn rười rượi, có lẽ Cha không muốn khóc trước mặt tôi lần nữa. Tôi biết, Cha yêu thương Mẹ, yêu thương chị em chúng tôi lắm. Mẹ mất, mọi gánh nặng của gia đình lại đổ dồn lên đôi vai vốn đã gầy guộc của Cha. Tôi không còn thấy Cha có thời gian ngồi kể chuyện cho chúng tôi nghe như trước nữa. Có những chiều, nhìn Cha gánh lúa về, cái đòn gánh cong oằn trên lưng, chiếc áo nâu bị sờn rách hai vai, mồ hôi làm áo ướt sũng từ vai áo xuống lưng. Có những đêm bị cảm mệt, Cha nằm rên hừ hừ, nhưng sáng dậy Cha đã quang gánh ra đồng. Tuổi càng cao, sức Cha càng yếu, bước chân thêm chậm chạp nhưng công việc của Cha chẳng san sẻ cho ai. Cha vất vả biết nhường nào. Tôi rất thương Cha, mong ngày mong đêm cho chóng lớn để đỡ đần, Mẹ, Cha.
Tôi là con trai duy nhất nhưng không vì thế mà được cưng chiều. Hai chị gái của tôi ngày càng lớn cũng chẳng học hành được bao nhiêu. Chị Liên là cả, chị Lam là thứ. Hai chị giống nhau như lột, khuôn mặt trái xoan giống Cha, nuớc da trắng hồng giống mẹ, hai chị ngày càng lớn và xinh xắn có tiếng trong làng Ngũ Phúc. Nhưng lúc nào cũng theo Cha ra đồng. Tôi cũng chẳng hiểu ra làm sao, cả nhà làm quần quật suốt ngày mà không đủ ăn. Có những hôm tôi ngủ dậy, trong nhà vắng tanh, tôi biết Cha và hai chị đã đi làm từ sáng sớm. Nồi cơm thổi vẫn còn nóng trên bếp, Cha và hai chị phần cho tôi. Cha và hai chị chẳng để tôi đói bao giờ. Có hôm ngủ dậy, tôi thấy hai Chị đang cuốc đất trồng rau ngoài vườn, khi thì tưới cây, khi thì cắt những bó rau lang về băm cho lợn ăn. Tôi hào hứng giúp hai chị một tay nhưng các chị không muốn cho tôi làm. Chị bảo tôi vụng về, lỡ dao xén vào tay là chị lại bị mắng lây. Trong hoàn cảnh ấy, tôi chỉ biết đỡ đần chị những việc như quét cái nhà, cái sân, rửa ấm chén. Tôi vừa làm vừa ngó cổ ra chỗ chị ngồi để hóng chuyện. Tiếng chị băm rau cho lợn nghe “phập phập” vui tai. Chị làm việc gì cũng nhanh và đâu vào đó, chỉ một loáng là xong. Buổi sáng tôi mới tranh thủ đọc bài, viết bài, giải toán, đến trưa đã thấy chị cơm nước tươm tất, lợn cũng no căng bụng, nhà cửa, sân vườn  sạch sẽ, chẳng còn thứ gì để tôi phải làm, tôi phục chị lắm.
  Được đi học là cả một hạnh phúc lớn lao đối với tôi, trong khi có biết bao những người bạn bằng tuổi tôi phải chăn trâu, cắt cỏ, trông em giúp gia đình, suốt ngày lầm lũi, chân tay lấm láp những vết xước, vết chai lì…không thể đến trường. Nhìn tôi, nhiều đứa ao ước. Có đứa nói: “ Mày là đứa sướng nhất rồi”!- Có đứa nói thế. Được đi học ai chẳng thích, bởi vậy tôi thấy mình càng phải quyết tâm hơn để cho Cha vui. Cha tôi luôn động viên tôi cố gắng học hành giỏi giang, chị em yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Hai chị gái tôi ngày càng chăm chỉ lo toan mọi công việc. Từ ngày Mẹ mất, các chị ra dáng người lớn lắm. Có lẽ các chị là con gái chăm chỉ, khéo léo đảm đang mọi việc trong gia đình, thành thử hai chị rất quí và chiều tôi. Từng món ăn do các chị nấu chẳng khác gì Mẹ làm. Có lẽ do chị em tôi sớm thiếu vắng tình thương của Mẹ mà khôn lớn hơn tuổi. Chị thương Cha và chúng tôi bằng cách riêng của mình. Tôi còn nhớ, có lần Cha bị sốt li bì nằm trên giường, tôi lúng túng chẳng biết làm gì. Chị Liên ngồi bóp đầu, trán cho Cha, rồi chị sai tôi ra vườn hái cho chị nắm lá tía tô, hành, rửa sạch nấu cháo cho Cha ăn. Nồi cháo chín dưới bếp khi bưng lên mời Cha tỏa mùi thơm ngon, tôi mới thấy các chị thật đảm, chẳng biết chị học được những bài thuốc đó của Mẹ từ khi nào. Có lần, tôi sang nhà bạn chơi, không để ý nên tôi đã bị con chó nhà bạn đợp vào chân chảy máu, tôi cho đất bột vào vết thương cho cầm máu, định giấu chị và Cha nhưng vết cắn đau buốt và sâu quá khiến tôi đành khai thật, chị mắng tôi và bảo: “Bị chó cắn là nguy hiểm lắm”! Nói rồi, chị rửa vết thương cho tôi bằng nước muối để sát trùng và nặn máu ở những vết răng chó cắn ra. Tôi bị một trận đau nhớ đời.
Mẹ tôi mất được một thời gian thì Cha tôi tục huyền. Tôi nghĩ đến cuộc sống trước mắt đã khó khăn rồi sẽ thêm khó khăn hơn, rồi tôi lại nghĩ sẽ bị dì quát mắng, hắt hủi chị em tôi như mụ dì ghẻ trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám mà tôi được học từ lớp một. Vì vậy, thời gian đầu tôi buồn thiu, cứ ra vào lầm lũi nhìn Cha mà không dám nói vì sợ Cha buồn. Nhưng rồi, tất cả đều khác với những gì tôi tưởng tượng và lo lắng .Về nhà tôi, dì lo toan cửa nhà chu đáo hơn. Chị tôi cũng bớt vất vả đi nhiều, thấy vậy tôi cũng thấy quí dì hơn. Dì thương tôi như tình thương của một người mẹ. Nhưng thật không may, dì sinh được em gái thứ tư thì bị mắc bệnh thần kinh. Cuộc sống của gia đình tôi bị đảo lộn, ai cũng sợ và lo lắng. Tôi thương dì mà chẳng biết làm cách nào để dì khỏi bệnh. Mỗi lần lên cơn là mỗi lần dì xé hết quần áo mặc trên người, trong nhà có gì là dì vơ lấy, đập vỡ hết. Nhiều lúc, Cha tôi phải nhờ người trói chân, tay dì lại. Mỗi lần dì lên cơn là gia đình tôi như có đám tang, căng thẳng, và sợ hãi. Nhiều lúc, nhìn dì bị trói, tôi cứ như người có lỗi, thương dì chảy cả nước mắt. Cha tôi là người vất vả nhất, thỉnh thoảng có anh Loan (con bác ruột) sang trông dì giúp Cha. Căn bệnh quái ác hoành hành dì tôi đến tận lúc cuối đời.
 Xã Nam Lộc quê tôi có 17 xóm và được chia thành 4 làng. Từ xóm 1 đến xóm 5 gọi là làng Vạn Thọ; từ xóm 6 đến xóm 13 gọi là làng Vạn Lộc; từ xóm 14 đến xóm 15 gọi là làng Đặng Xá; xóm 16 và 17 là làng Ngũ Phúc- nơi tôi cất tiếng khóc chào đời. Làng tôi nho nhỏ trải dọc ven bờ sông Lam, chúng tôi thường gọi là sông Cấy. Tôi thấy cả sông cả núi như ôm ấp lấy làng tôi như mẹ hiền ôm ấp con thơ. Sông Cấy ở phía đông, phía tây là dãy núi Thiên Nhẫn. Cứ mỗi độ hè về, dãy núi che chắn những trận gió Lào nóng rát, còn dòng sông kia sẽ thổi lên những làn gió hiu hiu như tắm mát cho cái làng Ngũ Phúc. Tôi nghĩ, nếu có người nào vẽ cảnh quê hương tôi thành những bức tranh thì đẹp lắm đấy. Hội tụ của làng Ngũ Phúc có sông, có núi, đâu đâu cũng một màu xanh trù phú.
Thiên Nhẫn là tên một dãy núi nằm giáp ranh giữa các huyện Hương Sơn, Đức Thọ của tỉnh Hà Tĩnh với huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh xâm lược thế kỷ thứ 15, sau khi rút quân vào vùng này, Lê Lợi đã cho xây dựng trên núi Thiên Nhẫn một thành đá chạy dài hàng trăm mét gọi là thành Lục Niên. Dấu vết còn lại của thành Lục Niên hiện nay là một dãy đá được xếp dựng đứng trên đỉnh núi. Sau cuộc kháng chiến thành công nhân dân Tây Sơn đã xây dựng đền Trúc thờ vị Anh hùng dân tộc ngay bên bờ sông Ngàn Phố. Năm 2004, đền Trúc đã được Bộ Văn hoá Thông tin công  nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Cha còn kể cho tôi nghe, dãy núi Thiên Nhẫn này đã từng in dấu chân của người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung- Nguyễn Huệ mấy lần đi qua trong sự nghiệp đại nghĩa xóa bỏ sự lộng hành của chúa Trịnh và dẹp tan quân xâm lược Mãn Thanh. Dân quê tôi thời ấy đã sớm nhận ra chính tà và hết lòng ủng hô Tây Sơn. Dưới chân núi Thiên Nhẫn, Quang Trung đã cùng Nguyễn Thiếp đàm đạo bàn luận về thời cuộc và đưa ra những quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước. Hiền sĩ Nguyễn Thiếp từng được vua Quang Trung tin cậy trao phó Viện Sùng chính. Đây là một công trình văn hóa tuy đơn sơ nhưng  tiêu biểu cho sự tương tri, tương đắc giữa Quang Trung hoàng đế và La Sơn phu tử. Núi Thiên Nhẫn,  nơi còn lưu lại bài thơ của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp:
Chi chít liền những rú,
Trông như ngựa chạy vòng
Miền nam mờ ngọn núi,
Cõi bắc uốn khúc sông.
Bóng chùa Thiên Nhẫn ánh.
Suối vọt Lục Niên kề
Tùng cúc nay còn đó
Phong trần vẫn chưa về...
Vẫn còn đây những di tích ghi nhận các sự kiện lịch sử ấy như đền Trong, đền Ngoài...Thủa chăn trâu, chúng tôi đã nhiều lần vào các đền này để đánh trận giả.
Dãy Thiên Nhẫn trải dài đến làng Ngũ Phúc thì chia làm hai nhánh, gồm hai dãy rú, bà con gọi là rú Trọc và rú Lại Hái. Dưới chân hai núi này là con Khe Hương, nước chảy quanh năm chẳng bao giờ cạn. Khe Hương rất đẹp và thơ mộng. Cái đẹp của thiên nhiên nhẹ nhàng, thanh mát. Dù nắng rát gió Lào có hanh hao, gay gắt vào những ngày hè oi bức nhưng đứng bên con nước này thì mọi cảm giác đó đều không còn nữa. Cái mát của gió thiên nhiên ban tặng, của những tán lá cây rung rinh râm mát, của hơi nước tỏa ra như xua tan đi tất cả oi bức.
Mỗi lần đến đây, tôi thường dừng chân thật lâu để ngắm nhìn những hàng cây bên Khe Hương như ngắm một điều kì diệu, mà tôi không thể giải thích nổi. Dưới làn nước trong xanh là tầng tầng lớp lớp đá cuội đủ màu sắc đẹp như ngọc bích. Thi thoảng có những bãi cát vàng trải dài dọc bờ khe như tấm lụa hồng gợn sóng. Hai bờ khe là những hàng cây cối tốt tươi quanh năm. Đó là những hàng cây Mưng – ngoài Bắc gọi là cây Lộc Vừng - xum xuê, trải ra một màu xanh bất tận. Bởi thế, Khe Hương còn có tên là Khe Mưng. Những buổi trưa hè oi ả, lũ con nít chăn trâu chúng tôi thường tụ tập bên bờ khe, dưới các tán cây Mưng để tán gẫu. Đứa nào cũng trần truồng như nhộng, leo lên và bám vào các cành Mưng rồi thi nhau lao xuống nước như mũi tên. Chúng tôi nhảy từ trên cành cao, đầu xuống trước, hai tay dọc theo thân người, khi tiếp nước chỉ phát ra tiếng động rất khẽ. Khi toàn thân người đã xuống dưới nước thì lượn một vòng như con rái cá, sau đó ngoi lên mặt nước để thở. Tiếp đó bơi vào bờ và lại leo lên cây Mưng và lao tiếp. Cứ như vậy, chúng tôi thi nhau nhảy cho đến khi mệt thì dừng. Đây là trò chơi nguy hiểm nhưng chúng tôi không thể bỏ được.
Cứ mỗi độ xuân về hoa Mưng đua nhau khoe sắc thắm. Hoa Mưng có sức gợi nhớ bằng thứ hương thơm, ngọt ngào quyến rũ nhưng điều kỳ diệu và thật ấn tượng, bắt mắt nhất với mọi người là bởi thứ hoa này có màu đỏ rực rỡ. Hoa nở thành từng dây, mọc thành từng chùm, mỏng mảnh đung đưa, lay nhẹ, cựa mình trong gió rồi thi thoảng rủ xuống mặt nước đẹp như người con gái đang làm dáng, đứng khoe mình trên dòng nước biếc xanh. Những cánh hoa hình thù giống như những cây tăm đỏ, chụm lại với nhau dưới cuống, còn cánh thì nở bung ra như khoe hết màu đỏ thắm. Không phải ai cũng thấy hoa Mưng nở rộ bởi loài hoa này chỉ nở vẻn vẹn trong hai đến ba tuần vào độ giữa xuân và thu. Hoa Mưng nở vào ban đêm để rồi sẽ tàn lịm khi ông mặt trời thức dậy, như giận dỗi, làm nũng với thời tiết khắc nghiệt của gió Lào. Hoa Mưng đỏ xen lẫn màu xanh của lá, màu của nước, màu của mây trời, lại được những tia nắng thu nhè nhẹ chiếu qua biến Khe Mưng  thành bức tranh rực rỡ sắc màu. Khe Mưng như kiêu hãnh bởi vẻ đẹp huyền diệu của mình và làm cho cảnh sắc nơi đây vừa như một bức tranh thiên nhiên cổ kính, vừa như một miền quê yên ả, thanh bình, gợi nhớ, gợi thương.
Khe Mưng bắt nguồn từ xã Thanh Lâm huyện Thanh Chương, chảy qua xã Nam Lộc huyện Nam Đàn để rồi cuối cùng chảy ra sông Lam, như tô thêm kỳ vĩ cho con sông.
Sông Lam. Đó là một phần quê hương yêu dấu của tôi và cũng là một phần tâm hồn tôi. Sông chảy từ thăm thẳm đại ngàn về bao la biển cả trong cuộc hành trình hàng triệu năm, qua những đổi thay biến động dữ dội của trời đất và những thăng trầm dâu bể của con người.
Huyện Nam Đàn quê tôi được dòng sông Lam hiền hòa và xanh biếc phân chia làm hai, từ Nam Thượng đến Nam Cường để lại đôi bờ như anh em ruột thịt. Những lúc mưa to gió lớn, dòng sông mênh mang, ngầu đục chảy cuồn cuộn như con thú dữ, cuốn trôi những gì có thể, nhưng đôi bờ vẫn nắm chặt tay nhau gồng mình chống đỡ. Trời quang, mây tạnh, bên lở, bên bồi, để lại những lớp phù sa mát ngọt. Mùa nước cạn, dòng sông biêng biếc một màu xanh hiền hoà, mát dịu, đôi bờ lại vang ngân những khúc dân ca nặng tình, nặng nghĩa.
Cứ chiều chiều, con sông lại không thể vắng mặt những đứa trẻ chúng tôi. Ồn ào và líu nhíu. Sau cả ngày mải chơi, chăn trâu, được ngụp lặn dưới con sông này là đã thấy mát lẹm cả người. Mọi mệt nhọc, nóng bức như tan biến đi. Chỉ cần cởi áo vứt trên bờ là đứa nào đứa nấy thi nhau nhảy ào xuống sông. Mặt sông sóng sánh nước, những chỗ chúng tôi nhảy “tùm” thì nước bắn lên tung tóe. Có lúc chúng tôi còn thi nhau nhảy xem ai tạo thành tiếng đập vào nước kêu vang. Sông ầm ĩ lẫn trong tiếng chúng tôi đùa nhau. Chơi ở trên bờ như thế nào thì chúng tôi chơi dưới nước cũng như vậy. Những đứa nhỏ chưa biết bơi thì đứng trên bờ vừa nhìn vừa học tập đàn anh, chân muốn chạm vào nước rồi nhìn lớp đàn anh chị trổ tài những điệu bơi bướm, bơi ếch, bơi chó, bơi sải... Quê tôi, là con trai hay con gái, ai cũng biết bơi thì phải, mọi người bơi giỏi lắm, bé như chúng tôi đã biết bơi rồi. Có lẽ vì sông Lam chẳng bao giờ biết ngừng chảy theo dòng đời. Từ lúc nắng chiều nhạt cho đến khi nắng tắt hẳn, chúng tôi về nhà thì bờ sông mới chìm vào yên lặng. Sau đêm trăng thanh, gió mát, sông lại chờ đợi những tia nắng vàng óng ả. Những ngày mưa, sông đầy ắp nước. Sông cũng cho nhiều tôm cá, dân quê tôi hàng ngày vẫn thường trực bên chiếc thuyền của mình khi đi đánh cá ven sông. Những con cá bụng tròn căng, trắng phau, thân phận rủi ro đâm đầu vào lưới.
Sông cho nước, cho nhiều tôm cá nên quê tôi có thêm nghề chài lưới. Những con thuyền rẽ sóng đi qua, buồm cánh én đầy gió giữa mênh mang trời nước, vút bay lên giọng hò trong trẻo của xứ Nghệ:
“Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục.
 Mới biết cuộc đời răng là nhục, là vinh.
 Thuyền em lên thác xuống ghềnh.
 Nước non là nghĩa, là tình ai ơi…”.
Câu hò da diết bên sông quen thuộc như những lời ru của mẹ đưa tôi chìm vào giấc ngủ trưa hè. Cứ mỗi lần ra sông, câu hò lại văng vẳng bên tai, lướt cùng với con thuyền trôi trên sông nước. Nghe mãi âm điệu của câu hò thấy thân quen, thắm nghĩa thắm tình. Xa quê, mà thiếu đi câu hò ấy, lại  nao nao nỗi buồn vô cớ. Thấy nhớ quê hương da diết. Bây giờ, cứ mỗi lần nghĩ lại những ngày thơ ấu, tôi thấy xao xuyến, bùi ngùi và thèm khát tuổi thơ đầy ắp những kí ức xưa, ngọt ngào, sâu lắng. Tuổi nhỏ, tôi chưa cảm nhận được tình ý sâu sa của câu hò nhưng nghe nhiều lần đã thuộc lòng thành bài bản, ngân nga khúc dạo và thấy yêu con sông Lam, yêu ngôi làng Ngũ Phúc bé nhỏ của tôi hơn.     
Một hôm, tôi tò mò hỏi Cha:
- Cha ơi, sông Lam chảy từ mô tới?
Cha khẽ cười, lấy tay chỉ về dãy núi mờ xa ở phía mặt trời lặn, âu yếm nói:
- Chỗ nớ. Con có nhìn rõ những dãy rú xa ngái tê không? Đó là dãy Trường Sơn. Sông Lam bắt đầu chảy từ chỗ nớ, con ạ!
- Răng lại gọi rú nớ là Trường Sơn rứa cha? -Tôi giật giật tay Cha hỏi lại.
- Người xưa đặt thế. Cũng như rú ở quê mình có tên là Thiên Nhẫn, Đại Huệ đó con. Con cố gắng học lên sẽ tìm hiểu thêm được nhiều điều!
Sau này, những bài giảng của thầy cô và những trang sách đã giúp tôi hiểu rõ hơn về con sông Lam và quê hương Nam Đàn của mình. Tôi thấy quê hương mình được nhắc đến nhiều trong sách vở. Từ những trang sách văn học cho đến những bài địa ly, lịch sử…
Thì ra, sông Lam bắt nguồn từ vùng Nậm Căn (Lào), của dãy Trường Sơn trùng trùng, điệp điệp. Phần chính của sông chảy qua Nghệ An, phần cuối qua Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc hợp lưu với sông La từ Hà Tĩnh, qua Đức Thọ, Nghi Xuân, Hồng Lĩnh tạo thành biên giới của Nghệ An và Hà tĩnh, trước khi đổ ra biển Đông tại cửa Hội.
Không bao giờ cô độc, dòng Sông Lam bao dung và hiền hoà, ôm lấy các nhánh sông khác tạo thành dòng chảy mải miết bồi đắp phù sa mát ngọt cho đôi bờ.
Tôi thường nghe người ta nói núi sông là hội tụ linh khí của đất nước, mỗi vùng đất đều có những cặp sơn hà tiêu biểu. Ví như Hà nội có sông Nhị- núi Nùng, sông Đà- núi Tản; Nam Định có núi Vị- sông Côi; Thanh Hóa có núi Hàm Rồng- sông Mã; Quảng Trị có non Mai- sông Hãn; Huế có núi Ngự- sông Hương… Nghệ Tĩnh nói chung và Nam Đàn quê hương tôi nói riêng thì có núi Hồng – sông Lam. Vì thế ngàn đời nay, dân Ngũ Phúc quê tôi vẫn nhớ câu ca dao say đắm lòng người: “Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây, sông Lam hết nước thì đó đây mới hết tình”.
Nam Đàn có diện tích vào khoảng 296,88 cây số vuông, phía đông giáp hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, ngăn cách với biển Đông, phía tây giáp huyện Thanh Chương, bắc giáp huyện Đô Lương của Nghệ An và phía Nam giáp huyện Hương Sơn, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Sa Nam là thị trấn huyện lỵ của Nam Đàn, cách thành phố Vinh 21 cây số đường bộ. Đây là một vùng quê vừa có đồng bằng, vừa có trung du, vừa có miền sơn cước, non nước đa dạng hữu tình. Ai đã lên chợ Sa Nam, đứng nhìn dòng Lam lững lờ trôi, những đoàn thuyền nối đuôi xuôi ngược, tiếng hát đò đưa theo nhịp chèo âm vang sông nước, hai bên bờ là bãi mía, nương ngô mượt mà tít tắp. Trước mặt là rú Đụn Sơn đẹp mê hồn.
Vào những đêm trăng sáng vằng vặc, Cha tôi thường vác chõng tre ra sân ngồi uống nước chè xanh, khi thì cùng mấy người hàng xóm bàn chuyện làm ăn, chuyện đánh cá, chăn bò, chuyện ngày mùa thu hoạch, chuyện thời tiết, chuyện thất thu… Rồi có hôm, tôi còn thức khuya ngồi bên Cha say sưa nhìn Cha chơi cờ tướng. Quan sát những quân cờ và cách đánh cờ của Cha chậm dãi và chín chắn lắm, chẳng mấy khi vội vàng, tôi nghiễm nhiên học được những hướng đi và cách chơi cờ. Có những đêm trăng sáng Cha ngồi kể chuyện xưa cho chúng tôi nghe. Gió mát thổi nhè nhẹ. Bóng trăng lồng bóng cây, những ánh sáng của trăng xuyên qua tán lá rồi phản xuống sân nhà tạo thành những hình thù, tôi tưởng tượng những ánh sáng ấy ra nhiều hình ảnh lắm. Bầu trời có biết bao nhiêu vì sao lấp lánh mà tôi không thể đếm hết. Tôi nhận thấy sự khác nhau giữa tên gọi các vì sao và hỏi Cha. Cha giải thích cho tôi về sao Hôm, sao Mai, sao Chổi, sao Diêm Vương, sao Bắc Đẩu…
Cứ mỗi buổi trưa hoặc tối, sau bữa cơm là đến giờ uống chè xanh tập thể. Có lẽ đây là phong tục tập quán quê tôi từ xưa truyền lại. Không ai ngồi uống một mình. Khi chè đã chín, Cha tôi chỉ đứng ngay trước cổng nhà gọi một tiếng thật to: “Mời các ông các bà sang nhà uống nác”. Tiếng gọi, đứng xa vài trăm mét cũng nghe thấy. Tiếng gọi cứ âm vang nhà này qua nhà khác. Mấy phút sau cả xóm kéo đến tụ tập quanh ấm nước. Vừa uống chè vừa kể chuyện tâm tình, chuyện trong làng, ngoài xóm, chuyện làm ăn, chuyện vui và có cả chuyện buồn. Qua ấm nước chè xanh, con người như thông cảm nhau hơn, gần gũi nhau hơn, tình làng nghĩa xóm thêm đậm đà, gắn bó, và sẵn sàng giúp nhau khi có khó khăn. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ nôn nao tiếng gọi mời nhau uống nước chè xanh ấy. Sau này nhạc sĩ An Thuyên đã thể hiện cảm xúc đẹp đẽ ấy qua ca khúc Ca dao em và tôi:  

“ Để cùng đi hát dân ca quê mình.
Đê tôi sống giữa bao nhiêu ân tình.
Bao ân tình mộc mạc làng quê.
Trưa nắng hè gọi nhau râm ran chè xanh.”
Vào buổi tối, sau chầu chè xanh, dưới ánh trăng óng vàng, chúng tôi lại quây quần bên nhau nghe Cha kể chuyện. Cha kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày. Cha dạy cho chị em tôi biết ứng xử với người lớn, với bạn bè, thầy cô. Sau đó là những truyền thuyết, cổ tích, thần thoại. Tôi cứ nằng nặc đòi Cha kể rồi lại lim dim đôi mắt ngủ say sưa lúc nào không biết. Trong kho chuyện kể của Cha có một câu chuyện tôi không bao giờ quên được vì nó liên quan đến núi Đại Huệ quê tôi.
Chuyện kể rằng: Thời ấy có một người phụ nữ làm nghề muối ở Đồi Mơ (Mai Phụ) thuộc vùng đất Thạch Hà (Hà Tĩnh) đã đến vùng rú Rẻ thuộc Nam Đàn bây giờ và ở đậu dưới mấy gốc mai, rồi sau đó sinh ra một cậu con trai. Ngày ngày, người mẹ trẻ lặng lẽ vào rừng nhặt củi, hái rau, xuống suối mò cua, bắt ốc, tần tảo nuôi con qua ngày đoạn tháng. Dân làng ai cũng thương cảm và giúp đỡ hai mẹ con rất nhiều. Mấy năm sau, không may người mẹ bị ốm mất. Cậu bé được một gia đình khá giả đem về nuôi nấng và đặt tên là Mai Thúc Loan. Càng lớn, Mai Thúc Loan càng khỏe mạnh, thân hình vạm vỡ, siêng năng cần cù. Mọi việc làng, việc xóm qua tay anh đều mau lẹ, trôi chảy.
Ngày ấy, ở vùng núi Nậy (Đại Huệ) có thứ vải ngon nức tiếng xa gần. Viên quan nhà Đường (Trung Quốc) được cắt đặt cai trị ở đây, biết rõ cung đình ở phương Bắc rất chuộng đặc sản này, đặc biệt là quí phi họ Dương- ái khanh của Thiên tử- người có quyền lực vô song. Đến mùa vải chín, quý phi hướng về phương Nam xa lắc, nóng lòng chờ nghe tiếng nhạc ngựa đưa vải về tiến Vua. Nhìn những mâm vải chín đỏ, căng vỏ được kính cẩn dâng lên, nàng nhoẻn miệng cười rất tươi. Từ đó người ta đặt tên cho loại vải này là “Phi tử tiếu”. Quan cai trị Quang Sở Khách ráo riết thúc ép dân An Nam, trước hết là dân vùng núi Đại Huệ, bất kể ngày đêm hái vải ngon nộp cho hắn và sai lính kị mã hỏa tốc chuyên chở về kinh đi Tràng An nhà Đường. Bị cướp đoạt đặc sản quê hương, bị bóc lột sức lao động thậm tệ, bị thúc bách, đánh đập trên đường tải vải, những người dân vùng núi Nậy hừng hực căm thù. Mai Thúc Loan, chàng trai da mặt đen sẫm, vóc dáng to lớn, vạm vỡ đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước thương dân thành cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược phương Bắc. Năm 722, sau khi dùng quả vải làm lễ ăn thề, mọi người tôn Mai Thúc Loan làm chủ soái, lấy Sa Nam làm căn cứ địa, núi Vệ trở thành sở chỉ huy cuộc chiến đấu và cũng là nơi đóng đô của ông sau này. Mai Thúc Loan được các nghĩa quân và nhân dân gọi là Vua Mai Đen mà sử sách gọi là Mai Hắc Đế.
Câu chuyện có cốt lõi lịch sử được truyền miệng, phần nào đã truyền vào tôi lòng yêu nước và tự hào về quê hương từ thửa nhỏ. Chúng tôi tự hào về ông như tự hào về vùng đất Nam Đàn “địa linh nhân kiệt”. Không phải vùng đất nào cũng có những con người tài giỏi như thế. Từ thời nhà Trần, năm Bính Thìn (1256) đời vua Trần Nhân Tông, niên hiệu Nguyên Phong 6 đã có ông Trương Xán, người Nam Đàn thi đỗ Trạng nguyên. Tính từ nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Nam Đàn có 36 vị đỗ Đại khoa Hán học. Truyền thống hiếu học đã có sẵn trong dòng máu quê hương và đã được chuyển lưu từ thế hệ này qua thế hệ khác, trong đó có lớp người chúng tôi. Với tôi, Vua Đen họ Mai vừa vĩ đại, vừa gần gũi.
  Tôi cảm phục những anh hùng yêu nước, mặc dù chỉ được đọc, được nghe kể. Và dần dần tôi hình dung về mảnh đất quê mình với những thế hệ trước đây, họ là những tấm gương sáng trong lịch sử. Và có lẽ gần gũi và thân thuộc với tôi nhất vẫn là làng Sen quê Bác. Làng Sen thuộc xã Kim Liên, không xa xã Nam Lộc quê tôi lắm. Từ tuổi học trò, chúng tôi đã bảo với nhau rằng “chúng mình được ở cùng quê với Bác Hồ”. Có những buổi tranh luận, chúng tôi còn thi nhau tính xem nhà bạn nào gần nhà Bác nhất, rồi thi nhau nhắc lại những bài học, những câu chuyện kể về Bác, nhất là những chuyện dành cho các cháu thiếu niên nhi đồng như “câu chuyện về quả táo của Bác Hồ cho một em thiếu nhi, em đã để dành, ai xin cũng không cho..., hay câu chuyện về ông Ké, câu chuyện về những ngày Tết thiếu nhi và rằm trung thu, Bác đã viết thư quan tâm đến các cháu thiếu niên nhi đồng, cùng với niềm vui, Bác căn dặn tuổi nhỏ học hành chăm ngoan…
  Năm tôi vào học lớp một, tôi phấn đấu học giỏi để được Cha cho đi thăm nhà Bác. Cứ nghĩ đến niềm vui đó là tôi quyết tâm học bằng được. Tôi mường tượng ra nhiều cảnh ngôi nhà Bác lắm. Mặc dù tôi đã được nhìn thấy qua những hình ảnh minh họa trên trang sách nhưng đó chỉ là bề ngoài của ngôi nhà. Tôi nghĩ nhà Bác chắc nhiều thứ đồ và đẹp lắm vì ai cũng biết đến Bác. Bác là người đã từng đi nước ngoài, nổi tiếng khắp năm châu bốn bể. Trong tâm trí tuổi thơ tôi thì Bác là ông Tiên tài giỏi, hiền hậu và nhân từ vô cùng. Cha tôi kể rằng: Cha đã được gặp Bác trong lần Người về thăm quê sau 50 năm xa đất nước. Tôi mới chỉ thấy Bác trên phim ảnh, tôi ao ước được gặp Bác một lần, một lần thôi cũng sung sướng lắm rồi. Và rồi thì điều mơ ước được đi thăm nhà Bác cũng đã đến. Tôi vui sướng hồi hộp, thao thức không sao ngủ được. Cha đưa tôi đi, con đường ven theo các bờ ruộng, mắt tôi cứ mở to mà theo dõi cảnh thiên nhiên, những cánh đồng thơm ngát mùi lúa chín. Đi đến đâu, Cha tôi giới thiệu những phong cảnh đến đấy. Tai tôi dỏng lên nghe và cố nhớ lại con đường từ nhà mình đến nhà Bác nhưng tôi không thể nhớ nổi vì có nhiều ngả rẽ quá, hơn nữa có nhiều cảnh quan hấp dẫn khiến tôi không còn có thể để ý được. Tôi nóng lòng lắm, thỉnh thoảng lại hỏi Cha: “Sắp đến nhà Bác chưa, hả Cha?”. Nhà Bác đây rồi! Ngôi nhà tranh nép dưới bóng tre xanh, giống như nhiều ngôi nhà của người dân quê tôi. Chẳng có gì là đồ sộ và xung túc, mọi cái đều bình thường giản dị giống như trong những mẩu chuyện kể về cuộc đời Bác…Xung quanh  cây trái xanh um, tươi tốt. Hàng râm bụt bên lối đi vừa ngang đầu tôi, lá xanh mướt, hoa nở to bằng chiếc bát ăn cơm, khoe sắc đỏ bóng, nhụy hoa vàng lay lay trong sáng sớm vẫn còn đẫm sương đêm. Hàng cây được tỉa đẹp, tạo thành lối đi thẳng tắp. Vườn khoai lang xanh tốt chẳng còn nhìn thấy đất, rung rinh mấy bông hoa tím nhạt trông thật đáng yêu. Hàng cau trước cửa ngôi nhà Bác cao vút, hương cau thơm mát. Mặc dù được nghe Cha kể và đọc được những bài học giản dị về Bác, nhưng tôi không nghĩ rằng mọi cái lại giản dị và gần với thiên nhiên như vậy. Cha tôi kể: Bác xa quê lâu lắm rồi, ngôi nhà Bác cũng yếu dần trong gió mưa, đời sống nhân dân cũng bớt khổ hơn trước, nên dân làng góp công góp sức dựng lại ngôi nhà của Bác để tỏ lòng biết ơn công lao của Bác- khi về thăm lại ngôi nhà của gia đình. Bác nhìn ngôi nhà và cảm động trước tấm lòng của bà con quê hương dành cho Bác. Tôi bước qua bậc cửa và lặng lẽ dõi theo những vật dụng trong ngôi nhà. Nắng sớm của vùng quê yên tĩnh, giọng cô thuyết minh ấm áp làm người nghe phải sụt sùi thương cho hoàn cảnh của gia đình Bác: Tại nơi đây, đêm đêm, thân phụ Bác miệt mài ôn luyện bài vở để dự kỳ thi sắp tới thì mẹ Bác cũng cần mẫn, nhịp nhàng đưa thoi dệt những tấm vải đem bán lấy tiền nuôi gia đình. Đây là chiếc chõng tre đã ngả bóng cùng thời gian, kia là chiếc võng đay đã từng chở những giấc mơ của cậu bé Nguyễn Sinh Cung (gọi theo tiếng địa phương là Côông)…cùng những câu hát, điệu hò xứ Nghệ của mẹ.
 Những tối sau đó, Cha tôi lại chậm dãi kể cho tôi nghe về cuộc đời hoạt động của Bác, càng nghe càng bồi hồi xúc động. Từ những hành động và việc làm nhỏ của Bác đều có ý nghĩa đối với dân với nước. Bác quan tâm và thương yêu tất cả mọi người, đến mọi tầng lớp; ý nghĩ về dân tộc luôn canh cánh trong lòng đã thôi thúc Bác học tập và tìm con đường cứu dân, cứu nước. Tôi nghe cha kể, lòng thầm nhủ: mình cần phải cố gắng học hơn.
 Từ nhỏ, tôi đã nghe câu phương ngôn theo truyền thuyết để lại “bao giờ Đại Huệ phân giải, bò đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh”. Ý nghĩa của câu phương ngôn này thực hư ra sao, tôi không đoán được, nhưng núi Đại Huệ gần thị trấn Nam Đàn vẫn còn vết nứt đôi ở đỉnh. Có lần về viếng đền vua Mai Thúc Loan, tôi đã lên xem thì vẫn còn những vết nứt sâu. Còn khe bò đái ở Nam Thượng, đối diện với núi Đại Huệ bây giờ đã cạn khô. Dân làng quê tôi nói: “Bác Hồ sinh ra vào thời điểm trên”. Quê hương Nam Đàn đã sinh ra một người con, một vị lãnh tụ của cả dân tộc…
  Có nhiều chuyện, nhiều điều để hồi tưởng về tuổi thơ nhưng có lẽ với cái mốc thời gian ngày 5 tháng 8 năm 1964 thì tôi nhớ mãi. Đó là ngày đầu tiên máy bay Mỹ ném bom xuống miền Bắc nước ta…
  Chiều thu. Bầu trời như được ai đó nâng cao hơn, trong xanh vời vợi. Những đám mây trắng bồng bềnh bay lên từ phía biển…Tôi và đám bạn dắt nhau đi dọc bờ sông và nhẩm đọc bài vè của bọn trẻ con mục đồng Ngũ Phúc vừa đặt ra mấy hôm nay:
Mẹ cho túi đầy
Ve vẻ vè ve
Cái vè ăn vải
Bà cho một quảy
Chén hết ba ngày
Hai hôm hết sạch
Vải này ngon thật
Vỏ đỏ ruột trong
Đi xuống tắm sông
Rồi về Rú Nậy
Ông vua Đen thấy
Cho một gánh to…
    Vừa đọc vè vừa ngắm sông trong cảnh thanh bình và ai cũng hy vọng rằng sự yên bình này sẽ là bất diệt...
     Bỗng dưng, sau câu vè cuối cùng là những tiếng động ầm ầm, dữ dội từ phía biển dội đến. Tiếng động ầm ầm như sấm trời ngày một gắt gao hơn. Tôi chưa hình dung được là tiếng gì thì đã thấy trên bầu trời trong xanh phía thành Vinh có mấy chiếc máy bay đen trũi đang lượn vòng như những quái vật hung hãn. Những chiếc máy bay đen trũi, bay cao và chúi đầu xuống hướng thành Vinh. Từ bụng nó phụt ra những vệt lửa đỏ rực, để lại đằng sau một vệt khói đen sẫm. Cũng có chiếc bổ nhào và ở bụng nó có những vật gì nom như những chấm đen rời khỏi thân máy bay và lao nhanh xuống đất. Tiếp đó là tiếng nổ rầm trời. Khói đen bốc lên cuồn cuộn như xắn ra từng miếng được. Từ mặt đất thành phố Vinh bốc lên những cột khói đen. Trên bầu trời, tiếng đạn phòng không của bộ đội nổ lụp đụp. Máy bay Mỹ ném bom xuống thành phố Vinh rồi! Nhiều người làm đồng nhốn nháo bỏ chạy về nhà.
   Lần đầu tiên nghe tiếng máy bay phản lực Mỹ gầm rít, tiếng bom đạn nổ ình oàng, tiếng người kêu thất thanh, nhìn các bạn mặt tái mét, tôi thấy sợ hãi vô cùng.. Làng Ngũ Phúc nhỏ bé, yên bình nay đột nhiên xáo động, nhớn nhác. Chỉ còn mấy ngày nữa là khai trường. Không hiểu rồi đây thầy và trò sống ra sao và học ra sao đây?
    Tôi đang miên man nghĩ thì nghe tiếng Cha gọi  thất thanh. Tôi nhằm hướng Cha mà chạy. Cha nắm tay tôi và bảo tiếp tục chạy thật nhanh về nhà.
    Tối hôm đó, tôi nghe đài Tiếng nói Việt Nam thông báo rằng ngày hôm nay máy bay Mỹ không chỉ ném bom, bắn phá ở Vinh - Nghệ An mà còn đánh phá nhiều nơi từ Quảng Bình đến Quảng Ninh, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại trên quy mô lớn bằng không quân, hải quân ra miền Bắc XHCN. .
     Những năm tôi học cấp II tại xã Nam Tân và cấp III tại xã Nam Hùng thì cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc đã leo đến nấc thang mới cao hơn. Nghe đài, đọc báo tôi cảm nhận cách mạng miền Nam đã có những bước phát triển mới, bất lợi cho Mỹ, Nguỵ. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” - được tiến hành chủ yếu bằng quân đội Nguỵ với phương tiện vũ khí và sự yểm trợ của không quân, hải quân Mỹ - đã bị phá sản. Kế tiếp là cuộc “chiến tranh cục bộ” đang bị sa lầy. Nội dung của chiến lược này là sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; quân Nguỵ làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng. Thực hiện chiến lược này, chúng đã đưa vào miền Nam ta hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ và quân đội một số nước chư hầu. Đồng thời, Mỹ đã sử dụng không quân, hải quân mở chiến dịch “Sấm rền”, điên cuồng đánh phá ác liệt  với mưu đồ “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, hòng ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Đế quốc Mỹ đã leo thang mở rộng chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc. Các tuyến đường bộ, đường sắt, cầu cống, cơ sở kinh tế, đê điều, đập nước, bệnh viện, trại an dưỡng, trường học, nhà thờ, đền chùa đều là mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ. Làng Ngũ Phúc bé nhỏ của tôi suốt ngày nghe tiếng gầm rú điên loạn của máy bay phản lực Mỹ. Ban ngày máy bay gầm rú bắn phá thị trấn, cầu Mưng và ven đường quốc lộ 15, ban đêm đèn dù chúng giăng xuống dọc tuyến đường, nhất là hai bên cầu phao Nam Đàn. Cuộc chiến đã thật sự ập đến từng nhà với biết bao bất ổn, tai hoạ rình rập từng giờ, tùng phút.
     Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy đã phát triển nhiều phong trào quần chúng sôi nổi, có tác dụng động viên tinh thần bà con nhất là tầng lớp thanh nhiên mới lớn như chúng tôi. Đó là các phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ, “Chắc tay búa, tay súng” của công nhân, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “ Tay cày, tay súng”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc” của nông dân, “Ba quyết tâm” của trí thức. Với học sinh chúng tôi thì phong trào “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” đã được xác định sẵn sàng lên đường vì tổ quốc thân yêu. Năm 1966, đế quốc Mỹ đã dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Ngày 17.7.1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi động viên nhân dân Việt Nam: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song, nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tư do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta lại xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”!
    Những năm tháng đó, chúng tôi phải đội bom đến trường. Để phù hợp với hoàn cảnh thời chiến, bà con quê tôi đã sáng tạo ra chiếc đèn “phòng không”. Đó là chiếc đèn dầu hoả, được làm bằng lọ mực Cửu Long và đặt trong ống bơ hoặc ống nứa đã được khoét một ô hình chữ nhật đủ ánh sáng hắt ra vừa trang giấy. Khi có tiếng báo động, chỉ cần thổi nhẹ là đèn tắt ngay. Trên tấm bảng đen của thầy giáo cũng có một ngọn đèn dầu hoả được che chắn cẩn thận. Chỉ có một lỗ hở nhỏ để ánh sáng hắt ra vừa đủ diện tích tấm bảng đen. Trời chập choạng tối, chúng tôi đã phải tay đèn, tay sách í ới gọi nhau tới trường. Những lớp học sơ tán trong nhà dân bằng vách đất, mái lá, nửa chìm nửa nổi gắn liền với căn hầm được làm bằng kèo tre vững chắc. Ánh sáng đèn dầu vàng ệch nên con chữ trông mờ lắm. Học sinh chúng tôi đứa nào cũng căng mắt ra mà nhìn, cố gắng tiếp thu từ bài giảng, không bỏ sót con chữ nào. Mùi khói dầu bốc lên khét lẹt. Sau mỗi buổi học, hai lỗ mũi bám đầy muội đen.  Chiếc đèn phòng không này đã gắn chặt với tôi trong thời gian học cấp hai và  cấp ba như một người bạn tri kỷ nâng bước tôi trong những đêm tối trời đến lớp, thủ thỉ cùng tôi trong những đêm khuya học bài, sưởi ấm cho tôi trong những đợt mưa dầm, gió bấc, canh cho tôi những giấc ngủ ngon lành mỗi khi thiếp đi trên bàn học.
     Chúng tôi được các thầy cô dạy cho ánh sáng của dân tộc và nhân loại. Biết đến những câu ca dao, tục ngữ...có từ xưa truyền lại, biết yêu tiếng việt. Được nhận thức giá trị nội dung, nghệ thuât tinh túy các tác phẩm văn học: “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Nhật Ký trong tù” của Hồ Chí Minh, “Từ ấy” hoặc “Việt Bắc”, “Gío Lộng” của Tố Hữu, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, “Quê Hương” của Giang Nam… Được biết thế nào là định lý cạnh tam giác vuông của Pitago, định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn, lực đẩy trong nước và lực đòn bẩy của Accimet, thuyết tiến hoá của Đắcuyn. Đặc biệt là tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendeleep đã được chúng tôi học thành “bài ca giá trị” cho dễ nhớ. Những định lý, định luật của của môn toán, môn lý được chúng tôi đọc trôi chảy. Chúng tôi ôn bài khi đi trên đường với nhau, cùng kiểm tra, tranh luận cả những đáp số của những bài toán khó. Bởi vậy mà con đường đi bộ của chúng tôi trở nên gần hơn, chẳng mấy chốc là đến trường và sớm về đến nhà mà không thấy mệt mỏi.   
    Nhiều lúc, thầy trò đang say mê với bài giảng, kẻng báo động vang lên chưa dứt thì máy bay Mỹ đã ập đến. Đèn phòng không được thổi tắt nhanh chóng. Thầy trò khẩn trương chạy ra giao thông hào. Phòng học tối om om, bóng đêm dày đặc đang bủa vây trong nỗi lo sợ. Máy bay gầm rít như xé toạc bầu trời. Thầy trò vội vã di xuống giao thông hào trú ẩn. Đây cũng là kết quả tập dượt nhiều lần nên khi có báo động không xảy ra tình trạng lộn xộn, nhốn nháo. Những khó khăn trong hoàn cảnh nghiệt ngã của thời chiến tranh khiến cho mỗi lớp học, mỗi hoạt động của học sinh chúng tôi đều trở nên nhanh nhẹn, khẩn trương và ý thức kỷ luật cao hơn. Nếp sống thời chiến đã  thấm quen, trở thành phản xạ tự nhiên trong mỗi con người, mỗi học sinh chúng tôi. Khi tiếng gầm rít của máy bay Mỹ xa dần, chúng tôi mới bớt đi những lo lắng trong lòng. Những ánh đèn lại sáng dần lên soi những khuôn mặt trắng trong, chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi, tiếp tục nghe giảng. Lớp học lại im phăng phắc khi từng lời sâu sắc, ân cần của thầy, cô sang sảng vang lên.  
     Tan buổi học thì cũng đã quá nửa đêm. Hai bát cơm độn khoai ăn vội cuối giờ chiều bây giờ đã bay đi đâu mất. Đứa nào cũng đói cồn cào. Đang tuổi ăn tuổi ngủ mà. Nếu bây giờ có bắp ngô luộc hoặc củ khoai nướng dậy mùi thơm thì hẳn sẽ  sáng mắt lên.
 Tôi nhớ có lần, học về muộn. Trong lớp chỉ có tôi và cậu Sửu là cùng làng. May mà có bạn đi cùng nên tôi cũng bớt lo. Lần nào hai đứa cũng rủ nhau đi học và đợi nhau về. Lúc này khoảng gần 1 giờ sáng. Khi tôi và Sửu đi qua bãi tha ma, hai bên đường là bãi ngô xanh tốt. Mùa ngô ra hoa, ra bắp lá xanh mượt mà, thoang thoảng mùi hoa ngô ngầy ngậy. Chúng tôi nhìn thấy những bắp ngô rập rình bám trên thân cây mà thích mắt, lúc đầu còn thấy chúng bé hơn nắm tay tôi, ấy vậy mà chúng to lên rất nhanh, đến mùa thu hoạch thì chỉ còn lại những lá ngô già héo, những thân ngô được mang về làm củi đun cơm. Chẳng đứa nào bảo đứa nào, chúng tôi đều sợ hãi; bặt im đi qua bãi tha ma rồi mới dám nói chuyện với nhau. Đêm nay cũng như mọi đêm, chúng tôi đang đi thì thấy từ phía bãi tha ma có ai đó ném đất ra đường, về phía trước mặt. Tôi hoảng hồn và chỉ biết cắm đầu đi. Tôi thấy Sửu nắm lấy tay tôi, sợ hãi:
- Biểu ơi, có ma...a!
  Đêm  như mực mài. Chỉ có hai đứa lò dò ngoài đường, nghe nói đến ma, tôi sởn hết cả gai ốc, hai thái dương cũng gai lên. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ma và cũng không bao giờ tin đó là thật... Nhưng hôm nay thì tôi tin. Đang lo sợ thì đất đá cứ tới tấp ném vào chúng tôi. Nỗi khiếp sợ bao trùm. Chắc trong bãi ngô sẽ có nhiều con ma với những hình thù quái dị đang sẵn sàng bắt chúng tôi. Lúc này tôi lại nhớ đến câu chuyện con ma có lưỡi dài chuyên đi giết người mà chị Liên đã kể.
   Tôi muốn chạy trước mà thằng Sửu cứ bám chặt vào vạt áo làm tôi càng luống cuống. Bỗng lại thêm mấy con đom đóm dập dờn trước mặt. Phải chăng là con ma có lưỡi dài đón đường? Đang nghĩ về ma thì đất đá lại tiếp tục ném ra. Thôi chết, ma thật rồi! Lợi dụng sức khoẻ hơn nên tôi cố bứt phá chạy trước, Sửu chạy sau. Để chạy cho nhanh, Sửu phải vứt hết tất cả sách vở, tôi cũng vứt theo. Càng chạy thì tiếng chân người chạy sau càng theo sát hơn…
  Về đến cổng, hai đứa thở ra cả tai, quay lại thì chẳng thấy gì. Hai đứa hú hồn như vừa trải qua một cơn hoạn nạn khủng khiếp. Tôi chưa kịp nói thì thằng Sửu vừa thở hổn hển, vừa kể cho Cha tôi nghe chuyện ma đuổi. Cha nghe chuyện rồi nhanh chóng ra khỏi nhà, tới bãi tha ma xem sự tình như thế nào và nhặt sách vở về cho chúng tôi. Hỏi ra mới biết, đó là trò đùa rất nguy hiểm của mấy ông bảo vệ bãi ngô. Ôi, trêu đùa kiểu đó thì thật là khủng khiếp. Nhưng cũng sau hôm đó, tôi và Sửu đi học cũng thấy đỡ sợ hơn.
  Trong hoàn cảnh ấy, không ai kêu khổ, bởi chúng tôi biết, Cha Mẹ mình còn vất vả gấp bội phần để lo cho mình học tập. Có lần, chị cả tôi bàn với Cha rằng:
 -Thằng Mỹ cứ ném bom hoài như thế này, đồng áng, ruộng vườn không làm được thì lấy gì mà ăn. Không hiểu nhà mình sống ra làm sao? Nghe vậy, Cha nhìn chị em tôi với ánh mắt suy tư và đưa tay chỉ cánh đồng lúa đang thì con gái:
-Thì cánh đồng này cũng đã bị mấy loạt bom rồi. Nhưng lúa vẫn xanh tươi.
 -Con cứ gắng học đi, con sẽ không phải đói đâu.
  Tôi biết Cha cũng rất suy tư về những khó khăn do chiến tranh đưa đến. Tôi rất xúc động về sự quan tâm, về tấm lòng hiếu học của Cha đối với việc học của con cái. Chẳng bao giờ tôi lại quên được tấm lòng vàng của Cha dành cho chị em tôi. Do vậy, không có cách nào khác là phải học thật tốt để không phụ lòng Cha.
    Thời gian gần đây, làng Ngũ Phúc bé nhỏ của tôi đã có những thanh niên xung phong lên đường nhập ngũ, nhiều cô gái đã ra tiền tuyến. Nhìn lớp lớp các đàn anh, đàn chị mặc bộ quần áo xanh với chiếc mũ tai bèo tôi thấy ai cũng lớn hẳn lên, khỏe mạnh hơn và chững chạc lắm. Những lần tiễn các anh chị lên đường, chúng tôi đều có mặt đông đủ. Có những đêm khuya, ra đứng đầu đường quốc lộ 15A nhìn bộ đội, thanh niên xung phong hành quân về phía Nam mà lòng tôi vô cùng háo hức muốn trở thành anh bộ đôi ngay lập tức. Trong đoàn quân ấy, có ai mang chiếc đài đi theo (có thể là cán bộ) vẳng ra tiếng hát:
 Anh vẫn hành quân
Trên đường ra chiến dịch
Mé đồi quê anh bước
Trăng non ló đỉnh rừng
Anh vẫn hành quân
Lưng đèo qua bãi suối
Súng ngang đầu anh gối
Anh đi khắp chiến trường…
  Tiếng hát cứ cao dần với ca từ dung dị và âm hưởng hùng hồn theo nhịp bước quân hành, làm cho đêm khuya quê tôi bổng như bừng thức dậy. Khi về nhà, tôi nằm xuống giường mà vẫn văng vẳng bài hát “Anh vẫn hành quân”. Không hiểu sau này mình lớn lên có được hãnh diện là anh giải phóng quân để được theo bước các anh bộ đội kia không?
    Cuộc chiến tranh ngày càng khốc liệt hơn, xã Nam Lộc quê tôi suốt ngày phải nghe tiếng gầm rú của máy bay Mỹ. Bom giặc ném xuống quê tôi không theo một quy luật nào. Lúc đầu, máy bay chỉ ném bom vào buổi trưa đến chiều, sau đó chúng ném cả ban đêm và có lúc chẳng trừ thời gian nào. Máy bay từ biển vào, rồi có chiếc ném bom ở đâu đó khi bay qua quê tôi lại trút nốt số bom còn lại trước khi bay ra biển. Ban đêm, pháo sáng giăng đầy dọc tuyến đường 15A chạy qua làng tôi như những cặp mắt cú vọ.
    Những năm học cấp III Nam Đàn, tôi được bầu làm bí thư chi đoàn của lớp. Trong thời kì chiến tranh chống Mỹ cứu nứơc, phong trào thanh niên và công tác đoàn sôi nổi lắm. Trong lớp, mọi người đều nhiệt tình và hăng hái tham gia, chúng tôi ngày một lớn và là đoàn viên nên ai cũng thể hiện được vai trò và trách nhiệm tiền phong của mình. Cũng lúc này, Đoàn phát động phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, phong trào “chắc tay súng, vững tay búa”, thanh thiếu niên dấy lên phong trào học tập tấm gương của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Đài, báo đưa tin về những tấm gương chiến đấu anh dũng, hy sinh xuất hiện trên đảo Cồn Cỏ, đảo Bạch Long Vĩ, cầu Hàm Rồng, lực lượng Tên lửa phòng không, không quân, lực lượng nữ dân quân và lão dân quân ở Thanh Hoá, Thái Bình, Hà Tĩnh...Hình ảnh của mẹ Suốt, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh... là những tấm gương tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của nhân dân miền Bắc. Đây là một giai đoạn lịch sử mà quần chúng nói chung và thanh niên chúng tôi nói riêng được giác ngộ cách mạng rất cao, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bốc lên ngùn ngụt, là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng, về nhà gặp dũng sĩ”.
    Càng ngày, chúng tôi càng thích nghi cuộc sống thời chiến. Đối với học sinh chúng tôi, đứa nào cũng biết cách tránh máy bay, cũng chịu khó, chịu khổ mê say học hành và tham gia nhiệt tình công tác đoàn thể. Là Bí thư, tôi tổ chức cho chi đoàn kết nghĩa với các đơn vị bộ đội đóng quân gần trường. Chúng tôi tổ chức cho các đoàn viên đến thăm và động viên các anh bộ đội, tặng quà cho các chiến sĩ phòng không. Quà thời ấy giản đơn lắm, chỉ là những chiếc khăn tay tự tạo có thêu mấy chữ “Quyết thắng”, “Niềm tin”, “Trường Sơn” của các bạn đoàn viên gái khéo tay, hoặc mấy cuốn sổ tay bìa các tông, giấy vàng có chép những bài thơ quen thuộc của Tố Hữu, Lê Anh Xuân hay là những vòng lá nguỵ trang do chúng tôi làm. Chúng tôi lấy cả những bông hoa bưởi, ép khô kẹp vào quyển sổ tay thơm lắm. Thỉnh thoảng chúng tôi cùng với các anh lính tổ chức giao lưu văn nghệ, hay diễn đàn về ý tưởng người đoàn viên thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Trong các buổi giao lưu văn nghệ ấy, thế nào tôi cũng ngâm bài thơ: Đường hành quân của Lưu Trọng Lư:
“Vượt núi, băng sông
Chân tôi bước giữa hương đồng cỏ nội.
Vòng là nguỵ trang đã bao lần thay lá mới.
Tôi mang trong lòng tiếng gọi của quê hương.
“Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi”.
Tiếng hát năm xưa bay bổng diệu kỳ.
Như chấp cánh trong tôi người lính trẻ…”
Bài thơ như tiếng gọi thanh niên lên đường đánh Mỹ. Nó là bài thơ gối đầu giường của mỗi chúng tôi. Ai cũng bảo bài thơ đã hay mà người thể hiện cũng thật hay. Riêng tôi, mỗi lần ngâm bài thơ này như mình đã là anh bộ đội đang hùng dũng hành quân về phía Nam đánh giặc.
 Các chiến sĩ đơn vị bộ đội kết nghĩa phần lớn còn rất trẻ, các anh chỉ hơn chúng tôi vài ba tuổi nên rất dễ hoà nhập với nhau. Các anh bộ đội rất hay hát, có chiến sĩ hát rất hay. Những buổi sinh hoạt kết nghĩa là những kỷ niệm khó quên giữa chúng tôi và đơn vị bộ đội. Nhìn những anh bộ đội trẻ trung mặc trên mình bộ quần áo vải Tô Châu xanh lá cây, đầu đội mũ cối có gắn sao trông thật xinh xắn và chững chạc. Thấy các anh đẹp hơn và thầm mong có ngày mình cũng trở thành anh bộ đội như thế. Qua những bài học, những bài hát, bài thơ hừng hực khí thế chiến đấu của thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” trong tâm trí chúng tôi đẹp nhất vẫn là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ, người chiến sĩ giải phóng quân.
 Những cuốn sổ tay nhỏ nhắn xinh xắn của chúng tôi ở trang đầu thường được ghi đậm lời của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”, lời anh Lê Mã Lương: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Trên pháp trường của quân thù, trước khi hy sinh, anh Trỗi vẫn gọi Bác ba lần: “Hồ Chí Minh muôn năm…”. Nghe đài, đọc báo, tôi cảm phục anh Lê Mã Lương vô cùng. Anh học giỏi, bố là liệt sĩ, được cử đi học nước ngoài nhưng anh đã từ chối vinh hạnh ấy và viết đơn tình nguyện vào bộ đội, xung phong ra chiến trường đánh giặc. Tôi không nói quá đâu, nhưng thời chiến tranh bom đạn khốc liệt dữ dội ấy, những người như Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân và Lê Mã Lương là thần tượng số một của chúng tôi. Được đi bộ đội cũng đâu phải là dễ, chúng tôi vẫn mong ước với nhau sẽ có ngày được mang ba lô con cóc vượt đỉnh Trường Sơn, được là anh giải phóng quân xông pha nơi tiền tuyến mịt mù khói lửa.
Những trận đánh vang dội, những chiến công lẫy lừng, những câu chuyện huyền thoại, những ca khúc say đắm và những bài thơ ngọt ngào nhất thời ấy đều gắn liền với anh bộ đội, anh giải phóng quân. Đài nói về anh, báo viết về anh, sách giáo khoa viết về anh. Anh là hình ảnh trung tâm của cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại của dân tộc. Từ nhà trường đến thôn quê, đâu đâu cũng bàn tán về chiến công của anh bội đội. Có thể nói, chưa bao giờ trong các buổi phát thanh trên Đài tiếng nói Việt Nam, hình ảnh người lính, hình ảnh anh giải phóng quân lại được tôn vinh, được đề cao ở một tầm vóc hoành tráng như vậy. Các anh như những linh hồn của cuộc chiến tranh, truyền cho chúng tôi lòng yêu nước và ý chí tự cường bất khuất của dân tộc. Khí thế thời đại đã cộng hưởng vào chúng tôi một cách tự nhiên như thế! Chẳng có ai phải nhắc nhở hay giáo huấn nhiều, chúng tôi nhìn nhau mà làm, nhìn nhau mà theo gương, mà học tập một cách tự giác. Trong lớp tôi, những bạn gái khi nghe về tấm gương của các chiến sĩ thường trầm trồ khen ngợi một cách thán phục. Còn cánh bạn trai thì mơ ước mình nay mai cũng trở thành anh giải phóng quân.
Mặc dù công việc nhà rất bận bịu, sáng đi học, chiều về gánh phân, nhổ mạ, có hôm còn đi cày, bừa nữa. Nhưng công việc học hành, công việc chi đoàn đều hoàn thành tốt. Thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của tôi, có lần, thầy giáo chủ nhiệm lớp 9 vỗ vai nói ân cần:
 - Biểu à. Hoàn cảnh của em, các thầy biết mà. Em cố gắng học tốt, rèn luyện tốt thì chắc chắn sẽ thành công em ạ. Nếu không có gì mới thì thế nào khi tốt nghiệp cấp III em cũng được xét đi học nước ngoài!
  Tôi lí nhí vâng lời thầy. Tôi biết thấy chủ nhiệm rất thông cảm với hoàn cảnh gia đình tôi. Tôi xúc động trước sự quan tâm của thầy. Tôi sẽ cố gắng học tốt hơn nữa, rèn luyện tốt hơn nữa để không phụ lòng tốt của thầy, Cha và chị em đã dành cho tôi.
  Từ khi nghe  thầy động viên và cho biết thông tin đó, tôi vui lắm. Nhiều đêm đi học về đã khuya, tôi không vội ngủ mà chịu khổ xem lại bài, làm xong hết bài tập. Cha thấy tôi học nhiều nên cũng yên tâm. Nhiều lúc Cha thấy tôi thức khuya, sợ tôi ốm nên đã giục tôi đi ngủ. Cứ nghĩ đến việc được đi học nước ngoài khi ấy là mơ ước lớn nhất của đám học sinh cấp III chúng tôi, tôi thấy trong ngực rộn ràng một niềm vui khó tả.
    Tôi tưởng tượng ra nhiều cảnh lắm, chỉ thấy toàn những niềm vui thôi. Mà thực tế được đặt chân ra nước ngoài đi học có nghĩa là chúng tôi sẽ được đặt chân đến đất nước Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu mà lúc bấy giờ chúng tôi xem như thiên đường trên trái đất. Đặc biệt là Liên Xô, tổ quốc thân yêu của Paven, Tônhia- những nhân vật vô cùng quen thuộc trong “Thép đã tôi thế đấy”. Liên Xô là thành trì chủ nghĩa xã hội, là quê hương của Lômônôxốp, của Lênin, của Gagarin người đầu tiên của trái đất bay vào vũ trụ. Liên Xô là niềm tự hào vô cùng tận của chúng tôi...
     Chao ôi, những suy nghĩ, những tưởng tượng đã khiến cho tôi tràn ngập những niềm vui và hạnh phúc. Chỉ cần một năm nữa, một năm nữa thôi thì tôi sẽ tốt nghiệp lớp 10 với bảng xếp: loại giỏi và những điều thầy chủ nhiệm nói với tôi sẽ trở thành hiện thực. Tôi hiếm khi thấy nụ cười trên khuôn mặt Cha. Có lẽ cuộc sống quá khó khăn mà Cha chưa lo hết được cho các con nên không thể nở một nụ cười rạng rỡ.
  Trong những ngày Xuân 1968, học sinh chúng tôi được sống trong không khí rạo rực của khí thế cách mạng. Tôi còn nhớ, sáng ngày 1 -1 - 1968, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã phát đi bài thơ chúc tết của Bác Hồ:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.
     Đúng một tháng sau, vào dịp tết Nguyên đán, đài, báo lại đưa tin dồn dập về sự kiện các lực luợng vũ trang và nhân dân miền Nam đã mở cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt tại 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn. Lực lượng cách mạng đã tiến công vào các cơ quan đầu não trung ương, địa phương, đánh vào cả Mỹ và Nguỵ ở cả 3 vùng chiến lược. Cùng với thắng lợi rực rõ của quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đầu Xuân năm 1968 đã tạo ra bước ngoặt, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ở Pa-ri. Lúc này nghe đài, đọc báo thích lắm. Lời thơ của Bác làm nức lòng quân dân cả nước. Trong thời khắc lịch sử ấy, bài thơ Xuân 1968 có ý nghĩa đặc biệt. Lúc này, cánh học sinh chúng tôi nghe đài, đọc báo mà cứ ngỡ Tổ quốc ta thống nhất đến nơi rồi.
Bài hát Tiến về Sài Gòn của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được cất cao, vang lên sau mỗi bản tin chiến thắng. Xóm làng vui vầy, nhà nhà phấn chấn hẳn lên.
Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù.
Hướng về đồng bằng ta tiến về thành đô.
Cái cảm giác miền Nam sắp được giải phóng cứ tràn dâng, rạo rực trong lòng mọi người. Ai cũng bảo: Mỹ, Nguỵ sắp chết đến nơi rồi! Tôi cũng nghĩ thế và phân vân rằng: gia đình mình chưa có ai đi bộ đội mà cuộc chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược cũng sắp kết thúc. Theo chính sách, gia đình mình chỉ có một con trai nên không phải đi bộ đội. Nhưng nhiều gia đình như mình không có người đi bộ đội thì hỏi làm sao thực hiện các chính sách khác được. Hay là mình xin đi bộ đội, vào Nam đánh giặc, góp phần nhỏ bé vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mình không tham gia đánh Mỹ cứu nước lần này thì cũng không còn dịp nào nữa, cuộc chiến đấu đang sục sôi và rất cần sức trẻ ở phía trước, không thể ngồi ủ rụ ở nhà để chờ đợi cuộc chiến đấu thắng lợi, phải dũng cảm lao vào cuộc chiến đấu cùng các chiến sĩ đang xung phong trên mặt trận. Đến lúc này câu nói của Lê Mã Lương càng thấm thía trong trái tim tôi, thôi thúc tôi lên đường đánh Mỹ. Đánh xong giặc Mỹ, mình lại trở về đi học vẫn không muộn. Khi ấy, mình có đi học cũng thấy yên tâm hơn.
     Suy nghĩ ấy cứ chín dần trong tôi, nung nấu thành ý chí, quyết tâm mà tôi cảm nhận rất rõ ràng nếu tôi không đi bộ đội trong dịp này thì mọi cái đều vô nghĩa. Cuộc chiến tranh kéo dài từ khi tôi còn nhỏ, tôi mới chỉ là một cậu học trò chưa có  đóng góp gì. Tôi đã được chứng kiến biết bao nỗi đau của những người dân có người thân hy sinh ngoài mặt trận. Chiến trường luôn cần những người con trai ra trận. Những người con gái còn xung phong ra tiền tuyến huống hồ một người như tôi. Sức trai trẻ và có quyết tâm chiến đấu mà không ra chiến trường thì sau này sẽ hối hận. Có nhiều đêm, tôi không sao chợp mắt nổi, vừa nghĩ đến chiến trường và những đoàn quân đêm đêm hành quân qua làng Ngũ Phúc mà lòng bồi hồi, xao xuyến: nhất định tôi phải đi bộ đội, phải có mặt để cùng tham gia với đồng đội, đồng chí của mình trên chiến hào đánh Mỹ. Rồi tôi nghĩ đến hình ảnh mình khi mặc bộ quần áo bộ đội vải Tô Châu xanh, tôi sẽ nổi bật trước mắt mọi người, chắc là khoẻ khoắn và nhìn chững chạc lắm...
     Nếu vậy, nhiều người sẽ nhìn tôi và đặt ra những câu hỏi rằng: “Sao không đi học ở nước ngoài”. Tôi sẽ mỉm cười tự hào mà trả lời rằng: “Đất nước còn giặc thì mình chưa đi”. Suốt mấy ngày liền, tôi nung nấu suy nghĩ, mọi cái tưởng chừng đơn giản nhưng không phải dễ dàng nói ra, nhất là một người khó tính như Cha tôi, luôn lo lắng và kì vọng vào đứa con của mình. Tôi biết nói với Cha và chị ra sao và bắt đầu như thế nào? Tôi sẽ tính ra sao nếu Cha buồn, nếu chị lo? Nỗi lo lắng và buồn phiền của Cha về sự ra đi của Mẹ và bệnh tật của dì đã đủ làm cho cả cuộc đời Cha mệt mỏi rồi. Ý chí và quyết tâm đi bộ đội thì  không bao giờ tôi thay đổi, nhưng  đặt vấn đề như thế nào với Cha và chị thì phải tính toán cho kỹ.
    Tiếng đài phát thanh mỗi khi vang lên, tôi lại thấy trách nhiệm của mình càng cao hơn. Mỗi lần nghe tiếng phát thanh cất lên, đang làm việc gì tôi cũng nghển cổ lên nghe ngóng, cứ như chờ đợi và mong ngóng một niềm vui. Ý nghĩ đó như bốc thành ngọn lửa cháy trong trái tim tôi. Thôi thúc và giục giã tôi lên đường nhập ngũ. Tôi không hình dung ra hết được cuộc chiến trước mắt nhưng khi nghe đài, báo và hình ảnh những chú bộ đội hành quân qua làng Ngũ Phúc, tôi thấy họ đáng tự hào lắm, đáng khâm phục lắm.
Chương II:
Nhập ngũ
   Mấy hôm nay đi học về, tôi không dấu được nỗi băn khoăn trong lòng. Tôi tâm sự cùng với cậu Loan. Lúc đầu, Loan nghe thấy tôi nói xung phong đi bộ đội, cậu ta ủng hộ và cũng quyết tâm như tôi. Tôi hỏi Loan:
   - Nghe nói, lần này thanh niên làng Ngũ Phúc mình lên đường nhập ngũ đông lắm. Không hiểu chúng mình có được đi không?
   Loan nhìn tôi, nói như hạ quyết tâm:
    - Tớ cũng nghe tin như vậy. Thôi, chiều nay tớ và cậu lên xã đăng ký luôn. Tôi đi bên, Loan tỏ ý đồng tình:
    - Sáng nay nghe Đài đưa tin mình đã giải phóng thành phố Huế. Quân giải phóng đã đánh thẳng vào Sài Gòn… Chẳng mấy chốc nữa là giải phóng miền Nam. Không đi đợt này thì chẳng còn cơ hội nữa. Chiều ta cùng lên  Uỷ ban xã nhé.
   Tôi tin vào bạn nối khố của tôi lắm. Hai gia đình cũng coi chúng tôi như con trong nhà, có việc gì cũng không thiếu mặt. Loan nhắc tôi phải nói sao để thuyết phục được Cha tôi. Loan khẳng định sẽ thuyết phục được gia đình. Trong xã đợt này có các anh Hoàng Ngọc Loan, Lê Văn Nam và Lê Văn Liêm cũng đăng ký nghĩa vụ quân sự.
  Lúc này, tất cả mọi việc tôi gạt lại phía sau, trước mắt tập trung tìm mọi cách để được đi bộ đội. Nước Nga tươi đẹp và vĩ đại ư ? Dứt khoát không phải lúc này. Tôi lựa chọn giữa những việc mình có thể làm trước và có thể làm sau. Có những cái qua đi rồi, thật lãng phí nếu như mình không được tham gia, và cuộc chiến tranh trước mắt tôi là thế. Có thể lắm chứ! Một ngày dân tộc giành được độc lập, khi ấy tôi có muốn đi cũng không được. Lúc đó, tôi không thể thở than với sự tiếc nối.
Chiều tối nay, sau bữa cơm chiều, tôi ngồi bên Cha mạnh dạn thưa chuyện. Tôi vẫn chưa tin là Cha sẽ ủng hộ tôi đi bộ đội. Tôi chỉ sợ Cha buồn nhưng không còn cách nào khác, tôi vẫn phải thưa với Cha. Đây là lần đầu tiên tôi nói với Cha về việc quan trọng nhất trong cuộc đời mình. Tôi rất hy vọng vào sự ủng hộ của Cha. Cha cũng từng là anh bộ đội mà. Chắc mình nói ra ước vọng của mình thì Cha sẽ đồng tình ngay. Thế mà khi tôi đặt vấn đề đi bộ đội, Cha tôi đã thực sự sửng sốt như không tin điều đó là sự thật. Ông mở to mắt nhìn tôi, “à” lên một tiếng như gặp điều mà Cha không ngờ tới. Không biết những điều Cha đang nghĩ là buồn hay vui. Tôi có linh cảm là cả hai cảm giác đó đang pha trộn trong ý nghĩ của Cha. Cha nhìn tôi và hỏi cũng nội dung mà lâu nay tôi đã nói chuyện với Cha.
- Đi bộ đội à? Nhưng con đang là học sinh cuối cấp, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi thì con sẽ tốt nghiệp cấp III. Thầy chủ nhiệm của con cũng đã cho Cha biết sức học của con chắc chắn sẽ được xét đi học nước ngoài cơ mà? Cha tôi nhắc lại thông tin đó vì nghĩ rằng tôi chưa biết nhưng thầy chủ nhiệm đã nói với tôi trước đó rồi.
-Cha à, thầy chủ nhiệm cũng đã nói cho con biết rồi. Nhưng trong gia đình mình chưa có ai đi bộ đội. Cha ơi, cuộc kháng chiến chống Mỹ thì chỉ còn vài tháng nữa là kết thúc thôi. Con muốn đi bộ đội, thể hiện gia đình mình cũng đã có người tham gia vào cuộc kháng chiến. Tôi vừa nói vừa lay vai Cha tôi như cầu cứu. Bổng nét mặt Cha lạnh lùng hỏi:
- Ai nói với con điều đó? Cha tôi vừa hỏi vừa nhìn vào không gian bao la. Tôi chạy đến nắm tay Cha lay mạnh:
- Đài đưa tin ta đánh mạnh, thắng lớn khắp miền Nam, bộ đội ta vào tận Huế, Sài Gòn rồi Cha ạ... Chẳng mấy chốc nữa là ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước thôi Cha à! Mấy ngày nay, ngày nào con cũng nghe bản tin trên đài phát thanh của làng ta phát đi. Tôi hào hứng nói với cha.
Cha tôi im lặng.
    Sự hào hứng của tôi dâng cao bao nhiêu thì Cha lại trầm ngâm lặng lẽ bấy nhiêu. Có lẽ lúc này Cha mới nghĩ rằng tôi đã lớn rồi. Không giống như cậu bé đi học về sợ ma như thủa nào, cũng không còn là cậu nhỏ, da cháy nắng, chăn trâu cắt cỏ, mải tắm sông ngày nào. Từng là đoàn viên thanh niên lại làm Bí thư chi đoàn nữa chứ. Ở nhà thì cầm cày cầm cuốc, nhổ mạ, gánh phân, cắt lúa cùng Cha, cùng chị. Bây giờ tôi lớn lên nhiều rồi. Đất nước lại đang trong cơn binh lửa, tang tóc đau thương vẫn xẩy ra như cơm bữa. Tôi dường như đọc được mọi suy nghĩ ấy của Cha  qua vầng trán rám nắng đã hằn nhiều vết nhăn từng trải. Ôi, giá như đất nước không có giặc giã binh đao để chúng tôi được thanh thản học hành theo kỳ vọng của Cha và gia đình, để những người thân yêu như Cha tôi, chị tôi không phải lo lắng vất vả nhiều như vậy.
    Tôi cũng biết tính Cha rất thận trọng khi quyết định vấn đề gì đó. Huống hồ đây lại là việc quan trọng nhất của gia đình. Cha không bao giờ phản ứng gay gắt một việc gì ngay tức thì, cho dù có bằng lòng hay không. Sau bao nhiêu năm, tôi nhận thấy Cha có một đức tính và cách dạy con thật cao quý.
Màn đêm buông xuống, mây giăng kín bầu trời. Mưa xuân ngày càng dày hơn làm cho tiết trời thêm se lạnh. Tiếng gà gáy eo óc trong đêm, tiếng ếch nhái, chão chuộc ì oặp kêu ngoài đồng chẳng dứt… nghe đến não nề; Cha lặng lẽ nghĩ về việc của tôi.  Ngoài kia, dòng sông Lam vẫn mải miết chảy bên làng Ngũ Phúc bé nhỏ, sóng vỗ lao xao như vẫn thao thức bồn chồn cùng với việc trọng đại trong ngôi nhà này. Phía chân trời xa xa, có những ánh chớp loé lên rồi vụt tắt. Tiếp đó là tiếng nổ ầm ầm từ xa vọng tới. Chắc là máy bay ném bom trên thị trấn…
  Nghe tôi trả lời, ông bước ra sân. Tôi thấy bước chân của Cha ngày càng yếu dần. Dạo này đôi mắt Cha sâu quầng như mất ngủ. Cha lặng lẽ bước đi vòng quanh sân nhà. Cũng lúc này, chị cả Liên đi đâu về. Thế là có người ủng hộ cho tôi rôi. Nếu Cha còn lưỡng lự, chị tôi nói thêm vào chắc Cha đồng ý. Tôi kéo tay chị vào nhà như có việc quan trọng. Tôi thưa chuỵên với chị về ý tưởng đi bộ đội. Vừa nghe tôi nói, chị tôi đã quắc mắt:
- Cậu có hâm không đấy? Cậu không thương Cha, thương chị đã mất công nuôi nấng, dạy dỗ cậu ăn học à? Nhà ta chỉ có cậu là con trai, theo chính sách cậu không phải đi bộ đội đâu. Hiểu chưa? Bao năm vất vả, cả gia đình dồn hết sức lực, tất cả các chị, các em không đi học, tập trung cho cậu học hành nên người thế là đi toi à? Sao cậu học hành như vậy mà ngu thế?
 Chị Liên làm cho một hồi nghe thật chát chúa. Tôi cũng không ngờ chị cả Liên lại là người phản đối kịch liệt việc tôi đi bộ đội như vậy. Tôi thấy vừa bực mình vừa mất hết hy vọng. Tôi cự lại chị:
- Sao chị lại nói như vậy. Chị không tôn trọng em tẻo nào cả. Em rất quý chị mới hỏi chị, mới xin ý kiến chị. Chị không đồng ý thì nói cho có lý, sao lại chửi em ngu? Thế hiện nay các thanh niên đi bộ đội như em đều là ngu xất? Em đã lớn rồi, chị không được nói với em như vậy. Thấy tôi nói to, chị Liên vào giường nằm. Có lẽ tôi đã làm chị bực bội. Nghĩ vậy, vừa bực vừa thương cho chị quá.
Thấy hai chị em chúng tôi cãi vã nhau, Cha tôi vào nhà. Cha ngồi vào chiếc phản, tay vớ lấy chiếc bát điếu, châm lửa, rít một hơi dài. Khói thuốc lào lan toả khắp căn phòng. Sau khi uống ngụm nước, Cha tôi gọi hai chị em ra ngồi bên cạnh. Cha nhìn chúng tôi rồi nói:
          -  Cha cũng tính rồi. Cha rất thông cảm với hai chị em. Bây giờ con cũng đã lớn. Nếu con đã suy nghĩ kỹ và quyết tâm đi bộ đội thì Cha đồng ý. Nhưng đi bộ đội là gian khổ đấy, đã đi là phải hoàn thành nhiệm vụ!.
   Nghe Cha nói như mở cờ. Tôi mừng quá. Tôi ôm lấy vai Cha, cảm ơn Cha. Cha nhìn tôi và nói tiếp:
           - Đi bộ đội cũng là dịp được rèn luyện, thử thách, con à. Bộ đội là trường học, là nơi đào tạo ra những con người có ý thức tổ chức kỷ luật, biết thương yêu nhau, biết vượt qua những khó khăn nhất. Được đóng góp sức mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng là niềm tự hào của lớp lớp thanh niên ngày nay!…Nghe Cha nói một hồi dài như chính trị viên vậy. Tôi rất tự hào. Chị cả Liên ngước nhìn Cha, nước mắt lưng tròng.
Tối đo, tôi thao thức mãi không ngủ được. Thế là sắp được đi bộ đội rồi. Ôi. Cám ơn Cha, cám ơn chị thật nhiều.
Các thầy, cô và bạn bè của tôi đều ngạc nhiên trước những quyết định đi bộ đội của tôi, nhưng không ai ngăn cản. Tất cả đều thấy được cuộc chiến tranh phía trước là gian khổ, hy sinh và rất cần sự cống hiến của tuổi trẻ. Họ biết trong cuộc chiến tranh, sống mái với quân thù, những việc làm như tôi cũng rất đỗi bình thường như bao người thanh niên khác. Đi lính trong dịp này cũng là niềm vinh dự, tự hào. Xóm trên, xóm dưới, các lớp học cũng vậy, thanh niên nhập ngũ nhiều lắm. Đài, báo đưa tin có nhiều thanh niên chưa đủ 18 tuổi còn khai tăng tuổi, không đủ cân còn giấu cả đá vào người để đủ cân trúng tuyển. Nhiều người còn viết đơn tình nguyện bằng máu để xin được vào miền Nam đánh Mỹ. Những dũng sĩ diệt Mỹ vẫn còn ở tuổi thiếu niên, những chú bé liên lạc đưa thư băng qua những cánh đồng, băng qua những xóm làng một cách mưu trí, dũng cảm. Cụ già còn lên trận địa trực chiến bắn cháy tàu bay Mỹ. Những mẩu chuyện mà báo đài đưa tin khiến mỗi thanh niên như chúng tôi được đắm mình trong không khí hào hùng và oanh liệt của thời đại.
   Hôm có giấy báo trúng tuyển bộ đội, tôi và Loan thật sung sướng. Cuộc đời lúc này như bước ngoặt và có ý nghĩa vô cùng. Chúng tôi cảm thấy mình lớn lên rất nhiều. Cả ngày, tôi vui mừng, giống như mình đã làm được một việc gì đó có ý nghĩa lắm. Cùng trúng tuyển với tôi trong đợt này có hàng trăm thanh niên trong đó chủ yếu là học sinh cấp ba huyện Nam Đàn. Riêng trong xã Nam Lộc đã có các bạn Loan, Liêm, Nam cùng đi bộ đội. Chúng tôi cùng lứa tuổi, cùng học với nhau và cùng đi bộ đội đợt này. Ngày lên đường càng gần, tôi tranh thủ thời gian để làm từng công việc chuẩn bị. Lúc này, tôi muốn tranh thủ giúp Cha, đỡ chị nhiều việc hơn. Chị và Cha thì dành thời gian và mọi thứ cho tôi. Tôi phải dành cả buổi sáng để gói ghém sách vở, cất kĩ trên gác nhà với ý định đi bộ đội về sẽ học tiếp. Những cuốn sách toán học, sinh vật, văn học, địa Lý, lịch sử, hoá học với biết bao nhiêu kiến thức in đậm trong đầu tôi từng bài giảng của thầy. Tôi có đi bộ đội nhưng những bài học và những công thức toán – lý – hóa chẳng bao giờ tôi quên được. Khi kết thúc chiến tranh, tôi sẽ tha hồ mà nghiền ngẫm sách vở, không còn sợ bom rơi trên đầu, không phải đi học đêm và chạy toán loạn vì sợ ma nữa.
    Ngày ấy, chúng tôi nhìn chiến tranh có cái gì đó hơi lãng mạn và thi vị. Âm hưởng của cuộc chiến tranh phả lại trong từng lời thơ, bài hát rất đỗi hào hùng, giục giã chúng tôi ra trận. Cái khí thế ấy mạnh mẽ vô cùng. Chết chóc đau thương, mất mát bị chìm khuất sau những giai điệu hùng tráng ấy. Không phải là khi xung phong đi bộ đội chúng tôi không nghĩ đến sự hy sinh, nhưng sự hy sinh lúc đó đối với suy nghĩ của tôi là không đáng nói, là không bàn tới. Tôi chỉ thấy cuộc chiến tranh đang diễn trước mắt là những gì hùng tráng, tự hào và đẹp đẽ nhất. Cũng lúc này, đâu đâu thanh niên cũng thi nhau ngâm bài ca Xuân 68 của nhà thơ Tố Hữu:
“Hoan hô anh Giải phóng quân.
Kính chào Anh con người đẹp nhất.
Lịch sử hôn Anh chàng trai chân đất.
Sống hiên ngang bất khuất trên đời.
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi.
Một cây ná, một cây chông, cũng tiến công giặc Mỹ.
Không tự ngắm mình. Anh chẳng hay đâu.
Hỡi chàng trai dũng sĩ.
Cả năm châu, chân lý đang nhìn theo.
Bóng Anh đi…và vành mũ tai bèo.
Của Anh đó.
Ôi cái mũ vải  mền dễ thương như một bàn tay nhỏ.
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành…”
Bởi thế, tôi rất tin mình sẽ chiến thắng trở về. Thực ra sau này, càng vào sâu trong trận tuyến, tôi mới rõ cái tuổi mười bảy, mười tám ấy, chỉ mới nhìn thấy cuộc chiến ở trên bề mặt, chỉ thấy được những hứng khởi trước mắt. Cái sâu xa, cái giá phải trả của chiến thắng lớn lao vô cùng và không gì sánh được.
     Trước hôm tôi lên đường, Cha bảo tôi sang ngủ chung với ông. Có lẽ Cha muốn dặn dò tôi đôi điều trước khi xa nhà và cho đỡ nhớ con. Bao nhiêu năm rồi, kể từ ngày lớn lên, có mấy khi tôi nằm gần Cha đâu. Tôi bỗng thấy thương Cha vô cùng. Cha cũng là người lính, là người trải qua bao đau khổ. Tôi lại như đứa trẻ nhỏ lên năm, lên sáu tuổi suốt ngày quây quần bên Cha. Ngửi cái mùi mồ hôi mặn mòi quen thuộc của Cha tôi chợt thấy bùi ngùi quá. Ngày mai tôi không còn được hít hà cái mùi mồ hôi quen thuộc này nữa, không được nhìn thấy bóng dáng Cha gầy gò tất bật công việc từ sáng tới chiều...Tôi sẽ phải xa mái nhà quen thuộc và thân yêu. Căn nhà ấy, có từng cây cột, cánh cửa, bậc thềm, đều in dấu những kỉ niệm gia đình tôi. Cái xà nhà kia còn đầy đủ các công thức toán học, hoá học, lý học mà tôi đã viết lên đó để học thuộc lòng làm sao quên được. Trong nhà có những đồ vật để ở đâu và để ở vị trí nào tôi đều nhớ rõ ràng lắm. Tôi không quên được mùi ổi chín thơm phức, mùi mít chín ngọt ngào. Tôi cũng chẳng quên được mùi khói bếp bốc lên mỗi sớm tinh mơ, những âm vang quen thuộc của quê hương trong mỗi buổi chiều tà trước khi nắng nhạt dần: tiếng lốc bốc, tiếng vịt con chòn chọt, tiếng ếch nhái, chão chuộc kêu trong đêm, đặc biệt là hít cái không khí trong lành và thanh bình của làng Ngũ Phúc thân yêu.
   Tôi như một đứa trẻ, quay nghiêng người ôm lấy lưng Cha. Tôi đã là chàng trai khỏe khoắn và cao lớn hơn Cha, tôi không còn nằm lọt thỏm trong vòng tay Cha  như ngày nhỏ nữa. Tôi và Cha nằm vừa đủ tấm phản. Tôi nghe rõ tiếng Cha thở dài, nói:
   - Con đi, Cha chỉ mong sao cho chân cứng đá mềm, được trở về đoàn tụ với gia đình.
Tôi nằm im. Tay tôi đặt nhẹ lên ngực ông như muốn Cha trao thêm hơi ấm cho mình. Nghe Cha nói, Cha dặn, tôi thấy thương ông quá. Tôi  xúc động, nuớc mắt tuôn trào nhưng tôi cố úp mặt xuống phản không phát ra tiếng nấc. Cha gỡ nhẹ tay tôi rồi ngồi dậy, ông nhìn tôi như dồn nén cả tình thương cho con mình, ông đi về phía bàn thờ Mẹ tôi. Ông thắp mấy cây hương thơm rồi lẩm nhẩm nói điều gì đó. Cha đang cầu khấn Mẹ phù hộ cho tôi được bình an khi ra mặt trận. Mùi hương thơm ngào ngạt như linh hồn Mẹ về, làm tôi càng nhớ đến Mẹ hơn.
 Chờ cho Cha thắp hương xong, tôi cũng theo Cha thắp hương cho Mẹ: “Mẹ ơi, xa nhà, con nhớ và yêu thương tất cả mọi người, nhưng cuộc chiến sắp kết thúc rồi, con muốn góp công sức nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại. Con cũng đã lớn khôn rồi, phải không Mẹ? Mẹ phù hộ độ trì cho con nhé. Mẹ cũng phù hộ độ trì cho Cha, cho các chị con cùng gia đình ta gặp nhiếu may mắn!.” – Tôi thầm thì nói những điều đó khi nhìn lên bàn thờ Mẹ. Hình ảnh Mẹ lại chập chờn ẩn hiện trong tôi. Trong cái đêm ngát mùi hương thơm, nhìn Cha, ngắm ảnh Mẹ, nước mắt tôi lại chảy dài trên gò má.
   Tôi nghe rõ tiếng cựa mình bên giường của các chị em. Đêm nay có lẽ không ai chợp mắt nổi. Ai cũng lo lắng cho tôi. Chị gái tôi thì nước mắt ngắn dài vì nghĩ sẽ phải xa tôi. Bây giờ chị không phải lo cho tôi nữa nhưng nhớ thương thì hơn thế nhiều. Tôi thương chị lắm. Công việc nhà cửa, ruộng vườn bây giờ đổ dồn lên đôi vai chị. Cả cuộc đời con gái chị dồn hết cho tôi.
    Tôi đi xa nên các chị em trong gia đình, họ hàng chuẩn bị cho nhiều thứ. Nào chiếc khăn lau mặt, kim chỉ, lọ dầu xoa, sổ tay, giấy bút... cả những gói kẹo chanh vừa mua ngoài hợp tác xã. Trong con mắt các chị thì tôi vẫn là cậu ấm bé bỏng. Xa gia đình tôi nhớ lắm, chắc mọi người ở nhà cũng nhớ tôi không kém. Điều mà chẳng ai dám nói ra lúc đó nhưng vô cùng quan trọng và ám ảnh mọi người là trong số rất nhiều những người ra mặt trận thì có được mấy người trở lại đâu. Số báo tử trong xã ngày một nhiều. Tôi lại là cậu con trai duy nhất trong gia đình nữa. Tôi cũng không quên nhờ chị và các em, thắp những nén nhang vào ngày giỗ Mẹ, vì khi ấy ở chiến trường xa xôi, tôi không thể về được. Hy vọng Mẹ sẽ phù hộ độ trì cho tôi gặp nhiều may mắn nơi chiến trường xa tít tắp.
     Xen lẫn vào giữa hình ảnh của Cha và chị tôi là bóng dáng gương mặt của một người bạn học cùng lớp với tôi mà tôi không thể quên được. Thoa. Cô bạn gái hiền lành, xinh xắn ngồi trước bàn tôi. Tôi và Thoa biết nhau từ khi chúng tôi bước vào trường cấp III Nam Đàn 1. Tôi ấn tượng về Thoa ngay từ buổi đầu tiên đi khai giảng năm lớp 8 (năm đầu tiên của cấp III). Khi xếp hàng, tôi đứng sau một cô gái dáng người mảnh mai, giản dị, có khuôn mặt tròn và nước da trắng hồng. Cô bạn chưa quen quay đầu lại phía sau nhìn tôi cười hồn nhiên, đôi mắt đen láy, làm tôi cứ nhớ mãi giây phút ban đầu ấy! Cái hồn nhiên, trong sáng vô tư của tuổi học trò cứ quấn quýt bên tôi. Từ hôm đó trở đi,  thỉnh thoảng đến lớp chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau. Sau này quen nhau nhiều hơn, hỏi ra tôi mới biết Thoa là em của một thầy giáo ở trong trường, quê ở huyện Hưng Nguyên theo anh sơ tán lên Nam Đàn. “Con gái Hưng Nguyên đẹp hè”- Mấy cậu bạn trong lớp cứ bí mật kháo nhau thế, khiến cho Thoa đỏ mặt. Tôi chơi thân với Thoa ngay từ buổi đầu tiên ấy, cứ như là đã quen nhau trước khi vào trường. Chúng tôi là bạn học cùng lớp với nhau, hồn nhiên học tập và vui đùa sôi nổi. Trong lớp, Thoa chăm học, lại hiền lành nên bạn bè rất quí mến, hơn nữa Thoa là người bạn từ huyện khác đến, phải xa nhà nên các bạn luôn dành cho Thoa một tình cảm, một sự ưu ái riêng. Lớp học chúng tôi vui lắm, lúc nào cũng rộn rã tiếng cười. Nhất là những buổi sinh hoạt hay lao động, mỗi người một tay, vừa làm vừa tạo không khí vui vẻ. Cánh nam nhi chúng tôi thì làm những việc lớn, còn các bạn gái chân yếu tay mềm thì làm những việc nhẹ hơn. Thấy việc là cùng làm và cùng giúp đỡ nhau. Những cậu con trai cũng muốn thể hiện sức mạnh của mình nên nhiệt tình làm giúp các bạn gái, chẳng có buổi sinh hoạt nào là chúng tôi không trêu nhau, tiếng cười, nói râm ran làm cho công việc trở nên nhẹ nhàng và khẩn trương hơn.
   Cũng thật lạ, đến năm học lớp 9 thì giữa tôi và Thoa có một tình cảm đặc biệt, rất khó diễn tả bằng lời. Lúc này tôi được bầu lại làm Bí thư chi đoàn  lớp. Mỗi lần lớp có lịch sinh hoạt đoàn là tôi đứng lên chủ trì. Có hôm đứng diễn thuyết, vô tình tôi thấy Thoa ngồi dưới với đôi mắt đen láy nhìn tôi thật trìu mến, dịu dàng và che chở. Tôi mơ hồ nhận ra trong ánh mắt trong trẻo ấy có một cái gì đó khác hơn với tình bạn thông thường. Lúc đó, tự nhiên tôi thấy hồi hộp lắm, chỉ sợ đỏ tai và nóng bừng mặt trước lớp sẽ bị mọi người trêu. Có phải Thoa quí mến tôi hơn những người bạn trai khác không? Tình yêu ư? Không phải thế. Chúng tôi chưa nói với nhau một điều gì cả. Chưa bao giờ có những giây phút hò hẹn nói với nhau những lời yêu thương. Bãi cỏ xanh mướt và ánh trăng lung linh vẫn là của muôn người. Chúng tôi chỉ là những cô cậu học trò vô tư và tinh nghịch ở lứa tuổi “nhất quỉ nhì ma…” mà thôi. Thoa học giỏi văn, những bài văn của Thoa viết lời văn chau chuốt và nhẹ nhàng lắm, thầy giáo thường khen Thoa viết văn sâu sắc và giọng văn ấm áp. Thoa thường được đọc những bài văn hay trước lớp. Mỗi lần Thoa đọc bài văn, cứ cuốn hút tôi một cách say sưa. Khi đó tôi thường nhìn Thoa một cách cảm phục, tôi cố gắng mà chẳng khi nào vượt được điểm văn của Thoa. Tôi có khiếu học các môn tự nhiên hơn. Chúng tôi thường xuyên trao đổi bài vở với nhau, bởi vậy tình bạn giữa chúng tôi ngày càng thân thiết hơn. Tình bạn ư? Không phải vậy, hình như còn cao hơn thế! Hai người rất khó nói ra tình cảm ấy, mà nói ra rồi lại sợ một điều gì đó. Mỗi lần ngồi học bên Thoa, mùi thơm nhè nhẹ phảng phất hương hoa bưởi, bồ kết toả ra từ mái tóc đen nhánh, mượt dài và hơi ấm lan sang đôi má ửng hồng khiến tôi thấy bâng khuâng xao xuyến. Làn hương từ mái tóc dài toả ra từ cô bạn xinh đẹp, thông minh làm cho những cậu con trai mới lớn như tôi thấy không thể không rung động. Dù đó chỉ là sự rung động của những nhành lá non tơ trước làn gió đầu xuân man mác. Chỉ vậy mà hương vị ngọt ngào của nó còn đọng lại trong kí ức của tôi đến tận bây giờ. Tôi không sao quên được những giây phút xao động lòng mình như thế. Hôm nào không được ngồi học cùng với Thoa, tôi cảm thấy buồn, thấy nhớ, thấy lòng mình trống vắng một cái gì đó. Ngày nào đi học, nhìn thấy Thoa là tôi thấy vui, thấy cuộc đời ắp đầy ý nghĩa. Em khiến cho tôi có trách nhiệm với việc học hành và tu dưỡng đạo đức hơn.
Tôi còn nhớ, hồi đó Thoa trọ gần trường học. Thỉnh thoảng có những buổi học thể dục, lũ con trai chúng tôi đùa nghịch, khát nước nên thường rủ nhau vào nhà Thoa trọ để xin nước uống. Cả bọn kéo nhau đi như một đoàn tàu, đứa nào cũng mồ hôi nhễ nhại, ngần này người khát nước, không biết nhà Thoa có đủ nước cho bạn bè uống không- chúng tôi hỏi Thoa thế và Thoa bao giờ cũng vui vẻ khi thấy bọn bạn trai tới nhà, trong đó có tôi. Thoa chào tất cả mọi người, nhưng ánh mắt thân mến nhất vẫn dành cho tôi. Tôi sung sướng khi nhận ra điều ấy và hạnh phúc vô cùng. Cái nhìn của em hướng về tôi, luôn cho tôi cảm giác bất chợt, gợi niềm thương nhớ. Cũng đã mấy lần tôi thao thức không sao ngủ được khi nhớ lại ánh mắt đằm thắm mà người bạn gái trao cho chiều nay. Có cái gì bồi hồi quá. Tôi nhớ đến Thoa nhưng chỉ trong những suy nghĩ lặng lẽ một mình. Nhiều lúc, tôi cứ ước rằng con đường đến trường của Thoa gần với nhà tôi thì hai đứa tôi sẽ được đi bên nhau để có dịp trò chuyện với nhau thật nhiều, tôi sẽ được làm thằng con trai che chở cho những đoạn đường Thoa đi học đêm về mà không sợ ma. Kỷ niệm về Thoa ngày càng sâu nặng và chiếm lĩnh trái tim tôi nhiều hơn. Tuy vậy, tôi vẫn ngại ngùng không dám thổ lộ điều gì với Thoa. Hai đứa chúng tôi cứ sống vô tư và gắn bó với nhau như thế. Thoa rất quan tâm đến mọi người. Một lần tôi bị đau, chân sưng vù lên; gặp Thoa, tôi vờ như không có chuyện gì nhưng Thoa vẫn thường xuyên hỏi thăm vết đau của tôi và còn mách tôi bài thuốc lá để chữa nữa. Em nói rằng: “Em hỏi mẹ cách chữa vết đau đó”, khiến tôi nhận ra tình yêu thương thầm kín từ nơi em cho tôi.
  Chúng tôi rụt rè, vấn vương, tơ tưởng mong manh của lứa tuổi học trò na ná như thứ tình cảm của Pa ven- Tô nhi a trong “Thép đã tôi thế đấy”- nghĩa là nó rất lãng mạn và rất tiểu thuyết. Nó nhẹ như làn gió mai khẽ lay bông hồng đầy hương sắc. Hình như trong trái tim run rẩy của mỗi đứa đã có lúc ngân lên những cung bậc mới mẻ để rồi khi xa vắng nhau con tim lại hồi hộp rộn ràng, thổn thức mong sớm được gặp lại. Thực ra, sau này tôi mới rõ, là con gái- Thoa dành cho tôi tình cảm chân thực và sâu sắc hơn nhiều. Trái tim trong trắng của Thoa đã hướng về tôi, cùng chung nhau nhiệm vụ học tập và chia sẻ với nhau những thiếu thốn mất mát của một người bạn sớm mồ côi Mẹ từ nhỏ. Tôi không dễ dàng nhận ra điều đó, chỉ nghĩ tới em với một tình yêu trong sáng mà thôi, tôi cũng chưa có gì tỏ rõ sự quan tâm bằng tình yêu đối với Thoa. Nhưng nỗi nhớ em thì tôi không thể giấu lòng mình được. Hai đứa chúng tôi cứ thế mà gắn bó với nhau, không một lời ngỏ, không một lời thề thốt thương yêu nhưng luôn luôn sống cho nhau. Sự có mặt của Thoa bên cạnh tôi ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu Thoa là buổi học như thiếu đi cái linh hồn trong tôi. Xa là thấy thương thấy nhớ, vắng là thấy buồn, thấy trống vắng trong tim.
  Tôi ngồi dậy nhẹ nhàng bước ra sân. Màn đêm đẫm hơi sương đang loảng dần ra. Không gian sáng sớm của mùa xuân hơi lạnh như chạm nhẹ vào làn da. Giờ này, quê tôi nhà nào cũng có người dậy sớm để nấu cơm ăn, lo việc đi làm đồng. Tiếng gà đua nhau gáy rộ lên trong xóm. Hoa cau thoang thoảng tỏa mùi thơm nhẹ nhàng xuống sân nhà. Tôi thích cái mùi hoa cau này lắm, những ngày mùng 1 hay ngày rằm, dưới nén nhang thắp cho Tổ tiên và thờ Mẹ, chị tôi lúc nào cũng bẻ một cành hoa cau đặt lên bàn thờ. Hoa cau vàng trắng, hoa giống như những hạt lúa trổ bông dày. Tôi khẽ hít mùi thơm man mác ấy.
    Cũng lúc này chị tôi dậy nấu cơm. Mùi thơm của khói rơm pha lẫn làn sương mỏng bay là là trên bếp làm cho con người thêm sảng khoái. Chắc hôm nay chị cho cả nhà ăn tươi thì phải. Mùi mỡ phi với hành thơm ngào ngạt. Tôi nhớ lại những ngày tôi bắt chước chị thổi cơm, khói rơm bay làm tôi cay sè cả hai con mắt, chẳng nhìn thấy gì, tôi đành la om sòm trong bếp và gọi chị vào. Chị nhìn tôi vừa cười. Chị làm tôi xấu hổ quá. Về sau tôi mới biết là khi đun bếp, mình vớ phải nắm rơm bị ướt. Tôi thấy căn bếp ngày càng cũ kĩ, cửa ra vào đã không có cánh mà còn quá nhỏ và thấp. Chiều cao người tôi ngày càng dài ra, cho nên gần đây, mỗi lần ra vào bếp, tôi bị cộc đầu, nhiều chỗ trên mái bếp có thể nhìn thấy cả trời. Đã mấy lần Cha chuẩn bị sửa gian bếp cho đàng hoàng mà không làm nổi. Có lần tôi đun bếp bị va vào đầu sưng to lắm. Tôi có nói với Cha: “Cha không mau sửa bếp thì có ngày con vỡ đầu đấy”. Nghe tôi nói, Cha mỉn cười gật đầu đồng ý nhưng đến nay cũng chưa có điều kiện để sửa lại cái bếp. Tôi có ý định khi đi bộ đội về, chưa làm được nhà thì cũng lợp lại cho Cha, cho chị căn bếp đàng hoàng để vào ra được thoải mái, không bị mưa ướt củi, ướt rơm đun.
    Tôi vừa dạo quanh sân vừa nhìn ngôi nhà nho nhỏ của tôi như cố nhớ lại những hình ảnh thân yêu, đầm ấm, quen thuộc nhất. Chỉ còn thời gian ngắn nữa thôi là những hình ảnh về ngôi nhà, về quê hương sẽ chẳng còn hiển hiện nữa. Thay vì là cảnh bom rơi đạn nổ, cảnh khói lửa mịt mù. Thời điểm này, máy bay giặc hoạt động cũng thưa hơn. Không gian như lắng xuống, yên tĩnh. Tôi lại nhớ đến em. Đêm qua Thoa có ngủ được không? Em có buồn không khi tôi phải xa em để ra chiến trận? Em có còn mang trong mình những kỉ niệm đẹp đẽ êm đềm của hai đứa không? Khi tôi vào chiến trường, ra trận mạc thì em sẽ ra sao? không còn nhìn thấy tôi trong lớp học, không còn thấy tôi hoà vào đám bạn trai vào xin nước uống, hai đứa không còn ngồi học ôn bài cùng với nhau...em có buồn không? Những bài toán khó, không giải được em sẽ ngồi ngẫm nghĩ thật lâu, rồi lại nhớ đến anh ư? Máy bay giặc Mỹ sẽ ném bom nhiều hơn. Em về nhà thăm mẹ rồi lại lên trường học, qua bao trọng điểm bắn phá ác liệt của máy bay sẽ như thế nào? Thời buổi chiến tranh em đi đứng cẩn thận, nghe em. Máy bay giặc chẳng từ ai đâu em ạ. Riêng tôi, chắc chắn không bao giờ tôi quên được Thoa nhưng tôi biết nói sao cho em hiểu. Tôi không dám thổ lộ những điều đó, đem cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình. Tôi vừa ngại ngùng, vừa muốn thổ lộ nhưng cũng sợ làm ảnh hưởng đến em. Tôi phải xa em thật rồi. Vào chiến trường, có lẽ tôi cô đơn lắm, chưa xa em tôi đã thấy nao nao nhớ đến em rồi. Mấy hôm nay, một ngày không thấy em, tôi đã thấy nhớ, huống hồ phải đợi chờ đến khi nào hết chiến tranh, biết đếm sao cho nhanh hết thời gian. Em có chờ tôi trở về không?...Cái dáng người mảnh mai, đôi mắt đen với nhiều lần nhìn tôi sâu lắng, mái tóc óng mượt với những mùi hương lan toả, giọng nói nhẹ nhàng... làm sao tôi quên được. Nhất là nụ cười của em làm lòng tôi ấm áp một niềm tin và tình thương yêu tuôn chảy. Sau này hết chiến tranh, trở về với quê hương, tôi sẽ tìm đến Thoa để nói lời cầu hôn  em. Nhất định thế, Thoa ạ! Lúc ấy, mong em đừng từ chối tình yêu của tôi dành cho em nhé. Tôi chợt nhớ đến hôm trước, khi biết tôi trúng tuyển bộ đội, Thoa đã không gọi tôi bằng tên nữa mà chuyển sang gọi là anh một cách rất tự nhiên. Tôi không bất ngờ với những gì em gọi tôi và tôi cũng gọi Thoa bằng em như đã gọi từ lâu lắm. Lúc đó cảm xúc buồn vui cứ pha trộn trong người. Tôi vui vì được vào bộ đội, được cống hiến và hoà mình vào cuộc chiến tranh, nhưng buồn vì phải xa gia đình, xa em và biết đâu không còn trở về với em nữa, tôi chỉ nghĩ trong đầu vậy thôi, chứ nói ra những điều không lành, chắc em sẽ bật khóc.
    Trời đã chuyển sang mùa hè. Không khí oi bức đã bắt đầu. Gío Lào cũng đã thổi lên từng cơn. Bầu trời như trong xanh và cao vời vợi. Không khí càng ngày càng ngột ngạt. Những lúc này chỉ có ra sông Lam tắm mới tránh được cơn nóng rát mà thôi. Mấy hôm nay cường độ máy bay Mỹ ném bom vào Nam Đàn hình như nhiều hơn. Chúng ném nhiều xuống thị trấn, xuống sông Lam, xuống đường 15A. Chúng bắn phá bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, không kể ngày hay đêm. Nghe đài, đọc báo, họp chi đoàn, tổ chức cho lớp giao lưu với các đơn vị bộ đội, nghe dũng sĩ miền Nam kể chuyện đánh Mỹ…thật tự hào và sôi động.
     Ngày 13 tháng 4 năm 1968 đã trở thành cái mốc quan trọng không bao giờ quên được đối với cuộc đời tôi. Tôi ghi rõ vào quyển sổ nhật kí của mình một cách trang trọng như sự kiêu hãnh lớn nhất cuộc đời mình. Sáng hôm đó tôi dậy sớm. Thế nhưng Cha tôi đã ngồi vào bàn uống nước chè từ lúc nào. Chị cả Liên chuẩn bị bữa cơm tương đối tươm tất. Buổi sáng hôm đó cả nhà được ăn cơm nếp đồ với lạc. Mỗi miếng cơm thơm, bùi vị nếp với vị béo ngậy của lạc thật hấp dẫn. Cha tôi và các chị em chỉ ăn mỗi bát là ai cũng ngán. Tôi thì chén thật no. Chị Liên còn gói cho tôi một gói cơm nếp bằng mo cau để đi đường ... Đang ăn cơm thì chị Liên nhìn tôi hỏi:
   - Thế cái Thoa đã gặp em chưa? Tội nghiệp con bé. Nó sang đây mấy lần mà không gặp em. Chị vừa nói vừa gắp thức ăn cho tôi.
   - Từ hôm qua đến giờ em chưa gặp. Bận quá chị ạ. Chị Liên vừa dọn mâm cơm vừa nói như trách:
- Bận thì bận, cũng phải sắp xếp tiếp Thoa chứ…Nghe chị trách mà thấy thương Thoa vô cùng.
    Vừa ăn xong thì bà con cô bác đã đến chia tay. Ai cũng chúc mừng tôi lên đường chân cứng đá mềm, và ai cũng dặn nhớ viết thư về. Tôi như đã là người lớn, thật tự hào.
     Cơm nước xong thì mọi người trong thôn kéo đến uống nước chè xanh, chúc mừng  và tạm biệt tôi. Ai cũng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ và trìu mến. Tôi thật cảm phục tình cảm của bà con thôn xóm lúc vui cũng như lúc buồn. Nhìn ai tôi cũng thấy thương nhớ. Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thôi sẽ lên đường, tôi quí hoá từng giây phút, cứ muốn lưu giữ mãi bên mình.
     Tôi nghĩ đến Thoa. Không biết Thoa có đến kịp để tiễn tôi  không nhỉ. Lúc ra đi mà không có ánh mắt của em đưa tiễn chắc lòng tôi xao xác lắm. Tôi đang hình dung nếu khi đó không có em ở bên, cảm giác của tôi khi đó sẽ ra sao. Tôi vào bộ đội như vậy sẽ buồn lắm, em biết không? Nhưng nếu em đến mà rơi nước mắt thì tôi biết làm sao đây. Có người con gái nào đưa người con trai ra trận mà không lệ nhòa? Tôi cầu mong sự có mặt của em nhưng em đừng rơi nước mắt như cô gái trong thơ của Nam Hà mà hôm nào em đọc cho tôi nghe:
Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt giành cho ngày gặp mặt...
   Nhưng cảm xúc của con người thì làm sao mà nói trước được. Em là người con gái ven sông Lam, chịu thương, chịu khó nên cũng rất dễ thông cảm với những hoàn cảnh như anh. Anh chỉ sợ rằng, giờ phút xa em đã đến gần mà chưa có dịp để nói chuyện với em, chắc em sẽ trách anh và cũng dễ xúc động như tình cảm lâu nay đã dành cho em. Dù đi đến chiến trường nào, dù có vượt qua bao sông, bao núi, bao thác, bao ghềnh, trong anh vẫn canh cánh một điều, đất nước khải hoàn anh lại về bên dòng sông Lam quen thuộc để được nô đùa, tắm mát như thủa nào, cũng như được về với em như bao năm sống và học tập bên nhau.
 Chúng tôi sang xã Nam Anh để tập trung. Sau khi cán bộ nhận quân đọc tên, tôi vào nơi nhận quân trang: quần áo, dày, dép, tất, ba lô...Ôi, nhiều thứ quá. Tiếng người nói, cười, hỏi thăm, xen lẫn với tiếng sụt sùi và mùi xăng xe làm cho không khí thêm ngột ngạt. Tôi liền vận ngay quần áo bộ đội. Đây là giờ phút chính thức tôi được khoác lên mình bộ quân phục vải Tô Châu, cùng vòng lá nguỵ trang màu xanh của người lính. Tôi tự ngắm nghía, vuốt ve. Tôi thấy mình như khác hẳn. Ánh mắt mọi người nhìn tôi cũng vậy. Từ hôm nay tôi đã trở thành chiến sĩ, đã là một quân nhân cách mạng. Cái cảm giác mình được lớn bổng lên, rắn rỏi, chững chạc hơn càng rõ dần trong tôi. Tôi thấy cơ thể mình như khoẻ khoắn, cường tráng, vạm vỡ hơn. Những chàng trai lên đường nhập ngũ, ai cũng rạo rực khi đắm mình trong không khí trọng thể của buổi lễ tiễn tân binh do địa phương tổ chức. Mọi người cùng nhìn nhau trong niềm vui đợi chờ. Bên trên, nào: Cờ, khẩu hiệu, băng rôn được trang hoàng dưới những lùm cây cao và những cành lá ngụy trang xanh thắm. Trong làng  có rất nhiều người đi tiễn. Từ các cụ già, cô bác cho đến các em nhỏ, đông đủ cả. Vây quanh tôi có Cha, chị, các em và bạn bè cùng những người thân quen thuộc nơi tôi sinh ra, cả những gương mặt tôi chưa hề biết đến, những em nhỏ lít nhít mặt còn lấm tấm những vết lấm lem cùng giơ những bàn tay nhỏ xíu hướng về phía những người lính mặc áo xanh vẫy vẫy, ai cũng động viên chúng tôi lên đường một cách thân tình. Có nhà còn luộc cả một rổ khoai ngon cho chúng tôi  mang đi ăn đường. Tình cảm của bà con chòm xóm mộc mạc, nhưng rất đằm thắm. Mọi người coi chúng tôi như con một nhà, ai cũng mong muốn chúng tôi đi đánh giặc mạnh giỏi, lập được nhiều chiến công và quay trở về với quê hương. Nhà nào không có con đi cũng ra đưa tiễn.
  Trong không khí rộn rã tiếng cười, nói râm ran cả sân kho HTX, Cha tôi đứng lặng lẽ nhìn tôi, không nói. Lúc đầu, mọi người còn hỏi thăm nhau vui vẻ nhưng rồi giây phút lên đường ngày một tới gần hơn, mọi người đều tranh thủ dặn dò những lời yêu thương nhất, tay nắm tay bịn rịn, vỗ vai như tiếp thêm sức lực cho chúng tôi. Các chị, em tôi thì nước mắt ngắn nước mắt dài, ai cũng nhớ thương da diết. Chị cả ôm lấy tôi nghẹn ngào, nói: “Em đi nhớ viết thư về cho Cha, cho chị nghe. Giấy bút chị đã chuẩn bị cho em ở trong túi rồi. Nhớ nghe em, cả nhà mong tin em lắm đó, việc nhà em không phải lo gì hết, đã có chị và Cha lo, khó khăn gì thì cũng đã có bà con trong làng rồi... Em đi nhớ đừng để gia đình mong đợi quá”. Bà con làng xóm láng giềng ai cũng rưng rưng nước mắt, có người còn dúi cả tiền vào tay tôi, bảo: “Cầm đi mấy đồng mà uống nước dọc đường”, người thì bảo: “Đi mạnh giỏi nghe con, khi nào hoà bình trở về là cả quê nhà sẽ ra đón các con”, “Các con xa nhà nhớ yêu thương, đùm bọc lấy nhau nhé”!...
   Biết bao nhiêu lời dặn mà tôi không thể nhớ hết nổi, thú thực lúc ấy lòng tôi thấy nao nao quá, tôi thấy nghẹn ngào trong cổ họng nhưng không thể bật khóc lúc này, người lính không được yếu đuối như thế, phải vững vàng lên chứ. Không khí lắng đọng, những nét buồn và những giọt nước mắt lăn tràn trên gương mặt chị. Cha tôi cũng không thể giấu nổi tình thương yêu, hai tay bưng mặt mà khóc. Lần này thì Cha khóc rưng rức. Nhìn Cha, sống mũi tôi cay xè, cổ họng nghẹn đắng lại, tôi cố kìm những giọt nước mắt đang trực tràn ra. Tôi ôm lấy Cha thật chặt. Ôm Cha mà nước mắt tôi đã chảy ra mất rồi. Tôi cũng đã thấy Cha rưng rức khi ôm tôi vào lòng. Nỗi buồn, sự cô đơn và nước mắt của một người có tuổi như Cha tôi đáng thương lắm. Tôi khẽ quệt nước mắt, ôm chị và các em tôi, tôi dặn dò các em ở nhà thương yêu nhau, các em tôi còn nhỏ quệt nước mắt khóc, mặt mũi nhem nhuốc, gật đầu. Cái cảm giác tôi đã nghĩ đến sẽ diễn ra nhưng chưa bao giờ lại thấy hụt hẫng đến thế này. Chỉ lát nữa thôi, bên cạnh tôi sẽ không còn có ai là người thân, xa mọi người, rồi bao giờ mới được gặp lại. Tôi nói với Cha cùng các chị em:
- Cha mà cứ khóc thế này làm sao con đi được. Cũng may lúc đó tôi nhận ra các bạn trong lớp đang rẽ đám đông đến với tôi. Tôi nhìn Cha nói nhỏ:
Con đến với các bạn cùng lớp đây. Thôi, Cha đừng khóc nữa!
 Tôi nhận ra thầy chủ nhiệm. Tôi đưa hai tay lễ phép bắt tay thầy và các bạn. Hơi ấm từ bàn tay của thầy và các bạn như làm cho tôi thêm sức mạnh nhưng lại càng thêm nhớ nhung. Thầy vỗ vai tôi động viên: “Tạm biệt học trò cưng của thầy, các bạn trong lớp nhớ em lắm đấy, vào bộ đội, thầy tin em sẽ như Bí thư mạnh giỏi của lớp nhé”. Rồi thầy vỗ vai, lắc mạnh tay như nhắn nhủ đặt niềm tin ở tôi. Tôi lần lượt bắt tay các bạn. Ôi xao xuyến lạ thường. Tôi hứa với thầy và các bạn sẽ cố gắng vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và không quên viết thư về thăm thầy và các bạn trong lớp. Thầy gật đầu hi vọng, tôi chợt nhìn lên mái tóc thầy đã có những sợi bạc trắng. Hôm nay, tôi mới nhận thấy điều đó, thầy đã đưa bao nhiêu “chuyến đò qua sông”. Ai mà đếm hết được những lần đi ấy. Chỉ có lớp lớp học trò như chúng tôi cứ trưởng thành và cứ lớn dần lên. Tôi tự hứa với mình ngày trở về sẽ thăm thầy và các bạn. Các bạn tôi vây quanh, ai cũng chen vào tíu tít bắt tay tôi. Anh Lê Song Toán, Phó bí thư chi đoàn lớp thay mặt các bạn tặng tôi món quà kỉ niệm là chiếc khăn mùi xoa có thêu dòng chữ “Hẹn ngày hội ngộ”. Những tiếng vỗ tay cổ vũ động viên vang ròn mãi không ngớt dành cho tôi thật đáng quí. Tôi cầm món quà nhỏ bé nhưng mang nặng tấm lòng hậu phương, bạn bè làm tôi ngập tràn xúc động. Chững chạc trong bộ quân phục màu xanh hơi rộng, tôi nói lời cảm ơn và chúc mọi người ở lại sẽ làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của mình, xây dựng lớp tiến bộ. Những lời “hoan hô” lại ròn rã hơn. Trong lòng tôi khấp khởi đưa mắt nhìn mọi người, giây phút cảm động và lưu luyến quá, tôi đưa mắt tìm Thoa. Em đang đứng sau lưng mấy bạn gái, tôi thấy đôi mắt ươn ướt rồi, không như buổi đầu khai giảng quay lại nhìn tôi tươi cười nữa. Đôi mắt tôi hướng về phía em đứng, trái tim tôi rộn ràng một tình yêu cháy bỏng dành cho em. Em có hiểu tình cảm của tôi lúc này không? Em chầm chậm bước tới tôi như muốn nói một điều gì đó trước lúc tôi đi thì cũng là lúc tiếng còi của chỉ huy gọi chúng tôi lên xe. Mọi người lại ào về phía tôi, tôi rối rít bắt tay những người đứng gần phía tôi và vội vàng chuẩn bị bước lên xe. Tôi muốn nói với em điều gì đó, đơn giản nhất là lời dặn dò em nhưng lúc này không sao nói được, sự ngại ngùng và e dè ở cả tôi và em, chỉ có ánh mắt đẫm nước nhìn nhau. Tôi không thể đứng trước mặt em lúc này để nói, có thể tất cả mọi người sẽ ủng hộ chuyện tình cảm giữa tôi và em nhưng tôi không muốn nhìn thấy em ngượng ngịu, đỏ mặt trước mắt mọi người. Sự im lặng của em và tôi trong giây phút khiến tôi thấy bối rối quá. Chẳng nói gì được riêng với em, nói những điều để em hiểu được tình cảm của tôi lúc này, dù sao tôi cũng sắp đi xa, biết bao giờ mới trở về. Tiếng còi chỉ huy lại đồn dập vang lên. Không thể chậm chễ được, tác phong bộ đội là thế, nên chẳng còn cách nào, tôi rẽ đám đông và bước lên xe. Bỗng có ai đó níu ba lô tôi lại và nhét một thứ gì đó vào túi cóc. Tôi quay lại. Thoa! Em của tôi đây. Khuôn mặt tròn, ửng hồng, lấm tấm mồ hôi, mấy sợi tóc mai bết vào má, nhìn em mà tôi nghẹn ngào. Tôi sững sờ nhìn em đăm đắm. Chưa bao giờ tôi dám nhìn em như thế. Em cũng nhìn tôi dịu hiền, đôi mắt vẫn còn ướt át như muốn nói một điều gì đó thầm kín, e ấp. Rồi tôi lại thấy ở đôi mắt ấy những giọt nước mắt đã đong đầy khoé mi.
 Bỗng dưng có ai đó lôi ba lô tôi. Thì ra chỉ huy kéo tôi lên xe. Cuối cùng, trong giây phút vội vàng, xáo động của kẻ ở người đi, những lưu luyến khoắc khoải, Thoa chỉ nói được một câu ngắn ngủi mà tôi nghe rất rõ: “Anh đi nhớ viết thư về nghe”. Chỉ có vậy thôi mà câu nói theo tôi suốt chặng đường trận mạc, khổ ải gian truân sau này và có lẽ đeo đẳng suốt cuộc đời tôi. Một câu nói trong tình huống ấy đã nhắc nhở tôi tất cả rồi. Trong kí ức của tôi, mỗi lần nhớ đến em, nhớ đến ngày nhập ngũ của tôi, chưa bao giờ tôi quên câu nói cũng như lời nhắc nhở ấy- chưa bao giờ tôi quên…
 Đoàn xe đầy lá nguỵ trang chuyển bánh, để lại đằng sau mịt mù khói bụi. Đứng trên thành xe, tôi cố nhìn Thoa. Kia rồi! Em đang vẫy vẫy. Tôi cũng vẫy tay tạm biệt. Còn kia, là Cha, chị và các em tôi cũng đang vẫy tay. Bóng người giữa sân HTX ngày càng mờ dần bởi bui hồng cuộn lên khi xe rú ga phóng nhanh.
  Tạm biệt xóm làng thân thương, mảnh đất nơi tôi sinh ra và lớn lên với bao êm đềm và cũng biết bao kham khổ, khó nhọc. Tạm biệt cả tuổi thơ đi qua mãi mãi để lại những kỉ niệm trong tôi. Mảnh đất Mẹ tôi vẫn nằm đó chờ đợi tôi trở về, tạm biệt những ngôi nhà thân quen nằm trong những hàng cây xanh um tùm cứ xa dần theo những bàn tay vẫy vẫy. Tất cả tạo thành những dòng kí ức tuôn chạy trong tôi. Ngồi trên xe rồi, nước mắt tôi mới trào ra không kìm nổi. Nước mắt thương Cha, thương chị, nhớ dì và các em. Nước mắt của sự chia xa tình mẫu tử. Những cậu bạn ngồi bên tôi lúc này, ai cũng bật khóc. Những căn nhà nhỏ bé mà ấm áp tình thương yêu che chở đùm bọc của bà con làng xóm, con đường làng quê tôi cũng xa tít tắp thành những hình con rắn bò khòng khoeo dưới mặt đất. Tôi cố nhìn hình ảnh quê hương một lần nữa. Quê hương- đây là lần đầu tiên tôi rời xa, tôi mới thấy thấm đẫm lòng thương nhớ quê. Tôi nghĩ đến một ngày nào đó trở về, tôi sẽ ùa ra đồng để cùng Cha và chị đón những bó lúa vàng thơm và hoà cùng câu hò đối đáp âm vang nhộn nhịp khẩn trương của mọi người vang trên cánh đồng làng trong mùa cấy hái. Những em nhỏ chạy lăng xăng, cầm những cái chai nhỏ ra đồng đuổi bắt những con châu chấu, cào cào mang về cho gà ăn. Những chú chuồn chuồn ớt cánh vàng ruộm bay trên không báo mưa báo nắng cho những người dân. Mỗi lần có mặt ở ngoài đồng là những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, trên lưng áo mình nhưng thật vui. Mùi lúa chín, mùi bùn đất, mùi khói rơm rạ trên những thửa ruộng đã gặt và cả những âm thanh vui nhộn trên quê hương cứ tràn về trong kí ức tôi. Bây giờ giấc mơ được đặt đôi bàn chân lên cánh đồng thành xa lạ đối với tôi, tôi thấy mọi thứ thân thương và gần gũi quá.
   Sẩm tối hôm đó, đoàn tân binh của chúng tôi đã có mặt ở đơn vị huấn luyện. Đó là Đoàn 22 thuộc Quân khu Bốn đóng ở xã Nghĩa Thọ, huyện Nghĩa Đàn. Sau khi nhận chỗ nghỉ, tôi lục trong ba lô, túi cóc thì phát hiện ra một bức thư. Tôi vội vàng cầm trên tay như một kẻ chờ đợi một tình yêu bao ngày xa cách. Tôi hồi hộp và sung sướng lắm. Tôi và em đã bao giờ viết thư cho nhau đâu. Tôi biết đó là thư của Thoa nên nhanh tay giở ra đọc. Nét chữ con gái mềm mại, nghiêng nghiêng quen thuộc. Đây là bức thư lần đầu tiên nên tôi quá xúc động. Vừa mới xa em, tôi đã có thư đọc rồi, em tài thật, mới đó mà đã viết thư rồi.
    Cầm lá thư áp lên ngực, trái tim tôi đập rộn ràng, hồi hộp bởi đây là lần đầu tiên trong đời tôi được một người con gái gửi thư cho, mà người đó không phải là ai khác chính là Thoa- Thoa sẽ viết những điều gì trong đó nhỉ? Chắc chắn sẽ khác với những dòng lưu niệm viết trong sổ tay mà lớp học trò chúng tôi thường trao tay nhau trong mỗi mùa phượng nở đỏ rực cả một góc trời, mùa bằng lăng nở tím ngắt, mùa những chú ve tấu lên những khúc nhạc rộn rạo, náo nức. Thoa có viết những điều tôi mong đợi mà chưa dám thổ lộ với em không? Em có trách tôi gì không, những ngày tôi gấp gáp chuẩn bị lên đường, tôi chẳng gặp được em, tôi không quan tâm được đến em, em giận tôi nhiều không? Em sẽ nói gì với tôi đây, nhất là dòng thư tôi vừa xa nhà sáng nay. Đám bạn bảo tôi là người hạnh phúc nhất vì chưa đi xa đã có thư người yêu đọc rồi, tôi chỉ biết tủm tỉm mừng vui hớn hở mà thôi. Tôi hồi hộp và linh cảm trong tờ giấy có những nét chữ thân thương mà tôi đang cầm trên tay là những dòng tình cảm chân thành và thắm thiết của em. Giống như ánh mắt của em và tôi trao nhau trong buổi sáng nay sẽ mãi mãi ngự trị trong trái tim tôi. Tôi mở thư, hồi hộp đọc từng dòng thương yêu:
“Anh yêu thương!
 Năm học gần kết thúc rồi, sao anh lại bỏ em mà đi lúc này. Em phải học bài một mình không có anh học cùng buồn lắm. Lớp học sẽ trống trải vì  không  có anh. Ánh mắt của anh cũng không còn dành cho em mỗi ngày.  Em sẽ không còn cảm giác được nhìn thấy anh đứng trên bục giảng trong những buổi tổ chức sinh hoạt đoàn của lớp nữa.  Anh biết không, mấy ngày nay em đứng ngồi không yên khi nghe tin anh đi bộ đội. Hôm kia anh đứng nói chuyện để tạm biệt lớp mà mắt em nhạt nhoà. Anh đứng đây như ngày nào mà bỗng thấy anh xa vời tít tắp. Anh xa em biết đến bao giờ mới trở lại. Một ngày đi học không gặp anh, em thấy nhớ khôn xiết, huống hồ anh theo mãi với cuộc chiến đấu này. Em phải chờ đợi anh về có lâu không? Em nghẹn ngào nước mắt để giấu đi cảm xúc khỏi xấu hổ với bạn bè.
Sáng qua, em xin nghỉ học để về thăm anh. Máy bay ném bom thị trấn ghê lắm nhưng em chẳng sợ gì. Em chỉ nghĩ đến anh và tìm cách gặp được anh trước lúc anh lên đường. Em vượt qua thị trấn trong cảnh khói đạn mịt mù. Em xuống bến đò thì ông lái đò không chở với lý do máy bay. Em phải trình bày lý do sang đó tạm biệt anh. Thấy em khóc lại mang một số đồ mà chỉ người lính mới cần, ông lái đò liền cho đi. Khi em đến nhà thì anh lại đi vắng. Em buồn vì không gặp được anh.
 Sáng nay em lại qua thăm anh nhưng chị của anh lại bảo anh vừa lên Nam Anh để tập trung. Em vội vàng đi một mạch về nhà và ngồi viết thư cho anh. Anh à, em đã chuẩn bị cho anh nhiều thứ kim chỉ, dầu con hổ và thuốc đánh răng... để anh dùng khi cần và chiếc khăn mùi xoa do tay em thêu chữ “ngày ấy”. Em hi vọng dù ở trận mạc xông pha, dù đi khắp sơn cùng thuỷ tận anh cũng không quên được những ngày ấy, chúng mình đã học tập, hồn nhiên bên nhau... Để mỗi lần nhìn chiếc khăn, anh lại nhớ đến em. Anh đi nhớ gìn giữ sức khỏe anh nhé. Em tin tưởng vào anh rất nhiều. Em ở nhà sẽ luôn cầu mong cho anh những điều may mắn. Mỗi bước anh đi luôn có em ở bên. Con đường phía trước dù có khó khăn vất vả, anh hãy cố gắng lên nhé. Ở  nhà, mọi người luôn nhớ và thương yêu anh.
Em luôn chờ đợi và mong tin anh
Em của anh: Thoa”
  Đọc xong lá thư, nhớ em da diết, tôi cảm thấy mình có lỗi với em rất nhiều. Đáng lẽ ra tôi phải là người thổ lộ với em về những tình cảm nồng nàn ấy, tôi cũng có tình cảm với em cơ mà. Vậy mà tôi như người tự dối lòng mình, tôi yêu em, thế mà sao tôi không nói ra điều ấy với Thoa. Thoa là con gái, lại còn rất trẻ, thế mà em dám vượt qua rào cản để tự nguyện nói ra cái điều ấy với tôi trong thời điểm đầy ý nghĩa, thời điểm tôi trở thành người chiến sĩ. Có phải chỉ là để động viên tôi trước những ngày lên đường không? Chắc hẳn không phải thế, vì tất cả những gì em nói ra đây đều là sự thật.
  Có lẽ trong đám bạn cùng đi, tôi là người hạnh phúc nhất. Vài cậu lính cứ tếu táo trêu tôi suốt cả buổi tối và đòi đọc thư tôi. Bức thư Thoa gửi cho tôi đã trở thành nguồn động viên lớn lao không gì có thể thay thế được trong cuộc đời người lính. Bức thư trở thành kỉ vật đẹp thời trai trẻ của tôi. Lá thư của em, tôi không chỉ mang theo bên người mà còn sống cùng với tôi từ những ngày tôi còn lăn lê bò toài bê bết trên bãi tập luyện, rồi cùng tôi vượt qua nghìn dặm Trường Sơn điệp trùng ùng oàng tiếng bom đạn nổ. Bức thư đã ở bên tôi trong những trận đánh ác liệt nhất tưởng chừng không thể sống để trở về với quê hương và cả trong những giờ phút đau đớn tôi nằm trên bàn mổ ở bệnh viện tiền phương để bác sĩ lấy mảnh đạn ra khỏi cơ thể. Nó cũng đã từng ru tôi ngủ ngon giấc trong những đêm dài đói rét của đời lính chiến trường. Đôi lúc tôi nghĩ, phải chăng lá thư chứa đựng tình cảm trong trắng của em là cái bùa hộ mệnh linh diệu của tôi. Một lá bùa có tên gọi: Tình yêu!
   Mỗi khi có thời gian rảnh là tôi lại mang lá thư của em ra đọc, đọc nhiều đến nỗi tôi đã thuộc từng dòng, từng nét chữ của em, đến cả những dấu chấm, dấu phẩy, nét chữ của em đáng yêu như con người của em vậy. Những ngày huấn luyện, dù tập tành rất nặng nhọc và bận rộn nhưng tôi cũng vẫn tranh thủ thời gian nghỉ viết thư cho gia đình, thầy cô, bạn bè và cho Thoa. Tôi biết mọi người ở nhà mong ngóng tin tức của mình lắm. Cha tôi cũng cần những lời động viên lắm chứ, rồi chị tôi và các em sẽ tha hồ mà nhắc tôi mỗi khi thấy trong ngôi nhà trống vắng hình bóng tôi. Tôi viết thư cho Cha, cho chị bao giờ cũng ngắn gọn, còn thư cho Thoa bao giờ cũng dài hơn. Trong thư, tôi đã thổ lộ hết tình cảm đối với em. Tôi tự trách mình là trong thời gian qua vì ở xa trường, sáng đi học, chiều còn tranh thủ làm ruộng đỡ đần công việc đồng áng cho Cha và chị, phần vì ngại ngần nên tôi chưa gần gũi giúp đỡ em được nhiều. Tôi cũng kể cho Thoa nghe về cuộc sống của người lính mới. Nhất là ngày đầu tiên, ai cũng hồi hộp nhưng lo lắng. Nào là việc học tập, ngủ nghỉ, làm việc đều phải theo một thời gian biểu rất nghiêm ngặt, không thể chậm chễ lề mề được. Quần áo, chăn màn, khăn mặt... phải để ngăn nắp và được hướng dẫn gấp đồ theo một qui định rõ ràng. Không làm đúng qui định thì phải làm lại. Kỉ luật quân ngũ cũng khắt khe lắm, ai bị kỉ luật một lần thì nhớ mãi không thể vi phạm lần thứ hai. Những buổi tập bắn súng, được ngắm nghía khẩu súng trên vai mới thấy hết được linh hồn và trách nhiệm nặng nề của mình, phải luyện tập tốt để sau này khi vào thực tế cuộc chiến đấu những viên đạn bắn đâu sẽ trúng đó. Nhất là những lần báo động, mọi người đều phải trong tư thế sẵn sàng. Báo động chiến đấu. Báo động di chuyển. Tập hành quân đêm. Tập hành quân ngày. Ôi thật vất vả nhưng đầy hào hứng, ai cũng tự giác và hăng say luyện tập khí thế lắm, tất cả đều cùng chung một mục đích: “Thao trường đổ mồ hôi, còn hơn chiến trường đổ máu”. Công việc tập luyện quân sự vất vả là thế nhưng các chiến sĩ vẫn rất yêu đời. Những buổi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, làm báo tường được các chiến sĩ tham gia nhiệt tình, hăng hái. Không có ai ngại ngùng gì cả. Có làm mới biết những cậu lính trẻ măng như tuổi anh, tưởng chừng không sành sỏi, ấy vậy mà việc gì cũng đảm, lắm cậu còn có nhiều tài lẻ nữa. Những đêm vui văn nghệ, khi khúc ca ngân vang trong tiếng đàn hát mới thấy cuộc đời người lính xua đi những mệt nhọc, vất vả của tập luyện quân sự. Người lính yêu đời lắm em ạ. Ai cũng sống lạc quan và tin tưởng vào sức chiến đấu của mình, không ngại ngần gian khó khi đối diện với khó khăn thử thách, dù mới chỉ trong thời gian tập luyện. Trước mắt, ai cũng đồng lòng, đồng sức chuẩn bị hoà nhập vào cuộc chiến đấu: “Em biết không, mỗi chiến sĩ như bọn anh ai cũng phải làm thơ đấy. Thơ viết cho báo tường của đại đội mà. Kiểu này sau khi hết chiến tranh, anh có thể trở thành một nhà thơ đấy em ạ. Hôm qua, anh vừa làm xong một bài thơ cho báo tường đơn vị, anh chép mấy câu cho em nhé:
Chúng tôi những người chiến sĩ trẻ
Hăng say luyện tập  ngày đêm
Để vào miền Nam đánh Mỹ
Giành thống nhất cho hai miền
Bao giờ miền Nam giải phóng
Tôi mới trở về quê hương
Bên dòng sông Lam gió lộng
Hát ví dặm với người thương”
  Chuyện đơn vị rèn luyện tôi cũng kể cho em nghe. Chỉ có bức thư luôn là cầu nối tình cảm giữa tôi và em. Mỗi lần gửi thư đi rồi, tôi lại mong em vô cùng. Tôi xao xuyến nghĩ đến niềm vui của em khi nhận được thư tôi. Trong thư, ngoài những cảm xúc của người lính còn là những lời thương yêu thăm hỏi, động viên dành cho em nữa. Một câu động viên của tôi lúc này sẽ làm em an lòng. Tôi biết khi hai đứa không  gần bên nhau, em lo lắng cho tôi nhiều lắm, đó là chưa kể những lúc nhớ về những kỉ niệm của nhau. Trong thư, khi thì tôi ép vào đó một bông hoa dại nhỏ xinh, khi thì chiếc lá thơm của miền núi Nghĩa Đàn. Tình yêu của chúng tôi mới chỉ là những kỉ niệm học trò nhẹ nhõm, xao xuyến, là những bức thư đi về sau ngày tôi nhập ngũ, là những nhớ nhung bâng khuâng trong ngày tháng cách xa. Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa được một lần tay để trong tay, còn những nụ hôn ngọt ngào thì hình như mới chỉ có đôi lần nhưng chỉ là trong những giấc mơ mà thôi. Có lần tôi đã mơ về Thoa, được đi cùng em vào vườn vải ở chân núi Đại Huệ. Mùa vải chín, những trái vải lủng lỉu trên cành như những chùm đèn lồng màu đỏ, tiếng chim tu hú gọi bầy vang lên đâu đó. Trong giấc mơ êm ái đó, tôi nghe rõ âm thanh riêng biệt của mùa vải đỏ. Và tuyệt vời hơn, là tôi được đi bên Thoa dưới những chùm vải chín rộ. Ánh nắng vàng chiếu xiên qua kẽ lá, hắt lên mái tóc và đôi môi mọng đỏ của em. Dưới vườn cây, không khí trong lành và thoáng mát. Cây vải chỉ cao hơn đầu chúng tôi một chút, những trái vải chúng tôi đưa tay là chạm tới. Chúng tôi nói với nhau, cười với nhau, trao nhau ánh mắt yêu thương. Cũng thật lạ, trong giấc mơ, tôi không còn thấy bom đạn, máy bay gầm gào xé toang bầu trời. Thay vào đó là khung cảnh thanh bình yên ả, chỉ có vải chín, tu hú kêu và hai đứa bên nhau mà thôi. Những chiếc lá khô dưới chân chúng tôi lép nhép, vỡ tan ra. Lá vải trên cành đung đưa như bàn tay xoè ra chào đón chúng tôi. Rồi chúng tôi rúc rích cười, những chú chim sâu lích rích truyền cành tìm sâu trong kẽ lá. Đến bên một cây vải có tán xoè rộng nhất, Thoa dừng lại. Em kiễng chân lên với tay hái cho tôi một chùm quả chín nhất và đưa cho tôi. Thoa cười và ghé sát vào tai tôi thì thầm:
- Người nào ăn chùm vải này sẽ gặp may mắn nhất trong cuộc đời.
- Chưa ăn vải của em hái nhưng anh đã là người may mắn nhất rồi.
- Răng lại rứa?- Thoa thắc mắc hỏi.
-  Tại vì anh đã có em yêu.
 Thoa không nói gì hơn, em nhìn tôi. Tôi ôm lấy Thoa và đặt lên môi em nụ hôn đầu đời ngượng ngịu, nụ hôn đầu của tình yêu. Cảm giác lâng lâng, bay bổng chợt đến khi có em trong vòng tay, khi được chạm vào người bạn gái thương nhớ. Tôi thấy tim mình đập rộn ràng và nhanh lắm. Thoa thì rụt rè, e ấp, má ửng hồng. Em khẽ vòng tay ôm lấy tôi. Tôi thấy hạnh phúc lắm.
  Tôi đang nồng nàn trong hương vị dịu lành của chiếc hôn đầu tiên thì có ai đó lay mạnh vào vai. Tôi bừng tỉnh sau tiếng gọi của tiểu đội trưởng:
          -  Dậy. Sáng rồi. Mơ chi mà chép miệng hoài thế.
  Tôi khẽ vươn vai nhìn ra ngoài trời, hôm nay tôi ngủ dậy muộn hơn rồi, có lẽ tại giấc mơ nồng nàn quá. Tôi vội vàng rời khỏi giường. Thời gian trong quân ngũ là nghiêm ngặt lắm, nói vui vậy thôi chứ làm gì có chuyện tình yêu ở nơi này. Tất cả chỉ là thao thức nhớ mong về bạn gái thôi. Tôi dậy rồi mà vẫn ngẩn ngơ người, tiếc hoài giấc mơ đẹp. Cứ mong được ôm em trong vòng tay, trong hơi ấm nồng nàn thêm chút nữa...
   Cũng thật lạ, cứ mỗi khi giấc mơ đang đẹp nhất thì con người lại bị đánh thức dậy. Thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến em và giấc mơ, chỉ mong đó sẽ là sự thật khi tôi trở về bên em. “Không biết Thoa có mơ về tôi như thế không nhỉ? Nếu có mơ như vậy chắc là Thoa cũng không dám kể đâu”- tôi thầm hỏi. Trong một bức thư, tôi đã kể lại giấc mơ này cho em, chắc em cảm động và có chung hạnh phúc với tôi. Tôi mong thư em lắm, thỉnh thoảng còn nhẩm tính từng ngày thư đi trong đầu, mong cho đến được với em một cách may mắn. Hôm nhận được thư của gia đình, rồi thư của em, cả tiểu đội bảo tôi là người may mắn và hạnh phúc nhất. Đọc thư của Cha, của chị toàn những lời chỉ bảo thật cẩn thận, chu đáo và yên tâm phần nào việc gia đình. Còn thư của em thật chứa chan tình cảm. Mỗi bức em đều gài vào đó vài nhánh hoa cau, có lúc hoa bưởi, khi mở thư ra vẫn còn hương thơm. Mùi hương thơm như hình bóng của em đã bay đến với tôi. Những lúc như vậy tôi lại nhớ đến mùi huơng  mái tóc của em. Trong thư, em viết:
 “Anh ơi, em đã kể chuyện của chúng mình cho mẹ nghe. Mẹ cũng thương anh lắm. Mẹ bảo sao không đưa anh về quê chơi. Em có nói chúng con đang chuẩn bị thì anh lại đi bộ đội, thời gian vội vàng gấp gáp quá nên chưa kịp về quê thưa chuyện với gia đình. Em cũng kể lại giấc mơ của anh, mẹ bảo rằng sự thật thường hay xảy ra ngược lại với giấc mơ. Anh mơ gặp em nên em lo rằng anh sắp sửa phải đi xa. Rồi mẹ lại lo lắng cho anh hơn đấy, mẹ sợ anh hi sinh ngoài chiến trường, tội cho em. Mẹ bảo: chỉ sợ tụi con xa nhau thôi. Mẹ mong ngày thống nhất để em và anh được đoàn tụ quây quần bên nhau, nên duyên, nên vợ nên chồng. Rồi mẹ nói: khi nào thấy anh trở về quê hương thì mẹ mới yên tâm và bớt lo lắng cho anh. Mẹ thường nghe tin tức và hỏi thăm anh liên tục. Anh biết không, thầy giáo chủ nhiệm nói mấy hôm nay miền Nam đang đánh lớn, tiền tuyến rất cần những chiến sĩ như các anh. Rồi thầy giáo cũng nhắc cả tên anh trước lớp. Ai cũng cảm phục anh lắm. Em chỉ mong rằng, chiến tranh mau chấm dứt để anh sớm trở về với gia đình, với em. Anh nhé! 
 Trong một bức thư khác, Thoa lại viết cho tôi:
 “Anh ơi, có lần em nằm bên mẹ và khoe với mẹ về chiếc vòng em đeo ở tay và cái cặp tóc của anh tặng em lúc lên đường. Em có thú nhận với mẹ em là chúng con rất thương nhau nhưng chưa bao giờ cầm tay nhau, như anh đã có lần nói với em những bãi cỏ non tơ, những đêm trăng vàng óng là của muôn người. Nghe em kể, Mẹ em khen anh tốt và cũng rất thương anh. Mẹ bảo: chiến tranh kéo dài thì con có chờ được không? Em có nói với Mẹ: Nếu anh ấy đi bộ đội lâu dài đến mấy thì Mẹ cho phép con được chờ đợi anh. Thậm chí nếu vì trận mạc xông pha mà thân thể anh không được lành lặn thì Mẹ cũng cho phép con là chỗ dựa của đời anh. Nghe đến đây, anh biết không, Mẹ ôm chặt em vào lòng, em khóc rưng rức, nước mắt em nhạt nhoà làm ướt cả vai áo Mẹ. Mẹ phải bảo em, thôi ngủ đi con, mai còn đi học... Suốt cả đêm hôm đó, em nhớ anh mà không sao ngủ được. Em không dám cựa mình vì sợ làm mất giấc ngủ của Mẹ. Giờ này em còn đang được nằm đây, còn anh ở nơi phương xa ấy có lẽ đang báo động hành quân. Anh có mệt lắm không.. Rồi em sợ anh còn bị thương nữa, những mảnh bom, mảnh đạn nguy hiểm vô cùng, khi ấy ai sẽ băng vết thương cho anh?...Anh có bị gầy đi nhiều lắm không? Anh cố gắng ăn uống vào nhé còn lấy sức chiến đấu. À, em nghe nói, nơi chiến trường có nhiều muỗi đốt gây bệnh sốt rét, căn bệnh ấy nguy hiểm lắm, chẳng khác gì sống dưới những làn bom đạn của kẻ thù, bởi vậy anh nhớ chăm sóc bản thân mình đấy nhé? Em luôn nghĩ đến những nguy hiểm, những vất vả và khó khăn sẽ rình rập anh. Em chỉ mong anh vững vàng tay súng và gặp may mắn...em luôn mong ngóng và chờ đợi anh. ”
    Đợt huấn luyện cấp tốc của chúng tôi cũng đã được gần hai tháng. Để cho một người lính có bản lĩnh về chính trị, có kỹ chiến thuật quân sự, đáp ứng các yêu cầu của cuộc chiến đấu thì thời gian huấn luyện hai tháng là quá ít ỏi. Nhưng lúc này chiến trường đang cần những người lính như chúng tôi. Những môn học cơ bản của anh lính bộ binh, tiến hành bắn đạn thật, được học cách tự băng bó, sơ cứu khi bị thương, rồi chúng tôi còn được học tập nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Bác Hồ về chiến tranh nhân dân, về công tác dân vận, về các chính sách của Đảng trong vùng giải phóng...Chúng tôi được bổ sung quân trang, thực phẩm, bông băng, đường sữa, súng đạn…Như vậy, đây là tín hiệu mà mỗi người lính đều phán đoán được là thời gian chuẩn bị vào Nam chiến đấu đã đến gần. Cuộc sống của người lính chúng tôi lúc này càng trở nên bận rộn. Sau khi nghe chỉ huy phát động phong trào xung phong vào chiến trường đánh Mỹ, đồng chí nào cũng tự giác viết quyết tâm thư. Bản quyết tâm thư này không phải bằng bút mực mà chính bằng máu của mình. Chúng tôi lấy kim chích máu từ ngón tay và viết quyết tâm thư. Bản quyết tâm thư này thể hiện ý chí và nghị lực phi thường của người lính trẻ đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đây cũng là thể hiện tình cảm của người lính đối với chủ trương của Đảng và Bác Hồ trong việc thực hiên quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đây cũng là sự tự giác cao độ của mỗi người dân đối với cuộc chiến tranh ác liệt này. Do vậy, sự quyết tâm sắt đá của người lính là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến  thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.
Chương III:  
Hành quân đi B
Điều linh cảm của Thoa thật đúng. Chúng tôi sắp sửa phải xa nhau dài hơn, kể cả không gian và thời gian. Sau ba tháng huấn luyện cấp tốc, chúng tôi được lệnh hành quân vào Nam chiến đấu. Để chuẩn bị hành quân đi xa, người lính chúng tôi phải chuẩn bị nhiều thứ. Mấy ngày nay chỉ vật lộn với chiếc ba lô mà không xong. Chiếc ba lô thì căng phồng mà vẫn còn nhiều thứ chưa cho vào được. Ngày ra đi Cha đã dặn, trong chiến đấu thiếu thốn đủ thứ. Cái gì cũng cần cho cuộc sống của người lính. Chưa nói gì đến cái ăn, cái mặc, chỉ một chuyện rất nhỏ thôi, rất đời thường thôi mà thanh niên như tôi chẳng bao giờ lo nghĩ tới, nhưng trong chiến đấu lại vô cùng quan trọng. Ví dụ như cuộn băng bông đề phòng khi bị thương, cái kim sợi chỉ để khâu quần, khâu áo khi bị rách…Nghe các dũng sĩ diệt Mỹ kể chuyện thì trong chiến trường còn thiếu thốn đủ thứ, cố mà mang vào để có cái dùng. Rồi còn những lá thư của Cha, chị và Thoa thì nhất thiết phải mang đi cùng. Mình đã hứa với Thoa là có chết cũng mang thư bên người mà. Sau khi đã chuẩn bị tương đối, tôi mang thử ba lô. Ôi chao. Có đến 60kg chắc? 60 kg trên vai mà vượt Trường Sơn thì gay go đây, tôi thầm  nghĩ vậy. Tôi đang chuẩn bị thì mấy lính trẻ đến. Đó là Trữ, Loan, Dung, Xuân, Ngọ, những người cùng quê, cùng học và cùng nhập ngũ một ngày. Thấy tôi chuẩn bị chưa chu đáo, Xuân hỏi:
-Bát ăn cơm đâu rồi, chưa cho vào à? Xuân vừa nói vừa vỗ vào chiếc ba lô căng phồng. Tôi bảo:
   - Có chứ. Cho hết vào trong ba lô rồi mà lị. Nghe vậy, Xuân nhìn tôi lắc đầu:
- Không được đâu cậu ạ. Thế dọc đường cần bát dùng thì cậu tính làm sao? Nghe Xuân nói, tôi nghĩ khi hành quân cũng chẳng cần gì đến bát ăn. Nhưng ý của Xuân khiến tôi phải cân nhắc. Cái bát ăn cơm phải để ở con cóc thì sẽ tiện sử dụng hơn. Đại loại là như vậy. Chúng tôi góp ý, bổ sung cho nhau. Là người lính cùng quê nên rất quý và thương nhau. Dung đưa hai tay nhấc chiếc ba lô, nhìn tôi:
 - Ôi. Có đến trên 60 ký nhỉ. Tớ cũng như vậy. Nhưng không hiểu có mang nổi không. Dung có dáng người nhỏ hơn nhưng lại rất nhanh nhẹn. Nhìn chiếc ba lô như thế này Dung cũng lắc đầu. Không phải chỉ có Dung mà ai cũng rất ngại mang vác nặng. Chúng tôi đang bàn về chiếc ba lô thì Trữ cho chúng tôi một tin rất mới:
 - Nghe nói, đợt này chúng mình vào chiến trường B5 đấy. -Tôi nhìn Trữ hỏi lại:
 - B5 là ăn cơm Bắc đánh giặc Nam phải không? Nếu vậy thì được gần nhà hơn đi B dài nhỉ. Dung mỉn cười vỗ vai hỏi tôi:
  - Thế cậu tưởng vào B5 gần hơn thì được về nhà chắc? Thoa có hay gửi thư không? Hôm tiễn đi ở sân kho HTX xem chừng cô nàng bịn rịn lắm. Thế đã gửi gắm được gì chưa? Tôi đấm nhẹ vào vai Dung cười:
   - Có gì mà gửi với gắm. Cầm tay mà chẳng dám nữa là. Xuân  nhìn tôi cười:
    - Thế là cậu kém lắm. Gặp phải Dung chắc là cá cắn câu rồi. Chúng tôi nhìn Dung cười sảng khoái. Còn Dung thì phân bua:
  - Chuyện đó thì không biết chừng. Chẳng ai biết ma ăn cỗ được. Thoa xinh thế mà cậu không làm gì thì thật phí của giời. Tôi hơi đỏ mặt vì câu nói của Dung. Thế mới biết Dung cũng là tay chịu chơi. Tôi trợn mắt:
  - Nghe mấy anh kể rằng, khi ra trận, cậu nào mà đã léng phéng với người yêu rồi là hay bị vỡ gáo lắm. Thế thì quá sợ.
  Mấy anh em đồng hương gặp nhau tếu táo rồi lại chia tay nhau về chuẩn bị tiếp. Mọi việc cũng đã xong. Chúng tôi ngoắc tay nhau quyết tâm cùng hành quân đến đích. Sau đó mọi người lại tranh thủ viết thư về nhà để báo tin ngày hành quân vào Nam đã đến. Tuy lo lắng chuẩn bị vào chiến trường để quần nhau với giặc nhưng chúng tôi vẫn hăm hở, rộn ràng với một nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh quyết sống mái với quân thù.
  Một buổi tối đầu tháng 6 - 1968, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị đến biểu diễn phục vụ đơn vị. Nghe các ca khúc mới sáng tác với phong cách biểu diễn của các nghệ sĩ, chúng tôi, những người lính trẻ như sống trong không khí hào hùng, khát vọng chiến thắng và cháy bỏng niềm tin về sự tất thắng của cuộc kháng chiến. Tôi còn nhớ, sau khi nghe Tường Vi trình bày ca khúc Tiếng đàn Ta Lư, các chiến sĩ trẻ vỗ tay không ngớt. Tường Vi lại hát lần thứ hai. Cả đơn vị lại im phăng phắc để thưởng thức nhạc phẩm:
“Bộ đội giải phóng quân ơi
Anh thắng trận miền tây Khe Sanh.
Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy.
Đồn Đồng Tri xác Mỹ chất đầy.
Kia trông. Một, hai, ba , bốn, năm, sáu chục.
Tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ kia.
Nó bỏ xác trên rừng.
Bộ đội giải phóng quân.
Các anh đánh hay hu…”.
  Về nằm trên giường, ca khúc trên đây cứ vang vọng trong tôi niềm kiêu hãnh của anh bộ đội giải phóng quân. Chỉ một bài hát thôi, cũng có tác dụng động viên bộ đội rất lớn, nhất là trong thời gian chuẩn bị hành quân vào Nam chiến đấu như thế này. Tôi nhớ Thoa quá, tranh thủ viết thư cho em:
  Em yêu. Mấy hôm nay anh và đơn vị rất bận rộn vì phải chuẩn bị hành quân đi B em a. Ôi biết bao việc phải làm. Có em bên cạnh lúc này chắc anh sẽ đỡ được nhiều việc. Em ơi. Chỉ còn thời gian rất ngắn nữa thôi là anh và đơn vị phải hành quân vào Nam rồi. Thế là khoảng cách giũa anh và em lại càng dài hơn, muốn gần mà chẳng được em ạ. Không hiểu lúc nào chúng mình lai được gần nhau em? Anh tưởng chỉ vào bộ đội vài tháng là thống nhất rồi anh và em sẽ được gần nhau, sẽ được hồn nhiên bên nhau của tuổi học trò. Thế mới biết đời học sinh đẹp biết nhường nào. Vào đây mới biết còn gian lao và ác liệt lắm em ạ. Dù sao anh sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ như đã hứa với em. Anh biết dạo này máy bay ném bom quê mình dữ dội lắm. Anh cầu cho em học tập tốt và bình an. Anh nhớ em, nhớ lớp học vô cùng. Cầu mong cho sự đoàn tụ của chúng mình.
Tôi vội ra bưu điện gửi thư cho em rồi lại vật lộn với chiếc ba lô. Chiều mùa hè nơi miền núi Nghĩa Đàn này cũng khá oi ả. Xã Nghĩa Thọ như chảo lửa làm cho đất đỏ đường làng cuộn lên từng đám bụi hồng bám đầy cây cối hai bên đường. Tiếng chim bìm bịp gọi nhau bay về tổ. Tiếng ve sầu râm ran, vang động cả xóm thôn nơi đóng quân. Xa xa tiếng máy bay gầm rú phá đi sự tĩnh mịch của vùng miền sơn cước Nghĩa Đàn. 
 16h chiều ngày 3 – 6 – 1968, chúng tôi được lệnh hành quân đi B. Đứng trong hàng quân, bỗng có giọng ai đó nghe hơi lạc quan tếu: Không mau vào chiến trường lúc này thì chỉ có mà nhặt ống bơ rỉ thôi!  Sau tiếng còi báo động, đợn vị trong tư thế hàng ngũ chỉnh tề, ba lô căng phồng, dập dìu dưới cành lá ngụy trang. Đồng chí nào cũng cầm gậy trông rất vững trãi. Mệnh lệnh hành quân đựơc phát ra. Đơn vị tập hợp thành hàng dọc. Đi đầu là đại đội trưởng Nguyễn Trọng Ê. Ông là người chỉ huỷ có tài với nét mặt nghiêm khắc mà mỗi lần tôi gặp đã thấy sờ sợ. Ông cũng đã từng trải qua chiến trường nên có nhiều kinh nghiệm trong hành quân. Hành quân vào Nam mà có người chỉ huy như Đại đội trưởng Nguyễn Trọng Ê thì ai cũng yên tâm.
 Từng đoàn thanh niên, công nhân nông trường cà phê và bà con nơi đóng quân ra tiễn chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt. Hàng quân đi rung lá nguỵ trang dài tít tắp. Đi trong hàng quân hôm nay mình thấy đã lớn lên rất nhiều. Mảnh đất Nghĩa Thọ gắn bó với đời chiến sĩ chúng tôi chưa đầy ba tháng nhưng đã để lại bao kỷ niệm buồn vui trong thời gian huấn luỵên, ngày càng xa dần. Chúng tôi hành quân gần sáng thì dừng nghỉ. Nơi đơn vị dừng chân chỉ cách nhà có vài km, nhưng vì cuộc hành quân được coi là bí mật nên không được về thăm nhà. Mất ngủ suốt đêm mà không sao chợp mắt được. Cha ơi. Con đã về đến quê hương Nam Đàn rồi. Con đóng quân gần nhà lắm nhưng không được về thăm Cha và gia đình. Em Thoa ơi. Anh đã về đến mảnh đất mà chúng mình đã gắn bó với nhau suốt tuổi học trò. Bao nhiêu kỷ niệm dưới mái trường, bao nhiêu kỷ niệm bên em cứ cuồn cuộn hiện ra. Càng hành quân xuống đồng bằng thì cảm thấy máy bay quần đảo bắn phá nhiều hơn. Không khí chiến tranh càng ngột ngạt, khốc liệt.
   Sáng nay ngủ dậy sớm. Chúng tôi được phổ biến: Vì bí mật của cuộc hành quân và để bảo đảm an toàn, tất cả phải hành quân đêm. Những tiếng bom nổ ầm ầm phía thị trấn, những loạt pháo cáo xạ nổ lốp bốp trên bầu trời cũng không cắt đứt dòng suy nghĩ miên man về quê hương, về tuổi thơ trong trẻo của tuổi học trò. Đêm đó chúng tôi vượt sông Lam để sang Nam Hoành. Đến bên bờ sông nước mênh mông, những kỷ niệm gắn với dòng sông tuổi thơ cũng chập chờn hiện ra. Thế là ta phải xa sông Lam mãi mãi. Không hiểu đến bao giờ mới được về lặn ngụp trong làn nước mát trong của sông Lam yêu dấu. Tất cả sông nước, quê hương và biết bao con người còn tần tảo vật lộn với cuộc sống của chiến tranh cứ xa dần, xa dần trong bóng đêm dày đặc. Đoàn quân rung lá nguỵ trang vẫn lầm lũi miệt mài theo hướng Nam mà đi…
  Chúng tôi hành quân qua đất Nam Đàn thì đến Hà Tĩnh. Từ đây, bộ đội hành quân theo đường giao liên xuyên qua rừng núi phía tây Hà Tĩnh. Vì vậy, chúng tôi được hành quân ban ngày. Ngày đi, đêm nghỉ. Những ngày đầu hành quân, chân anh nào cũng sưng to. Tối đến phải ngâm bằng nước muối. Có đồng chí còn bị loét chân, có đồng chí bị thối chân do đi dày không quen. Chiều đến, tiểu đội ngồi ăn cơm mà gặp phải đồng chí nào thối chân lười rửa thì mùi thum thủm như cóc chết thật kinh khủng. Tôi mà ngửi thấy mùi chân thối là hay buồn nôn. Nhưng vì đói quá nên cố mà ăn cho xong bữa. Tối đến, sau buổi họp tiểu đội, chúng tôi lại ngồi với nhau bên cánh võng hát nghêu ngao bài chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên:
Thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân.
Đặt cho tên gọi là chiếc gậy Trường Sơn
Luyện cho đôi chân vượt đường xa không mỏi.
Luyện cho tinh thần mà chỉ tiến không lui.
Gậy trong tay mô hôi đã bóng.
Màu gỗ quê hương mang cả mối tình dân.
Như nhắn nhủ những ai lên đường mà lời hứa với bao người thân.
Trường Sơn ơi. Nơi núi mờ xa mà ta chưa qua.
Có suối reo có gió ngàn cây.
Có dốc cao vực sâu mất lối.
Mây trắng quyện dưới chân bước bồi hồi.
Có nắng lửa đốt thiêu vách núi ơ.. ơ…
   Chúng tôi hát với nhau thật say sưa. Nằm trên cánh võng dưới tán rừng bạt ngàn của dãy Trường Sơn mới thấy ý nghĩa đẹp đẽ, hùng hồn và tự hào biết bao của bài hát. Chúng tôi vừa hát vừa nghĩ chặng đường đã hành quân qua mà ngủ lúc nào không biết.
    Có những ngày đi qua các đỉnh núi, trông xuống đồng bằng loang loáng ánh nắng chói chang với các cơn gió Lào cuốn bụi mù mịt những con đường đất đỏ. Xa xa, có những cột khói đen bốc cao và những tiếng nổ ầm ầm. Chắc là máy bay ném bom cầu phà hay trọng điểm nào đó. Hành quân qua Hà Tĩnh thì đến đất Quảng Bình. Đứng trên các triền núi mới thấy hết sự ác liệt và sự tàn phá đến khủng khiếp của chiến tranh phá hoại đối với tuyến lửa Hà Tĩnh, Quảng Bình. Những lúc hành quân qua tỉnh Quảng Bình mới thấy hết ý nghĩa sâu sắc và đẹp đẽ của bài hát Quảng Bình quê ta ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân:
“Nếu ai hỏi vì sao, quê hương chúng ta nhiều ngói mới.
Rằng có đắng cay nên chừ mới có ngọt bùi.
Nếu ai hỏi vì sao, quê hương chúng ta đồng lúa tốt.
Có nhớ những ngày cơ cực tối tăm ngày xưa…”
Bước chân rong ruổi được 15 ngày thì vào đến miền núi Quảng Trị. Quảng Trị - vùng đất xưa nay được mệnh danh là “ô châu ác địa”, nổi tiếng về khí hậu khắc nghiệt, cây kén đất, bàn tay người lam lũ quanh năm vẫn không hết khổ. Cái nghèo cũng tản mạn khắp nơi và đeo bám dai dẳng con người. Nơi đâu cũng có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông rõ rệt. Vậy mà mảnh đất này chỉ có hai mùa: mùa khô và mùa mưa, người ta thường nhắc đến vùng đất của gió Lào cát trắng. Mùa khô, mở mắt ra đã thấy nắng chói chang, nóng hừng hực, cộng thêm những trận gió Lào khô rát, thổi như bão khan rất khó chịu. Nắng chạm vào da, vào thịt làm cho da dẻ con người chẳng còn tươi sáng. Thường thì sau Tết âm lịch, những cơn gió Lào đầu tiên đã xuất hiện mà dân ở đây thường gọi là gió Nam ra. Mùa khô hay còn gọi là mùa nắng thường kéo dài từ tháng hai âm lịch đến hết tháng tám ta, thời gian còn lại trong năm là mùa mưa.
    Chúng tôi hành quân vào đến nơi thì Quảng Trị cũng bắt đầu mùa mưa. Mưa Quảng Trị cũng khá dữ dội và kéo dài triền miên, mưa như làm cho đất thấm nước đến tận đáy. Những lúc nằm dưới rừng nghe mưa rơi thấy não nề, mưa rào rạt, xối xả, suối ngàn như sôi lên trắng xoá. Mưa tưởng đến mức hết nước mà vẫn dai dẳng, tôi là lính tráng mới vào nên gặp thời tiết khắc nghiệt như thế này cũng thấy nao nao lòng. Bộ đội hành quân vào mùa này thật vất vả vô cùng. Đường hành quân không chỉ phải vượt núi cao, dốc đứng, suối sâu, mà đường thì trơn như đổ mỡ. Những người trước tôi cứ vít bám vào dây rừng mà đi, người sau cũng như vậy. Có lúc cây bị bật rễ thì cả người và ba lô lăn lốc, người đi sau cũng bị ngã theo, máu rỉ loang ra bàn chân, bàn tay. Chiếc gậy Trường Sơn lúc này càng có ý nghĩa. Mưa thì mặc mưa, người lính vẫn lầm lũi đi trong mưa. Những cuộc hành quân xuyên rừng luôn luôn thường trực đối với người lính. Hành quân vào mùa mưa là gian khổ, nhưng dù gian khổ thế nào bộ đội vẫn hành quân. Hành quân để vào kịp với trận tuyến, trong kia mọi người đang chờ đợi chúng tôi vào để bổ sung lực lượng.
  Hành quân vào đến nơi thì chúng tôi được bổ sung cho tiểu đoàn K 8A của mặt trận B5. Tôi được bổ sung vào Đại đội 4. Đây là Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn. Tôi được biên chế vào khẩu đội đại liên Côlinốp do anh Vương Tử Hoàng làm tiểu đội trưởng. Anh Hoàng quê ở Thanh Hóa, nhập ngũ 1964. Anh là người đã kinh qua nhiều trận đánh nên có khá nhiều kinh nghiệm trong xử lý tình huống trong chiến đấu. Buổi đầu vào tiểu đội được anh Hoàng kể rất nhiều chuyện chiến đấu ở mặt trân B5. Sau khi củng cố nơi ăn ở, chúng tôi bắt đầu huấn luyện sử dụng súng đại liên Côlinốp. Lúc này mặt trận B5 đang tập trung vây lấn cứ điểm Khe Sanh. Huấn luyện được hai tuần thì chúng tôi được giao nhiệm vụ chi viện cho lực lượng vây lấn Khe Sanh.
  Khe Sanh là thị trấn thuộc huyện Hướng Hóa ở miền Tây Quảng Trị, cách biên giới Việt- Lào khoảng 20km. Từ Đông Hà ngược theo đường số 9, chừng 80km sẽ đến Khe Sanh, một vùng đất đỏ bazan lãng đãng mù sương. Khe Sanh với địa hình đồi núi rậm rạp, trập trùng. Khe Sanh lúc này trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ “ngăn cản sự xâm nhập của Cộng quân vào Nam” do Măc-na-ma-ra, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ lúc bấy giờ vạch ra. Đây là căn cứ quân sự của Mỹ có nhiệm vụ chốt chặn bước tiến của ta vào Nam ở Đông Trường Sơn. Hơn nữa chúng muốn tạo thế mạnh ở miền Nam để uy hiếp miền Bắc. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 của ta đã giáng một đòn bất ngờ và quyết định làm thất bại chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam.
  Bị vây ép, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân nống ra hòng chiếm lại những khu vực đã bị mất xung quanh thị trấn đẫm máu này. Đơn vị chúng tôi hành quân chiếm lĩnh trận địa tại đồi Cháy phía Nam sông Bến Hải có nhiệm vụ diệt quân Mỹ nhảy dù đánh vào phía sau hậu cứ. Qủa đồi mà tiểu đội đại liên chúng tôi được giao nhiệm vụ chốt giữ là Động Nóc, anh em thường gọi là đồi Cháy. Vì toàn bộ quả đồi bị bom đạn cày xới, mọi vật có trên mặt đất bị cháy thui. Mấy ngày nay máy bay B52 thi nhau rải thảm, pháo bầy của giặc từ Tà Cơn, Dốc Miếu thi nhau trút bão lửa xuống trận địa. Rừng già tan hoang, đồi trọc bị cày xới bởi hàng trăm hàng nghìn hố bom, hố pháo. Chỉ cần một đợt bom rải thảm là cánh rừng bị tan hoang còn hơn trận bão. Sau những trận bom, pháo cây cối đổ nghiêng ngả, hầm hào sạt lở tùm lum, địa hình địa vật đổi thay lạ hoắc. Đêm và ngày ùng oàng tiếng bom rơi đạn nổ, không gian sặc sụa mùi thuốc bom, đạn nghe gây người. Có những trái pháo, quả bom nổ đúng hầm. Đồng đội tôi có người bị thương, hy sinh. Chúng tôi phân công nhau người trực chiến đấu, người vận chuyển thương binh, người chôn cất tử sĩ. Người lính ngoài mặt trận như cái máy, công việc suốt ngày, suốt đêm. Có khi vài ngày không được ngủ. Mỗi người được tiếp tế ba nắm cơm vắt cho ba bữa sáng, trưa và chiều.
    Sau một trận chiến đấu, đơn vị nhận được lệnh lại tiếp tục hành quân đêm sang trận địa khác để chốt giữ đánh địch nống ra. Vừa đến trận địa mới lại phải bắt tay đào hầm trú ẩn ngay. Rồi lại tiếp tục canh gác và chiến đấu, ngày cũng như đêm, căng như dây đàn. Những ngày đầu vào chiến đấu, gặp những cảnh căng thẳng và ác liệt thế này tôi lo lắng đủ mọi thứ, nhất là khi nhìn thấy những đồng đội ngã xuống do mảnh bom, đạn có lúc tôi đã giật mình ghê sợ vì cái chết nhìn thấy thật thảm hại. Trong hoàn cảnh như vậy chỉ biết im lặng nén đau thương, căm thù và gạt nước mắt. Những lần mai táng đồng đội của mình, trong túi áo chỉ vẻn vẹn với những dòng địa chỉ tên tuổi ngắn ngủi và chiếc nilong để cuốn xác. Nhìn nấm mồ mà thấy cuộc đời người lính thật mong manh, mỗi người nằm xuống có biết bao nhiêu người đau, đâu phải chỉ có người chôn cất như chúng tôi mà có cả người thân, gia đình mà cả xóm làng đang ở xa tít tắp.
   Vẫn biết chiến tranh là ác liệt, hy sinh nhưng tôi cũng không ngờ nó lại ác liệt đến mức thế này. Sự nghiệt ngã của chiến tranh hoàn toàn không giống như tôi hằng tưởng tượng, suy nghĩ theo kiểu lãng mạn như hồi còn là  học trò. Nếu như biết trước sự khốc liệt như thế này chắc tôi còn phải đắn đo và suy nghĩ nhiều hơn trước khi nhập ngũ. Thế mới biết lời căn dặn của Cha trước lúc lên đường đúng như thế nào. Cách suy nghĩ giản đơn, pha chút lãng mạn của tuổi học trò hoàn toàn đối nghịch với sự khốc liệt của chiến trường. Khi còn ở nhà, tôi nhìn thấy ở chiến trường chỉ có chiến thắng và vinh quang, chỉ có anh hùng và dũng sĩ, chỉ có tiến lên và quân thù ngã gục. Ôi! Nếu vậy thì quả là lý tưởng. Tuy cũng có lúc vẫn biết chiến tranh là sự hi sinh, gian khổ nhưng tôi không tưởng tượng ra nổi sự khốc liệt và nghiệt ngã đến vậy. Không nghĩ rằng, mình lại thức trắng trong nhiều đêm liền để hành quân, để đào hầm, để cảnh giác quân thù…Tôi cũng không tưởng tượng nổi suốt ngày chỉ có ăn cơm nắm với muối trắng như thế này. Cũng chẳng bao giờ nghĩ là mình phải cùng đồng đội lại đi chôn cất đồng đội nhiều đến như thế. Ngày ở nhà, mỗi khi trong làng Ngũ Phúc có đám ma là tối đó không giám đi đâu, sợ nó bắt mất.
 Câu chuyện sau đây là minh chứng về sự thử thách lớn lao đó đối với người lính ở chiến trường. Hôm đó, chúng tôi được lệnh hành quân chiếm lĩnh đồi cháy (Động Nóc) để làm nhiệm vụ đánh địch đổ bộ hòng cắt đứt đường tiếp viện cho mặt trận Khe Sanh. Tiểu đội đại liên chúng tôi quần nhau suốt ngày với máy bay địch. Từ sáng sớm, máy bay và pháo tầm xa thi nhau bắn vào đồi Cháy. Cả quả đồi trong chốc lát đã bị khói bụi bao phủ mịt mù. Những tiếng rít của quả bom và trái pháo nghe như xé vải và tiếp đó là những tiếng nổ đinh tai nhức óc, thật rợn người. Qủa đồi như rung lên bần bật. Đất đá văng tứ tung, khói bụi mù mịt. Những đám lửa cháy bập bùng để lại những cột khói nghi ngút, đen quạch. Không khí hầm hập, oi bức và ngạt thở. Đầu tóc, mặt mũi, áo quần người lính nào cũng nhoem nhuốc, lấm láp, trông thật nhếch nhác.
Sau đợt ném bom của máy bay và bắn phá của pháo tầm xa là may bay VO10 bay trinh sát. Có lẽ chúng nghĩ trên đồi cháy này không thể có một sinh linh nào sống nổi dưới sức mạnh của hỏa lực Hoa Kỳ, huống hồ bộ đội. Chiếc VO10 hai thân bay vè vè, lượn vài vòng xung quanh quả đồi và sau đó tập trung bắn chỉ điểm vào các lùm cây ven suối dưới chân đồi. Có lẽ chúng nghĩ, chỉ nơi đó mới có bộ đội đóng quân. Sau những quả pháo bắn chỉ điểm của VO10 là mấy chiếc phản lực bổ nhào ném bom xuống ven suối. Đồi Cháy lại rung lên sau những loạt bom.
Tiếp đó là từng đàn máy bay trực thăng từ phía Cồn Tiên, Dốc Miếu túa ra như chuồn chuồn. Tiếng động cơ máy bay trực thăng nghe phành phạch. Chúng bay lượn một vòng xung quanh quả đồi rồi một chiếc tách khỏi đội hình từ từ hạ thấp độ cao để đáp xuống trận địa. Anh Hoàng hô to át cả tiếng trực thăng:
- Toàn khẩu đội chuẩn bị đánh địch đổ bộ.
Phương án đánh địch đổ bộ đã được anh em luyện tập chu đáo. Khẩu đại liên do anh Hoàng trực tiếp chỉ huy. Chúng tôi dùng súng bộ binh bắn máy bay. Dưới cái nóng hầm hập nhưng anh em trong khẩu đối vẫn dán mắt vào chiếc máy bay đi đầu đang hạ cánh. Chiếc máy bay từ từ hạ cánh. Tôi thấy nó đã hạ thấp lắm rồi mà chưa nghe Tiểu đội trưởng ra lệnh bắn. Nó càng hạ thấp độ cao thì sức gió của cánh quạt máy bay càng lớn. Nó có thể thổi cuốn hết các vật gì trên mặt đất, bụi bay mịt mù. Hơi gió cánh quạt thổi cả vào hầm như trận cuồng phong. Cũng rất may là cửa hầm được chúng tôi ngụy trang rất khéo léo và chặt chẽ. Trên miệng hầm chúng tôi cắm rất nhiều cành cây đã cháy sém đen, tất cả mặt đất, cửa hầm chỉ rạch một màu xám đen của than, tro, miệng hầm cũng không bị lộ ra. Tôi thấy chiếc máy bay càng ngày càng xuống thấp. Làn gió của cánh quạt thổi như bão. Trên thân cửa máy bay có mấy thằng Mỹ đội mũ sắt, mặt đỏ au đang ngồi lố nhố. Chúng đang lăm lăm trong tay khẩu tiểu liên Ar15, đôi mắt chúng cũng đang quan sát khắp trận địa, như hình nó đã nhìn thấy chúng tôi thì phải. Tôi thấy nóng ruột quá. Tại sao lúc này Tiểu đội trưởng chưa cho bắn? Nếu được bắn, chắc chắn loạt AK sẽ trúng đầu mấy tên Mỹ đang ngồi trên cửa sổ. Tôi nhìn sang hầm chỉ huy, thấy anh Hoàng và mấy anh em vẫn giương cao nòng súng đại liên vào chiếc máy bay. Chiếc trực thăng HU1A vẫn từ từ hạ cánh. Vừa quan sát chiếc máy bay đang hạ cánh tôi vừa nghĩ đến phương án tối qua của Tiểu đội trưởng là phải bắn đúng chiếc đi đầu. Muốn vậy phải ngụy trang cửa hầm thật kín đáo, chờ cho máy bay hạ thật thấp mới được bắn. Đến lúc này tôi cảm thấy máy bay đã hạ cánh gần mặt đất rồi mà Tiểu đội trưởng chưa hạ lệnh bắn. Vừa nhìn máy bay đang hạ cánh, vừa nhìn sang Tiểu đội trưởng để nhận lệnh mà con tim như lửa đốt. Chiếc máy bay tiếp tục hạ thấp và chuẩn bị tiếp đất. Ngón tay trỏ của tôi cũng từ từ xiết cò. Chỉ cần nghe khẩu lệnh của Tiểu đội trưởng là khẩu súng AK nhả đạn.
Bổng nhiên tôi nghe tiếng đạn đại liên nổ dòn dã. Tôi lập tức xiết cò. Nòng súng AK rung lên bần bật, nhả đạn căm thù vào chiếc máy bay. Chiếc trực thăng dính đạn, chòng chành, bay khỏi trận địa và rơi xuống quả đồi bên cạnh. Khói đen bốc lên từ máy bay. Cả đàn máy bay lại bay về hướng đông. Một chốc sau pháo tầm xa lại bắn cấp tập xuống trận địa.
Sau mỗi đợt bắn phá, máy bay trực thăng lại tiếp tục đổ bộ xuống đồi Cháy. Từ đó đến chiều, khẩu đại liên bắn trả quyết liệt và đánh bật 3 lần đổ bộ bằng trực thăng của địch. Khẩu đại liên đã bắn rơi 3 chiếc máy bay và đã làm thất bại cuộc đổ bộ xuống đồi Cháy. Cả tiểu đội có hai đồng chí bị thương.
Tôi thấy đói bụng quá, bẻ nắm cơm ra ăn. Vỏ ngoài nắm cơm đã khô như vỏ dừa. Tôi đang ăn cơm thì Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng gọi lên hầm chỉ huy. Anh Hoàng hút một hơi thuốc dài và nhả ra làn khói xanh, thơm bay theo chiều gió, nhìn tôi âu yếm nói:
- Bây giờ cậu chuẩn bị cùng tớ đi làm nhiệm vụ đặc biệt của Tiểu đoàn. Nhớ chuẩn bị mang theo dao găm, cuốc xẻng nhé.
Tôi thấy Tiểu đội trưởng của mình có đôi mắt sâu hoắm, mặt mày lem luốc nhưng với những bước đi rất nhanh nhẹn. Đã mấy hôm nay chốt trên đồi Cháy hầm hập khói lửa, ngột ngạt mùi đạn bom, sống trong tình trạng căng như dây đàn thì không mệt mỏi làm sao được. Anh Hoàng là người chỉ huy rất dũng cảm, nhanh nhẹn nhưng rất sâu sát và thương anh em. Tôi vẫn nhớ như in, hình ảnh người chỉ huy, đêm đêm trước giờ ngủ, dù trong hoàn cảnh nào anh cũng đi kiểm tra xem anh em ngủ có mắc màn không, có ngủ đúng giờ không, kiểm tra việc canh gác như thế nào. Sau đó anh mới về đặt lưng năm ngủ, cứ như người chị hiền của tiểu đội. Có lần anh Hoàng đã nói với tôi: Cái quý nhất của con người, nhất là đối với bộ đội là sức khỏe. Một đồng chí ốm là mất một tay súng. Mất một tay súng là kẻ địch có lợi hơn mình. Do vậy, phải chăm lo sức khỏe của bộ đội là nhiệm vụ hàng đầu của người chỉ huy. Tôi nhìn Tiểu đội trưởng thấy phấn khởi khi được cùng anh làm nhiệm vụ đặc biệt này và đứng nghiêm nhận nhiệm vụ:
- Xin chấp hành. Anh Hoàng vỗ vai tôi thân mật:
- Tốt. Về chuẩn bị đi ngay nhé.
Tôi lao nhanh về hầm và chuẩn bị các dụng cụ cần thiết. Lúc này tôi cũng chưa hiểu đi làm nhiệm vụ đặc biệt là nhiệm vụ gì. Khi đến Ban chỉ huy Đại đội tôi mới biết nhiệm vụ đặc biệt đó là đi mai táng, chôn cất tử sĩ. Mấy hôm nay âm mưu của địch là dùng sư đoàn Kỵ Binh bay để đổ bộ, chặn đường tiếp tế của ta cho mặt trận Khe Sanh. Đại đội trong đội hình của Tiểu đoàn K8A đã tập trung đánh địch đổ bộ đường không nên rất ác liệt. Với ý chí kiên cường nên Tiểu đoàn đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh bật cuộc đổ bộ đường không của chúng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có nhiều thương vong.
Đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này có nhiều đồng chí. Ngoài anh Hoàng ra còn có các anh Lê Xuân Trữ, Hoàng Ngọc Loan, Nguyễn Văn Lệ, Lê Văn Ngọ…Mới xa nhau mấy ngày mà trông cậu nào cũng hốc hác, đen sạm, mệt mỏi. Chúng tôi tay bắt mặt mừng nhưng nhìn ai cũng đượm vẻ lo âu. Trữ vừa cười vừa nói với giọng khảng khái, coi cái chết chẳng là gì, phá đi không khí căng thẳng, mệt mỏi này:
- Sống chết cũng có số phận của nó các cậu ạ. Bom đạn tránh mình chứ mình làm sao mà tránh nó được. Chỉ có điều, sau này nhỡ ra, có làm sao thì nhớ báo tin cho gia đình với nhé.
Tôi nhìn Trữ và mọi người rồi liếc nhìn các liệt sĩ đã được gói cẩn thận bằng vải ni lông mà lòng ái ngại, thông cảm cho các bạn. Anh em chúng tôi tập trung trước hầm Chính trị viên đại đội. Trực tiếp giao nhiệm vụ có anh Nguyễn Hữu Thu, Chính trị viên và anh Nguyễn Long Trọng, Đại đội trưởng. Anh Thu quê ở xã Dân Lực, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Anh Trọng quê ở xã Quảng Yên, Quảng Xương Thanh Hóa. Chúng tôi được bổ sung vào đơn vị hỏa lực của tiểu đoàn K8A, lại có các thủ trưởng vừa đẹp trai, vừa tâm lý như anh Thu và anh Trọng thì thật vinh hạnh.
Sau khi chúng tôi ổn định chỗ ngồi (dựa vào các gốc cây), anh Nguyễn Hữu Thu phổ biến nội dung của nhiệm vụ đặc biệt. Anh Thu trước đây là giáo viên cấp 2, nhập ngũ 1964. Anh có đôi mắt sáng với giọng nói sang sảng có sức thuyết phục cánh lính trẻ. Anh Thu nhìn chúng tôi nói:
- Hôm nay các đồng chí được cử làm nhiệm vụ đặc biệt. Theo mệnh lệnh của Thủ trưởng Mặt trận, vị trí nơi tác chiến là không an toàn nên phải bằng mọi giá, khẩn trương chuyển các tử sĩ ra bờ bắc sông Bến Hải để mai táng. Chúng ta không thể yên tâm khi để đồng đội của mình an nghỉ nơi không an toàn được. Đây không chỉ là nghĩa tử mà còn là tình cảm đồng đội, đồng chí, sống chết có nhau, là trách nhiệm của chúng ta đối với người đã hy sinh vì Tổ quốc. Ngay trong đêm nay, chúng ta phải đưa thi hài các đồng chí đã hy sinh ra bờ bắc sông Bến Hải. Đường hành quân đêm nay không thuận lợi, có mưa to, gió lớn, rất khó khăn, vất vả. Nhưng vì tình cảm đồng đội, sống chết bên nhau, tôi kêu gọi các đồng chí hãy vượt qua mọi khó khăn, vất vả, bằng mọi cách đưa thi hài các liệt sĩ ra bờ bắc sông Bến Hải an toàn. Các đồng chí được cử đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này là những đồng chí ưu tú, đã được lựa chọn kỹ càng. Do vậy, Đảng ủy Tiểu đoàn và Ban Chi ủy Đại đội rất tin tưởng và gửi trọn niềm tin vào các đồng chí và mong các đồng chí đoàn kết, hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt này. Anh Thu nói rất ngắn gọn và sau đó, anh Trọng, Đại đội trưởng phân công nhiệm vụ:
- Để đảm bảo hành quân an toàn, chúng tôi phân công 4 đồng chí đảm nhiệm một cáng tữ sĩ. Đường đi đêm rất khó khăn. Các đồng chí bám sát với nhau, không được đi lạc, giữ bí mật, đề phòng thám báo, biệt kích mai phục. Trong trường hợp bị địch mai phục thì đánh địch, mở đường mà đi. Kiên quyết bảo đảm an toàn tuyệt đối thi hài tử sĩ. Nghe đến đây tôi thấy ghê người quá. Anh Trọng nói tiếp:
- Tôi đề nghị các đồng chí đi làm nhiệm vụ đặc biệt lần này hãy vì tình thương yêu giai cấp, tình đồng đội, các đồng chí không được khạc, nhổ trước anh linh đồng chí mình. Nghe đến đây tôi thấy rùng rợn, nổi gai ốc.
Sau đó tôi được phân công cùng anh Hoàng, Trự, Lệ khiêng một cáng tử sĩ. Trữ quê ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh; Lệ quê ở Nam Cát. Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày, vào chiến trường B5 lại cùng đơn vị. Anh Hoàng khoác áo mưa, đeo khẩu súng AK đi trước. Tôi và Trự khiêng tử sĩ đi sau. Sau cùng là Lệ. Tử sĩ là anh Nguyễn Hồng Sơn, quê ở Hưng Lợi, Hưng Nguyên, cùng nhập ngũ với chúng tôi. Anh Sơn bị mảnh pháo xuyên ngực cách đây 4 hôm. Tuy được bó bằng vải ni lông nhưng vẫn bốc mùi rất nặng.
Mới 5 giờ chiều mà đường đi đã tối sẫm. Trời vẫn mưa ngày càng nặng hạt. Trữ người nhỏ hơn nên đi sau, tôi đi trước, Trữ đi sau. Mội tay tôi giữ cáng, tay kia chống gậy và đi theo anh Hoàng. Anh Hoàng vừa đi vừa dò dẫm. Có đoạn đi được một quãng nhầm đường phải quay lại. Những lúc xuống dốc, đường trơn, cáng tử sĩ khá nặng đè lên vai rất khó đi. Có lúc trượt chân, thế là cáng tử sĩ đè lên người. Những lúc đó phải có anh Hoàng và Lệ kéo lên mới đi được. Nước của xác tử sĩ theo cáng chảy vào người nhơn nhớt. Thật kinh khủng. Khoảng 3 giờ sáng thì chúng tôi đến sông Bến Hải. Lúc này trời mưa như trút nước. Trời tối đen như mực. Nước sông dâng cao. Anh Hoàng cho anh em tạm nghỉ chờ nước rút mới khiêng tử sĩ sang sông được. Anh Hoàng vuốt nước mưa, nói:
- Bây giờ ta tạm nghỉ tại đây. Mưa thế này có thể sáng mai tạnh khi đó mới vượt sông được. Chúng ta thay nhau thức canh tử sĩ. Phải đề phòng thú rừng, tuyệt đối không được để mất tử sĩ.
Tối đó chúng tôi thay nhau đứng giữa trời mưa để canh tử sĩ. Tôi và Trữ được phân công gác trước. Chúng tôi đứng gác mà bụng đói cồn cào. Đứng dưới làn mưa bàng bạc, Trữ hỏi tôi:
- Đói bụng quá. Tớ còn cơm đây. Cậu ăn với mình nhé. Vừa nói Trự vừa móc nắm cơm trong túi ra đã ướt sủng. Trời tiếp tục mưa như trút nước. Tôi nhìn Trữ, nhìn mưa giăng giăng, nước sông chảy ầm ĩ mà lòng ngao ngán quá chừng. Chưa bao giờ tôi lại nghĩ đời bộ đội sao mà lắm gian nguy thế này. Khi còn là cậu học sinh có ai kể cho mình về sự gian nan vất vả của bộ đội như thế này đâu. Bụng thì đói mà hai lỗ mũi lúc nào cũng phảng phất mùi tử sĩ thật buồn nôn. Tôi chép miệng, trả lời Trữ:
- Làm sao mà ăn nổi. Cậu ăn đi. Tôi vừa nhìn vừa chỉ tay ra bờ sông đang ào ào thác đổ:
- Kiểu này có thể nước sông ngập lên đến đây chắc. Trữ vừa cố gắng nuốt trôi miếng cơm nắm, khoát tay nói:
- Mặc nó, ăn đi mà lấy sức. Nước sông có lên đến đây ta lại tiếp tục chuyển tử sĩ lên cao hơn nữa.
Nói chưa xong Trữ đã ngoạm cả miếng cơm còn lại một cách ngon lành. Đúng là anh chàng như tiểu đội thường nói là đẹp trai nhưng rất háu đói. Trong lúc đó, mặc dù bụng đói nhưng tôi không thể ăn được. Một phần vì mệt, nhưng cái quan trọng là hai lỗ mũi cứ phảng phất mùi tử sĩ, cổ họng luôn chực buồn nôn, nghĩ tới cơm là muốn ọe ra rồi. Đứng gác bên thi hài tử sĩ mới thấm thía lời căn dặn của Đại đội trưởng Nguyễn Long Trọng: “Vì tình yêu giai cấp, tình yêu đồng chí, đồng đội, các đồng chí không được khạc nhổ trước anh linh đồng chí mình”. Do vậy, tôi cố chịu đựng cho trọn bổn phận là người đồng đội của Sơn. Trời tiếp tục mưa giăng giăng, sấm chớp xen lẫn tiếng pháo cầm canh nổ đì đoàng. Anh Hoàng thức đậy từ lúc nào đến bên tôi, vỗ vai:
- Bây giờ để tớ gác cho. Các cậu tranh thủ ngồi ngủ một tẻo cho đỡ mệt. Tôi thấy ánh sáng đã le lói phía đông, bèn nói với anh Hoàng:
- Trời gần sáng rồi anh a. Em cũng chẳng buồn ngủ nữa. Anh và Trữ cứ tranh thủ ngủ đi. Tôi chưa nói dứt thì Trữ đã vén áo mưa, ghé mông vào gốc cây mục ngồi thụp xuống, trùm áo mưa và ngủ luôn. Còn anh Hoàng thì bật lửa hút thuốc.
Tôi bồng súng đứng gác bên thi hài Sơn trong làn mưa giăng giăng, bàng bạc. Không hiểu nước mắt hay nước mưa mà cứ lăn dài trên gò má. Nhìn xác tử sĩ được gói tròn trịa bằng áo mưa, nằm ngay ngắn trên chiếc cáng được dựa vào hai thân cây. Mặc cho mưa rơi bắn vào cáng nghe lộp bộp, tôi vẫn đứng nhìn Sơn. Tự nhiên con tim tôi nhói đau. Sơn ơi. Chỉ mới cách đây mấy hôm, chúng mình đang cùng nhau hút chung điếu thuốc lá Sa Lem lấy được của bọn lính Mỹ trên đồi Cháy, mà bây giò Sơn đã ra đi để lại nỗi mất mát, đau thương cho tiểu đội, cho bọn mình. Mình vẫn nhớ câu nói của Sơn dặn mọi người: Nếu trong chiến đấu có làm sao thì người còn lại phải báo ngay cho gia đình. Bây giờ người ra đi trước là Sơn. Thật đau xót cho tình cảm đồng chí, đồng hương chúng mình Sơn ạ. Bọn mình đã vượt bao núi cao, đóc thẳm để đưa Sơn sang bờ bắc sông Bến Hải cho an toàn. Chúng mình sẽ làm mộ chí cẩn thận và sẽ báo cho gia đình Sơn biết.
Hôm trước, bên miệng công sự trực chiến, Sơn có kể cho chúng mình nghe về sự khó khăn, vất vả của gia đình Sơn. Bao nhiêu năm nay, gia đình Sơn vẫn ở ngôi nhà tranh dột nát. Đã bao lần dọi lại mà vẫn bị dột. Bố mẹ Sơn phải chuẩn bị mấy năm mới mua đủ tranh, tre, nứa, lá để sửa lại nhà. Nhưng Sơn đi bộ đội nên việc sửa nhà phải hoãn lại. Gia đình chờ Sơn về mới làm lại nhà và cưới vợ cho Sơn. Sơn cũng ao ước, sau này, khi đất nước hòa bình, thống nhất, Sơn sẽ về làm cho bố mẹ nếp nhà tranh nho nhỏ để hưởng tuổi già. Một ước mơ giản dị của người lính mà không sao thực hiện được. Sơn nằm đấy và đang ngủ ngon lành, trong lúc bố, mẹ ở nhà vẫn mong mỏi từng ngày. Có lẽ hoàn cảnh người lính chúng mình cũng rất giống nhau Sơn ạ.
Tiễn biệt Sơn không hương, không nến cũng không hoa. Giua mưa ngàn thác đổ, giữa trận địa đầy hiểm nguy này, tiễn biệt Sơn với tấm lòng đồng đội kiên trung, luyến tiếc, sẽ chia. Mặc gió to, lũ lớn, mặc thác ghềnh hiểm nguy, mình và đồng đội vẫn bồng súng đứng gác cho Sơn an giấc để rồi sẽ đưa Sơn đến nơi an toàn, yên giấc ngàn thu.
Sáng hôm sau, mưa cũng ngớt dần. Mưa đầu nguồn có khác. Vừa mưa nước đã dâng cao; ngớt mưa nước cũng rút rất nhanh. Những hòn đá nhấp nhô ngày càng lộ dần lên mặt nước. Chúng tôi khẩn trương khênh cáng liệt sĩ vượt sông Bến Hải. Sông chảy cuồn cuộn. Chúng tôi vừa khênh tử sĩ vừa bám vào dây thừng mà các chiến sĩ giao liên đã làm sẵn để vượt sông. Nếu không có giây thừng này thì dòng nước có thể cuốn chúng tôi đi bất cứ lúc nào.
Chúng tôi vừa khênh xác tử sĩ qua sông thì cũng là lúc máy bay Mỹ bắn phá hai bên bờ sông Bến Hải. Chúng tôi vội vả khênh xác tử sĩ đến xã Vĩnh Ô, Vĩnh Linh để mai táng. Mấy anh em hì hục đào huyệt chôn cất tử sĩ và ghi thẻ mộ chí cho anh Sơn. Mai táng tử sĩ xong, chúng tôi khẩn trương quay lại sông Bến Hải để về đơn vị. Sau đợt công tác đặc biệt này, lỗ mũi tôi lúc nào cũng thoang thoảng mùi tử sĩ, mặc dù luôn xức dầu con hổ nhưng vẫn không hêt cái mùi thum thủm ấy.
Câu chuyện trên đây chỉ có người lính mới gặp phải. Khi còn là học sinh chẳng bao giờ tôi nghĩ tới. Với chiến trường, sự sống và cái chết gần nhau trong gang tấc. Cùng nhau giữa chiến hào nhưng chỉ giây phút sau, đồng chí của mình đã gục ngã bởi đạn địch, không một lời trăng trối. Thương tâm hơn, vừa ăn cơm xong có người đã dính mảnh đạn pháo của địch chết ngay. Có biết bao lời hẹn ước lúc lên đường dành cho ngày gặp lại, mà không thể thành hiện thực. còn biết bao đồng đội, mặt búng ra sữa, chưa một ánh mắt trao nhau, chưa một lời hẹn ước…đã phải từ giã cuộc đời.
   Là con người, ai chẳng muốn sống, muốn chiến tranh được kết thúc nhanh để được trở về với gia đình, với người thân? Có lẽ, mong ước cao nhất, hy vọng muôn phần của người lính là được về với quê hương. Khi bom đạn tạm thời yên ắng, nằm trong căn hầm dã chiến ẩm ướt giữa mùa mưa miền rừng Quảng Trị, chúng tôi càng thêm nhớ nhà, nhớ quê hương. Có ở chiến trường mới thấy hết giá trị lớn lao của sự sống. Trước đây, tôi mơ ước được đi học nước ngoài bao nhiêu thì bây giờ mơ được về quê còn gấp bội bấy nhiêu. Nhiều hôm tay ôm súng đứng gác trong đêm, nghe tiếng chim gõ kiến mổ lốc cốc vào thân cây, tiếng tắc kè điểm nhịp chẵn lẻ báo mưa báo nắng ngày mai, tiếng chim từ quy gọi nhau “chóp thì bóp” khắc khoải, đi mai táng tử sĩ…lòng tôi lại nao nao nghĩ tới số phận mong manh của người lính và cồn cào nhớ tới những người thân nơi hậu phương. Đêm nay tôi còn đứng đây nhưng biết đâu ngày mai không còn ở trên đời này nữa, không thể lường được chuyện sinh tử nơi mưa bom bão đạn này. Hay rồi lại như Sơn, được gói trong tấm áo mưa và được đồng đội đưa đi chôn trong khu rừng hẻo lánh…Cha và chị tôi sẽ ra sao khi nghe tin tôi hi sinh. Vào chiến trường, nghĩ đến cái chết thấy hãi hùng nhưng buồn nhất là chưa giúp gì cho Cha Mẹ để đền đáp công ơn sinh thành. Ngày tôi đi, cứ nghĩ rằng cuộc chiến đấu sắp kết thúc rồi nhưng khi vào chiến trường mới thấy cuộc chiến còn dài và gian khổ, ác liệt vô cùng. Ước gì không có chiến tranh để tôi khỏi phải xa nhà, được gần gũi gia đình. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng trong trẻo như ta vẫn nghĩ và thầm mong. Ở nơi đây, ngày nào cũng như ngày nào, phải đối mặt với bom đạn, chết chóc.     
Cũng may ở nơi đây còn có những người lính cùng chia ngọt, sẻ bùi, thương nhau nên tôi cũng thấy vơi đi sự cô đơn, trống vắng. Không có những người đồng chí, đồng đội chắc chắn không có sức mạnh nào có thể giúp cho tôi vượt qua những khó khăn ác liệt này. Đó là tấm lòng thơm thảo, thủy chung trong tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của các anh như anh Thu- Chính trị viên, Anh Trọng- Đại đội trưởng, Anh Hoàng- Tiểu đội trưởng, rồi các bạn cùng nhập ngũ như Trữ, Dung, Ngọ, Xuân…
 Tôi ứa nước mắt khi nghĩ về Cha, chị tôi, các em, dì tôi và Thoa. Tôi biết nơi  làng Ngũ Phúc nhỏ bé nằm bên dòng sông Lam nghìn tuổi, những người thân của tôi cũng có biết bao nhiêu đêm thao thức. Cha tôi, tuổi đã cao, sức đã yếu, trong những đêm mưa rét này thường húng hắng ho, ngủ được ít lắm. Việc nhà vẫn luôn đè nặng lên đôi vai của Cha. Tôi biết Cha quay quắt thương nhớ và lo nghĩ cho tôi nhiều lắm
  Tôi xốn xang nghĩ tới Thoa, người bạn gái yêu dấu, gương mặt tròn, đôi mắt bồ câu đen lay láy, mái tóc thơm hương bưởi và nụ cười tươi tắn…cứ hiện lên đêm đêm. Tôi đi bộ đội, em là người tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Vào càng sâu trong chiến trường tôi không nhận được thư em nữa. Những khi rảnh rỗi tôi lại mang thư của em ra đọc. Mỗi lần đọc, lại nhớ đến những kỉ niệm êm đềm bên em thủa học trò. Vậy mà lúc gần em, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến tình cảm của em, chỉ khi xa nhau, cách trở như thế này, tôi mới thấy được những gì chân thành từ trái tim mình dành cho em. Trái tim tôi vẫn ngân lên lời thủ thỉ của em sao mà đáng yêu đến thế: “Anh yêu! Năm học gần hết rồi, sao anh lại bỏ em mà đi lúc này. Anh biết không, mấy ngày nay, em đứng ngồi không yên khi nghe tin anh đi bộ đội..”. Những giây phút lặng yên hiếm hoi ở mặt trận là người lính chúng tôi nghĩ đến gia đình, người thân nhiều nhất. Chúng tôi rỉ rả kể cho nhau nghe về miền quê của mình, ai cũng mong muốn khi đất nước độc lập sẽ được đặt chân đi nhiều nơi, thăm gia đình của đồng đội mình. Nếu được dẫn mọi người về thăm quê thì tôi sẽ đưa mọi người đi thăm ngôi nhà Bác và đưa mọi người ra sông Lam hóng mát, nghe những điệu hò êm ru mà chỉ nơi mảnh đất xứ Nghệ quê tôi mới có. Đồng đội của chúng tôi rất thích chất giọng ấm áp, dễ làm xiêu lòng những cố gái bâng khuâng, lãng mạn. Tôi cứ nghĩ tới giây phút mình được ngục đầu vào ngực Cha, được ôm thân hình gầy guộc và được hít hà mùi mồ hôi quen thuộc của người sau khi cất lên tiếng nói: “Cha ơi, con đã trở về”, tôi thấy cay cay sống mũi và khát khao thèm muốn đến thế. Tôi được nắm bàn tay nhỏ bé sạm nắng của chị tôi và không sao cầm nổi nước mắt khi nhận ra hình bóng của người Mẹ đi xa trong đó. Chị tôi một nắng hai sương chăm lo cho tôi từng miếng cơm manh áo. Trong gia đình có lẽ chị gái bao giờ cũng thương em trai hơn cả. Tôi sẽ ngồi và kể cho các em của mình nghe những trận đánh ác liệt mà tôi đã trải qua, cả khi những đồng đội tôi ngã xuống. Tôi sẽ thắp cho Mẹ nén hương và báo cáo lại với Mẹ về sự trưởng thành của mình. Và Thoa- người bạn gái của tôi sẽ vui tươi khi tôi không còn ở nơi xa xôi, em không phải thấp thỏm đợi chờ lo lắng cho tôi nhiều như trước đây nữa. Tôi đứng trước mặt em, áo lính khét mùi thuốc súng, gương mặt sạm đen, hốc hác, chắc em cảm động và thương tôi lắm. Tôi tưởng tượng rằng em sẽ gục đầu vào vai tôi mà quệt nước mắt, nước mắt của niềm vui, của sự chờ đợi sau bao năm xa cách, của tình yêu em dành cho tôi. Em nhìn tôi không chớp mắt, xem tôi có bị thương ở những đâu không. Được ôm em trong vòng tay với những vết chai sạn chiến tranh là hạnh phúc đối với tôi. Em không nói được lên lời mà chìm ngập trong hạnh phúc vô bờ khi tôi về bên em. Hai đứa lặng im, trái tim tràn ngập yêu thương. Và sau đó, tôi và em sẽ cùng thưa chuyện với gia đình về tình yêu và đợi chờ của hai đứa. Lúc đó, em sẽ không ngại ngần, e ấp, đỏ mặt sợ mọi người trêu như ngày còn đi học. 
  Chao ôi, nhưng tất cả hình ảnh ấy chỉ trong tưởng tượng của tôi mà thôi. Tôi đang ở mặt trận giữa những hố bom, hố pháo xám xịt, khét lẹt mùi thuốc súng, tôi đang đứng gần thần chết. Chỉ cần một mảnh bom, một viên đạn trúng vào mình thế là tất cả, tất cả sẽ vĩnh viễn xa rời, sẽ không còn biết gì nữa, sẽ là hư vô như ta chưa bao giờ có mặt trên cõi đời này. Cách nơi tôi nằm vài ba bước chân là thấy được cả chiến trường khốc liệt rồi. Tôi khẽ rùng mình, một cơn gió lạnh thổi dọc sống lưng. Những câu nói thì thào cất lên tự lòng mình: “Thế nào, bây giờ thì mày biết chiến trường ra sao rồi chứ? Đạn bom tơi bời thế này, liệu mày còn may mắn sống sót để trở về gặp lại Cha, dì, chị, em Thoa và bà con thân thuộc của mày nữa không, hay mày sẽ cùng chung số phận với nhiều đồng đội ngã xuống nơi mặt trận đường 9 Khe Sanh này. Tại sao mày lại tình nguyện xin đi bộ đội hả? Tại sao mày lại tình nguyện chối bỏ cái tương lai đẹp đẽ đang chờ phía trước mày, nói đúng hơn là đang chạm tới tay mày và cả tình yêu trong trắng của người con gái xinh đẹp dành cho mày nữa để dấn thân vào chỗ chết chóc máu me này, tại sao một đất nước tươi đẹp chờ đón mày phía trước, nơi đấy cuộc sống là ăn là học, là vui là chơi, không phải đối diện lo lắng với gian khổ, chết chóc từng ngày từng phút, sao mày không biết lựa chọn cho mình…”?...
   Thú thực, có những lúc câu chất vấn kiểu ấy trỗi dậy hành hạ, dằn vặt tôi. Và cũng phải nói thật rằng không phải không có lúc tôi cảm thấy lung lay sợ hãi.  Rồi tôi lại nghĩ về những lúc Cha im lặng vì sự lựa chọn của tôi.
    Vậy, tìm cách trở về ư? Trở về bằng cách nào? Tuy nhiên khi bình tâm lại, tôi cảm nhận được Cha tôi, chị tôi, em Thoa, quê hương xóm làng của tôi không ai chấp nhận sự trở về không chính đáng của tôi như vậy. Tôi biết rõ điều đó, với họ danh dự còn cao hơn cái chết. Tôi biết Cha sẽ buồn và đau đớn khi tôi đảo ngũ. Dẫu rằng có thể trở về thì tôi còn tồn tại, không trở về thì ra đi vĩnh viễn, tôi làm sao còn được gặp lại mọi người. Tôi không muốn tất cả tự hào vì có tôi đi lính rồi lại hổ thẹn khi tôi đảo ngũ. Nhất là khi cái loa truyền thanh của thôn, của xóm phát tên tôi, thông báo cho tất cả dân làng nghe thấy, khi đó Cha tôi là người sẽ đau đớn và tủi hổ nhất. Và Thoa, em sẽ gục đầu xấu hổ, lúc đó em có còn ở bên tôi và yêu tôi tha thiết nữa không?... Những niềm tự hào, thần tượng về tôi khi ấy ở trong em chắc sụp đổ tan tành!...
   Tôi cân bằng lại trạng thái tinh thần và bình tĩnh lại, chấp nhận cuộc sống chiến đấu ở chiến trường. Tôi suy nghĩ như vậy nhưng không dám nói ra với ai, hơn nữa tôi sẽ hổ thẹn với những đồng đội đang ở bên mình, hổ thẹn với cả những người đã ngã xuống mà nhiều lần tôi là người đã đưa thi thể họ đi mai táng. Tôi nhận rõ hơn được cái vầng sáng anh hùng của dân tộc, của đồng đội trong cuộc chiến đấu vô cùng khốc liệt và gian nan này, từ đó tôi  lại yên tâm hơn với sự lựa chọn của mình. Những chiến công của đơn vị, những thất bại của kẻ địch, rồi các đồng đội ngã xuống đã tiếp cho tôi thêm cứng cỏi và dũng cảm hơn. Nhất định tôi sẽ chiến đấu đến cùng nếu quân địch đổ bộ xuống đây. Có lẽ một chân lý mà người lính ngoài mặt trận đã xác định: “Mình không bắn nó thì nó bắn mình”. Tôi bình thản trong những suy nghĩ hơn rất nhiều, có lúc nghĩ đến niềm hãnh diện của mọi người ở quê, Cha tôi đi đâu cũng có người hỏi thăm tin tức của tôi, thầy trò trên lớp luôn lấy tôi làm gương sáng. Nghĩ đến những điều đó tôi thấy hạnh phúc lắm. Chỉ có sự nhớ nhung người thân và chờ đợi ngày về là không nguôi ngoai trong tôi. Người lính, ai chẳng mang theo nhiều nỗi nhớ- tôi tự an ủi lòng mình bằng những suy nghĩ như thế.
  Người lính, thử thách lớn nhất là chiến đấu. Vượt qua trận đấu là vượt qua được bản thân mình, vượt qua khó khăn và thử thách. Với người lính cách mạng, sự lựa chọn sống, chết không phải là sự lựa chọn đầu tiên mà phải là sự lựa chọn đúng- sai, chính nghĩa- phi nghĩa, tôi nghĩ vậy.
  Khi vợi bớt những lăn tăn của anh lính mới vào chiến trường và đang cùng tiểu đội đại liên do anh Vương Tử Hoàng chỉ huy chốt chặt trên một quả đồi nhỏ cháy rụi cạnh sông Bến Hải, thì được lệnh chuyển quân. Tôi nghĩ chắc là hành quân đến địa điểm khác để đánh địch. Khi hành quân vượt sông Bến Hải thì anh Vương Tử Hoàng cho biết là: Đơn vị hành quân ra Quảng Bình. Ngày 15 tháng 11 năm 1968, chúng tôi trong đội hình của trung đoàn được lệnh hành quân ra đó.
  Đang quần nhau với giặc chí tử, bỗng đơn vị nhận được lệnh hành quân ra Bắc. Ôi. Có gì vui hơn vậy nữa. Mỗi người lính chúng tôi lúc này ai cũng cảm thấy lâng lâng khó tả. Ra Quảng Bình ư? Thật tuyệt vời. Tôi nghe anh Hoàng phổ biến lần này được ra Quảng Bình,  tuy vẫn là tuyến lửa khu Bốn ác liệt nhưng so với mặt trận đường 9 Khe Sanh còn đỡ hơn nhiều. Đã lâu rồi, cánh lính bọn tôi sống, chiến đấu trong những cánh rừng già âm u, ẩm ướt của miền tây Quảng Trị nên ai cũng thèm được ngắm nhìn bầu trời thoáng đãng của đồng bằng. Bởi thế, ra khỏi rừng, ai cũng ngửa mặt lên trời, ngắm nhìn cái khoảng không gian bao la muôn thưở như ùa vào lòng mọi người. May sao, hôm hành quân, thời tiết thật đẹp, đợt mưa dầm dề vừa chấm dứt hôm qua, nay trời trong xanh vời vợi. Khuôn mặt ai cũng ửng sáng lên, phơi phới, hăng hái.
   Chúng tôi đi qua những quả đồi lúp xúp, cây sim câu mua xung quanh đường phất phơ trước gió như chào đón đoàn quân chiến thắng trở về. Ven đường đi là những cánh đồng lỗ chỗ hố bom lở loét, thưa vắng bóng người. Vết thương chiến tranh do giặc Mỹ để lại in đậm trên từng thửa ruộng, từng con đường, lối xóm. Đoàn bộ đội hành quân rung lá nguy trang. Khi đi qua đoạn đường mà thanh niên xung phong đang làm, đột nhiên tiếng cười nói vui như hội. Có cô gái xung phong ném cả nắm đất lên áo anh bộ đội, thế là nhiều anh nhặt sỏi ném lại, tiếng cười giòn tan. Càng đi xuống đồng bằng càng thấy sự ác liệt của chiến tranh phá hoại bằng máy bay của giặc Mỹ. Những cây cối và nhà cửa bị đánh cháy nham nhở, có nhà bị đốt cháy trụi, còn mấy cái cột cháy đen thui xiêu vẹo và chẳng còn bóng người. Người lính chúng tôi nhìn cảnh làng xóm tiêu điều, xơ xác mà xót xa, thương cảm, càng thêm căm phẫn quân cướp nước. Đi qua con đường mòn nhỏ cheo leo ven núi, đến chiều tối thì chúng tôi đến nơi tập kết. Đó là xóm Tân Đa, xã Thái Thủy, thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
   Tiểu đội tôi được bố trí ở nhà Bác Hồng. Gia đình bác có ba người con trai vào bộ đội. Tôi nghĩ: khi đất nước bị xâm lăng có biết bao người ra trận chứ đâu phải chỉ riêng mình. Thế mà có lúc ở chiến trường gian khổ, ác liệt mình đã phân vân về con đường mình đã chọn. Những lúc gian nguy, người dân ai cũng hướng về đất nước. Nhà nhà ra trận, người người ra trận. Chiến trường rộng khắp mọi nơi.
  Nhà bác Hồng không lớn, cũng giản dị như gia đình tôi và những gia đình nông thôn khác. Được gần gũi với gia đình bác, tôi lại nhớ nhà hơn. Nhà bác chỉ có một chiếc giường và một chiếc phản, bác nói:
  - Các chú cứ chia nhau ra, một nửa ngủ giường, một nửa ngủ trên phản. Đồng chí Vương Tử Hoàng nhìn bác Hồng băn khoăn:
  - Thôi bác ạ, gia đình bác cứ ngủ trên giường, trên phản, bọn cháu mắc võng ngủ cũng được. Nghe đồng chí Hoàng nói vậy, bác Hồng xua tay:
  -  Không được mô, ở rừng rú, các chú ngủ võng đã đành, bây chừ vô đây thì các chú cứ nằm giường cho đỡ mệt mà. Cả làng ni nằm hầm quen rồi. Chiến tranh còn dài mấy chú ạ. Các chú không phải lo chi cả.
    Nghe bác Hồng nói, chúng tôi mới biết tình cảm gia đình bác dành cho chúng tôi là to lớn. Biết là khó cưỡng lại được, chúng tôi đành phải tuân lệnh bác Hồng.
   Đóng quân trong nhà bác Hồng, chúng tôi được gia đình quan tâm lo lắng cho từng bát nước chè xanh, bát canh cua, cà muối. Có hôm tôi sốt rét không ăn được cơm, bác Hồng đã nấu cháo cho ăn. Vừa bưng bát cháo nóng sốt, bác nói: “Chiến tranh còn dài lắm. Các con còn phải đi nhiều. Cố gắng ăn khỏe còn có sức chiến đấu. Các con có ở được mãi nơi đây đâu, được ngày nào ở với bọn bay là tau thấy vui rồi”. Chúng tôi ai cũng cảm động trước lời nói chất phác, mộc mạc và những gì gia đình bác đã dành cho.
  Tôi chợt nghĩ đến những người con của bác, không biết các anh có được chăm sóc như chúng tôi không? Nhưng tôi luôn tự hào rằng, mọi người dân nơi đâu cũng coi bộ đội  như con một nhà,  chia sẻ và quan tâm, chăm sóc san sẻ với chúng tôi. Hình ảnh của bọ gợi tôi nhớ đến tình cảm của bà con chòm xóm hôm đưa tiễn tôi lên đường, cứ mộc mạc và giản dị vậy thôi mà ấm áp tình thương biết nhường nào.
  Ít ngày sau, chúng tôi được bổ sung thêm quần áo, tăng võng, chăn màn, lương khô và đường sữa. Quân trang cũ cùng với giấy tờ, sổ sách, thư từ, tiền đồng Việt Nam dân chủ cộng hòa…được cấp trên cho gửi về nhà. Tôi gửi về tất cả những thứ tổ chức quy định, chỉ giữ lại một thứ duy nhất là lá thư đầu tiên Thoa gửi cho tôi. Tôi xem đó là kỉ vật bất ly thân của cuộc đời mình. Hơn nữa, tôi có thể để trong túi áo để đọc bất cứ lúc nào. Chúng tôi biết mình sắp đi xa, thật xa chứ không còn là anh lính “Ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam nữa”, trong lòng ai cũng bâng khuâng. Hôm gặp Trự, sau cái bắt tay là Trự phân bua ngay:
 - Cậu biết tin gì chưa? Này quan trọng lắm nhá. - Trự vừa nói vừa bỉu môi vẻ quan trọng.
Tôi vỗ vai Trự:
 -  Tin gì vậy? -Trự đưa tay chém mạnh vào không khí:
 - Thuốc là đâu? Đưa đây tớ điếu rồi sẽ biết tất. Tôi mở bao thuốc lá Trường Sơn mời Trự. Trự rít một hơi và tiếp tục phân bua:
  - Chuyến này đi B dài đấy. Có yêu ai thì yêu đi, kẻo vào đó lại mất cơ hội. Trự lúc nào cũng đùa. Tôi cũng đoán được qua việc cấp phát bổ sung quân tư trang và nhất là việc gửi các vật phẩm về gia đình. Như vậy đi B dài là cái chắc rồi.
    Trong thời gian ở đây, chúng tôi vừa học tập chính trị vừa huấn luyện quân sự. Tối về lại viết thư cho gia đình. Dạo này tạm ngừng bắn nên đèn đóm cũng thoải mái hơn. Kèm theo những hiện vật gửi về gia đình là những bức thư mới viết của chúng tôi. Ai cũng tranh thủ ghi vài dòng thư cho gia đình, dù ít dù nhiều, có cậu vừa viết thư cho gia đình, cho người yêu mà nước mắt đã ướt nhòe. 
    Tôi ngồi viết thư gửi gia đình vì biết mọi người cũng rất mong ngóng và chờ đợi thư tôi. Một mình tôi đi lính nhưng ở nhà có biết bao nhiêu người chờ đợi và nhắc đến tôi, mọi người chắc cũng mong thư tôi nhiều lắm.
“Cha và các anh chị, em yêu quý! Con được ra Quảng Bình củng cố mấy ngày rồi lại lên đường vào Nam. Lần này là đi B dài, B dài thật sự, Cha ạ. Thời gian trước đây, con mới đi B ngắn: Ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam, chỉ là khởi đầu của mọi khó khăn thôi. Con gửi về cho Cha và các chị, em một số thứ tư trang mà theo qui định không được mang theo. Lần này chúng con sẽ vượt Trường Sơn vào Tây Nguyên chiến đấu đấy Cha a. Chúng con đang học tập và an dưỡng ở tỉnh Quảng Bình. Chúng con được ở trong nhà dân. Chúng con được các bố, mẹ ở đây rất quan tâm, chăm sóc như con trong gia đình.  Cha và các chị cứ yên tâm, đừng lo lắng cho con nhiều. Cha, chị và các em ở nhà nhớ giữ gìn sức khỏe thật tốt và chú ý phòng không nhé. Anh em chúng con ở trong đơn vị yêu thương và đùm bọc nhau lắm. Có ai ra ngoài đó, chúng con đều tranh thủ nhắn nhủ hỏi thăm, nhất là khi có người từ ngoài đó vào, chúng con đều  hỏi thăm về tình hình ở quê mình. Cha ơi, chiến tranh còn ác liệt và chắc chắn sẽ kéo dài, không như khi còn ở nhà, lúc đó con đã nói với Cha là chỉ đi bộ đội mấy tháng thôi rồi sẽ về tiếp tục học. Con rất nhớ nhà và lo lắng cho Cha, thời tiết thỉnh thoảng hay trái nắng trở trời, Cha ở nhà giữ gìn sức khỏe, đừng buồn và chờ đợi con về, Cha nhé, nhất định con sẽ trở về bên Cha…”. Viết xong thư, tôi thấy nhớ Cha, nhớ nhà và nhớ tất cả.
Thư tôi viết cho Thoa:
“Em yêu quí ơi. Lâu lắm rồi chẳng nhận được tin em. Hành quân vào đến Quảng Trị là vào choảng nhau với lính Mỹ ngay em a. Cũng thật may, lúc choảng nhau anh vẫn bình an. Cơm nước không đủ, huống hồ bút giấy. Thế mà lúc nào đứng gác, anh vẫn nhìn về quê để nhớ em. Ôi. Sao lại nhớ em đến thế. Hiện nay anh đang củng cố ở Quảng Bình để chuẩn bị đi xa, đi xa hơn nữa em yêu à. Đến bây giờ anh mới biết các chiến sĩ ở ngoài mặt trận phải chịu đựng gian khổ và ác liệt biết nhường nào và sức chịu đựng của các anh không gì sánh nổi. Mọi cái đều không đơn giản như trước đây anh em mình thường nghĩ mỗi khi tranh luận về cuộc chiến đấu. Thực tế đều nằm ngoài sức tưởng tượng của anh và em. Nói thật với em yêu, trong bom đạn các liệt, có lúc anh tỏ ra mềm yếu. Nếu như anh ở nhà thì được gần bên em, em cũng không phải lo lắng cho anh nhiều, chúng mình không phải cách xa nhau như thế này, hơn nữa anh lại được đi học ở nước ngoài... Lúc đầu, anh thất vọng và yếu đuối  nhưng bây giờ thì khác rồi, chính sự hi sinh dũng cảm của đồng đội và tấm lòng của nhân dân tuyến lửa Quảng Bình đã giúp anh vững vàng lên rất nhiều. Tất cả mọi người cùng hứa với nhau, ngoắc tay nhau thề cùng nhau chia sẻ, cùng nhau chịu đựng, đồng đội cũng đã tiếp thêm nghị lực cho anh để sống và chiến đấu. Em ở nhà cứ yên tâm nhé, anh sẽ sống và chiến đấu xứng đáng với tình cảm em đã dành cho anh.
Anh biết dạo này em đang vất vả với đèn sách. Cố gắng lên em yêu nhé và nhớ học cho cả phần anh nữa đấy. Lớp học của anh, của em có gì thay đổi không, em nhớ kể cho anh biết tin với nhé. Em ở nhà giữ gìn sức khỏe, chăm học và giúp đỡ gia đình nhưng đi lại cũng phải cẩn thận nhé, chiến tranh còn kéo dài, chẳng biết ra làm sao, em phải hết sức cẩn thận em yêu nhé.
  Em ơi, sắp tới anh càng xa em hơn và thời gian chúng mình được gặp nhau chắc phải chờ đợi lâu lắm đấy, chắc em buồn và nhớ anh lắm đúng không? Anh cũng vậy, anh rất nhớ em, chỉ mong cho cuộc chiến kết thúc càng sớm càng tốt để anh trở về bên em, để được em chạy ào ra đón anh trong nụ cười vui ấm áp, với đôi mắt đẹp nhìn anh rưng rưng. Anh chỉ biết cầu nguyện những điều tốt lành cho em và cho cả hai chúng ta. Ao ước lớn nhất anh hằng ấp ủ là đất nước sớm chấm dứt chiến tranh, hai miền thống nhất để anh được trở về với em…”
    Thực lòng, tôi muốn tâm sự với Thoa nhiều điều thầm kín, kể cả nói cho em biết sự hi sinh của người lính ở mặt trận có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tôi còn giấu em cái linh cảm mình có thể ra đi mãi mãi, không bao giờ trở về quê hương và những người yêu dấu như bao đồng đội khác, nhưng tôi không muốn nỗi buồn ấy dày xéo trái tim em, tôi không muốn em ở nhà phải lo lắng phiền muộn vì tôi. Tôi không muốn em nước mắt ngắn dài chờ đợi về tôi, bởi vậy mà tôi tạo sự lạc quan khi viết thư cho em. Tôi muốn đánh thức ở em niềm tin vào sự trở về của tôi, sự tế nhị của tôi lúc này là thực sự cần thiết đối với cuộc sống của em dù biết rằng điều khủng khiếp ấy có thể xảy ra lắm chứ. Nhưng tôi nghĩ, em là cô gái mới lớn, còn vô tư và trong trẻo biết bao, đừng phủ những đám mây đen lên khoảng trời đầy sắc nắng trong trái tim em. Bởi thế, tôi mới chỉ viết cho em được ngần ấy điều chung chung như vậy.
  Đây là lá thư đầu tiên tôi viết gửi về gia đình và cho Thoa sau khi rời nơi huấn luyện để vào chiến trường. Đi xa nhà rồi, không biết tôi có còn nhận được thư em nữa không. Một lá thư đến nơi phải qua tay biết bao người. Lá thư là niềm vui và hạnh phúc nhất đối với người lính. Cầm lá thư trên tay, lính chúng tôi còn chụm đầu vào cùng đọc cho nhau nghe. Dường như cậu nào có người yêu là chúng tôi đều biết tỏng, khi đọc thư thường giấu diếm, sợ chúng tôi trêu và lấy mất. Chúng tôi còn biết tên người yêu của các bạn, những câu chuyện kể và nhớ về người yêu mình, anh em lính bồi hồi lắm. Chúng tôi coi nhau như anh em rồi khi có việc gấp gáp còn báo cho gia đình và người yêu biết nữa chứ. Lá thư của Thoa gửi cho tôi mặc dù lúc nào tôi cũng cất trong túi áo ngực để một mình mình đọc nhưng chuyện giữa tôi và em thì cả đơn vị đều biết. Thậm chí, mọi người đều nhớ đến tên em dù chưa một lần gặp mặt. Trong túi áo tôi, tiếc rằng không có bức hình của em để cho mọi người xem. Tôi thao thức bồi hồi khi gấp lá thư của mình cho vào bao ni lông cẩn thận.
  Viết thư gửi em, rồi mong ngày, mong đêm cho những lời tâm sự trong lá thư của tôi nhanh đến được với gia đình và với em. Trong những năm tháng chiến tranh, đường sá đi lại trắc trở vô cùng, người hậu phương, người tiền tuyến nhận được thư nhau mừng lắm. Đây là lần đầu tiên tôi xa gia đình, lại là lần đầu tiên xa em, tôi mới thấy hết được giá trị lớn lao của những tin nhà. Tất cả chỉ qua những dòng chữ mà nói lên biết bao điều. Nhận được thư mà như gặp được người, những dòng chữ viết vội vàng trên tờ giấy mỏng chứa đựng bao nhiêu thương nhớ, lo lắng, buồn vui. Những trang thư lúc đó cũng làm cho những người lính chúng tôi phấn chấn hơn hẳn khi xa gia đình, mặc dù biết chặng đường đi đã xa lắm rồi nhưng cứ ngỡ như gần đâu đây. Những lá thư đến được tay người nhận phải vượt qua muôn trùng bom đạn, nắng mưa, băng qua những chặng đường đầy những vết tích chiến tranh, thấm đẫm mồ hôi, vất vả và nhiều khi là máu của những người chiến sĩ quân bưu nữa.
  Những ngày ở Thái Thủy là thời gian bận rộn của chúng tôi. Ngoài việc chuẩn bị quân trang, quân dụng, học tập chính trị, chúng tôi khẩn trương huấn luyện thêm kĩ thuật bắn máy bay, bắn bộ binh và các chiến thuật đánh vận động, đánh vây lấn. Để chuẩn bị cho cuộc hành quân đi B dài sắp tới, tôi được phân công vác càng súng đại liên Cô-bi-nốp. Cộng với ba lô, ruột tượng gạo và các thứ lặt vặt khác nặng chừng từ 45 đến 50 cân. Lúc này tôi cũng chỉ cân nặng khoảng 50kg. Tuổi trẻ, sức dài vai rộng nhưng gùi được từng ấy cân để trèo đèo, lội suối vượt qua trăm đỉnh Trường Sơn không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều anh lính cựu binh nói với chúng tôi rằng, có lúc leo núi mệt quá, những thứ gì chưa thực sự cần thiết đều muốn quẳng đi cho nhẹ. Tôi cũng lo thế, nên tranh thủ thời gian rèn luyện thể lực. Tập nhiều nên ăn cũng khỏe mà ngủ cũng ngon. Đêm đêm, sau khi điểm danh xong, đặt lưng xuống phản là ngáy pho pho. Chỗ nào có thể ngủ là chúng tôi tranh thủ chợp mắt cho bõ những ngày ở trận địa.
Thế mà tại sao đêm nay, tôi cứ trằn trọc hoài không sao ngủ được? Tôi lại nghĩ và nhớ đến mọi người ở quê. Trong người bồn chồn lắm. Hết nghĩ đến người thân lại nhớ và nghĩ tới bạn bè và những người hàng xóm. Có lúc cựa mình, tôi lại ngó nhìn những anh bạn quanh tôi, mọi người đều ngủ ngon giấc. Mỗi người một tư thế, chẳng có ai cựa mình không ngủ được như tôi cả, cũng chẳng phải lạ nhà. Mãi tới khi tiếng gà trong thôn lác đác gáy, tôi mới chợp mắt được. Đang chìm trong giấc ngủ thì Cha tôi tới thăm. Chẳng biết Cha đến đây từ lúc nào và bằng cách nào. Cha đang đứng bên cạnh chiếc phản nhìn tôi âu yếm. Cha nhìn tôi lặng im không nói gì, hình như trên mặt người có mấy giọt nước mắt còn đọng lại: “Cha ơi, tại sao Cha lại khóc?”- Tôi hỏi. Cha vẫn lặng im nhìn tôi như ban nãy. Nhìn Cha tội nghiệp quá. Có phải Cha nhớ và lo cho con lắm không? Tôi ôm chặt Cha vào lòng. Cha gầy đi nhiều so với hồi tôi còn ở nhà. Tôi thấy rõ từng nếp nhăn trên khuôn mặt Cha. Có phải vì lo lắng cho tôi mà Cha gầy yếu đi và thêm nhiều nếp nhăn như vậy không? Cha không phải lo lắng cho con nhiều đâu, ở nơi đây chúng con đều yêu thương, động viên, giúp đỡ nhau nên cũng đỡ nhớ nhà, anh em chúng con cũng thường động viên nhau và nghĩ ra nhiều trò để xua tan những nỗi nhớ trong tâm khảm mọi người, để mọi người lạc quan trong mỗi trận chiến.… Cha mặc áo nâu chàm đã sờn nhẵn và bạc đi vì nắng gió. Chiếc áo Cha mặc rất lâu rồi. Tôi lại nhớ đến mùi mồ hôi chát mặn của Cha mà lúc ở nhà tôi đã hít hà mùi đó. Tôi định lấy tấm chăn bộ đội màu cỏ úa khoác vào cho Cha thì ông xua tay ra hiệu không cần. Cha chỉ lẳng lặng nhìn tôi một cách thương yêu, cái nhìn của Cha với tôi thật bao la, ấm áp. Nhưng Cha chẳng nói gì. Lạ quá, Cha ơi, tại sao đến thăm con mà Cha không nói với con một câu nào? Hay là con đã làm điều gì đó sai trái khiến Cha phật lòng? Tôi định hỏi Cha câu ấy, kì lạ thay, hình bóng Cha tôi mờ dần, mờ dần rồi khuất hẳn…
 Tôi giật mình choàng tỉnh, mới biết là mình mơ. Nhìn lại cái phản tôi đang nằm, chỉ có tôi và mấy anh bạn, ngoài trời vẫn nhá nhem chưa thể nhìn rõ bóng người, tôi căng mắt nhìn xem có Cha ở ngoài đó thật không, nhưng biết đúng là mình đang mơ thật rồi, Cha làm sao lại hiện hữu trước mặt tôi lúc này được. Tôi đang ở xa nhà lắm mà.

   Trong cuộc đời mình, có biết bao giấc mơ lành giữ nhưng chỉ có giấc mơ này là ám ảnh tôi mãi. Tôi tỉnh dậy mà trong lòng day dứt, nhớ Cha vô cùng. Giấc mơ đêm ấy cứ làm tôi lo lắng một điều gì đó về Cha đến khó tả. Tôi không bao giờ quên được giấc mơ đêm ấy cũng như trong tâm can mình luôn mang hình bóng người Cha  kính yêu. Tôi nghĩ về Cha nhiều hơn. Không biết ở nhà có chuyện gì không? Hay là có chuyện gì xảy ra mà gia đình giấu không cho tôi biết vì sợ tôi suy nghĩ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôi ở nơi này, biết hỏi ai bây giờ, con đường xa nghìn trùng. Tôi thấy hoang mang, đứng ngồi không yên, trong người cứ bồn chồn. Người ta bảo “sinh dữ, tử lành” nhưng tôi vẫn cứ bị ám ảnh. Tôi đem chuyện kể cho Trự, Dung, Xuân và Ngọ cùng nghe, ai cũng bảo vì tôi nhớ nhà, thương Cha quá nên mê mẩn ra thế.
Mấy hôm sau, tôi nhận được thư Thoa. Cầm lá thư của em trên tay, tôi ngỡ như mình đang mơ. Tôi hồi hộp trong lòng và nhanh chóng bóc thư đọc. Lâu lắm rồi tôi mới nhận được thư em, mà chiếc phong bì thư dày dặn thế này chắc là em tâm sự với tôi nhiều lắm. Có phải ở nhà rất nhiều chuyện mà em muốn kể cho tôi nghe hết thảy không? Có phải vì tôi chuẩn bị vào chiến trường xa hơn nên em viết thật nhiều hơn? Có lẽ em nhận được thư tôi rồi vội vàng hồi âm vì sợ tôi chờ đợi? Thoa ơi, thế là đường dây liên hệ giữa anh và em bấy lâu nay được nối lại rồi. Em có biết là anh mong ngóng thư em từng ngày một không? Anh sốt ruột và mong tin em vô cùng. Trong thư em nói với anh gì đây? Chắc có rất nhiều chuyện mà em sẽ kể cho anh nghe, từ việc tình cảm chúng mình, việc học của lớp, rồi việc gia đình...Cầu trời, đừng có chuyện gì buồn cả, tôi hồi hộp bóc thư ra. Những dòng chữ quen thuộc của em hiện ra trước mắt tôi:
  “Anh thương yêu của em! Em đang học bài thì nhận được thư anh. Em vội vàng chạy ra nhận thư, em biết chỉ có thư của anh gửi cho em mà thôi. Ôi chẳng có gì vui hơn đối với em lúc này là được đọc thư anh. Anh có biết là em mong ngóng và chờ đợi thư anh rất lâu rồi không? Anh ơi, em đã viết cho anh rất nhiều thư, tuần nào em cũng viết và đều gửi cùng địa chỉ cũ của anh, chẳng biết anh có nhận được thư của em không mà không thấy trả lời em.  Những lúc không nhận được thư anh, em cứ lo lắng nghĩ về điều gì đó đã xảy ra với anh. Hôm nay, em vui lắm.”
 Đọc đến đây tôi thấy hối hận với em. Thôi chết rồi. Địa chỉ cũ vẫn là nơi huấn luyện ở Nghĩa Đàn. Từ khi vào đây, theo các anh vào trước, nếu có địa chỉ cũng không nhận thư được. Do vậy mình có cho em địa chỉ đâu. Mình thật có lỗi với em. Tôi tiếp tục đọc thư em: “Thư nào em cũng kể cho anh nghe mọi việc ở nhà, chuyện gia đình anh, gia đình em và cả lớp học nữa, mọi người đều lo lắng và nhờ em viết thư hỏi thăm anh nữa đấy. Rồi cả thầy giáo cũng hỏi thăm anh đều đặn, thầy rất nhớ anh. Nhất là những lúc tranh thủ sang thăm nhà anh. Bác trai dạo này cũng hay ho húng hắng, nhưng khi nói chuyện về anh thì bác nói rất say sưa. Nào là anh rất sát cá. Đi kéo vó hoặc thả lưới lúc nào cũng được nhiều. Còn chị gái anh thì hễ nhắc đến anh là  khóc. Chị thương anh lắm. Chị bảo, mồ côi mẹ từ lúc còn nhỏ mà anh rất ngoan, chăm học, chăm làm, gặp ai cũng chào hỏi, lễ phép. Còn các em của anh thật đáng yêu. Mỗi khi em sang là chúng nó cứ nhảy lên đòi em bế cứ như em là người nhà của anh vậy. Nhưng có lẽ khi thư em đến nơi thì anh lại hành quân chuyển đơn vị nên anh không nhận được thư em rồi. Tiếc quá! Nhưng em không nản lòng viết thư cho anh đâu. Em vẫn kiên trì viết và quyết tâm viết đến lúc nào em nhận được thư anh thì  em mới thực sự yên lòng. Có hôm sốt ruột quá, em sang nhà anh chơi hỏi thăm chị anh xem có nhận được tin tức gì của anh không, nhưng chị anh bảo không thấy anh gửi thư như trước nữa. Chị thấy em lo lắng nên động viên em đừng lo nghĩ quá, anh còn bận hành quân và chiến đấu. Rồi chị còn kể dạo này trong xã có báo tử liên tục. Nhưng số thằng Biểu nó cao nên cũng đỡ lo. Em biết chị anh nói vậy để em đỡ buồn thôi, chứ nhìn vào đôi mắt rưng rưng lệ ấy thấy chị rất lo cho anh.
   Anh yêu ơi. Nam Đàn mình dạo này máy bay bắn phá ác liệt lắm anh ạ. Trường cấp 3 của chúng mình đã phải sơ tán lên Nghĩa Đàn học. Em phải đi học xa và vất vả hơn nhưng em sẽ cố gắng, em sẽ học, mai này còn trở thành cô giáo nữa anh nhỉ? Anh vào chiến trường còn vất vả nhiều hơn thế đúng không? Mặc dù ở rất xa nhau nhưng mình cùng nhau phấn đấu anh nhé. Càng xa anh, em càng phải phấn đấu hơn nhiều. Anh là tấm gương để em học tập noi theo. Nơi chúng em học cũng rất gần nơi anh huấn luyện nhưng thật buồn là khi chúng em lên Nghĩa Đàn thì cũng là lúc anh hành quân đi B rồi. Nhiều hôm em đi học mà mắt cứ hướng về nơi bộ đội đang huấn luyện, với hy vọng mong manh được nhìn thấy hình bóng anh. Nhưng nhìn mãi, nhìn hoài mà chẳng thấy anh đâu cả. Vì nhớ anh quá mới có ước mong vậy mà thôi. Chứ em biết lúc này anh đã ở một nơi xa tít tắp mà em không thể đếm thêm từng cây số được. Đêm đêm, em nằm ngủ mà em vẫn cứ hướng về phía chân trời phía nam mờ xa, cầu nguyện cho anh vượt qua nỗi khó khăn, ác liệt đang từng ngày, từng giờ canh cánh bên anh. Nghĩ đến đây, em rùng mình và thương cho anh quá. Khi nghe anh kể về nỗi vất vả, những gian khó của người lính em đã bật khóc và mong cho chiến tranh chóng kết thúc để anh sớm về với em, để cho muôn nhà đoàn tụ. Bây giờ có ai hỏi em, điều ước gì lớn nhất? Chắc chắn em sẽ trả lời không chút ngần ngại là anh được về bên em. Anh biết không, trong lớp ta cùng đi bộ đội với anh đã có gia đình nhận được giấy báo tử của Anh Việt, anh Nam và anh Lệ rồi. Anh phải hết sức cẩn thận đấy anh nhé. Mỗi một lần nghe tin báo tử, em lại lạnh người, con tim nhói đau. Bà con làng xóm quê mình ai cũng buồn thương cho những người con trai, vừa mới ra chiến trường được thời gian đã hi sinh khi tuổi đời còn quá trẻ. Trong những lúc đó, em bàng hoàng lo nghĩ, có nhiều đêm em không sao chợp mắt nổi, rồi có lúc em khóc vì chợt nghĩ một ngày nào đó, anh phải hy sinh, cuộc sống của em không có anh thì em sống bằng cách nào. Có hôm về thăm mẹ, em có kể nhiều về anh. Mẹ phải động viên em rất nhiều và không cho em nghĩ nhiều đến điều rủi ro ấy nữa. Mẹ bảo em biết thương và lo cho anh là tốt nhưng không được nghĩ nhiều, phải để cho anh yên tâm chiến đấu. Nghe lời mẹ, em gạt nước mắt mà lòng không hết nỗi nhớ anh. Anh ơi, em định không báo tin buồn cho anh nhưng…
  Trời ơi. Sao lại thế này, tôi như không tin vào mắt mình nữa. Mắt tôi bổng nhạt nhòa. Tôi cố đọc nhanh: “... nhưng nếu không báo thì không được, mà khi nghe em báo tin thì anh nên giữ bình tĩnh nhé. Em biết anh là con người có nghị lực mà. Cha anh bị bom mất lúc 1 giờ chiều ngày 9 tháng 9 năm 1968. Em viết thư báo tin cho anh mấy lá rồi mà không thấy anh trả lời…
  Tim tôi bổng nhói lên đau đớn. Mình có đọc nhầm không? Chuyện Cha anh đã xảy ra rồi, không còn nỗi đau nào hơn nỗi đau mất đi người Cha yêu dấu của mình, anh rất yêu thương Cha, Mẹ mà Mẹ lại mất từ khi anh còn nhỏ nên em rất thương anh, anh buồn nhưng cố gắng vượt qua anh nhé. Anh nhớ nghe em, anh nhé, em rất lo anh sa sút sức khỏe, ảnh hưởng đến tâm lý và tinh thần chiến đấu”!.
   Đọc đến đây tôi nghe như có tiếng sét đánh ngang tai, cơ thể mất hết cảm giác. Một tiếng kêu “Cha ơi” bật lên ai oán, nước mắt tôi dàn dụa. Tôi nằm vật xuống phản, khóc nức nở không cần giữ ý giữ tứ gì nữa cả. “Cha ơi, sao Cha lại bỏ con ra đi, con vẫn chưa về thăm Cha được cơ mà, Cha có tội tình gì mà máy bay Mỹ giết Cha. Bây giờ còn có ai bên con, Mẹ đã mất rồi, Cha lại ra đi…chị em chúng con yêu quý Cha nhiều thì lại càng đau xót bấy nhiêu khi cha không ở lại với chị em con. Cuộc đời chúng con còn nhiều khó khăn lắm, chị em chúng con biết trông cậy vào ai?...
    Nghe tôi khóc, tất cả anh em trong tiểu đội chạy ùa đến bên tôi, cầm thư của Thoa đọc. Anh em ôm lấy tôi, gục đầu thương xót. Tất cả mọi người đều buồn và không cầm được được nước mắt. Anh Hoàng ngồi cạnh làm chỗ dựa cho tôi. Anh cũng khóc nức nở. Tôi chẳng còn biết trời đất xung quanh ra sao nữa, nước mắt dàn dụa chảy. Tôi nghe tiếng Trự, Ngọ, Xuân, Loan và Dung bên cạnh. Tôi cũng chẳng mở mắt, cứ nhắm tịt mà khóc. Có ai đó sụt sùi và lau nước mặt cho tôi. Tôi mở mắt ra mới biết là Dung. Còn Trự đang quạt mát cho tôi. Ai cũng xót xa và tìm lời an ủi, chia sẻ động viên tôi. Có người đọc thư xong, nước mắt cứ tràn ra, giống như tôi vậy. Cả người tôi tê dại, cảm giác cô đơn hơn bao giờ hết, tôi như đứa trẻ bơ vơ, không còn ai để nương tựa trước dòng đời. Cha đã mất rồi mà tôi vẫn ở đây, hôm nay tôi mới biết tin. Cha đã đi được bao nhiêu ngày rồi mà con không hề biết. Cách đây mấy hôm, con nằm ngủ mơ thấy Cha về. Linh hồn Cha hiện về báo điềm cho con mà con không hề biết. Cha nhìn con âu yếm rồi lặng lẽ ra đi. Cha ơi, có phải Cha đi khi chúng con đang quần nhau với giặc? Cha ơi, lúc con đi chiến trường Cha luôn luôn lo lắng cho con, thế mà con ở chiến trường không sao, Cha ở hậu phương lại bị chúng giết chết. Con mong chiến tranh nhanh chóng kết thúc, được trở về bên Cha và gia đình yêu dấu của mình, điều ấy vẫn chưa thành thì Cha đã bỏ con đi. Mẹ con đã đi xa rồi, sao Cha không ở lại với chị em con?
 Tôi muốn gào lên thật to cho trời đất thấu tỏ nỗi đau thương bất ngờ này, nhưng cổ cứ nghẹn lại. Trong cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ khóc với nỗi đau như thế. Tôi đã mồ côi Mẹ khi còn nhỏ, nay lại mất Cha. Thằng Mỹ thật độc ác. Nó từ đâu đến, mang bom đạn dội xuống làng tôi và giết hại nhiều người dân lương thiện như Cha tôi. Cha tôi có làm nên tội tình gì đâu mà khổ như thế này?
  Cha tôi, một người nông dân bình thường, suốt cuộc đời gắn bó với đất đai đồng ruộng để làm ra hạt lúa, củ khoai, nuôi con cái lớn khôn. Đời Cha tôi đã chịu đựng biết bao vất vả, rủi ro, cay đắng và nhọc nhằn. Mẹ tôi mất sớm, gánh nặng gia đình đè nặng lên vai Cha tôi. Không nói ra chắc ai cũng thấu hiểu cảnh gà trống nuôi con, cực nhọc, cô quạnh, chật vật như thế nào. Khi tôi lên sáu tuổi, Cha tôi đi thêm bước nữa. Mẹ kế của tôi là một người đôn hậu, hiền lành, tốt bụng, cảm thông với hoàn cảnh của Cha tôi. Mẹ thương chị em tôi như đã từng chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau. Mẹ cùng với Cha chịu khó làm lụng chắt chiu từng lon gạo, đồng tiền nuôi con ăn học từ lớp một đến gần hết lớp mười cho tới khi tôi đi bộ đội. Bởi thế nên dân làng Ngũ Phúc ai cũng bảo hiếm có người mẹ kế nào tốt như dì tôi. Chị em tôi cũng yêu quí dì hơn. Nhưng trời lại bắt Cha tôi phải chịu thêm một tai họa nữa: mẹ kế tôi sau khi sinh đứa con đầu tiên (em của tôi) thì bị mắc phải bệnh điên. Bệnh của dì ngày một nặng, hãi hùng hơn là dùng gậy, dao đánh người, không phân biệt thân sơ. Cha tôi lại thêm một nỗi buồn về gia đình mà không thể bỏ mặc mọi thứ. Thời gian Cha lo cho gia đình nhiều hơn, nhất là khi em tôi còn nhỏ, tôi cũng chẳng giúp được việc gì cho Cha vì ngày đó tôi còn bé. Tôi nhìn thấy nỗi buồn hiện lên trên khuôn mặt Cha hàng ngày, nhất là khi Cha tôi chăm chút cho mẹ, cho chị em chúng tôi. Cha giấu nỗi buồn không cho chị em tôi nhìn thấy. Tôi thương Cha lắm mà không biết làm gì hơn. Một người sinh ra như Cha tôi dường như chỉ sống mãi với nỗi khổ và sự cô đơn, chưa bao giờ được nghỉ ngơi. Mỗi lần mẹ kế tôi lên cơn điên thường kéo dài hai tuần. Hai tuần ấy là thời gian khốn khổ, vất vả của Cha và của cả chị em tôi. Nghĩ lại mà thương Cha quá. Mỗi lần dì lâm bệnh là Cha gầy rộc người, mắt mũi trũng sâu, nếp nhăn ngày càng dày trên khuôn mặt. Mỗi năm, mẹ kế tôi lên cơn đau từ ba đến bốn lần như thế. Có ai muốn sự tình đó xảy ra với gia đình tôi đâu, mỗi lần nhìn những lúc dì lên cơn mà tôi cũng không cầm nổi nước mắt. Lúc đầu tôi thấy lo sợ nhiều, nhưng về sau tôi hiểu được bệnh tình của dì, tôi thương dì lắm. Dẫu rằng tình thương đó tôi có nói, dì cũng không thể biết và hiểu được. Thương Cha, thương dì mà suốt cuộc đời tôi chưa làm được gì cho họ. Tất cả chỉ là trong suy nghĩ. Rồi còn bao nhiêu những dự định nữa, tôi vẫn chỉ là thằng con trai kém cỏi như thế này…
  Nay Cha tôi đã mất, còn lại dì cô đơn với căn bệnh quái ác, chị tôi chăm dì cũng không thể bằng sự ân cần mà Cha tôi dành cho dì. Mỗi lần dì lên cơn, ai sẽ trông giữ dì. Dì cũng buồn lắm đúng không? Nỗi buồn chắc cũng không cất lên thành lời, chỉ có bong dáng Cha là dì mãi mãi không còn nhìn thấy trong ngôi nhà. Một cảm giác trống trải, bơ vơ vô cùng bủa vây tôi. Nhà tôi hoàn cảnh đã khó khăn, nay lại càng khó khăn chồng chất. Tất cả sẽ dồn xuống vai chị tôi, cái gánh nặng gia đình đang ngày càng trĩu xuống. Càng nghĩ, tôi càng lo lắng cho chị  muôn phần. Suốt cuộc đời con gái mà chị chẳng được vui sướng một ngày. Suốt ngày theo Cha, theo Mẹ còng lưng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Giọt nước mắt thương chị chảy dài trên gò má tôi. Tôi cũng tự trách mình chẳng làm được điều gì giúp cho chị đỡ khổ. Rồi có lúc lo lắng quá, tôi lại nghĩ đến cuộc đời hiu quạnh của chị khi tôi không còn trở về gặp lại chị, khi ấy chị là người vất vả và khổ hạnh nhất. Còn tôi, dù rằng chẳng giúp gì được cho chị nhưng sự hiện diện của tôi có lẽ vẫn làm cho cuộc đời chị vơi bớt quạnh hiu. Chị là trụ cột nuôi cả gia đình tôi lúc này. Ngày qua ngày, công việc chẳng khi nào để làm chị an nhàn thảnh thơi.
  Từ cảnh ngộ gia đình, tôi chợt nhận ra một điều thử thách lớn nhất của những người lính như tôi phải chịu đựng, phải vượt qua đâu chỉ có bom đạn tàn bạo của kẻ thù nơi mặt trận mà là nỗi khó khăn mất mát to lớn của hậu phương, của gia đình mình. Những ngày đầu nhận được tin dữ về Cha, hầu như tôi không làm gì được cả, mọi việc đều do Dung, Loan, Trự, Ngọ, mấy thằng bạn nối khố cùng học cấp ba, cùng đi bộ đội một đợt lo liệu. Anh em trong tiểu đội thì cho tôi nghỉ tập. Mấy ngày nay, với hoàn cảnh éo le nên mọi người động viên tôi. Tuy vậy, tôi thực sự bị suy sụp về tinh thần, hình ảnh người Cha hiền lành bị bom giặc giết chết, căn bệnh điên của mẹ kế và gánh nặng gia đình đặt lên vai chị, tôi luôn bị ám ảnh bởi hoàn cảnh quá bi đát. Nhiều lần tôi tự hỏi: Tại sao gia đình và tôi lại phải chịu nhiều sự rủi ro đến thế này? Và chị tôi sinh ra sao phải chịu nhiều thiệt thòi và vất vả về gia đình đến vậy? Có lúc trong sự buồn tủi, chán chường tôi thầm nghĩ: không biết mình có chịu đựng nổi những đau khổ này và đủ sức hành quân vượt Trường Sơn cùng đơn vị vào chiến trường xa không? Nỗi đau đó cả đời tôi cũng không vợi hết. Tôi muốn trở về gia đình để thắp cho Cha nén hương, để san sẻ, giúp chị tôi gánh vác công việc gia đình. Lúc này chị rất cần tôi bên cạnh, một mình chị, chân yếu tay mềm.
 Nhìn chiếc ba lô con cóc căng phồng, chiếc càng đại liên Cô-bi-nốp nặng trịch, tôi càng cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Kiểu này thì không thể theo kịp chúng bạn hành quân vượt núi cao, vực sâu được. Làm gì cũng thấy buồn chán khi nghĩ rằng mình trở về nhà không còn Cha. Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu ước ao về với Cha sau chiến tranh thế là tan theo mây khói. Với tâm trạng buồn đau nặng nề, u uất, tôi quyết tâm về thăm gia đình chịu tang Cha cho trọn hiếu làm con. Đã mấy lần tôi lên xin phép chỉ huy về quê thắp hương cho Cha nhưng đều bị từ chối. Lý do thật đơn giản là ngày lên đường đi chiến trường đã quá gần nên đơn vị không thể giải quyết được. Tôi càng buồn hơn. Một bên là sự đáp hiếu với Cha, một bên là nhiệm vụ cần kíp của người lính. Và tất nhiên, nhiệm vụ của người lính phải đặt lên hàng đầu. Tôi tính, nếu đơn vị không cho về thì mình liều về vài ngày vậy. Tôi hỏi thăm đường đi thì được biết, từ khi ngừng bắn đến nay, đường về Nghệ An cũng không khó khăn lắm. Đi ô tô một ngày là về đến Vinh. Tôi cũng chỉ cần về thắp hương cho Cha một nén là quay lại đơn vị ngay mà. Vị chi cũng chỉ mất 2 đến 3 ngày là cùng. Đồng chí  Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng thì đồng ý cho tôi về nhưng Ban chỉ huy Trung đội và Đại đội không cho phép. Tôi định đánh liều,  dẫu có bị kỷ luật cũng mặc. Như đoán được suy nghĩ của tôi, một buổi tối, tôi được đồng chí Chính trị viên Đại đội Nguyễn Hữu Thu gọi lên. Khi tôi có mặt và chào các thủ trưởng, đồng chí Chính trị viên kéo ghế mời tôi ngồi. Đồng chí Thu nhìn tôi nói:
- Chúng tôi biết mấy hôm nay đồng chí rất buồn vì người Cha đã mất do bom đạn Mỹ. Bố mất ai mà chẳng buồn. Chi ủy và Ban chỉ huy Đại đội xin chia sẻ đau thương và mong đồng chí cố gắng vượt qua thử thách này để hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn. Chúng ta cũng không vì mất mát mà sinh tiêu cực, bi quan, chán nản, vi phạm kỷ luật người quân nhân cách mạng, ảnh hưởng đến công tác học tập và chiến đấu. Nghe đến đây tôi thấy như bị xúc phạm. Nhưng chắc Chỉ huy biết tôi sẽ đào ngũ vài ngày về quê. Không hiểu ai lại lấy chuyện làm quà và đặt điều. Chết rồi. Bây giờ tôi mới sực nhớ. Thảo nào, mấy hôm nay tôi được ở nhà mà tiểu đội đều cử người ở nhà cùng mình. Chắc họ lại sợ mình chuồn rồi. Thế là mình đã bị bị theo dõi. Kiểu này có mà trốn đằng giời. Tôi nhìn vị Chính trị viên Đại đội nói:
  - Báo cáo thủ trưởng. Tôi tự xác định được ạ. Tôi chỉ buồn một tẻo thôi. Ngày mai tôi ra thao trường tập. Tôi quyết tâm biến đau thương thành hành động, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ ạ!
 - Tốt. Đồng chí rất tốt. Quân nhân cách mạng thế chứ. Chúc đồng chí khỏe và huấn luyện tốt nhé. Tôi đứng chào Thủ trưởng và xin phép ra về.
Thế là chẳng còn cách nào khác, tôi phải ở lại đơn vị, ngậm nỗi buồn đau đớn khôn nguôi. Tôi biết rằng ở nhà, mọi người sợ tôi buồn nên đã không cho tôi biết, hoặc có thể chị và các em tôi đã thư báo cho tôi nhưng tôi không nhận được, giống như thư Thoa vậy.
  Năm tháng cứ lặng lẽ trôi qua. Nỗi buồn cứ lắng sâu vào trong lòng. Nhiều lúc nước mắt cứ ngậm chảy vào trong, tôi không dám khóc trước mặt mọi người. Có như vậy vào chiến trường mới dám làm tất cả. Giờ nghĩ lại, tôi càng biết ơn vô cùng tấm lòng đồng đội, bạn bè. Nếu như không có những lời động viên an ủi chí tình và sự chăm sóc giúp đỡ của đồng đội, bạn bè thì chắc tôi đã “B quay”. Lúc đó, tinh thần và ý chí lung lay lắm, không còn nghĩ được những điều lâu dài, tình cảm gia đình và nỗi đau đớn đó đẩy tôi đứng trên bờ vực thẳm, chẳng còn nghĩ được điều gì tốt hơn cho mình. Và như thế, tôi chẳng bao giờ được là tôi bây giờ nữa, tôi đã trở thành một kẻ đào ngũ, một tên vô trách nhiệm với Tổ quốc và gia đình. May thay, tôi đã chiến thắng được sự hèn yếu của mình để không làm tổn hại tới danh dự của gia đình và bản thân, không phụ lòng tin cậy của Cha tôi và những người thân yêu nhất, trong đó có Thoa.
  Đó chính là ngọn núi hiểm trở, cheo leo đầu tiên tôi vượt qua trên chặng đường hành quân vào chiến trường xa xôi. Ngọn núi này không có tên trên bản đồ đất nước nhưng đó là ngọn núi cao nhất, nhiều thử thách nhất đối với tôi. Một ngọn núi không có vách cao, vực thẳm, không có nắng khét, mưa dầm, không có sên vắt, muỗi mòng, thú dữ, không có bom rơi, đạn nổ… nhưng đó là ngọn sơn thạch khó vượt nhất đối với tôi lúc bấy giờ. Vượt qua nó có nghĩa là tôi phải vượt qua mình để được lớn hơn thân phận bé nhỏ của con người, để được chan hòa trong cái chung là dân tộc. Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
 Mấy hôm nay đơn vị tập mang vác nặng, leo lên mấy ngọn núi, đưa ra các tình hưống có máy bay đánh phá đội hình lúc hành quân, hoặc đang hành quân thì gặp thám báo mai phục, đang hành quân thì có đồng đội bị sốt không đi được…Nghĩa là tập dượt các tình hưống khi hành quân đường dài.
  Lại nói về bác Hồng chủ nhà. Bác Hồng có  cô con gái tên là Thái, đang học lớp 9. Thái có nước da trắng hồng và hát rất hay. Các buổi liên hoan văn nghệ, kết nghĩa giữa chi đoàn thanh niên địa phương và bộ đội, thế nào Thái cũng biểu diễn. Tôi hay tranh thủ giải toán cho Thái. Hình nhu Thái cũng rất thông cảm với hoàn cảnh của tôi. Có hôm, sau khi giúp Thái giải bài toán hình quỹ tích, Thái nhìn tôi hỏi:
- Nghe nói anh được về thăm nhà để thắp hương cho cụ ông à?
Tôi lắc đầu:
         - Lúc đầu anh tưởng hy vọng được về. Bây giờ không được em ạ. Thôi, đành chịu vậy. Tôi nhìn ra bầu trời đêm đầy sao, cố giấu đi ánh mắt rưng rưng. Đột nhiên Thái nói:
        - Mai thứ 7, ta đi chới cho vui đi anh. Em có mấy cô bạn hay lắm. Tôi nghĩ chắc Thái thấy tôi buồn nên nói vậy cho vui. Không ngờ Thái rủ tôi đi chơi là có thật. Nhưng tối mai tôi lại đến phiên gác, nên khất Thái hôm sau:
- Tối mai anh trực, đến phiên gác nên không đi được. Hẹn tuần sau vậy.
Mọi người trong tiểu đội cứ nói như đùa- Cái Thái có vẻ mê tay Biểu đấy. Đêm nào cũng cặp kè giải toán. Không hiểu có tranh thủ được cái gì không? Thực ra lúc này vì quá đau xót khi nghe tin Cha mất, lại quá yêu Thoa nên tôi cũng không bận tâm đến điều mà anh em trong đơn vị suy diễn.
 Tôi còn nhớ sau gần một tuần, kể từ khi nhận được thư Thoa báo tin Cha tôi mất, đơn vị báo động hành quân. Tôi tranh thủ viết thư gửi chị tôi và Thoa. Trong thư tôi không giấu diếm tâm trạng của mình nhưng sau những lời an ủi động viên gia đình và Thoa, tôi hứa sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần nhỏ bé trong việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước để sớm trở về quê hương. Tôi cũng không muốn cho em biết rằng tôi rất buồn đau và khổ hạnh vì trong thư em đã dặn và tin tưởng tôi: “Anh phải giữ bình tĩnh nhé. Em biết anh là con người có nghị lực mà”. Viết ra được những dòng thư ấy, cơ hồ tâm trạng tôi cũng được nhẹ nhõm hơn. 
 Ngày 19 tháng 12 năm 1968. Trung đoàn tôi làm lễ xuất quân. Bà con Thái Thủy ra tiễn đưa thật đông vui. Trong đó có cả em Thái. Đôi mắt em như thầm trách tôi chưa đi chơi với em được dù chỉ là một lần. Tạm biệt Thái Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình, đoàn quân theo hướng Nam mà tiến. Lịch sử trung đoàn 28 có ghi chép lại ngày ấy: “Đoàn quân nặng trĩu súng đạn, quân trang lương thực, trên vai cắm đầy lá ngụy trang, trập trùng mải miết tiến về phía Nam. Bộ đội lần lượt vượt qua những dốc núi cao vút của dãy U Bơ, Ba Rền, băng qua dốc Cổng trời, Nguyễn Chí Thanh rồi tiến về dãy núi trùng điệp, những rừng cây đại ngàn hướng vào Tây Nguyên”
   Cuộc hành quân đi B dài của trung đoàn 28 chỉ có mấy dòng sơ lược thế thôi, nhưng với chúng tôi đó là những ngày thấm đẫm mồ hôi và máu. Khó có thể kể hết được những cam go, ác liệt mà những người lính khoác áo trận như chúng tôi phải chịu đựng trên con đường Nam tiến vào những tháng ngày này. Lúc đầu chuẩn bị đi, lính hăm hở lên đường lắm, con đường càng xa xôi, lại càng hiểm trở, ai cũng mệt nhưng không ai ngã lòng. Chỉ thương những đồng đội bị ốm và sốt trên chặng đường hành quân, mặt mũi nóng bừng, những cơn sốt cứ rấy lên trong cơ thể.
    Lần đầu tiên tôi đặt chân lên làng Ho, nơi được coi là điểm xuất phát của con đường Trường Sơn huyền thoại. Con đường xuyên dọc trùng điệp núi rừng được mang nhiều tên gọi: đường Trường Sơn, đường 559, đường Hồ Chí Minh. Tên gọi nào cũng mang ý nghĩa lịch sử cao đẹp và hùng tráng. Gọi là đường Trường Sơn vì đây là tuyến đường được bộ đội và thanh niên xung phong mở trên dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Gọi là đường 559 vì đây đúng là ngày sinh của Bác. Ngày 19 tháng 5 năm 1959, Bộ Chính trị và Thường trực Tổng quân ủy giao nhiệm vụ mở tuyến chiến lược Trường Sơn. Và vì ngày khai sinh của con đường là ngày sinh của Bác, hơn thế nữa, đây là con đường giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra.
   Từ buổi đầu mới thành lập, chỉ lấy gùi thồ làm chính, len lỏi vận chuyển trên những lối mòn nhỏ hẹp ẩn giữa những cánh rừng già và chỉ hoạt động theo mùa, theo từng chiến dịch. Bộ đội Trường Sơn đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu, lòng quả cảm, trí thông minh xây dựng nên tuyến đường chiến lược mang tên Bác Hồ vĩ đại. Con đường huyền thoại, nối liền hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam, nối chiến trường gần với chiến trường xa bằng một mạng đường bộ, đường ống, đường sông dài hàng nghìn cây số và hoạt động quanh năm…
    Đường hành quân luồn dưới những cánh rừng già âm u nghìn tuổi. Những khu rừng nguyên sinh ba tầng cây lá rậm rịt, dây dợ chằng chịt, có nơi ánh mặt trời không xuyên qua nổi. Ngày trước khi ở nhà, mỗi lần nhìn lên núi Đại Huệ, tôi đã có lần nghĩ và tự hỏi, không biết bao giờ đôi chân mình sẽ đặt lên đến lưng đỉnh núi đó. Rồi khi được đi  mọi nơi, trèo đèo lội suối, tôi thấy nó không còn là bí hiểm nữa, chỉ sợ mình thiếu kiên trì và dũng cảm mà thôi. Tôi nghĩ đến cảnh bom đạn giặc ném xuống con đường và khu rừng này, thật tiếc thương cho đại ngàn của Việt Nam. Chúng tàn phá đi tất cả vẻ đẹp giàu có của quê hương. Đoàn quân lặng lẽ hành tiến, lúc thì vượt đèo dốc cao vút, cheo leo, khi thì tụt xuống vực sâu thăm thẳm. Nhìn từ trên xuống thấy heo hút, nhìn từ dưới lên thấy dốc dựng đứng ngang trời, có cảm giác như bàn chân chơi vơi. Ấy vậy mà chúng tôi vượt qua hết. Thậm chí không phải chỉ có một hai dãy núi mà nhiều, nhiều lắm. Chẳng ai đếm được những bước chân mà mình đã vượt qua bao núi bao sông. Nhìn lại chặng đường  mới thấy dài và gian khó. Đi được 10 ngày thì bàn chân tê mỏi và căng phồng, rộp lên. Người nào cũng mỏi mệt và đau nhức toàn thân nhưng ý chí thì không nản. Biết bao nhiêu kỉ niệm và những câu chuyện trong mỗi đợt hành quân.
 Đường hành quân dài hun hút, đi dưới rừng xanh. Vai đeo ba lô nặng trĩu. Một tay chống gậy, một tay cố giữ càng đại liên cho thăng bằng, bền bỉ bám theo đồng đội. Đường càng dài, càng nặng. Núi càng cao càng mệt. May sao do được luyện tập khá cẩn thận ở ngoài Bắc nên tôi cũng dần chịu đựng được, không bị tụt lại đằng sau. Đoàn quân mải miết, ngày đi đêm nghỉ, cứ lầm lũi tiến về phía nam. Khoảng 5 giờ sáng thì xuất phát. 3 giờ chiều thì đến trạm giao liên. Khi đến trạm là thấm mệt, mắc võng ngủ ngay. Đến chiều cùng anh nuôi lo bữa tối.
 Ngày ấy, bộ đội thường dùng bếp Hoàng Cầm. Nói đến bếp Hoàng Cầm thường chỉ có cánh lính chúng tôi mới biết được, vì chỉ có trong thời buổi chiến tranh. Hoàng Cầm là tên một anh nuôi trong trận đánh ở Điện Biên Phủ, được phân công nhiệm vụ nuôi quân và đã sáng chế ra một loại bếp khi nấu không để lại khói, địch không phát hiện được mà lính ta vẫn có cơm để ăn. Anh đem đào đất sâu xuống lòng đất và làm những ống dẫn khói đi các ngả, lúc đó có đun củi cũng không lo khói tụ vào một nơi và bốc lên cao nữa. Những đường ống dẫn khói tản ra khiến cho địch không phát hiện được nơi trú ngụ của ta. Cách thức nấu bếp ấy cũng được truyền vào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhưng cái khổ nhất của chúng tôi trong cuộc hành quân đêm ngày có lẽ là khát nước. Lầm lũi hành quân, lưng ai cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt đỏ bừng, cổ họng khô khát. Đoạn đường hành quân thì dài vô tận, chúng tôi phải uống dè xẻn từng ngụm nước trong bình tông. Mỗi người một bình tông đeo bên người, chiếc bình tông lăn lộn nơi chiến trường và chẳng bao giờ thiếu được trong hành trang người chiến sĩ. Bị đói còn có thể chịu đựng thêm được nhưng khát nước thì khổ vô cùng. Khi gặp con suối mát, được lấy nước uống cho đỡ khát, được rửa mặt mũi chân tay mát mẻ. Chỉ huy bao giờ cũng nhắc nhở anh em: “Đường hành quân còn xa, các đồng chí phải để dành nước cho chặng sau”. Lúc ấy, tôi lại khao khát nhớ tới chum nước mưa trong veo, mát rượi dưới gốc cau nhà mình. Mùa hè về, người đang hừng hực nóng, múc một gáo thật đầy rồi ngửa cổ tu ừng ực, sướng lịm người. Chiến tranh, chao ôi chiến tranh, chỉ một nhu cầu nhỏ bé như thế mà có lúc con người ta không sao thực hiện được. Nhưng cũng có khi thì lại được thỏa thuê uống những ngụm nước đầu nguồn. Nước suối trong vắt mát đến tê lưỡi, uống vào đâu thấm đến đấy. Lúc đó, lính chúng tôi sung sướng vô cùng. Những chặng đường hành quân thường là những điểm có suối, anh em chúng tôi mới nghỉ ngơi và dừng lại uống nước, anh nào đã hết thì bổ sung vào bi đông. Chúng tôi uống vô tư mà chẳng ngần ngại chất độc da cam gì cả.
 Hành quân vất vả mệt nhọc như thế nhưng khi gặp các đoàn thương binh, các đoàn dân- chính- đảng trong Nam ra Bắc thì ai nấy lại vui vẻ rộn ràng. Nếu như trong đoàn ấy có vài ba cô gái nữa thì lính ta quên hết mệt nhọc, mọi người lại có chuyện để vui, để tếu, để giốc bầu tâm sự. Nghe mấy cô gái nói dễ thương vô cùng, nhờ việc gì chúng tôi cũng sẵn sàng giúp, thậm chí còn xung phong, có cô gái bị cánh lính chúng tôi trêu, dù có sẵn chất lính tự tin nhưng chỉ được một hồi là ai nấy đều xấu hổ, đỏ ửng mặt liền. Cả cánh rừng như có thứ ánh sáng diệu kì dội tới, bừng sáng lên. Thứ ánh sáng tỏa ra từ tình đồng đội, bạn bè, anh em. Gặp nhau là tay bắt mặt mừng như đã quen nhau từ lâu lắm. Gặp nhau là hỏi han, chuyện nọ xọ chuyện kia, chuyện miền Bắc, chuyện chiến trường, chuyện nhà, chuyện đơn vị cứ rối rít, râm ran. Trong chiến tranh, người ta quý nhau, thương nhau nhiều. Sống và được gặp nhau, một chút hàn huyên dãi bày với nhau cũng là quý giá. Một câu động viên, một câu đùa tếu, một chuyện tiếu lâm đôi khi cũng trở thành món ăn tinh thần của người chiến sỹ. Khi gặp những thương binh ra bắc hoặc đơn vị khác là cánh lính chúng tôi lại hỏi thăm có ai là đồng hương không. Họ hỏi bằng nhiều cách khác nhau như: “Có ai dân rau má phá đường tàu trong đó không?. Có ai quê xứ Nghệ không? Có anh  chàng lại tự giới thiệu: “Đây là dân cá gỗ đây”.
 Khi nhận được người đồng hương thì mọi chuyện trở nên vui và hóm hỉnh hơn. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu nói đùa của một anh thương binh đứng cạnh tôi: “Các đồng chí hành quân nhanh lên kẻo giặc chạy hết không được đánh nhau nữa đâu. Chậm là phải đi nhặt ống bơ rỉ đó”.  Câu nói của đồng chí thương binh cũng chỉ là một cách động viên đồng đội mà thôi, và thực sự nó đã truyền vào tôi sự lạc quan tin tưởng.
  Hành quân chừng mười ngày thì trung đội tôi có đồng chí bị sốt cao. Ai đã từng ở rừng, từng bị sốt rét thì chắc biết rằng chắng có gì ớn bằng căn bệnh quái đản này. Trước khi sốt một vài hôm, người vẫn bình thường, ăn bao nhiêu cơm cũng không vừa. Bụng đã no nhưng mắt và miệng vẫn thèm. Rồi, chợt rùng mình lạnh buốt ở sống lưng và sau đó là rét run lập cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ ấm. Hết rét rồi lại đến sốt, cặp nhiệt kế, ba mươi chín, bốn mươi, bốn mươi mốt độ.  Mặt đỏ phừng phừng như kẻ lên đồng. Đầu đau như búa bổ, mình mẩy bị rời ra, mỏi mệt vô cùng. Đến lúc này thì miệng lưỡi đắng ngắt, ăn vào miếng gì ọe ra miếng đó. Nguy hiểm nhất là sốt rét ác tính, nếu không điều trị kịp thời và đúng phác đồ là bị cắt quân số như chơi. Lính ta ở rừng ngán sốt rét ác tính hơn ngán bom đạn giặc. Có sức khỏe cũng chẳng chống đỡ được lại căn bệnh quái ác này.
 Sống trong rừng, sống chung với muỗi làm sao có thể tránh được, điều kiện vất chất thì còn thiếu thốn, thuốc đâu phải sẵn có mà uống và điều trị, nhất là trong những lần hành quân. Lính chúng tôi sợ cái sốt rét nơi chiến trường, có những chiến sĩ ngã xuống vì bệnh sốt rét, lời cuối cùng mà những đồng chí dặn dò anh em trước lúc ra đi và cũng là điều ăn năn nhất, đó là chưa được tham gia chiến đấu hết mình với trận đấu còn đang chờ đợi ở phía trước. Và ai cũng dặn dò, gửi gắm niềm tin yêu vào  đồng đội của mình. Thú thật, mỗi lần nhìn đồng đội của mình trong cơn tử vong sắp đến, bạn bè ai cũng thương mà chẳng biết làm gì. Cuộc chiến là như thế. Không còn cách nào và sự lựa chọn nào khác. Có ai muốn mình chết vì bệnh tật đâu. Cái chết của con người nơi chiến trường nhẹ nhàng lắm và cũng đau thương lắm, bi tráng và cũng bi hùng lắm. Dù không chết nơi chiến trường có khói đạn của kẻ thù nhưng cái chết vì bệnh tật cũng là một sự hy sinh cao cả. Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng viết:
Đánh trận tử vong í
Sốt rét tử vong nhiều
 Những câu thơ nói về những trận sốt rét hoành hành buộc người lính phải nằm lại nơi chiến trường:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời.
   Mỗi chặng đường hành quân, trung đội tôi phải cử ra bốn người để cáng đồng chí sốt nặng không thể tự đi được. Việc khênh người ốm lúc hành quân là việc làm cực nhọc nhất. Hành quân leo dốc, xuống vực mà mang vác ba lô, vũ khí đã khó khăn, vất vả rồi. Bây giò lại vừa đi vừa khênh đồng chí mình thì thật là vất vả, khó khăn. Khi khênh người bệnh mà phải leo dốc, người phía trước phải rướn kéo thật mạnh và người đi sau phải được một đồng chí khác đẩy lên thì mới vượt được dốc. Phải bám dây dừng mà leo lên. Lúc xuống dốc lại càng vất vả hơn, nếu không khéo  giữ thì chỉ cần một người khụyu xuống là tất cả bệnh nhân lẫn người lành bị ngã lăn luôn. Khi qua bãi trống, dù thở không ra hơi cũng phải cố sức mà chạy. Cáng bệnh binh mà phải chạy qua bãi trống cũng là một cái vất vả nhớ đời. Vừa chạy thật nhanh, vừa giữ võng khỏi lắc. Đó là động tác đòi hỏi người khênh phải thật khỏe và có kinh nghiệm. Người nào được cử khênh bệnh nhân cũng phải chọn mặt gửi vàng. Tốp khiêng cáng bệnh nhân bao giờ cũng về sau đơn vị vài ba tiếng đồng hồ. Đặt được bệnh nhân bị thương xuống, chúng tôi mệt lử lả cả người, chân tay chẳng buồn cử động, mồ hôi  nhễ nhại, đầm đìa.
  Đường Trường Sơn vào mùa khô tiếng ve kêu inh ỏi trong các tầng cây. Tiếng ve gợi nhắc tuổi học trò và mùa thi nhiều kỉ niệm đẹp đẽ. Nghe tiếng ve kêu như sôi dọc đường hành quân,  tôi lại nhớ nhiều đến Thoa. Khuôn mặt tròn, mái tóc dài đen nhánh thơm hương bồ kết, giọng nói nhỏ nhẹ cứ thấp thoáng trước mặt tôi. Tôi nhớ đến những ngày tôi và em chung nhau lớp học. Mỗi mùa thi càng bận rộn hơn để lo bài vở, chúng tôi luôn phấn đấu học thật tốt nên chăm chú và chỉnh chu lo cho việc học. Thoa cũng rất chịu khó, môn nào không hiểu là em hỏi và nhờ tôi giảng giải, tôi thì chịu thua em môn Văn, cố gắng học tập em nhưng không sao đạt được số điểm cao như em. Chao ôi, kỉ niệm sao mà thân thương đến vậy. Tôi làm sao quên được ánh mắt em nhìn khi tôi đứng trước lớp với trái tim rung động bồi hồi. Hai đứa đều chăm chỉ học hành, chẳng ai nghĩ đến chuyện tình cảm nhưng trong lòng thì đã là của nhau. Ngày nào không gặp được em, không nhìn thấy em và không được nói chuyện với em là tôi nhớ lắm. Tôi giấu nỗi niềm thầm kín đó ở trong lòng, không dám thổ lộ với em. Hai chúng tôi như hình với bóng, chuyện tình cảm gần mà ngỡ như xa, có lúc tưởng chừng cả hai sắp sửa nói ra nhưng không… và chính vì điều mà tôi không thổ lộ với Thoa ấy lại làm cho tình cảm chúng tôi mặn nồng hơn. Vào chiến trường, tôi càng nhớ, thấy lo lắng và nghĩ về em nhiều hơn và em chắc cũng vậy. Những lời thương yêu chúng tôi dành cho nhau là khi không còn đối diện với nhau và không còn ở bên nhau nữa. Chúng tôi cùng hẹn ước với nhau và đặt niềm tin, hi vọng vào tình yêu rất nhiều. Dù chỉ qua những bức thư nhưng tình yêu là vĩnh cửu. Những lúc tôi có thư em là tôi vui sướng và hạnh phúc ngập tràn tâm hồn mình. Cảm giác khó tả lắm, thư làm cho tôi vui lâng lâng cả ngày. Chỉ có duy nhất bức thư em viết báo tin Cha tôi mất là buồn suốt những ngày hành quân nhưng không thể trách em được.
Mùa khô là mùa chuyển quân nhộn nhịp. Núi rừng Trường Sơn rùng rùng chuyển động. Những đoàn quân trẻ măng mang quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược hăm hở tiến về tiền phương. Có thể nói, những năm tháng chúng tôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” tuy gian nan, vất vả và hy sinh mất mát nhiều nhưng đó là quãng thời gian đáng nhớ nhất, hào hùng nhất của cuộc đời. Tôi nhận ra được khí phách hiên ngang, phẩm chất anh hùng của dân tộc ta qua những bước quân hành của đoàn quân ra mặt trận. Nó vừa gian khổ, hy sinh vủa có quyết tâm và sức mạnh phi thường.
  Những ngày hành quân bị mưa, khi đến trạm giao liên, việc làm đầu tiên của lính là tìm ngay hai thân cây có cọc phụ để mắc võng. Hai cọc phụ được cột bằng dây rừng vào hai thân cây, sau đo võng được mắc vào hai đầu cọc phụ. Khi mưa, nước mưa theo cọc phụ xuống đất, còn võng vẫn không bị ướt. Cách mắc võng của người linh thật sáng tạo.  Đêm đêm, điệp khúc của những đoàn quân ra trận vang lên. Đêm dưới tán rừng rậm, trên những bãi khách của các binh trạm, đầy tăng võng, chúng tôi hát vang những bài ca Cách mạng hào hùng. Những bài hát làm cho cánh lính chúng tôi yêu đời và sôi nổi hơn. Hát cho nhau nghe. Những khúc ca về cuộc đời lính đầy khí thế như chính tinh thần và ý chí cách mạng của người lính. Khó khăn vậy nhưng luôn tìm thấy sự lạc quan và hào hoa ở những người lính trong từng câu hát. Tôi, lúc đó là cây văn nghệ được giao phụ trách mảng hoạt động này của chi đoàn. Tôi còn nhớ những đêm sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của đơn vị sôi nổi và có phần hăng hái, hoành tráng lắm. Lính tráng diễn xuất mộc mạc, hát hết mình. Mặc dù không có hoa tươi, không trang trí phông màn nhưng vẫn được tổ chức một cách tự giác, và tất cả cùng hưởng ứng. Đây là món ăn tinh thần không thể thiếu được trong những năm tháng vất vả. Vai kề vai, chúng tôi vỗ tay hát những ca khúc chiến đấu. Bài hát “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” của Huy Du cứ vang động cả khu rừng:
“Trên đỉnh Trường Sơn ta hát bài ca.
Gửi tới quê nhà bao la, biển xanh sóng vỗ hiền hòa.
Đường Trường Sơn bát ngát có bao nhiêu ghềnh thác.
Hòa theo trong tiếng hát đem mùa xuân tưới cho cuộc đời.”.
Lý thú nhất là đêm Trường Sơn mà hat bài: Đêm Trường Sơn nhớ Bác, của Trần Chung và Nguyễn Hữu Thu. Bài hát hay không chỉ ở ca từ mà giai điệu của nhạc phẩm vừa hùng dũng, vừa tình cảm giữa người lính và Bác Hồ:
“Đêm Trường Sơn.
Chúng cháu nhìn trăng nhìn cây.
Cảnh về khuya như vẽ.
Bâng khuâng chúng cháu nghĩ.
Bác như đã đến nơi này..”.
  Những bài hát cứ truyền miệng nhau mà thật dễ nhớ, hát rồi thành thuộc. Có những đêm văn nghệ như thế này chúng tôi mới biết được nhiều giọng ca hay của đơn vị. Có đồng chí còn ngâm thơ của Tố Hữu, của Giang Nam, Lê Anh Xuân… với giọng ngâm ấm áp truyền cảm, chất chứa nỗi niềm. Những người lính chăm chú, mắt hướng về người biểu diễn như gửi gắm cả hồn mình vào đó.
 Trên đường ra trận, vui nhất là được gặp các đơn vị thanh niên xung phong. Bộ đội trẻ, thanh niên xung phong cũng trẻ. Tuổi trẻ gặp nhau. Trai gái gặp nhau. Cứ ồn ào náo nhiệt  như hội. Gặp các cô gái làm đường, một anh lính trẻ xướng lên: “Các em thanh niên xung phong ơi, cho anh bộ đội mượn tạm cái xẻng vào chiến trường đào hầm, khi nào thống nhất các anh mang về trả”. Trong tốp nữ làm đường, áo màu cỏ úa dấp dính mồ hôi, một giọng nữ thanh thanh cất lên: “Anh bộ đội ơi, bọn em có rất nhiều xẻng mà xẻng nào cũng sắc cả nhưng tiếc rằng lại không có cán”, - “Không có cán thì bọn anh cho mượn cán lắp vô, khó chi việc ấy” - một anh lính khác lại tếu táo chêm vào. Thế là tiếng cười rộ lên vui vẻ…
 Những lần gặp gỡ các cô gái thanh niên xung phong chúng tôi thấy yêu đời làm sao. Các cô gái chân yếu tay mềm mà dám dấn thân vào Trường Sơn dày đặc đạn bom, chất độc màu da cam, chịu đựng những trận sốt rét nghiêng rừng, tóc rụng dần từng vạt, da dẻ xanh xao mà sống vẫn rất lạc quan. Bất chấp hiểm nguy xảy ra hàng ngày, những cô gái vẫn đi lấp hố bom, mở đường cho xe tới chiến trường. Chúng tôi phục phái nữ lắm. Chúng tôi lăn lộn nơi chiến trường đã đành, đối với các cô lại càng vất vả và nguy hiểm không kém gì chúng tôi. Vậy mà các cô lúc nào cũng tươi cười và dũng cảm. Không hiếm những cô gái là dũng sỹ phá bom nổ chậm, phá bom từ trường của địch. Nghe kể rằng có đêm các cô phải đứng làm cọc tiêu cho xe đi qua ngầm. Mặc cho bom rơi đạn nổ, các cọc tiêu vẫn hiên ngang bám trụ mặt đường.
  Có hôm hành quân chúng tôi gặp một đoàn bộ đội nữ, trông ai cũng có dáng trí thức. Hỏi ra mới biết đó là đoàn bộ đội quân y tăng cường cho mặt trận. Các chiến sĩ nữ mang ba lô và túi thuốc khá nặng. Đây là dịp để cho các chàng trai trẻ lém lỉnh, mau miệng đùa trêu: “Các em bộ đội nữ ơi, mang gì mà mang hai chiếc ba lô nặng thế. Có cần bọn anh mang hộ một chiếc nào”. Cánh lính nữ quân y cũng thật đáo để, đáp lại ngay: “Vâng, chúng em có hai cái ba lô. Ba lô sau lưng là ba lô đất nước, ba lô trước ngực là ba lô của các anh, các anh có mang hộ thì mang ba lô trước ngực nhé!”. Sau những câu đùa khá dí dỏm ấy là những chuỗi cười giòn tan.
  Nhưng có lẽ người để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất là các đồng chí giao liên Trường Sơn. Hình ảnh những cô gái mảnh mai, nước da xanh tái, đầu đội mũ tai bèo, tóc tết gọn gàng, súng tiểu liên AK khoác chéo sau lưng, quần sắn đến đầu gối mà nhanh như con sóc. Bao giờ cô giao liên cũng đi trước đoàn quân dẫn đường. Chẳng hiểu sao chiến sĩ giao liên rất ít nói. Song lòng dũng cảm và cách xử lý tình huống của họ thì thật đáng khâm phục. Tôi nhớ có lần, bộ đội vượt sông Bạc, một con sông nổi tiếng ở Trường Sơn. Đơn vị phổ biến: mấy hôm nay, máy bay Mỹ thả nhiều “cây nhiệt đới” ở vùng này. “Cây nhiệt đới” là cái máy thu phát âm thanh tự động có hình dáng giống như một cây củi rừng nhằm phát hiện đường hành quân của bộ đội ta. Tiếng xe chạy, tiếng cười nói, thậm chí cả tiếng ho cũng bị thu vào máy để phát về trung tâm xử lý thông tin của địch. Phát hiện ra tiếng người, tiếng xe là máy bay Mỹ bay đến mặc sức ném bom, bắn rốc két  vào vùng khả nghi đó. Thực tình thì chúng tôi khá lo lắng khi nhận được thông tin này. Đúng ba giờ sáng, lệnh hành quân được phát ra. Trung đoàn lặng lẽ rời binh trạm trong ánh trăng cuối tháng mờ mờ. Sương núi tỏa ra hơi se se lạnh, tiếng chim từ quy gọi bạn tình nghe bớt khắc khoải hơn bởi khoảng cách giữa chúng đang lại gần. Đi xuyên rừng khuya độ 1 giờ đồng hồ, chúng tôi ra tới bờ sông. Các cô gái giao liên nói với chúng tôi: “Địch ném bom theo qui luật thôi, đây là lúc cây nhiệt đới bị vô hiệu hóa, các anh bình tĩnh và nhanh chóng vượt qua sông”. Đúng như nhận định của giao liên, đoàn chúng tôi nhanh chóng vượt sông an toàn.
   Có thể nói rằng giao liên là linh hồn, là điểm tựa tinh thần của các cuộc hành quân. Trong những vóc dáng mảnh dẻ, có vẻ yếu ớt kia là những cốt cách vững chãi, bình tĩnh, là phương pháp xử lý linh hoạt các tình huống dọc đường. Đời cô giao liên như người lái đò. Hết đoàn quân này lại tiếp đoàn quân khác, cứ nối tiếp nhau vô tận, được các cô dẫn đường đi về các mặt trận. Con đường giao liên dài bao nhiêu thì bước chân các cô gái giao liên lại nối dài bấy nhiêu. Đi hành quân trên đường Trường Sơn mà nghe bài hát: Đường tôi đi dài theo đất nước - Xuân Chung, sáng tác thơ; Vũ Trọng Hối phổ nhạc
“Đường giao liên bước tôi đi dài theo theo đất nước.
Đường tôi đi, núi chênh vênh có mây bay dưới chân giăng thành.
Đời tôi như những con thoi dệt tình  quê hương đất nước.
Đời tôi như cánh chim bay, cánh chim bay suốt dãy Trường Sơn”.  
Chương IV:
Chiến trường Tây Nguyên
Sau hơn một tháng hành quân vượt qua hàng trăm ngọn đèo, con suối, cung đường, trọng điểm ác liệt, chúng tôi đã đặt chân đến bắc Kon Tum vào ngày 22 tháng 1 năm 1969. Đây là vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào – Camphuchia. Tây Nguyên là đây, mặt trận B3 ác liệt nổi tiếng từ lâu. Trên mái nhà của Đông Dương này đang hiện diện những sư đoàn chủ lực khét tiếng của địch cũng như những đơn vị thiện chiến của ta trong thế trận cài răng lược bấy lâu nay. Sau lưng tôi, hậu phương xa lắc xa lơ, nhìn qua bầu trời cao nguyên vời vợi và những cánh rừng mịt mùng thăm thẳm, tôi linh cảm về những năm tháng cực kì gian truân, và ác liệt sắp tới.
Đây là vùng đất cao nguyên nổi tiếng mà ngay từ thời cắp sách tới trường chúng tôi đã được học, được biết phần nào. Ngoài những bài học về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, dân cư, vùng đất này còn được chúng tôi biết đến qua câu chuyện kể về vua Lửa, vua Nước, và những bài giảng về chàng Đam San- một tù trưởng anh hùng trong bộ sử thi nổi tiếng của dân tộc Ê Đê (Tây Nguyên) với những chiến công lẫy lừng, những điệu múa cồng chiêng, Kà Tu sôi nổi. Câu chuyện về Anh hùng Núp và đội du kích Xi-tơ trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc đã trở thành những biểu tượng của người con Tây nguyên bất khuất, Trường ca chim Chơ rao của nhà thơ Thu Bồn. Bài Bóng cây Kơ-nia do Ngọc Anh sưu tầm, nhạc Phan Huỳnh Điểu mang một biểu trưng của núi rừng Tây Nguyên yêu dấu với những hình ảnh về mẹ, về em trong nỗi nhớ anh: “Buổi sáng em làm rẫy thấy bóng cây Kơ-nia, bóng ngả che ngực em về nhớ anh không ngủ. Buổi chiều mẹ lên rẫy, thấy bóng cây Kơ-nia, bóng tròn che lưng mẹ, về nhớ anh mẹ khóc…”. Hay lời bài hát da diết, nhịp nhàng Tháng ba Tây Nguyên- nhạc sĩ Văn Thắng với những lời ca đi vào lòng người sâu sắc: “tháng ba mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông lấy nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, anh vào rừng đặt bẫy cài chông…Tháng ba, rừng Tây nguyên hoa thắm đỏ, làm muôn vạn tiếng chim múa hát, bầy chim muông cất cánh dạo chơi, sông từng đàn con cá lội bơi. Tháng ba, tay em dệt khăn hồng, thêu cánh chim trời cho người em mến…”
  Tôi biết Tây Nguyên được mệnh danh là mái nhà Đông Dương, vì thế nó có vị trí chiến lược rất quan trọng không chỉ với Việt Nam mà cả hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Người Mỹ rất hiểu điều ấy nên  đã tìm cách chiếm giữ vùng đất cao nguyên trung phần Đông Dương này. Trong suốt cuộc kháng chiến thì Tây Nguyên là mảnh đất diễn ra nhiều trận đấu ác liệt giữa ta và địch. Tây Nguyên đối với tôi bây giờ không còn là những bài học phổ thông trìu tượng nữa mà là mặt trận, điểm chốt, chiến hào khét mùi bom đạn. Đến Tây nguyên, tôi không còn thời gian để ngồi nghĩ và tận hưởng vẻ đẹp của miền đất lạ. Những bài học tôi lĩnh hội được ở đây là bài học từ ranh giới giữa sự sống- cái chết trong những năm tháng khốc liệt, đói khát và bệnh tật. Những gì là gian khó nhất thì mảnh đất này hứng chịu tất cả. Đó cũng là bài học sinh động cụ thể về lòng yêu nước, sự hi sinh cao cả của bộ đội và nhân dân Tây Nguyên.
Sau một thời gian ngắn làm lán, trại là chúng tôi ổn định nơi ăn chốn ở. Sau đó chúng tôi bước vào giai đoạn học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Về quân sự, chúng tôi học chiến thuật vận động tiến công kết hợp với chiến thuật chốt giữ trận địa, kỹ thuật bắn máy bay đổ bộ…Ngoài những giờ học chính thức, từng tiểu đội tự ôn luyện. Chúng tôi được cán bộ cấp trên hướng dẫn nhiều về kỹ thuật và công tác chuẩn bị chiến đấu phù hợp với các trận đánh khác nhau.
Về chính trị, chúng tôi được giới thiệu về chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên, công tác dân vận, tình hình và nhiệm vụ mới…Tôi còn nhớ câu chuyện mà khi học chính trị, phái viên mặt trận B3 đưa ra đề nghị giải quyết. Câu chuyện này, nói đúng ra là một tình huống do đồng chí đó đưa ra để chúng tôi thảo luận. Chuyện kể như sau: “Một đồng chí bộ đội của ta đang chiến đấu thì bị mất liên lạc với đơn vị. Đã năm ngày luồn rừng đi tìm đơn vị nhưng chẳng gặp. Đồng chí ta phải ăn lá rừng, uống nước suối để sống. Ở nơi rừng xanh, chỉ có mặt trời mọc là khiến cho đồng chí còn xác định được phương hướng và tìm những vết tích từ những cuộc hành quân để xác định đường đi. Ban ngày luồn rừng tìm đơn vị, ban đêm phải ngủ trên cây đề phòng thú giữ. Không có một thứ gì bên người để ăn. Giữa lúc bụng đói cồn cào, tay chân rời rã, người cứ luội đi thì gặp một cái rẫy của đồng bào. Mắt anh sáng lên khi thấy dưa hấu nằm lăn lóc trên đất, mấy khóm mía lá khua loạt xoạt trong gió và cả một vạt sắn xanh tốt quá đầu người. Anh biết rằng nơi đây đã có bàn tay của con người và chắc chắn không xa nữa, anh sẽ tìm thấy  đồng đội và tìm được đơn vị của mình. Anh nghĩ trời thương mình rồi và bò tới bên một quả dưa hấu rất to. Nhìn quả dưa căng mọng nước, nước miếng anh tứa ra. Quả dưa hấu chỉ cần vặt đứt cuống, không có dao để bổ thì chỉ cần đập vào cạnh của hòn đá hoặc thân cây, tức khắc quả dưa sẽ bị vỡ ra, lõi dưa đỏ au và tha hồ ăn cho đã. Tay anh đã đụng vào quả dưa hấu, nhưng bỗng nhớ lại mười hai điều kỉ luật quân đội, có câu đầu tiên là: “không được đụng đến cái kim sợi chỉ của nhân dân”. Hai tình huống đặt ra: Một là, ăn dưa thì sẽ sống nhưng bị vi phạm kỉ luật. Hai là, chấp hành nghiêm kỉ luật quân đội, không ăn dưa thì chắc chắn sẽ chết đói. Kể đến đó, phái viên mặt trận đặt câu hỏi: “Theo các đồng chí, trong trường hợp này phải xử lý ra sao?”.
 Cả đơn vị thảo luận sôi nổi. Có người cho nêu lên nguyên tắc kỷ luật quân đội và khẳng định, nếu ăn dưa là vi phạm kỷ luật quân đội. Quan điểm của số người này cho rằng, thà chết chứ không thể lấy trộm dưa để ăn. Có đồng chí còn dẫn ra câu thành ngữ “đói cho sạch, rách cho thơm”, dù chết đói còn hơn làm hoen ố danh dự anh bộ đội Cụ Hồ. Dù mình chết đói nhưng việc làm đó không những thực hiện nghiêm kỷ luật quân đội mà còn tạo uy tín trong nhân dân. Hơn nữa đây là địa bàn Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc ở đây suốt đời theo Cách mạng nên bộ đội không được xâm phạm của cải của nhân dân. Có như vậy nhân dân mới ủng hộ bộ đội…
 Đồng chí khác thì hăng hái lập luận: đôi khi việc học phải được vận dụng đúng  thực tế thì mọi cái mới giải quyết được, ta không nên máy móc. Con người là vốn quý. Một quả dưa không thể đem so sánh với tính mạng của một con người mà, đây lại là sinh mạng một chiến sĩ quân đội, rất cần thiết cho mặt trận lúc bấy giờ. Y kiến này cho rằng: người chiến sĩ nhờ có dưa mà sống được, sau đó trở về với đơn vị và lập được thành tích trong cuộc chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, cứu được nhiều đồng đội và bảo vệ được nhân dân. Thế thì ăn dưa là có lợi chứ!
Khi thảo luận, hai quan điểm này đấu tranh quyết liệt và khó phân thắng bại. “Phe ăn” và “phe không ăn” cứ đưa ra nhiều triết lý và tranh cãi quyết liệt. Lập luận của mỗi “phe” xem chừng cũng có lý. Cuối cùng thì chẳng ai chịu ai. Phái viên mặt trận cũng không hề kết luận ai sai, ai đúng mà chỉ nói: “Các đồng chí tiếp tục suy nghĩ và tự rút ra cho mình bài học cần thiết”.
Qua câu chuyện này chúng tôi rút ra nhận xét: vừa vào chiến trường đã thảo luận vấn đề này thì chắc chắn sắp tới chiến trường Tây Nguyên không chỉ rất ác liệt mà cũng rất khó khăn, thiếu thốn. Và quả thực đúng thế, qua 6 năm lăn lộn, sống chết với chiến trường Tây Nguyên, tôi và đồng đội càng thấm thía sự gian nan, khốc liệt của mặt trận B3 này.
Chúng tôi tổ chức ăn cái tết Nguyên đán đầu tiên ở Tây Nguyên. Trong bữa cơm đầu năm có đoàn văn công mặt trận B3 đến biểu diễn. Các ca sĩ như Thanh Lịch hát nhiêu bài rất hay về Tây Nguyên: Cô gái Ba Cô, tiếng chày trên Sóc Bom Bo, Tháng ba Tây Nguyên, Bóng cây Cơ Nia…Trong đó tiết mục “Tiếng chầy trên Sóc Bom Bo” của Xuân Hồng gây xúc động người lính chúng tôi:
Lửa bập bùng.
 Tiếng chày khuya cắc cum cụp cum.
Cum cup cum, cum cụp cum, cắc cum cụp cum.
Đuốc lồ ô bập bùng lên ánh lửa.
Sóc Bom Bo rộn rã tiếng chày khuya.
Bồng con ra võng để đòng đưa. 
Gíã gạo ban đêm vì ngày bận làm mùa…
Bài hát có giai điệu mượt mà và ca từ cũng thắm thiết tình quân dân. Càng nghe bài hát càng thấy người dân ở đâu cũng chăm lo cho bộ đội ăn no để đánh thắng. Nghe bài hát này trên đất Tây Nguyên càng có ý nghĩa về tình đoàn kết quân dân. Đặc biệt, bài thơ chúc tết Xuân Kỷ Dậu- 1969 của Bác Hồ được phổ nhạc do các nghệ sĩ trình bày thật tuyệt vời:
Năm qua thắng lợi vẻ vang.
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do.
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.
Tiến lên chiến sĩ đồng bào.
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn.
Sau khi ăn tết, thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, đơn vị tôi, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 28 lên đường đi chiến dịch mùa xuân năm 1969. Trong lòng những người lính trận chúng tôi còn ngân vang lời bài thơ chúc Tết của Bác Hồ đọc đêm giao thừa: “ Năm qua thắng lợi vẻ vang…”
  Niềm tin chiến thắng của lãnh tụ truyền vào chúng tôi, và ai cũng nao nức nghĩ tới một mùa Xuân thống nhất Bắc Nam đang tới gần. Những nụ cười rạng rỡ trên nét mặt của người dân chào đón chúng tôi. Dân tộc không còn  phải chịu cảnh bom đạn nữa, đất nước được hòa bình. Cảm giác đó thật hân hoan và hạnh phúc, không còn gì cao cả và vĩ đại hơn. Chúng tôi háo hức ra trận để lập công lớn ngay từ  trận đấu.
   Ngày ấy, chiến trường Công Tum hình thành ba khu vực: khu vực cánh Bắc, khu vực cánh Trung và khu vực cánh Nam. Mỗi nơi đều có những thuận lợi về địa hình và cũng có những khó khăn riêng. Chỉ huy quân đội Mỹ sử dụng 5 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 4 Mỹ. Vòng ngoài thuộc 3 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 1 đóng ở 3 khu vực. Khu vực thứ nhất gồm có: Ngọc Tô Ba, điểm cao 467, Plây Gia Siêng. Khu vực thứ hai gồm có: Chư Dơ Bang, Chư Mơ Nú, Chư Mo Rinh. Khu vực thứ ba: Chư Kê Pắc, Chư Kô Pắc. Vòng trong gồm hai tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2 cùng với các đơn vị pháo binh yểm trợ chiếm giữ Chư Đô, Kleng, Chư Tăng Kra, Chư Tăng An. Tiểu đoàn 1, trung đoàn 28 chúng tôi được giao nhiệm vụ vây chặt tiểu đoàn 1, trung đoàn 12, lữ đoàn 1, thuộc sư đoàn 4 của Mỹ ở địa bàn Chư Đô, Kon Tum. Quân Mỹ đặt ở đây những cứ điểm lớn với những sư đoàn, quân đoàn. Chúng có các căn cứ không quân khá mạnh với xe tăng, thiết giáp, máy bay yểm trợ. Hệ thống phòng thủ khá kiên cố, chúng rải ra từng đại đội, trung đội xen kẽ nhau đóng chốt trên những điểm cao nhưng bộ đội ta không ngại khó khăn, vẫn tự tin vào trận đánh với khẩu hiệu rắn rỏi:
     Đánh cho sư 4 đảo điên
     Đánh cho quân Ngụy ở Tây Nguyên tơi bời
  Đơn vị tôi khẩn trương dàn thế trận bao vây tiêu diệt địch theo kế hoạch tác chiến. Khẩu đại liên của đại đội 4, tiểu đoàn 1, do tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng chỉ huy bố trí tại đồi Cháy. Nhiệm vụ của khẩu đại liên là bắn máy bay trực thăng đổ bộ và chi viện cho đại đội hai bộ binh.
 Đại đội 2 bộ binh được giao nhiệm vụ đánh đại đội C của Mỹ ở Chư Đô. Cũng xin được nói thêm, Chư Đô là ngọn núi cao 1145met, cách Kleng 13 cây số. Qua trinh sát chúng ta biết được đại đội C của địch có 100 tên lính Mỹ ẩn náu trong hệ thống công sự kiên cố, vững chắc gồm ba lô cốt bê tông và 45 chiếc hầm xây có nắp thông với nhau bằng các đường giao thông hào chằng chịt. Lính Mỹ ở Chư Đô còn được trận địa pháo lớn đóng ở Chư tăng-Kra bắn chi viện khi cần thiết và máy bay trực thăng, máy bay C47 quần đảo liên tục trên bầu trời bất kể ngày đêm nhằm bảo vệ vòng ngoài của căn cứ. Đạn pháo lớn của địch nổ ùng oàng bên ngoài căn cứ và đêm đêm sáng đèn dù do máy bay Mỹ thả, soi rõ từng mô đất, khóm cây.
   Đêm mùng 4 tháng 3 năm 1969, khẩu đại liên của đại đội chúng tôi được lệnh chiếm lĩnh trận địa chiến đấu và chuẩn bị công sự chốt giữ trên đồi Cháy. Khoảng cách giữa trận địa chúng tôi và đồi Chư Đô nơi địch đóng quân là ba trăm mét- một khoảng cách rất gần và đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng. Sự nguy hiểm rất cao nên mọi cái đều phải tính toán và thực sự phải cẩn trọng.
   Tôi còn nhớ rõ mồn một quang cảnh đồi Cháy lúc bấy giờ, đúng như cái tên của nó, cả quả đồi bị cháy trơ trụi không còn sót lại một bụi cây, khóm cỏ nào. Mặt đồi phủ đầy tro than đen kịt, gặp gió, bụi tro bay lên mù mịt. Những cây to thì cháy nham nhở, cây nhỏ thì cháy xém hết cả, có chỗ còn âm ỉ, mặt đất bỏng rát, bàn chân đặt xuống không chịu nổi…Có lẽ trong chiến đấu, những quả đồi không tên trên bản đồ thì bộ đội đặt cho cái tên là “Đồi không tên”. Còn đồi không tên đó mà bị bom đốt cháy thì gọi là đối Cháy. Chiều hôm trước khi đơn vị chiếm lĩnh trận địa, máy bay giặc tăng cường ném bom na-pan, loại bom có sức hủy diệt ác liệt khiến cho tất cả trên mặt đất hóa thành tro tàn. Nhiều đống lửa bập bùng cháy trên đồi. Mùi bom, đạn nồng nặc khắp nơi lẫn vào mùi cỏ, mùi động vật bị thui oi nồng, ngột ngạt. Khói lửa vẩn cháy lên thành từng chùm, ngập ngụa cả bầu trời, màu đỏ quẩn vào màu khói đen bốc cao, cuốn theo tro bụi bay tứ tung, nhất là vào buổi trưa nắng nóng. Kẻ địch đánh bom na-pan lên đồi cốt để triệt tiêu mọi sự sống, triệt tiêu mọi vật cản mà bộ đội ta có thể dùng nó làm ngụy trang.
  Dưới ánh đèn dù hắt sáng từ căn cứ của địch, chúng tôi khẩn trương đào công sự, lặng im làm việc, chỉ nghe rõ hơi thở của nhau. Người nào cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt mũi lấm lem như bết bùn. Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng nhắc nhở mọi người khẩn trương tranh thủ trời chưa sáng để làm công sự. Sau đó tập trung ngụy trang hầm hào cho kín đáo. Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu vừa qua, ngụy trang công sự là biện pháp che mắt quân địch để bảo toàn lực lượng. Tuy nhiên, ngụy trang trên đồi Cháy này là một vấn đề rất khó đối với chúng tôi, bởi quả đồi đã bị cháy trơ trụi, không còn lá cây. Nhưng trong cái khó ló cái khôn, chúng tôi lấy tro than phủ trên lớp đất đỏ mới đào và nhặt cành cây cháy che lên trận địa. Với cách ngụy trang như vậy thì máy bay phản lực của địch sẽ rất khó phát hiện, thậm chí bộ binh chúng bước lên trên cũng không thể biết được. Chúng tôi tin như thế.
  Đào xong công sự, anh em vừa nhai lương khô, vừa uống nước và nghe anh Hoàng phổ biến nhiệm vụ:

Đêm nay, đại đội 2 sẽ nổ súng tấn công địch ở đồi Chư Đô. Ngày mai, chắc chắn địch sẽ bắn phá ác liệt vào trận địa của chúng ta, không loại trừ tình huống địch đổ bộ vào đây, tiểu đội ta phải chuẩn bị hai phương án đối phó: bắn máy bay và đánh bộ binh địch. Các đồng chí phải chuẩn bị tinh thần chiến đấu thật tốt. Bằng giá nào cũng phải kiên quyết làm tròn nhiệm vụ trên giao. Phải giữ vững trận địa. Bây giờ các đồng chí kiểm tra lại xem nguy trang đã ổn chưa. Nếu chưa đảm bảo thì chuẩn bị tiếp. Các đồng chí phải chuẩn bị mặt nạ phòng độc, bông băng cá nhân và nước uống cũng phải hết sức tiết kiệm… Tất cả đều chuẩn bị chu đáo và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng đi kiểm tra súng đạn, mặt nạ phòng hóa, túi cấp cứu cá nhân của từng người. Nơi chiến trường, sự cẩn thận, chu đáo của người chỉ huy chẳng bao giờ thừa cả. Sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh đã rèn luyện cho người lính, dù là cán hay binh. Nghĩ một lát, anh Hoàng giao tiếp cho tôi và anh Hoàng Ngọc Loan đào thêm hai chiếc hầm cách trận địa đại liên chừng ba mươi mét và cách địch khoảng hai trăm năm mươi mét. Nhiệm vụ của tôi và anh Loan là cảnh giới, sẵn sàng đánh bộ binh địch từ đồi Chư – Đô tràn sang. Tôi và anh Loan cũng lường trước được tính chất ác liệt của trận đấu nên làm hầm hào rất cẩn thận theo thế chi viện cho nhau. Tôi bảo anh Loan “Anh em mình cùng hỗ trợ đắc lực cho nhau nhé”. Hai anh em làm khẩn trương và mau lẹ, mồ hôi túa ra đầm đìa mà không dám uống nước, phải để dành ngày mai.
Đến nửa đêm chúng tôi hoàn tất mọi việc. Cũng may là đất ở đây là đất bazan nên cũng dễ đào công sự. Tựa lưng vào vách hầm mới đào, mùi đất bazan còn nồng nực, tôi nhìn lên bầu trời. Trời cao nguyên về đêm thanh trong và đầy sao, gió lộng thổi. Trong khoảnh khắc căng thẳng trộn lẫn với hồi hộp, tôi chợt nhớ đến quê nhà, nhớ Cha tôi lắm, giờ này nếu Cha còn sống, chắc là Cha sẽ trằn trọc lo cho tôi trận đánh đêm nay và nghe tin đài báo hằng ngày. Cha không còn nữa, tôi thì ở thật xa. Mới ngày nào mà đã tròn 5 tháng Cha tôi bị bom giặc Mỹ giết. Mộ Cha giờ đây chắc cỏ đã mọc xanh. Tới bao giờ tôi mới được trở về để thắp cho Cha nén hương tưởng niệm để tỏ lòng thành kính. “Đêm nay và ngày mai, con sẽ trực tiếp đối mặt với kẻ thù. Tôi lại nao nao nghĩ đến Thoa, giờ này em đang làm gì nhỉ? Lớp học đã tan chưa? Em còn học bài hay ngủ rồi? chắc em cũng lo cho tôi nhiều lắm. Tôi biết rằng em và tôi đang ở rất xa nhau nhưng trái tim và tình cảm vẫn luôn hướng về nhau. Nếu như em được nhìn thấy những gì khốc kiệt mà người lính như tôi phải trải qua, chắc em thương tôi mà khóc cạn nước mắt. Lời thư của em văng vẳng bên tai tôi:         “Anh ơi, em đã kể chuyện của chúng mình cho mẹ nghe rồi, mẹ cũng thương anh lắm. Mẹ bảo sao không đưa anh về quê chơi. Em có nói chúng con đang chuẩn bị thì anh đi bộ đội…”.
Rạng sáng ngày 5 tháng 3, đại đội hai chia làm ba mũi tấn công đại đội lính Mỹ ở đồi Chư Đô bằng thủ pháo, lựu đạn và súng B40. Những tiếng thủ pháo, lựu đạn nổ chát chúa. Các lô cốt và hầm chỉ huy của địch lần lượt bị quân ta chiếm lĩnh. Khi các hướng tấn công của ta vào trung tâm căn cứ đang phát triển tốt thì một tình huống bất ngờ xảy ra: Bộ binh địch chui hết xuống hầm, pháo lớn từ Chư tăng- Kra bắn cấp tập vào ngay trận địa. Những tiếng nổ rền rã của bom đạn không ngừng nghỉ. Máy bay địch quần lượn bắn phá không ngớt. Có chỗ lửa bốc cháy dữ dội. Do còn ít kinh nghiệm, lúng túng trong xử lý tình huống nên anh em C2 bị thương vong khá nhiều. Tuy nhiên, tổn thất của địch cũng không nhỏ. Sau mười lăm phút giao tranh, bảy mươi tên lính Mỹ đã bị tiêu diệt. Xác của chúng rải rác trên trận địa.  
   Trời sáng. Căn cứ địch ở Chư Đô không còn nguyên vẹn như hôm qua nữa. Nhiều hố pháo lớn xuất hiện khiến cho khu đồi lở loét như người bị ghẻ kềnh. Hàng rào dây thép gai bùng nhùng, bị phá đi nhiều đoạn. Một số lô cốt, ụ hỏa lực bị san bằng hoặc sứt mẻ nham nhở. Thời gian yên tĩnh không kéo dài. Từ Chư tăng-Kra pháo của địch đã bắt đầu sủa. Chúng bắn tấp cập vào đồi Cháy, hết đợt này đến đợt khác. Đất đá và những mảnh pháo bay rào rào, khói lửa trùm lên trận địa mịt mù. Tai chúng tôi ù đặc và nhức. Mấy con vượn đen trũi như than chạy nhảy hốt hoảng gọi nhau vang vọng cả khu rừng. Chúng kêu la hốt hoảng, những con sống sót thì cũng di chuyển sang hướng quả đồi bên kia. Pháo kích ngưng thì máy bay phản lực và trực thăng Mỹ đến ném bom na-pan và bắn rốc két. Từng vệt lửa hừng hực bốc cao trên mặt đất. Đồi Cháy vốn đã trơ trụi nay càng trơ trụi hơn. Lửa bom na-pan bén vào cả những cành cây ngụy trang của chúng tôi. Đồi Cháy bị tro than phủ kín một màu đen lem luốc. Chẳng nói gì cây cối, đất đá, mặt mũi, quần áo chúng tôi đen nhẻm hết lượt. Khẩu đại liên của tiểu đội chúng tôi đã đĩnh đạc lên tiếng. Chúng tôi có 3 người tập trung vào khẩu đại liên, người thì tiếp đạn, người xạ thủ, có nhiệm vụ bắn và người thì chuẩn bị. Tôi thì dùng súng bộ binh AK cùng bắn máy bay. Ai cũng tháo vát, nhanh nhẹn, khẩn trương. Bất chấp bom đạn của giặc, khẩu đại liên Cô-li-nốp nhằm vào máy bay phản lực và trực thăng nhả đạn. Lúc này thì không còn bí mật được nữa, chúng tôi một mất một còn đối mặt  với kẻ thù hung hãn.
 Địch phát hiện ra trận địa của ta nên chúng càng bắn phá ác liệt hơn. Mặt trời gần đứng bóng thì trực thăng bắn đạn hóa học xuống đồi Cháy. Tôi và anh Loan thấy máy bay bắn từng quả như cục pin đại xuống gần hầm. Khi những cục như chiếc bin đại chạm đất thì phụt ra làn khói xanh và lan tỏa khắp mặt đất. Tôi thấy nước mắt cay sè, mũi khó thở liền nói như ra lệnh với anh Loan: Chất độc, đeo mặt nạ vào. Mặc cho việc chuẩn bị đã sẵn sàng nhưng khi có chất độc tôi thấy hơi luống cuống. Sau món vũ khí hóa học ác hiểm là những màn bổ nhào ném bom của lũ máy bay phản lực. Kẻ địch cho rằng Việt cộng không chịu được khói đạn hóa học sẽ từ hầm chui lên và khi gặp bom, pháo sẽ thương vong nhiêu.
Im ắng được mấy phút, chúng tôi tranh thủ ăn cơm trưa. Ăn vội vàng qua quýt, thậm chí vừa ăn vừa nghĩ đến nhiệm vụ tiếp theo, nét mặt ai cũng căng thẳng, lo âu trước người chỉ huy mình hy sinh. Mặt mũi ai cũng nhọ nhem, chân tay chai sạn, tóc tai bơ phờ. Khi ăn cơm, ai cũng làm phép chùi tay vào quần áo cho đỡ bụi bẩn, nắm cơm cầm trên tay cũng dính tro than nhọ nhem. Mùi khói bom  khét lẹt.  Cổ họng khô khát nhưng anh em bảo nhau cố gắng ăn hết khẩu phần để lấy sức chiến đấu với giặc. Miếng cơm cuối cùng chưa trôi khỏi cổ thì máy bay địch lại gầm rú trên đầu. Từng loạt, từng loạt bom sát thương, tiếp đến là bom cháy nổ đinh tai nhức óc, cả quả đồi bị giật phá rung lên theo làn sóng xung kích của bom. Mảnh bay rào rào, khói lửa cuồn cuộn. Có lẽ nó đã đoán đúng khẩu đại liên tai hại mà bọn chúng cần tiêu diệt. Bỗng một quầng lửa bùng lên hung dữ, trùm lên khẩu đại liên. Anh Hoàng thét lớn: “Địch ném bom napan trúng trận địa rồi, các đồng chí phải bình tĩnh”.- tiếng thét của anh khiến cho cả trận địa của chúng tôi chú ý và tập trung cao độ để chiến đấu và cảnh giác. Tôi và anh Loan cũng bị thương,  hai bàn tay bị bỏng do dính chất cháy của bom. Quả bom sát thương nổ gần hầm không ai bị thương nhưng bị sức ép. Ngực đau, khó thở. Nhưng nhìn anh Hoàng như ngọn đuốc sống thì quên hết đau đớn.
 Tôi nhìn anh Hoàng- người chỉ huy trưởng của tiểu đội tôi bị dính bom napan cháy nhưng anh như ngọn đuốc sống, vẫn chỉ huy khẩu đội đại liên bắn trả lại máy bay giặc. Hình ảnh ấy tôi không bao giờ quên được, cái ngỡ như chỉ xem trên phim ảnh hay đọc trên những trang báo lại là hiện thực trước mắt tôi. Chất anh hùng của người lính cách mạng là có thật chứ không phải do chúng ta bịa ra hoặc tô hồng cho nó đẹp thêm. Cùng lúc đó, hai chiếc máy bay trực thăng Mỹ đã bị trúng đạn đại liên, bốc cháy dữ dội và rơi ngay đồi bên cạnh.
  Anh Hoàng bị bỏng toàn thân vì lửa napan. Anh vẫn cố chịu đựng, dù rất đau đớn. Khi chúng tôi băng bó cho anh, anh đã rất yếu. Bằng giọng nói rất nhỏ nhẹ, anh động viên chúng tôi: “Có thể bộ binh địch sẽ tấn công vào đây… cuộc chiến đấu diễn ra còn ác liệt lắm…anh em mình cố gắng giữ vững trận địa…. đừng cho địch chiếm”. Giọng nói của anh càng nói càng đuối dần, đôi mắt nhắm lại. Miệng hơi mấp máy muốn uống nước. Tôi lấy thìa bón cho anh ít nước. Anh uống nước thật ngon lành. Nhìn sắc mặt anh ngày càng nhợt nhạt, cái chết đang đến gần với anh từng giây mà chúng tôi bất lực, ai cũng xót thương. Tất cả anh em, những người đứng vây quanh anh, phần lớn đều bị thương, nhưng, ai cũng lặng lẽ  lắng nghe từng lời của anh căn dặn. Rồi anh không nói được nữa. Khoảng 3 giờ chiều thì anh trút hơi thở cuối cùng. Anh mất đi giữa lúc trận địa còn mịt mù khói lửa. Nhưng trong lòng mỗi chiến sĩ vẫn rực lửa căm thù quân cướp nước, quyết biến đau thương thành hành động cách mạng.
Nhìn anh Hoàng nằm bất động trong hầm mà lòng tôi bùi ngùi xúc động. Anh như người anh cả, như người chị hiền trong đơn vị. Ngày nghe tin Cha mất, tôi suy sụp và khụy ngã hoàn toàn. Trong lúc khó khăn đến cùng cực ấy, anh là người chia sẻ động viên, an ủi và nâng bước tôi đi. Nếu không có anh chắc chắn tôi chẳng hành quân vào đây với đơn vị được. Trước trận đánh này, anh đã nhắc nhở chúng tôi kiểm tra rất kỹ về vũ khí, trang bị, lường trước những tình huống xấu có thể xảy ra như địch dùng vũ khí hóa học chẳng hạn. Các phương án chiến đấu do anh vạch ra cho tiểu đội thật chính xác. Anh là con người không chỉ có lòng dũng cảm mà còn có nhiều thực tiễn trong chiến đấu.
  Anh ra đi khiến tôi thấy trống trải và buồn thương vô cùng. Tiếc thương một người chỉ huy tài giỏi, nhanh nhẹn, gần gũi, sâu sát anh em, giờ không còn nữa. Cả tiểu đội trĩu buồn. Mấy hôm trước, anh Hoàng đã nói với tôi: Sau ngày thống nhất giang sơn, thế nào cũng về quê thăm gia đình tôi, thăm quê Bác Hồ, thăm dòng Sông Lam thấm đẫm câu dân ca xứ Nghệ. Anh đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh gia đình anh. Bố mất sớm, mẹ ở vậy nuôi anh. Đã mấy lần mẹ mong anh về để lấy vợ. Mẹ anh đã già. Trước lúc đi bộ đôi, mẹ anh cũng đã dạm cho một cố gái trong làng xinh xắn, ngoan ngoãn và hay làm. Anh nói rằng chờ cho chiến tranh kết thúc sẽ về lấy vợ và sinh cho mẹ một đứa cháu để bồng. Anh cũng hy vọng, sau này đất nước thống nhất, anh sẽ về với cuộc sống ruộng vườn như ông bà, tổ tiên đã sống. Một ước mơ bình dị thế mà không thực hiện được. Không hiểu mẹ anh Hoang có linh cảm đến sự đau thương này không. Anh Hoàng ơi. Em coi anh như người anh cả, chị hiền, bao nhiêu lần anh đã động viên em, giúp đỡ để em vượt qua những nỗi đau, mất mát. Sau này thống nhất, nếu còn sống em sẽ về với gia đình anh. Tôi bồi hồi xúc động lẩm bẩm với anh linh Anh Hoàng. Mong anh an nghỉ suối vàng và phù hộ độ trì cho tiểu đội chúng tôi vượt qua thử thách ác liệt này.
Chiều chầm chậm qua đi, hoàng hôn buông xuống. Cánh rừng lúc này chợt im ắng nhưng vết tích của trận đánh vẫn còn  nóng bỏng.  Vây bọc trận địa của chúng tôi là màn đêm nhàn nhạt của cao nguyên hòa trong ánh đèn dù nhập nhoạng ở phía đồn địch. Xa xa tiếng ì oàng của pháo cối địch. Chốc chôc lại có những đợt pháo kích từ phía Chư Tăng-Kra bắn lên xung quanh Chư Đô và đồi Cháy. Có lẽ đây là các đợt pháo kích cầm canh để bảo vệ Chư Đô. Tối ngày 5 tháng 3 năm 1969 khẩu đội đại liên chúng tôi được lệnh rút khỏi Chư Đô tiến về phía Ngọc Ta Lung để làm nhiệm vụ mới. Chúng tôi vừa hành quân vừa đưa thi hài anh em liệt sĩ và thương binh nặng ra phía sau. Có rất nhiều việc, thời gian lại gấp rút nên ai cũng khẩn trương, tranh thủ thời giờ. Nhìn  đồng đội nằm xuống, ai cũng xót thương. Có chiến sĩ thân thể không còn lành lặn, be bét máu, thấm đỏ cả chiếc áo, đất cát bám đầy người. Cũng rất may lúc này có mấy đồng chí vận tải của tiểu đoàn nên thương binh, thi hài liệt sĩ và vũ khí được mang ra an toàn và kịp thời. Sau trận Chư Đô, khẩu đội tôi được bổ sung  thêm quân để bước vào những trận đánh mới.
 Đối với tôi, trận đánh này là trận đáng ghi nhớ. Hình ảnh ngọn đuốc sống Vương Tử Hoàng mãi mãi cháy trong tôi như một vầng sáng bất tử. Đến bây giờ khi đọc lại Lịch sử trung đoàn 28, lòng tôi vẫn ngập tràn xúc động, bồi hồi nhớ lại những ngày oanh liệt cùng những đồng đội của mình:
“Trong trận lửa thử đầu tiên vô cùng ác liệt và đầy cam go trên chiến trường mới, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 28 đã phát huy cao độ sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, ý chí chiến đấu dũng cảm ngoan cường, trí thông minh sáng tạo… Tuy đây là trận đầu thử sức nhưng Trung đoàn đã khẳng định được vai trò của một đơn vị chủ lực của mặt trận Tây Nguyên. Trải qua bom đạn ác liệt, nhiều tấm gương chiến đấu tiêu biểu có sự cổ vũ lôi cuốn như tập thể tiểu đoàn 1. Đặc biệt là hình ảnh đầy khí phách anh hùng của người Khẩu đội trưởng đại liên, người Đảng viên ưu tú Vương Tử Hoàng ở khu vực Chư Đô. Giữa bom thù dữ dội, lửa napan trùm khắp trận địa và khắp thân mình nhưng Vương Tử Hoàng vẫn hiên ngang trên vị trí chỉ huy, tiếp tục hạ lệnh cho khẩu đội bắn rơi 2 máy bay Mỹ và trước lúc hy sinh vẫn dành hơi thở cuối cùng để động viên đồng đội giữ vững niềm tin, ý chí chiến đấu. Tấm gương bất khuất Vương Tử Hoàng và ánh sáng từ “cây đuốc sống” ấy không những là nguồn cổ vũ lớn lao, niềm tự hào bất diệt mà còn mãi mãi tỏa sáng trên chặng đường chiến đấu gian khổ nhưng sáng chói những chiến công của Trung đoàn 28 và lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên…”
 Khi rút khỏi Chư Đô, Trung đội trưởng Viên Đình Thực phổ biến vắn tắt:“Đơn vị chúng ta hiện nay nằm trong đội hình lớn của chủ lực mặt trận đang bao vây sư đoàn 4 của Mỹ tại đây. Khẩu đội đại liên của các đồng chí có nhiệm vụ đánh địch đổ bộ bằng máy bay để bảo vệ trung đoàn pháo binh 40 và yểm trợ bộ binh xung phong diệt lính dù”.
 Anh em chúng tôi nghe nói thế rất phấn khởi. Cả tiểu đội hành quân đêm khẩn trương. Đêm mùng 7 tháng 3, khẩu đội tôi trong đội hình của đại đội 1, tiểu đoàn 1 được bố trí chốt giữ tại một đồi tranh ven sông Sa Thầy. Màn đêm đen kịt trùm lên khắp mọi nơi, ngỡ như có thể xắn ra từng miếng được. Không gian im ắng lạ thường. Đến nơi là bắt tay vào đào hầm trú ẩn ngay. Đất ở đây toàn sỏi đá và trời lại tối như mực nên đào rất khó khăn. Đào sâu được một đoạn vừa người nằm, Trung đội trưởng Viên Đình Thực cho tạm nghỉ, chờ trăng lên đào tiếp. Tôi liền mắc màn nằm ngủ cùng anh Thực và Lệ. Trước lúc ngủ, anh Thực đi kiểm tra anh em có mắc màn không. Muỗi nhiều vô kể như hốt được. Mấy đêm chốt ở Chư Đô không ngủ nên bây giờ đặt lưng xuống là ngủ như chết. Cả tiểu đội đang chìm trong giấc ngủ thì bỗng nghe hàng loạt tiếng nổ, mở mắt ra thấy chớp khói liên tục, mặt đất giật giật như có thể vỡ ra được, đất bay rào rào, loạn xạ, cây cối đổ ngổn ngang. Trong tiếng nổ rầm trời đó, có ai hô to: “B52!”- Tiếng ai đó kêu lên chưa dứt thì lại tiếp hàng loạt tiếng nổ, đất trời như bị sụp xuống bởi những tia chớp sáng xanh. Những tiếng nổ liên tiếp của hàng loạt trái bom B52 nghẹt thở. Mảnh bom xé gió bay vun vút, khói lửa sặc sụa. Tôi chưa định hình ra làm sao, chỉ biết nằm úp mặt xuống đất, hai mắt nhắm nghiền. Tôi nghĩ, nếu bom nổ thế này có thể chết mất, không bị mảnh cũng bị sức ép, mà chết cũng mặc, chẳng biết đi đâu bây giờ. Tiếng bom đợt một vừa nghớt. Tôi ngẩng đầu lên quan sát thấy chiếc màn bay đâu mất. Anh thực đi đâu rồi. Mà sao chẳng nghe tiếng gì cả. Tôi gọi Lệ dậy để báo có bom B52 nhưng lay mãi mà Lệ không dậy. Sờ vào người Lệ thấy máu chảy đầm đìa. Lệ bị mảnh bom hy sinh ngay loạt đầu. Vừa lấy tay lay nhẹ Lệ thì có bàn tay nào đó túm vào vai áo tôi lôi dậy chạy. Tôi như cái máy, chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy theo bóng người đó như thôi miên. Chạy được một đoạn vài chục mét, người đó dí tôi xuống một cái hố mà tôi biết có thể là cái hố bom. Tôi và người đó vừa lăn xuống hố thì lại một đợt B52 tiếp tục. Người đó nằm lên tôi. Đất trời rung lên bần bật khiến tôi mất đi cảm giác, cũng chẳng biết mình đang như thế nào. Hơi bom quất mạnh làm cho người tôi bị sức ép, khó thở. Mọi cảm giác dường như bị tê cứng. Tai ù đặc, mũi nghẹt thở. Mắt cay xè. Người lảo đảo, liêu xiêu. Tôi không thể cảm nhận và nhìn mình xem có bị thương hay không nữa. Mọi giác quan như tê liệt, không phải vì sợ hãi mà sức ép của bom quá lớn. Tôi chỉ biết tựa mình vào vách hầm cho đỡ thở. Vừa dứt tiếng bom là bóng người đó lại chạy đi. Dưới ánh trăng vàng ệch và bị che phủ của hơi bom mịt mù, tôi thấy nằm cạnh tôi có môt số người. Tôi cũng không nhận ra ai nữa, và cũng quá mệt nên cũng chẳng hỏi han được ai. Nhưng tôi đoán đó là bộ đội, có người còn sống, có người bị thương, có người hình như đã chết, nằm còng queo. Tôi có cảm giác như đang ở giữa thế giới xa lạ, môt địa ngục trần gian của sự hủy diệt và chết chóc. Tôi thấy đau nhói trước ngực, sờ vào thấy máu me đẫm ướt cả áo, chân trái nhức đau, sờ xuống cũng thấy máu…Sau đó tôi thấy tai ù, mắt hoa và người bị lả đi không biết gì nữa.
 Ngày hôm sau tôi tỉnh lại và thấy mình đang nằm tại bệnh viện 211 của Mặt trận. Bác sĩ cho biết, tôi bị thương vào chân, bị gãy xương sường và bị sức ép bom tương đối nặng. Cũng may gáo vẫn còn và mảnh đạn găm vào ngực nhưng chỉ làm gẫy xương sườn, chứ nó vào tim thì coi như đã hết. Sau đó tôi gặp nhiều người cùng đơn vị cũng bị thương nằm ở đây như Ngọ, Trự, Đức…Các bạn kể lại rằng, trận bom B52 xảy ra quá nhanh, quá bất ngờ và thực sự ghê gớm. Đội hình của đơn vị chúng tôi nằm gọn trong tọa độ rải thảm của những chiếc pháo đài bay hiện đại nhất của Mỹ thời bấy giờ. Đơn vị thương vong nhiều. Nhưng tôi thắc mắc là ai lôi tôi đi lúc đó thì không ai lý giải được. Lúc này tôi mới nhớ là chiếc ba lô của tôi đã mất. Có lẽ giá trị nhất trong chiếc ba lô ấy là những lá thư của Thoa, không còn nữa. Tôi vừa buồn vừa tiếc. Đã kinh qua bao nhiêu thời gian và đã đi qua bao núi, bao đèo, những lá thư của em vẫn luôn bên tôi. Tôi đã hứa với em là sẽ cùng sống chết với những lá thư đó cơ mà. Sau này, tôi đã nhờ bạn bè đồng đội tìm mãi mà không thấy. Đã nhiều lần tôi nhắn người về đơn vị cố tìm xem chiếc ba lô của tôi có ai cất hộ, nhưng không có tin tức gì.
 Bệnh viện 211(là số cộng của bệnh viện 103 và bệnh viện 108) nằm sâu trên đất nước chùa Tháp Căm-pu-chia, giữa chốn đại ngàn trùng điệp. Con đường đi vào đây cách biệt và lặng lẽ. Có những dãy núi cao mây mù bao bọc ẩm ướt. Lán thương binh vách nứa, mái lợp cũng bằng nứa, nằm dưới tán rừng rậm rạp, dọc theo con suối  trong veo mát lành. Rừng đầy tiếng gió, tiếng chim. Từ mặt trận về đây không xa lắm nhưng quang cảnh hai nơi khác nhau hoàn toàn. Một bên xơ xác, tan hoang, một bên thanh bình, tươi tốt. Bệnh viện 211 có các bác sĩ chuyên khoa dày dạn kinh nghiệm trong việc cứu chữa thương bệnh binh. Nhìn thấy các bác sĩ mặc áo plu màu trắng, chúng tôi thấy phần nào vợi đi những lo lắng về vết thương của mình. Bệnh viện 211 có nhiều khoa và đóng trên các sườn núi của rừng già nguyên thủy.
Họ cứu thương và chữa trị cho biết bao nhiêu người được hồi phục về sức khỏe và trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Tôi được các bác sĩ mổ lấy mảnh đạn găm vào xương sườn và điều trị sức ép. Sau một thời gian điều trị, vết thương ở ngực lành dần, sức khỏe tôi dần được bình phục. Lúc bình phục, tôi có cảm giác chiến tranh như ở một nơi nào đó, rất xa, rất xa. Lẽ ra trong không khí này, tôi phải thấy yên ổn thoải mái nhưng ngược lại, lúc nào cũng bồn chồn nhớ đơn vị. Những tháng ngày gian khổ chúng tôi luôn có nhau. Tôi nghĩ đến tiểu đội đại liên yêu dấu, nghĩ đến đồng đội, những người bạn chia sẻ ngọt bùi cay đắng, buồn vui, sướng khổ có nhau. Loan, Trữ, Xuân, Dung, Chương… và bao nhiêu anh em nữa đang đội bom, đội đạn nơi mặt trận, biết ai còn, ai lại nằm xuống, có trận đánh nào mà không có hy sinh! Tôi lại an nhàn như thế này ư? Tôi mong mình nhanh khỏi để trở về đơn vị chiến đấu cùng những đồng đội thân yêu của mình. Tôi nhớ mọi người lắm rồi và chắc mọi người cũng vậy, mong tôi về lắm đây. Ở trong viện 211 này, có những người phải nằm điều trị lâu thường lo lắng, nóng lòng nghĩ về đơn vị, nhưng khi sắp xuất viện thì lại bị cảm giác lưu luyến rất khó tả níu giữ, nhất là khi đi chào và động viên những anh em thương binh còn nằm lại, khi cảm ơn các bác sĩ, y tá “ thầy thuốc như mẹ hiền”.
   Một hôm đang khấp khiểng lê bước lên khoa chấn thương thì thật bất ngờ tôi được gặp Dung, Ngọ và Đức- những người bạn đồng hương, cùng học trường cấp III Nam Đàn và cùng nhập ngũ một ngày, cùng tiểu đoàn. Thì ra, trận B52 đêm ấy đã cày vào đúng đội hình của Tiểu đoàn 1 của chúng tôi, nhiều đồng chí đã ngã xuống bên bờ sông Sa Thầy khi chưa kịp nổ súng hiệp đồng chiến dịch. Dung và Đức cũng bị thương trong trận bom ác liệt ấy.
  Sau những lời thăm hỏi rối rít “khoe” với nhau những vết thương trên mình. Đứa nào cũng cho rằng mình gặp may chứ không thì đã bị cắt quân số rồi. Đức còn trêu tôi “Bọn tao ngoẻo còn được chứ mày chết thì em Thoa chắc cạn nước mắt”. Tôi kể cho hai đứa nghe về những lá thư của Thoa bị B52 đánh bay. Hai đứa lặng im chia sẻ. Vào đây, đứa nào cũng thèm khát tin tức ở quê nhà, lo lắng cho gia đình và người thân. Dung cũng buồn nhiều như tôi vì lá thư nào của Thoa gửi lên tôi cũng cho Dung đọc. Dung công tác trên tiểu đoàn bộ, tôi lính đại đội, thỉnh thoảng có dịp gặp nhau, Dung đều hỏi chuyện Thoa, tôi chẳng giấu Dung điều gì.
 Vết thương của tôi hồi phục khá nhanh. Qua anh em, tôi biết đơn vị mình đang vây lấn cứ điểm Plây Cần. Các bác sĩ khuyên tôi ở lại điều trị thêm thời gian nữa để vết thương khỏi hẳn, nhưng tôi nóng ruột lắm, đứng ngồi cũng không yên, tôi thấy mình có đủ sức lực nên cố gắng xin ra viện sớm. May thay, nguyện vọng của tôi được đồng chí trưởng khoa chấp nhận. Cái khó khăn của tôi lúc đó là đang tay trắng. Ba lô bị mất tăm. Khi vào viện tôi là một anh lính “trên răng dưới cát-tút” đúng nghĩa đen của nó. Tôi chỉ còn duy nhất một bộ trang phục bạc màu đang mặc trên người. Ngọ thấy thế đã không chần chừ lôi từ ba lô con cóc của mình ra đưa cho tôi một bộ quân phục Tô Châu xanh. Ngọ đưa áo quần cho tôi và tếu táo cười nói:
- Tao cho mượn chứ không phải cho hẳn đâu nhé. Nhớ ghi vào sổ để mai này giải phóng thì mang  trả cho tao. Lúc đó, nhớ trả công và mời tao đi dự cưới đấy.
Tôi mỉm cười nhận bộ quần áo từ tay anh và xem đó như là một lời mong, lời chúc phúc của anh dành cho tôi, một người lính lại sắp xung trận. Ngọ cầu mong  tôi được bình an cho đến ngày chiến tranh kết thúc và được hạnh phúc bên Thoa. Ngọ là lính cùng đại đội 4 với tôi. Ngọ bị thương nặng ở lưng và bụng, khi vào viện được anh em cứu thương, tha được ba lô theo cùng nên còn có áo quần cho tôi. Thấy tôi không có ba lô, Đức giở quân tư trang của mình gói vào chiếc túi nilon vẫn sử dụng làm phao bơi khi vượt sông suối và trao ba lô cho tôi. Tôi không chịu nhận thì chiến hữu của tôi đã nói như quát:
- Cứ lấy đi. Lúc này mày cần hơn tao. Vết thương của tao còn phải nằm lâu. Sau này ra viện tao sẽ có cách, anh em ở đây còn nhiều lắm. Ngoài chiến trường thương yêu và chia sẻ cho nhau như thế nào thì nơi đây cũng thế cả. Mày đừng ngại, của tao cũng là của mày mà. Thế mới gọi là lính chiến chứ. Chiến tranh có chia phần và lĩnh phần thắng lợi đâu, nhiệm vụ chung và mục đích chung cơ mà… Đức là người Nam Cát, cùng học và cùng nhập ngũ. Nghe Đức nói cứ ý như chính ủy. Tôi nhìn Đức ái ngại:
- Mình về đơn vị sẽ có bổ sung mà. Ai lại lấy của thương binh nhiều thế này…Đức hua tay và an ủi tôi:
- Mày đừng băn khoăn nữa, chuyện vặt ấy mà. Tất cả phải ưu tiên cho tiền tuyến. Đức vừa nói vừa đưa chiếc ba lô cho tôi.
 Từ tay không, bỗng dưng tôi có nhiều thứ. Anh em thương binh trong lán, người cho tôi cái tăng, người cho cái võng, chiếc bát sắt, quần đùi và cả lương khô nữa. Nhìn chiếc ba lô căng tròn, tôi đứng ngây người ra như bị trời trồng, xúc động nghẹn ngào không nói lên được lời nào. Tôi cảm động quá. Mọi người gửi gắm niềm tin ở tôi rất nhiều. Tất cả mọi câu nói lúc này dường như không cần thiết nữa, nếu nói ra nó sẽ trở nên khách sáo xa lạ biết bao nhiêu. Tôi im lặng nhìn mọi người. Những khuôn mặt hốc hác, xanh xao, vàng vọt, những đôi môi thâm rịt vì mất máu và bị sốt rét. Họ phải uống nhiều thuốc mà. Những vòng băng cuốn trên người, trên mặt, trên bụng, chân tay… những chiếc nạng, chiếc gậy đặt kề bên. Hình ảnh những chiến binh trận mạc không lẫn vào đâu được. Chiến tranh không phải là trò đùa. Những người lính chúng tôi nói câu nói ấy bằng máu của mình. Ai cũng chia sẻ và gửi lời thăm hỏi đến những người bạn chiến đấu cùng với tôi. Tôi mang niềm tin và hy vọng của mọi người quay trở lại đơn vị. Tôi hồ hởi, phấn khởi gom những kỉ niệm nơi đây về kể cho đồng đội nghe. Ở tiểu đội tôi làm gì có cô y tá hay bác sĩ nào đâu nên mọi người muốn nghe chuyện lắm. Mọi người sẽ xúm lại mà hỏi tôi đủ mọi thứ. Tôi thấy trong lòng vui vui, cứ ngỡ là con chim én mang mùa xuân đến cho tiểu đội..
Tây Nguyên- đến lúc này thì tôi đã thấm thía một Tây Nguyên gian nan, hiểm nguy mà sâu nặng, ấm áp tình đồng đội, tình đồng bào. Tây Nguyên thiếu thốn nhiều thứ lắm. Các nguồn tiếp viện dường như bị tắc nghẽn, cạn kiệt dần nhưng ý chí của con người vẫn ngùn ngụt, đói ăn đói, nghèo mặc nghèo. Trên cao nguyên mênh mông này, thời ấy một hạt muối, một cọng rau, một viên thuốc kí-ninh cũng muôn phần quí giá lắm, nó quí giá như chính mạng sống của con người. Vì muốn có nó, chúng ta phải đổi bằng máu của các chiến sỹ, đồng bào. Trời Tây Nguyên một ngày bốn tiết, ngày nắng như nung, đêm đến thì rét cắt da, cắt thịt… chiếc chăn mỏng tang, anh em đôi khi còn ôm nhau ngủ cho ấm. Chỉ riêng việc chịu đựng khí hậu khắc nghiệt của Tây Nguyên đã vất vả lắm rồi. Có lẽ sức chịu đựng gian khổ và sự cố gắng khắc phục khó khăn đã thành quen trong ý thức mỗi người chiến sĩ. Đồng đội tôi tiếng là các đơn vị chủ lực nhưng phải dùng gùi thay ba lô, quần dài rách thì cắt dần ống để làm mảnh vá, áo dài tay bị biến thành áo cộc tay, vá đụp vá chằng nom rất cơ cực. Mũ thiếu, phải dùng khăn tay che nắng mùa khô, đi được vài cây đã thấy khăn trên đầu khô đanh lại và cũng chính nó, lính dùng để lau đầu, lau mặt mùa mưa. Rừng thiêng nước độc. Muỗi nhiều như trấu, vắt như muôn lớp lá đại ngàn, nếu không có võng nằm, không có màn che, không mảnh vải dù làm bọc thì đêm sẽ dài thăm thẳm và những cơn sốt rét sẽ ập đến bất cứ lúc nào. Vậy mà đồng đội đã nhường cho tôi những thứ quí giá của mình, từ tay không tôi lại có tất cả. Nói bao nhiêu, nói thế nào cho hết nỗi xúc động đang dâng trào trong tôi. Tôi cảm ơn đồng đội của mình và mong cho mọi người mau bình phục, chúng tôi có một lời hẹn ước với nhau sau ngày độc lập sẽ gặp nhau, nhất định là như vậy, còn bây giờ cuộc chiến gian nguy đang ở phía trước.
Viện 211 ngày ấy nhiều con gái quê ở Hà Tĩnh lắm. Những cô gái quê ở ven dòng sông Lam thơ mộng, cách làng tôi không xa mấy đã tình nguyện đi thanh niên xung phong từ thời tôi còn học cấp II. Chiến trường ngày càng mở rộng, họ đi dần vào mặt trận Tây Nguyên làm y tá, cứu thương, hộ lý, nuôi quân rồi gắn bó với cái quân y viện trong rừng xanh núi đỏ này. Chính những cô gái đó đã làm mềm đi cuộc chiến tranh khốc liệt này, họ là niềm tin, yêu thương, nguồn động viên của rất nhiều cán bộ chiến sỹ B3. Trong cơn đau do vết thương hoặc căn bệnh hành hạ, chúng tôi đã được các cô chăm sóc, nâng dìu, an ủi, động viên. Lời động viên của các cô như xua tan đi mọi đau đớn. Những lúc yếu lòng, bi quan chán nản, hoang mang, được nhìn các cô gái quân y, chúng tôi giật mình tỉnh ngộ và ý chí được vực dậy cùng với tình yêu cuộc sống  cũng ấm nóng lên. Khi vào Tây Nguyên tôi thường được các cựu binh nhắc đến nhiều các cô gái Nghệ Tĩnh duyên dáng chăm chỉ ở viện 211 này. Họ hay kể cho cánh tân binh chúng tôi nghe về các cô tên Hợi, cô Hiếu… da trắng tóc dài, những cô San, cô Xinh… hiền lành đằm thắm, nhẹ nhàng. Kể đi kể lại hấp dẫn đến nỗi có người lính “ao ước” bị thương hay bị ốm một lần để đi viện 211. Những gì tôi kể ra đây là thật, là hoàn toàn thật. Nơi đơn vị chiến đấu, toàn cánh đực rựa cồng kềnh với nhau, lại là lính tráng xốp xáp, tuyềnh toàng, bói đâu ra được bóng hồng xinh đẹp để ngắm nhìn, trò chuyện. Suốt năm, suốt tháng chỉ nghe rặt một giọng đàn ông ồm oàm, thử hỏi ai không muốn gặp các chị, các cô? Gặp chỉ để được nghe cái giọng chất thanh thanh của người khác giới thế là vui lắm rồi. Những cô gái cũng như linh hồn của trận đấu, rất dũng cảm, làm việc gì đảm việc đó nên lính chúng tôi có ai mà dễ dàng quên được.
Sáng mồng 3 tháng 5, tôi được ra viện. Tạm biệt quân y 211 để về đơn vị, tiễn tôi ra đến con suối phía trước bệnh viện là mấy đồng chí thương bệnh binh, các cô y tá, hộ lý quê ở Hà Tĩnh với giọng nói dễ thương. Nhưng nói gì thì nói, với lính trận chúng tôi thì ở được đơn vị vẫn vui hơn. Trên đường trở về đơn vị, tôi khấp khởi như chim sổ lồng. Đường rừng Tây Nguyên quanh co, uốn lượn. sương giăng sườn núi, những đám mây bay lững lờ…Cái háo hức được chiến đấu với đồng đội làm cho tôi thấy khỏe khoắn hơn. Tôi vừa đi vừa chạy như đứa trẻ con xa nhà nay mới được về với mẹ. Khi bước lên dốc, ngực vẫn thấy đau, chân vẫn nhức. Lá cây bên đường xào xạc theo bước đi. Tôi thấy mình rắn rỏi hơn và lâu rồi mới được đi một đoạn đường xa như thế. Cũng lâu lắm rồi, tôi  mới được đi giữa núi rừng với không khí trong veo, thênh thang như thế này, khác với trong bệnh viện chỉ rặt có một mùi của bệnh tật, thuốc men. Đi giữa con đường với những bóng cây, không khí dễ chịu hẳn. Tôi ngẩng đầu nhìn trời cao và muốn kêu to lên với đồng đội “Mình đã về đây với các đồng chí rồi”, và thầm nói với người yêu đang ở hậu phương xa tít tắp rằng: “Vết thương anh đã đỡ rồi, anh khỏe hơn rồi, em có nghe thấy anh nói không?. Em gắng đợi anh thêm một khoảng thời gian nữa nhé, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi là anh sẽ được về với em. Bây giờ chắc em cũng đang mong anh và đếm từng ngày một, đúng không?. Anh sẽ về với em khi đất nước thống nhất, sẽ đưa em đi trên con đường lộng gió của miền quê mình mà không còn sợ bom đạn của kẻ thù, anh rất nhớ em, hãy đợi anh về em yêu nhé”. Đường về đơn vị phải vượt qua biết bao đèo cao, suối sâu. Đi một đoạn lại phải hỏi đường. Cũng may, dạo này đang là chiến dịch nên dọc đường đi có nhiều bộ đội. Việc hỏi thăm đường cũng không vất vả lắm.
Đến gần tối, tôi mới về đến đơn vị. Được anh em cho biết tiểu đội đại liên đang tham gia chiến đấu tại cứ điểm Plây Cần. Đây là cứ điểm được Mỹ ngụy tập trung lực lượng, bố phòng chặt chẽ để ngăn cản đường tiến quân của quân giải phóng ở phía Bắc tỉnh Kon Tum. Anh em nghe tôi gọi, chạy túa ra, người ôm, người sờ nắn chân tay, hỏi han tíu tít. Hỏi sức khỏe của tôi, hỏi đến cả những đồng đội của tôi đang còn điều trị. Có người còn hỏi chuyện các cô ở viện 211 xinh đẹp. Tôi mừng rỡ được gặp lại mọi người, họ vây quanh tôi, tôi vừa thở vừa trả lời, lòng ấm áp như đứa em đi xa, nay được về với gia đình, gặp lại các anh em, có hai tháng xa nhau mà ngỡ như mấy năm trời. Suốt cả đêm ấy, tôi không sao ngủ được, những câu chuyện tôi kể cho mọi người nghe, bây giờ xa cả rồi, tôi thấy nhớ quá. Đêm nay, ở bệnh viện sẽ có bao nhiêu đồng chí nữa phải nhập viện, những người ở lại, bệnh tình có khỏe hơn không? Khẩu đội đại liên chính là gia đình thân yêu thứ hai nuôi dưỡng cuộc đời tôi. Chao ôi, cái gia đình nồng ấm và ngoan cường của tôi trải qua bao nhiêu trận đánh ác liệt giờ đây không còn nguyên vẹn nữa. Thêm một trận đánh là thêm thương vong trong lòng. Sau mỗi trận đọ sức với kẻ thù người còn, người mất, điều ấy không thể tránh khỏi. Chúng tôi những người còn đây không thể nói trước được tính mạng của mình nhưng không có ai nhụt chí và lùi bước. Tiểu đội tôi vẫn còn đây mà anh Vương Tử Hoàng không còn nữa. Nhìn đi nhìn lại chỉ có tôi là cựu binh. Những người cũ không còn ai. Bùi ngùi trước mất mát đau thương này. Con tim tôi lai nhói đau và đôi mắt lại rưng rưng khi nghĩ đến đồng đội mình đã hy sinh. Trước mắt tôi lại hiện lên rõ mồn một hình ảnh của anh Hoàng, cậu Lê, Ngọ, Thanh...Trong đó Thanh mất khi tuổi đời chưa đến hai mươi. Còn Lệ và anh Quyền thì bị thương, người mất tay, người mất chân, chắc chắn không thể tiếp tục chiến đấu được nữa. Ngọ bị thương cũng chưa thấy về. Các anh bị thương nặng trở về quê hương cũng không còn làm được gì.Tôi bùi ngùi nhớ những đồng đội yêu dấu của mình.
 Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Đây là điều mà mỗi chiến sĩ tiểu đội đại liên luôn xác phải định là nhiệm vụ thường xuyên và ưu tiên đặc biệt. Tiểu đội tôi được bổ sung thêm một số chiến sĩ mới  như tiếp thêm sức mạnh. Tôi được đơn vị cho biết: hiện nay địch đã đổ bộ tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 xuống phía nam Plây Cần, trận địa đại liên chỉ cách địch khoảng ba trăm mét. Điều đó chứng tỏ rằng ta và địch đang ở trong thế trận cài răng lược, rất gần nhau. Bởi vậy, tất cả mọi trận đánh sắp tới đều nguy hiểm và cần phải cẩn trọng hơn. Tôi được Trung đội Trưởng Viên Đình Thực giao quản lý khẩu đại liên Cô- li- nốp. Khẩu đại liên rất mới và ngắm nghía lau chùi hồi lâu, cảm giác thật hạnh phúc. Khẩu đại liên đã gắn bó với chúng tôi qua nhiều chiến trường và tỏ ra là loại hỏa lực rất lợi hại của bộ binh nhất là đánh địch đổ bộ, đánh địch phản công, là người bạn chiến đấu sát cánh sống chết cùng người lính chúng tôi. Tôi đưa súng lên tập ngắm chuẩn vào đầu ruồi của nó. Thấy vậy đồng chí Viên Đình Thực mỉn cười vỗ vai tôi:
- Chắc nhớ nó lắm à. Tôi nhìn Trung đội trưởng gật đầu:
- Báo cáo Trung đội trưởng. Đúng. Nhớ nó lắm ạ. Tôi ngắm nghía khẩu đại liên mới, hỏi Trung đội trưởng:
- Đây là khẩu súng mới hả Thủ trưởng? Đồng chí Viên Đình Thực gật đầu và nét mặt chững lai, đượm buồn, mắt hơi rơm rớm kể cho tôi nghe đơn vị dính B52 vừa rồi. Anh nói, từ ngoài B5 vào đây, đơn vị cũng đã hứng chịu nhiều đợt B52 nhưng đây là lần đầu tiên tiểu đoàn bị bom B52 rải trùm lên đơn vị. B52 rải bom xuống đội hình lúc 21h30 đêm 7.3.1969. Cũng rất may đêm đó anh em đã làm công sự nên cũng đỡ thương vong. Tuy nhiên, không chỉ các chiến sĩ thương vong nhiều mà vũ khí, khí tài cũng bị phá hủy nhiếu lắm. Khẩu đại liên cũng nằm trong số phận đó. Tôi cũng rất buồn khi nghe anh kể lại nhưng cũng phải hỏi thêm:
- Đến bây giờ em cũng chưa hiểu tối hôm đó ai lôi đi xuống hố bom và sau đó ai đưa đi bệnh viện? Anh Thực nhìn vào tôi, nét mặt tươi vui, anh vỗ vai tôi mỉn cười:
- Tớ lôi cậu đi chứ còn ai. Cả khẩu đại liên bị thương vong hết vì hai quả bom. Mình nằm với cậu và Lệ. Loạt bom đầu Lệ hy sinh, cậu bị thương. Mình tỉnh dậy thấy cậu còn sống mà gọi không thưa. Lúc đó cậu cứ “ngơ ngơ như bò đội nón”.- Anh Thực cười làm tôi cũng cười theo và nói tiếp:- Sau đó tớ thấy cạnh đó có hố bom, tớ đã lôi cậu xuống đó cùng mấy người. Cũng thật may, trong loạt bom thứ hai, có một quả nổ đúng vị trí chúng mình nằm. Xác Lệ tan tành. Khẩu đại liên cạnh đó chỉ còn đống sắt vụn. Nghe đến đây, tôi ôm choàng lấy anh Thực.
- Ôi. May quá anh ha. Không có anh thì em đã chết toi rồi. Thế còn chiếc ba lô của em? Anh Thực nhìn tôi vẻ vui sướng, lấy tay dí vào đầu tôi:
- Cái gáo của cậu cũng khá cứng. Chết sống có số đấy cậu ạ. Nói đến đây nét mặt anh biến sắc, buồn buồn:
- Còn chiếc ba lô mình đã cho kiểm tra kỹ nhưng không thể tìm được trong đống ngổn ngang ấy. Mình biết, cậu rất tiếc những lá thư của Thoa mà mấy lần mình đã được nghe đọc. Nhưng các cụ nói: của đi thay người mà. Nghe đến đây mọi chuyện mới vỡ ra. Đúng là chiến tranh thật nghiệt ngã. Nhưng chỉ có trong chiến tranh, những người đồng đội mới sống hết mình với nhau như anh Thực. Và cũng chỉ có đồng đội mới chia sẽ cho nhau cả sự sống của mình. Cho nên có người còn nói, tình cảm của các anh bộ đội là thứ tình cảm đồng đội, nó vừa lâu bền vừa chân thành và rất nhân bản.
Sáng ngày mồng 15 tháng 5 năm 1969, thêm một niềm vui đối với tôi. Tôi được chi bộ kết nạp vào Đảng. Đây là một cái mốc quan trọng, một kỉ niệm thiêng liêng của cuộc đời. Tôi đã trải qua một khoảng thời gian vất vả, thứ thách nhiều trong chiến đấu, lập được những thành tích, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên được chi bộ Đảng ủy ghi nhận. Được kết nạp Đảng, phải xét nhiều mặt lắm, từ đạo đức cho đến tư tưởng và những cống hiến…
 Lễ kết nạp Đảng được tổ chức tại công sự chiến đấu, không hề có hoa tươi, cờ Tổ quốc, cờ Đảng. Trên đầu tôi là trời xanh bao la, trước mắt tôi là đồi núi chạy dài, nhấp nhô mà ở đó quân địch đang chuẩn bị hành quân lên chiếm trận địa. Xung quanh tôi là những gương mặt đồng đội thân yêu. Chỉ  như vậy thôi mà sao tôi thấy trang trọng, đầm ấm và thiêng liêng đến vậy. Vẫn hiện lên trong đầu tôi hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm, cờ đỏ sao vàng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Tôi đứng nghiêm, trong lòng hồi hộp lắng nghe đồng chí Viên Đình Thực, chi ủy viên, Trung đội trưởng đọc quyết định của Đảng ủy cấp trên chuẩn y kết nạp tôi vào Đảng. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ lời anh Thực nói “Sau gần một năm thử thách, đồng chí Biểu đã tham gia nhiều trận đánh và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chi bộ và đơn vị đánh giá cao tinh thần chiến đấu dũng cảm của đồng chí Biểu. Đồng chí Biểu xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Trong thời gian tới còn gặp những khó khăn và gian nguy hơn, nhất là trước mắt chúng ta quân địch đang chuẩn bị tấn công lên trận địa, đồng chí Biểu hãy cố gắng phấn đấu, không sợ hy sinh, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người Đảng viên của Đảng”. Đọc đến đây, Trung đội trưởng nhìn tôi với đôi mắt rạng rỡ:
- Một niềm vui đến với đồng chí Biểu và cũng là niềm vui của cả khẩu đội đại liên, tôi xin thông báo: Bộ Tư Lệnh mặt trân Tây Nguyên có Quyết định số 123/QDKT ngày 10.5.1969 về việc tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng Hạng 3 cho đồng chí Dương Thanh Biểu, vì đã lập thành tích xuất sắc trong trận đánh Chư Đô.
Sau lời công bố quyết định của cấp trên, đến lượt tôi phát biểu. Ôi! hồi hộp quá. Đã chuẩn bị rồi mà tôi vẫn hồi hộp. Tôi đứng dậy nhìn Trung đội trưởng Viên Đình Thực và mọi người. Con tim tôi đập rộn ràng, vừa vui sướng, vừa lo lắng không hiểu phát biểu của mình sắp tới có đúng hay không. Sau tiếng pháo nổ dưới chân đồi, tôi nói như đã chuẩn bị trước:
- Kính thưa đồng chí Thủ trưởng Viên Đình Thực, thưa tất cả các đồng chí. Hôm nay tôi thật xúc động được trở thành người đảng viện, được phấn đấu dưới ngọn cờ quang vinh của đảng. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, dìu dắt của các đồng chí đi trước, xin cảm ơn các đồng chí đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhiệm vu. Nói đến đây tự nhiên cổ họng tôi bị khản. Cũng thật may lúc đó có một loạt pháo bắn gần trận địa nên không ai chú ý tới dọng khàn khàn như vịt đực của tôi. Tôi e hèm, hắng dọng rồi phát biểu tiếp:
- Đứng trước chi bộ, tôi xin thề: Nguyện suốt đời chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Tuyệt đối tin tưởng và trung thành với lý tưởng của đảng, không ngại gian khổ hy sinh, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Xin cảm ơn chi bộ và các đồng chí.
 Tôi thấy Thủ trưởng Thực gật đầu. Sau đó cả tiểu đội vỗ tay đôm đốp. Mọi người đang vỗ tay thì Trung đội trưởng khoát tay:
- Chia vui với đồng chí Biểu thế này là tốt rồi. Phải giữ bí mật. Bọn địch bắn pháo thế này là đang chuẩn bị dọn đường cho bộ binh đánh chiếm trận địa đại liên đấy. Bây giờ các đồng chí về vị trí chuẩn bị chiến đấu.
  Tôi thấy cay cay sống mũi nhưng con tim đập rộn ràng, thổn thức. Thế hệ thanh niên chúng tôi ngày ấy mơ ước lớn nhất và cũng là niềm vinh dự cao nhất là được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi nhớ, suốt mấy năm làm bí thư chi đoàn các lớp ở cấp 3 Nam Đàn, tôi đã cố gắng hết sức và rất hy vọng được đứng vào hàng ngũ Đảng. Ngày nhập ngũ, thầy giáo chủ nhiệm có nói, chi bộ nhà trường cũng đã xem xét việc bồi dưỡng để kết nạp tôi vào Đảng trong thời gian tới. Nhưng thời gian nhập ngũ quá nhanh nên chưa thực hiện được. Do đó, tôi vẫn coi giây phút đẹp nhất trong cuộc đời là khi được giơ cánh tay phải lên ngang đầu tuyên thệ “ nguyện suốt đời phấn đấu, hi sinh vì lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản”. Lý tưởng sống của chúng tôi rõ ràng và trong sáng lắm. Tôi cũng biết, vào Đảng là phải tiền phong, gương mẫu, là phải chịu đựng nhiều gian khổ nhưng ai cũng thiết tha phấn đấu. Vì Đảng, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình. Tôi đã từng chứng kiến sự anh dũng hy sinh, xả thân trong chiến đấu của nhiều đồng chí Đảng viên mà tiểu đội trưởng Vương Tử Hoàng là một ví dụ rất sinh động. Tôi cũng không ngờ, lời thề trước khi vào đảng đã cùng tôi đi hết cuộc đời.
 Trưa ngày hôm đó, khẩu đội của chúng tôi bước vào một trận lửa thử mới. Máy bay trực thăng của địch đổ bộ xuống quả đồi bên cạnh và bộ binh của chúng tràn lên hòng chiếm trận địa của chúng tôi. Bọn địch dùng lực lượng này để giải tỏa cho Plây Cần đang bị vây lấn. Chúng tôi đã dùng đại liên, súng AK và lựu đạn chiến đấu, đánh trả quyết liệt. Nhiều đợt tiến quân của địch hòng chiếm giũ trận địa đại liên đều bị đánh bật. Lần này được cử làm xạ thủ số 1 của khẩu đại liên nên tôi bắn cũng hơi nhiều. Có lần, Trung đội trưởng Viên Đình Thực nhắc nhở là phải tiết kiệm đạn. Đến chiều, máy bay địch lại ném bom bắn phá trận địa, sau đó pháo từ Tân Cảnh, Đăc Tô bắn cấp tập vào quả đồi của trận địa. Công sự trống trãi, cửa hầm xê dịch…Chúng tôi vừa củng cố công sự vừa ngụy trang và chuẩn bị tiếp tục chiến đấu. Sau đợt bom, pháo, bọn lính ngụy từng đàn lăm lăm súng AR15 tiến lên trận địa. Trung đội trưởng Thực vừa dứt lời hạ lệnh, khẩu đại liên rung lên, tiếng nổ xé toạc không khí, làm cho địch ngã xuống hàng loạt. Cuối cùng, chúng bỏ lại nhiều xác chết nhưng không thể chiếm trận địa đại liên được.
 Qua một ngày quần nhau chí tử, trận địa đại liên của chúng tôi vẫn được giữ vững. Anh em ai nấy đều mệt nhoài người, mặt mày nhem nhuốc khói đạn. Đêm dần buông, địch đã rút quân sang quẩ đồi bên cạnh, anh em tranh thủ ăn uống và sửa sang lại trận địa, súng ống. Gần khuya, tôi được phân công cảnh giới. Sương núi rơi xuống lành lạnh, tiếng chim đi ăn đêm kêu khao khao, lẻ loi ngang trời, nghe mà chơi vơi, buồn tẻ quá. Một mình bồng súng AK đứng gác dưới sao trời, các giác quan căng ra để nhận biết những động tĩnh xung quanh. Sau khi được anh Hoàng Ngọc Loan thay gác, tôi trở về hầm, thao thức, bâng khuâng, có lẽ vì xúc động với niềm vui được đứng vào hàng ngũ đảng viên nên cứ trằn trọc không sao chợp mắt được. Trong đêm khuya, mặc cho những tiếng pháo của địch bắn cầm canh, tôi nôn nao nhớ đến người thân nơi hậu phương xa xôi. Ở đó, tôi thì thầm như khẽ nói với cha: “Cha ơi, thế là con đã làm theo đúng như lời cha dặn, con đã được kết nạp Đảng. Mơ ước này con đã từng thổ lộ với Cha từ những ngày con còn học cấp III, nay đã trở thành hiện thực rồi Cha ạ. Con thấy tự hào và vinh dự lắm. Và con cũng thấy trách nhiệm trước mắt còn nặng nề, lớn lao hơn, nhất là phía trước quả đồi kia, quân địch đang chuẩn bị đánh chiếm trận địa đại liên. Chỉ buồn là Cha không được sống trên cõi đời nữa để chia sẻ niềm vui lớn lao này của con, ngày con vào Đảng thì Cha đã không còn nữa, nhưng con sẽ cố gắng phấn đấu, không sợ gian khổ, hy sinh như lời thề của con trước chi bộ.” Tôi cũng thầm báo cho các chị, các em và với em Thoa nữa về sự kiện tôi đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi thì thào với Thoa “…Em ơi,  khi biết tin anh vào Đảng, chắc em cũng vui và vinh dự lắm phải không? Chắc em  nhớ ngày còn học  cấp III, có lần hai anh em mình ngồi cùng nhau ôn bài, anh đã nói với em rằng vào Đảng là nguyện vọng thiết tha nhất của đời anh. Bây giờ nguyện vọng đó đã trở thành hiện thực rồi, đó là nguyện vọng của anh và cũng là nguyện vọng của em nữa, đúng không? Giờ này chắc em đang ngủ ngon và biết đâu đang thao thức lo lắng cho anh thì phải, còn anh thì nhớ em vô cùng.  Biết tin anh được vào Đảng thế nào em cũng lại kể cho mẹ nghe và rồi mẹ em vui nhưng lại thêm lo lắng cho anh. Anh chỉ mong sao chiến tranh nhanh kết thúc để anh được trở về quê hương mình, xum họp với gia đình và được gần bên em. Em ơi. Bây giờ. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều,  được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”. Bây giờ anh chỉ ao ước một điều,  được về bên em, bên dòng sông Lam xanh biếc và nặng tình, nặng nghĩa với bao đời”
 Lòng tôi rạo rực, phấn chấn lạ thường. Thấy vui và chỉ muốn đem niềm vui ấy chia sẻ với những người thân ở quê nhà nhưng đường xá xa xôi, cách trở. Muốn báo tin vui ấy cho gia đình và cho em nhưng lúc này thì không thể, tôi phải tập trung vào trận chiến đấu. Bà con quê hương biết tin này, chắc cũng vui lắm. Tối đó, tôi thức trắng như đêm tôi chuẩn bị nhập ngũ. Cả đêm thức mà hôm sau tôi vẫn thấy khỏe khoắn, tỉnh táo vô cùng. Đảng đã tiếp thêm cho tôi sinh khí và sức lực để tiếp tục đối chọi với quân thù.
Từ đó cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1969 khẩu đội đại liên của chúng tôi chiến đấu liên tục nhiều ngày và đã bẻ gẫy nhiều cuộc phản kích của địch nống ra từ Plây Cần. Trận địa được giữ vững, địch liên tiếp bị bộ đội ta vây đánh. Đây cũng là những trận đánh mở màn của những tháng đầu mùa mưa Tây Nguyên. Mưa cao nguyên tầm tã, dầm dề. Trận địa lầy lội nhớp nháp, trơn tuột làm cho những trận đánh vận động hay đánh vây lấn thật vất vả. Những bộ quần áo lính chúng tôi mùa khô thì đẫm mồ hôi, mùa mưa thì đầy bùn đất, lại ướt nhe ướt nhét, mong một ngày nắng mà chẳng hết mưa.
Đến cuối tháng 6, trung đoàn 28 chúng tôi đã hình thành thế trận bao vây chia cắt Tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 của địch. Sau bốn mươi lăm ngày đêm chiến đấu ngoan cường, khẩu đội của chúng tôi đã góp phần xứng đáng vào chiến công chung của Trung đoàn 28. Lịch sử trung đoàn sau này ghi lại rằng: “Trung đoàn 28 đã đánh 95 trận (31 trận vận động và đánh giải tỏa, 10 trận tập kích, 1 trận đặc công, một trận đánh địch phản kích, 3 trận phục kích, 14 trận đánh máy bay, 33 trận pháo kích, diệt 1915 tên, bắt 13 tên tù binh, phá hủy 97 xe các loại, phá hủy và bắn rơi 52 máy bay… trung đoàn đã đánh quỵ, đánh thất bại 6 tiểu đoàn bộ binh và cơ giới địch”. Những thành tích ấy là niềm vui của anh em chúng tôi trong mỗi trận đấu. Chúng tôi có dịp nhìn lại thành quả và phấn đấu cao hơn trong những thế trận tiếp theo.
 Vào thời gian này, Tây Nguyên xuất hiện những khó khăn mới, thiếu lương thực trầm trọng. Đói. Những chiến sĩ ở tuyến trước như chúng tôi tiêu chuẩn chỉ có bốn lạng gạo trong một ngày, còn ai ở tuyến sau thì chỉ có một lạng rưỡi. Sức trai trẻ, đang tuổi ăn tuổi ngủ, đang ngày đêm hành quân, đào hầm, đánh trả quân địch rồi khênh thương binh, tử sĩ mà chỉ có bốn lạng gạo thì chẳng thấm vào đâu. Điều này không nói thêm nhiều chắc ai cũng biết là chúng tôi phải chịu đói thế nào. Chiến đấu ngày càng gian nan, cuộc sống khổ cực vô cùng, cơn đói cứ luôn rình rập, đeo đuổi bộ đội. Chẳng có con đường nào khác, chúng tôi vừa động viên nhau chịu đựng, vừa tìm cách khắc phục, san sẻ cho nhau từng miếng cơm manh áo, sợ nhất là đồng đội của mình bị ốm, hạt cơm chấm muối nuốt không trôi. Chúng tôi cắt cử nhau đi lấy măng rừng, rau tàu bay, rau môn thục, mộc nhĩ để ăn thêm cho đỡ đói. Lính chúng tôi hồi đó chủ yếu ăn rau, suốt tuần suốt tháng chỉ co rau và rau. Trong khó khăn đó, lính chúng tôi cũng có nhiều cải tiến trong bữa ăn. Chúng tôi chế biến sắn ra đủ loại lương thực, củ sắn được nạo thành từng sợi như bún để hấp và độn lẫn cơm ăn, ngọn sắn đem xào hoặc nấu canh, đôi khi chúng tôi còn mài sắn ra thành bột để làm bánh.
Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, bộ đội Tây Nguyên cũng phải khắc phục thiếu cơm, thiếu gạo. Đặc điểm chiến trường Tây Nguyên là thế. Trong hoàn cảnh ấy, đòi hỏi mỗi đang viên như chúng tôi phải có tính sự tiền phong, gương mẫu để ăn rau  rừng, nhường gạo cho các đồng chí bị thương, bị ốm, tuyệt đối không được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.
Thời gian này tôi được bổ nhiệm chức vụ Tiểu đội phó. Đây là chức vụ thấp nhất trong bộ đội. Lính chúng tôi gọi là chức “cùng đinh”, vẫn phải gác, phải làm bất cứ nhiệm vụ gì của người lính.. Tôi vừa trực chiến đấu, vừa đi hái thêm rau rừng để độn vào bữa ăn cho đỡ lưng lẻo bụng. May thay, gần nơi chúng tôi trực chiến đấu có rau tàu bay, môn thục và cả măng rừng nữa. Rau tàu bay có mùi hăng hắc, môn thục nấu không khéo ăn vào còn bị ngứa họng, măng rừng xơ xáp ăn mãi cũng chán nhưng có nó vẫn dễ chịu hơn là để bụng đói cồn cào. Ngày đầu tiên đặt chân đến Tây Nguyên, chúng tôi cũng đã được ăn những ngọn măng rừng, bộ đội vẫn trêu nhau “ăn măng để quen với rừng”. Khổ nhất và thương nhất vẫn là bạn lính bị ốm, bị sốt rét. Đã suy dinh dưỡng lại bị cơn sốt hành hạ, thiếu cái ăn, thiếu thuốc men nên cơ thể bị sút nhanh lắm. Da vàng lại càng vàng. Mặt hốc hác, tái xanh như lá cây. Nhiều đồng chí sốt đến độ to gan và lách sa, mắt mờ, tai ù, anh em dành gạo nấu cháo cho những đồng chí ốm. Đói nên lúc nào cũng thèm cơm. Cứ nghĩ đến bát cơm gạo mới nóng hổi thơm phức ăn với tép đồng quê hay bát canh cua nấu canh mùng tơi mềm ruột, dằm thêm đôi quả cà pháo muối xổi giòn tan. Nghĩ đến đây chúng tôi chỉ biết nuốt nước bọt. Tôi cứ tưởng tượng đến ngày trở về quê, chắc ai cũng kêu mình xanh xao, và rồi được ăn những thứ ngon miệng và ngủ những giấc ngon lành. Không chỉ có trong chiến đấu mà trong lúc xây dựng, cũng cố đơn vị, nhất là khắc phục thiếu cơm, thiếu gạo thế này cũng đòi hỏi sự tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Người đảng viên như chúng tôi phải chịu đói trước để nhường gạo cho đồng chí ốm. Mình khỏe thì ăn sắn, rau rừng, không được kêu ca phàn nàn trước quần chúng.
Kết thúc chiến dịch Plây Cần, đơn vị chúng tôi được lệnh rút về hậu cứ Đăkson. Nhiệm vụ bây giờ là vừa củng cố đơn vị, vừa tăng gia, huấn luyện và sản xuất. Những người lính chiến đấu chúng tôi lăn lốc nơi trận mạc nay cần cù cầm rựa, cầm cuốc phát nương, làm rẫy trồng sắn, trồng ngô, rau… để đảm bảo đời sống của mình trong lúc nguồn lương thực đang dần dần vơi cạn, chiến tranh thì cứ triền miên kéo dài. Hầu như, ngày đó, nơi nào có bộ đội thì ở đó đều dấy lên khí thế tăng gia sản xuất. Bộ đội đi đến đâu thì các nương rẫy mọc lên đến đó. Mục tiêu quan trọng trong trận đánh này là hạn chế cái đói, cải thiện đời sống cho bộ đội, nhằm chuẩn bị sức lực cho  sự bám trụ lâu dài với Tây Nguyên. Dưới bàn tay chai sạn của người lính, chỉ sau một thời gian  nhiều nương ngô, nương sắn, vườn rau  mọc lên xanh tốt bạt ngàn. Đất đỏ bazan thấm mồ hôi chiến sĩ làm nên những mùa màng xanh tốt. Làm ra lương thực, chúng tôi giải quyết được một phần cái ăn trước mắt, lính tráng cũng đỡ đói ăn. Nhưng điều đáng nói hơn chính là bản lĩnh, quyết tâm, tính sáng tạo của người chiến sĩ Tây Nguyên. Những nơi nào có bàn tay các anh là nơi đó có sức sống mãnh liệt. Nếu như những người lính không có tinh thần chịu đựng gian khổ, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo thì làm sao có thể thắng được giặc Mỹ xâm lược. Lịch sử sư đoàn 10 của chúng tôi có đoạn ghi lại những ngày này:
 “Những nương sắn, bãi ngô mọc lên xanh ngát dưới bom đạn khốc liệt của quân giặc ở miền núi rừng Tây Nguyên nói lên đức tính cần cù, trí thông minh, sáng tạo và nghị lực phi thường của bộ đội ta quyết đạp bằng mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”
  Đang vừa sản xuất, vừa huấn luyện thì chúng tôi được lệnh vào Đắc Lắc, Phước Long  để vận chuyển gạo từ Campuchia ra .cho Tây Nguyên. Bộ đội phải mở gần 200km đường để vận chuyển. Ngày ngày, chúng tôi mải miết gùi gạo ra phía bắc Tây Nguyên. Đường đi khúc khuỷu gập ghềnh, có đoạn lên dốc xuống dốc, có đoạn đường trơn, chỗ lồi chỗ lõm. Đi bộ đã khó, vận chuyển gạo trong mùa mưa lại càng khó khăn hơn. Do xác định được nhiệm vụ vận tải lương thực để chuẩn bị phục vụ chiến dịch vào mùa khô sắp tới nên đồng chí nào cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.   
Quân Mỹ nắm được sự có mặt của khối chủ lực Tây Nguyên ở vùng núi Phước Long. Chúng đã sử dụng máy bay chiến lược B52 mở chiến dịch ném bom rải thảm trên suốt cung đường vận chuyển của bộ đội ta, một số cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh, một số người bị thương. Hạt gạo cũng như thấm máu của các chiến sĩ. Tuy vậy bộ đội ta vẫn không hề nao núng, vừa chuyển gạo, vừa tập đánh địch trong công sự vững chắc.
 Đúng thời điểm ấy, ngày 3 – 9 – 1969 mọi người nhận được tin đau đớn nhất: Bác Hồ ra đi ở tuổi 79. Trong đầu tôi còn vang lên lời kêu gọi của Bác ngày 20 tháng 7 năm 1969, mới cách đây chưa đầy hai tháng: “Ý chí phải thật kiên quyết, kế hoạch phải thật tỉ mỉ; kiểm tra phải thật kĩ càng; phối hợp phải thật ăn khớp; chấp hành phải thật chu đáo; cán bộ phải thật gương mẫu; bí mật phải giữ triệt để” Trong lời kêu gọi của Bác còn có đoạn: “Quân và dân cả nước ta, triệu người như một nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hi sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến quyết chiến quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho Ngụy quân và Ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”
  Một cái tang lớn mà đất nước phải gánh chịu. Chúng tôi lặng lẽ khóc thương Bác giữa bạt ngàn Tây Nguyên. Có người lính ôm cây rừng mà nức nở. Suốt cả ngày hôm đó, không khí của cả đơn vị như lắng lại. Bữa cơm pha lẫn nước mắt nghẹn ngào, cổ họng tôi nghẹn đắng lại không sao nuốt nổi. Cứ nghĩ đến Bác là nước mắt lại trào ra. Tôi nhớ lại lần được Cha dẫn về làng Sen thăm nhà Bác. Tôi nhớ lại mái nhà tranh nơi Bác sinh ra. Vồng khoai lang. Hàng cau. Cổng râm bụt. Chiếc võng đay. Khung cửi. Tất cả đều đẫm nước mắt hiện lên trước mặt tôi. Chúng tôi đau buốt khi nghe Tố Hữu nghẹn ngào đọc bài thơ “Bác ơi” trên Đài tiếng nói Việt Nam:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa
  Bác là tấm gương cho bộ đội chúng tôi noi theo. Nói sao cho hết tình cảm của những người chiến sĩ, của nhân dân đối với Bác. Lính chúng tôi cảm thấy mình có lỗi với Bác vì chưa đánh thắng giặc để miền Nam sớm được giải phóng, đất nước sớm thống nhất, đón Bác vào thăm.
  Chiều hôm đó, ở Tây Nguyên, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức trọng thể lễ truy điệu Bác. Bộ đội chúng tôi cùng kiên quyết thực hiện tốt lời dạy của Bác: “Đoàn kết, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho.  Giữa rừng già Tây Nguyên, chúng tôi nhẩm đọc bài điếu bằng thơ, khóc Bác của Tố Hữu. Tôi còn ghi bài thơ “Bác ơi” vào trong sổ tay và nhiều đêm mang ra đọc một mình. Tôi càng tự hào về quê hương Nam Đàn đã sinh ra một con người vĩ đại và vô cùng giản dị như Hồ Chí Minh. Và, thật đúng như tên một bài hát thời ấy “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”. Hình ảnh Bác vẫn như tỏa sáng và vẫy gọi chiến sĩ, đồng bào tiến lên giành những chiến công mới vang dội hơn. Lòng kính yêu, tự hào về Bác đã đồng hành cùng tôi suốt những tháng năm cực kỳ gian khổ ấy- nơi vùng đất Tây Nguyên bao la ngút ngàn gió núi…
 Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Bu-Prăng, Đức Lập, Trung đoàn 28 chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành quân ra Kon Tum. Hình ảnh bộ đội B3 đánh giặc giỏi, gùi gạo khỏe, vừa sản xuất vừa chiến đấu tốt đã để lại những ấn tượng cao đẹp cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Đây là giai đoạn chúng tôi vừa huấn luyện quân sự nâng cao trình độ chiến đấu vừa tích cực phát nương phát rẫy, trồng sắn, trồng ngô bởi các kho gạo dự trữ lúc này đã hết. Theo chỉ đạo của tiểu đoàn, bộ phận đại liên ngoài việc học khoa mục đánh máy bay, bộ binh vận động còn học thêm kĩ thuật bao vây, đánh lấn. Cánh lính chúng tôi gọi tắt kĩ chiến thuật mới này là đánh vây lấn. Bộ phận đại liên có nhiệm vụ bắn máy bay, bắn vào lô cốt đầu cầu, đánh bộ binh giặc để nống ra bảo vệ cửa mở, bảo vệ quân ta tấn công địch. Bộ đội ta nêu cao tinh thần tiến công địch “đánh đêm không xong thì trụ lại đánh ngày, đánh một ngày chưa xong thì đánh tiếp trong nhiều ngày”, cho tới khi dứt điểm.
 Trung đội đại liên được tăng cường một số chiến sĩ trẻ và được bổ sung súng đạn. Tôi không còn là anh lính tò te nữa mà đã được coi là lính cựu dạn dày trận mạc. Trong đơn vị, số người nhập ngũ cùng ngày như tôi ít dần, thay vào đó là lính trẻ. Hàng ngày chúng tôi được huấn luyện chiến thuật đánh vây lấn, đánh cơ động, kỹ thuật làm công sự, cách ngụy trang trận địa giữa đất trống đồi trọc. Ngoài ra, chúng tôi học cách tiềm nhập trận địa địch, học cả cách đeo bi đông súng đạn, chuẩn bị sẵn các cây gỗ vừa làm gậy hành quân vừa làm các xà đỡ công sự. Xem cung cách huấn luyện bài bản và nhiều nội dung như thế, cánh lính làm tham mưu còn đoán rằng chiến dịch sắp tới sẽ ác liệt đây.
  Cuối tháng 2 năm 1970, trung đội đại liên chúng tôi nhận mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch vây lấn Đắc Siêng nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cơ động của địch. Tuy lúc này đơn vị đã được tăng cường quân nhưng so với yêu cầu thì còn thiếu. Các chiến sĩ mới chưa được huấn luyện cách đánh vây lấn. Lương thực, thực phẩm còn khan hiếm nên sức khỏe bộ đội giảm sút nghiêm trọng. Mỗi người theo tiêu chuẩn được một lạng gạo một ngày. Anh em ở lâu trong rừng, bị bệnh sốt rét khá nhiều. Số gạo dự trữ và khẩu phần chủ yếu dành để nấu cháo, bồi dưỡng cho người ốm. Những đồng chí khỏe thì ăn sắn và rau rừng, môn thục là chính. Vì ăn sắn trường kì thiếu chất dinh dưỡng nên ai cũng đuối sức, lúc hành quân leo dốc, người nào cũng mệt mỏi bơ phờ.
  Vào thời gian này, tôi được bổ nhiệm trung đội phó, phụ trách một khẩu đại liên tham gia chiến dịch. Mỗi ngày thêm một nhiệm vụ, trọng trách được giao ngày một lớn lao hơn. Không chỉ có trách nhiệm với cuộc chiến đấu mà ngay cả đời sống anh em tôi cũng phải bao quát, theo dõi sát sao. Nhìn anh em ốm yếu, tôi thương và lo lắng lắm. Sức vóc thế này, không biết vào trận có trụ vững được không? Khẩu phần ăn thì chỉ có vậy mà thôi. Tôi bàn với anh nuôi tìm cách xoay sở, chịu khó chế biến các món ăn, dù chỉ là những bữa canh rau và một số loại củ kiếm được. Thời gian rảnh thì chế biến lương thực thực phẩm. Sắn được mài ra bột để làm bánh hay thái lát mỏng để xào mỡ, dễ ăn hơn.
Một hôm trời vừa mưa xong, tôi và anh nuôi xuống suối mò cua. Lá cây bên đường đậm đà một màu xanh xẫm. Cây non thì xanh mướt, có cả những mùi thơm thoang thoảng của những loài hoa gì đó mà tôi không thể nhận biết được. Ở trong rừng rậm này, thi thoảng nhìn thấy những cánh hoa dại đáng yêu, cứ lung lay trong gió, đến tên gọi cũng không biết. Tôi nhìn thấy tổ ong mật và gọi anh nuôi, anh nuôi dặn “tránh xa nó ra, nó mà đốt thì phải lên vài cân”. Vẫn biết là không được sờ vào tổ của nó nhưng tôi có dịp được ngắm nghía những con ong mật đi kiếm nhụy hoa về làm mật. Hai bên sườn, dưới đôi cánh đang đập rì rì của chúng là những nhụy hoa kiếm được. Trong cánh rừng này, có biết bao nhiêu là loài cây, phần lớn cây nào cũng có hoa. Bởi vậy, nhìn những chú ong nặc nè cắp nhụy hoa trông đáng yêu lắm, có nhụy màu vàng nhạt, có cái vàng đậm, có cái chuyển sang màu thậm… Chúng làm mật một cách cần mẫn và vô cùng chăm chỉ. Ban nãy trời mưa, có lẽ chúng cũng trú mưa, giờ mới bay về tổ. Tôi muốn ngắm nhìn chúng lâu hơn nhưng chợt nhớ đến anh em ở nhà, trông đợi bữa cơm chiều nên lại khẩn trương cùng anh nuôi lội suối. Anh nuôi nhắc tôi đi cẩn thận vì những chỗ cỏ mọc, phải để ý kẻo bên dưới là hủm sâu. Từ dưới suối nhìn lên cao, chỉ thấy mây, thấy trời, gần hơn là rừng với những tán cây xanh cao lớn rất ấn tượng. Đứng đây nhìn xuống chân núi, tôi không tưởng tượng được rằng mình đang tọa lạc trên một vị trí cao đến thế. Tất cả cao ngút ngàn. Những chiếc lá vàng bay vèo xuống  nước rồi lại lững lờ trôi yểu điệu và duyên dáng làm sao. Thiên nhiên thật hấp dẫn. Tôi nhìn sâu vào phía hang, màu rêu xanh xám và tối hơn. Tôi vui sướng vì sẽ kiếm được những con vật tuy nhỏ bé nhưng khiến cho bữa ăn thêm đậm đà. Suối nhiều đá, chúng tôi vừa lội bì bỏm, vừa hướng về các kẽ hang để lật từng hòn đá, tóm những chú cua tám cẳng hai càng nấp trong đó. Tôi phát hiện một chú cua đang bò ra từ hốc đá, vội vàng chụp lấy thì cha mẹ ơi, nó cắn tôi đau thấu trời. Tôi kêu ré lên rồi nghiến răng chịu, anh Nuôi hốt hoảng lại gần tôi. Té ra không phải là cua mà là bọ cạp. Bọ cạp cắn, tuy không chết nhưng đau thấy ông bà, ông vải. Tôi vác tay chạy vội về doanh trại. Từ bé đã phải nai lưng mò cua bắt ốc, chẳng bao giờ bị con vật nào cắn đến độ đau buốt như thế. Thần hồn thần tính để đâu mà nhìn bò cạp hóa cua, chán mớ đời. Chuyện đi bắt cua bị bọ cạp cắn của tôi trở thành chuyện vui của cả trung đội.
 Hà Nội, Xuân Canh Dần 2010
Dương Thanh Biểu 
Theo http://duongthanhbieu.com/
                                               


    



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...